Năm Cam và đồng bọn.

Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 28): Vợ chồng Đinh Văn Được cho vay nặng lãi

Đinh Văn Được cùng vợ là Đỗ Thị Phương Nga đã cho vay với lãi suất gấp 10 lần quy định ngân hàng, với tổng số tiền 158 triệu đồng và 62.500 USD. Nhiều đối tượng xã hội đen đã giúp chúng xiết nợ những người mất khả năng chi trả.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

3. Hành vi cho vay lãi nặng của Đinh Văn Được và Đỗ Thị Phương Nga

Gia đình Nguyễn Thị Phương Hải gồm Đỗ Thị Phương Nga (con gái), Đinh Văn Được (con rể), Đỗ Đạt Giang (con trai) là một gia đình chuyên cho vay lãi nặng tại khu vực phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM. Việc cho vay lãi nặng của vợ chồng Được, Nga và Hải phạm tội trong một thời gian dài, bóc lột nhiều người đã làm cho một số gia đình rơi vào cảnh khó khăn, phải bán nhà, đất và tài sản để trả nợ. Bọn chúng thường lợi dụng vào hoàn cảnh khó khăn của các bị hại để gợi ý cho vay lãi suất cao với thủ đoạn rất trắng trợn, buộc người vay phải ràng buộc chặt chẽ với gia đình chúng. Cụ thể như: Nguyễn Thị Phương Hải (mẹ) đứng ra cho vay, sau đó nếu bị hại không có tiền trả lãi thì Hải đưa đến nhà con gái là Đỗ Thị Phương Nga và con trai là Đỗ Đạt Giang bắt phải vay tiền của Nga hoặc Giang để trả cho Hải. Nếu bị hại chưa có tiền trả lãi thì bọn chúng cho Đỗ Đạt Giang, Đỗ Đạt Tước cùng một số đối tượng giang hồ đến nhà bị hại để đe dọa, đánh đập lấy tài sản để trừ nợ. Điển hình như vụ:

- Ngày 26/6/1997, chị Đào Thị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng, do chưa có tiền trả, Hải đã cho con trai là Đỗ Đạt Tước cùng một số đối tượng giang hồ đến đánh chị Nhung và lấy 1 ti vi JVC 14 inch, 1 giàn máy quay băng.

- Chị Hà Phong Điệp vay của Đỗ Đạt Giang, vay của Hải, vay Nga 92 triệu đồng. Do chưa có tiền trả lãi, Giang thường tổ chức cùng một số đối tượng giang hồ đến nhà chị Điệp vào lúc 2h sáng để khủng bố tinh thần và hành hung, bắt ép mẹ con chị Điệp phải viết giấy bán nhà, thu giữ của chị Điệp một xe Honda Angel để trừ nợ.

- Chị Huỳnh Thị Phước Hồng vay lãi của của vợ chồng Nga - Được 120 triệu đồng. Ngoài số tiền gốc và lãi đã trả, do không còn khả năng trả nợ, Nga đã đến nhà lấy tủ, giường, tượng gỗ để trừ nợ.

Hành vi của gia đình Nguyễn Thị Phương Hải, Đỗ Thị Phương Nga, Đinh Văn Được đã gây cho nhiều gia đình tan nát, mất nhà cửa, đất đai, là nguyên nhân gây rạn nứt tình làng, nghĩa xóm, gây mất trật tự xã hội. Quá trình điều tra đã chứng minh cụ thể như sau:

3.1. Hành vi phạm tội của Đinh Văn Được

Đinh Văn Được là đối tượng có quan hệ phức tạp với các đối tượng hình sự. Trong đó có quan hệ mật thiết với Trương Văn Cam, trùm băng nhóm tội phạm tại TP HCM, thường xuyên đi ăn uống với Trương Văn Cam và các đối tượng hình sự khác. Được thường có những lời nói và cử chỉ thể hiện y luôn ngang hàng với Trương Văn Cam về vị thế trong giới giang hồ nên đã có lần bị Trương Văn Cam cho đàn em đánh vào mặt để cảnh cáo.

Để thể hiện vai trò và uy thế của mình đối với đàn em, Được mua một khẩu súng ngắn bắn đạn cay mang trong người nhằm đe dọa các băng nhóm tội phạm khác. Vì thế một số người dân trong địa bàn TP HCM rất sợ Đinh Văn Được. Được có em vợ là Đỗ Đạt Giang, một đối tượng hình sự côn đồ, hung hãn, thường có các hoạt động cưỡng đoạt tài sản, bảo kê nhà hàng… Lợi dụng uy thế đó, Được đã tổ chức cho gia đình y gồm vợ là Đỗ Thị Phương Nga, mẹ là Nguyễn Thị Phương Hải chuyên cho vay tiền với lãi suất cao tại khu vực phường 27, quận Bình Thạnh.

Tháng 3/2001 Được cho anh Hoàng Minh Chiếu ở 487/18 Lê Quang Định, phường 1, quận Gò Vấp, TP HCM vay 40.000 USD với lãi suất 5%/tháng, tức 60%/năm. Mỗi tháng, Được thu tiền lãi là 2000 USD, từ đó cho đến khi Được bị bắt, anh Chiếu trả lãi đầy đủ. Tổng số tiền lãi mà anh Chiếu đã trả cho Được là 14.000 USD. (BL: V15 T3: 388-389)

Từ tháng 3/2001 Được cho anh Nguyễn Thanh Liêm ở 11/10 Nguyễn Trọng Tuyển, phường 15, Phú Nhuận, TP HCM vay 20.000 USD với lãi suất 5%/tháng, tức 60%/năm. Anh Liêm trả lãi đầy đủ cho đến khi Được bị bắt. Tổng số tiền lãi mà anh Liêm đã trả cho Được là 15.000 USD. (BL: V15 T3: 390-392)

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh ghi lời khai của người bị hại, thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của Được kết quả như sau:

* Anh Hoàng Minh Chiếu xác định: Tháng 3/2001 Đinh Văn Được biết anh Chiếu đang kinh doanh thiếu vốn nên Được đã gợi ý cho anh Chiếu vay 40.000 USD với lãi suất 5%/tháng. Anh Chiếu đã đồng ý vay của Được số tiền 40.000 USD với lãi suất 5%/tháng. Từ đó đến ngày Được bị bắt, hàng tháng anh Chiếu đã trả lãi cho Được đầy đủ, mỗi tháng phải trả là 2.000 USD, còn từ khi Được bị bắt cho đến nay thì mỗi tháng anh Chiếu tạm trả 1.000 USD (trả trực tiếp cho Đỗ Thị Phương Nga là vợ của Được). Đến nay tổng số tiền lãi mà anh Chiếu đã trả cho Được là 18.500 USD, còn số tiền gốc chưa trả.(BL: V15 T3: 387-388)

* Anh Nguyễn Thanh Liêm xác định: Tháng 3/2001 Đinh Văn Được biết anh Liêm đang kinh doanh thiếu vốn, nên Được đã gợi ý cho anh Liêm vay 20.000 USD với lãi suất 5%/tháng. Anh Liêm đã đồng ý vay của Được số tiền 20.000 USD với lãi suất 5%/tháng. Hàng tháng, anh Liêm đã trả lãi cho Được đầy đủ, mỗi tháng phải trả là 1.000 USD. Từ khi Được bị bắt cho đến nay thì mỗi tháng anh Liêm trả 1.000 USD tiền lãi, tổng số đã trả được 5.000 USD, số tiền này anh Liêm trực tiếp trả cho Đỗ Thị Phương Nga là vợ của Được. Đến nay tổng số tiền lãi mà anh Liêm đã trả cho Được là 15.000 USD, còn số tiền gốc chưa trả. (BL: V15 T3: 390-392)

3.2. Hành vi phạm tội của Đỗ Thị Phương Nga

Đỗ Thị Phương Nga đã dùng số tiền 158.000.000 đồng và 2.500 USD để cho 4 người vay, thu lợi bất chính 156.200.000 đồng, cụ thể như sau:

Chị Huỳnh Thị Phước Hồng ở số 247, đường Phan Đăng Lưu, phường 1, Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh khai nhận: Năm 1997-1998, chị Hồng vay lãi của Nga 120 triệu đồng, 2.500 USD, lãi suất 8-20%/tháng. Ngoài số tiền gốc đã nộp, Nga thu 135.800.000 đồng tiền lãi, được chứng minh qua các lần vay như sau:

Lần 1: Chị Hồng vay của Nga 10 triệu đồng với lãi suất 20%/tháng, mỗi ngày Nga thu 400.000 đồng, đến ngày cuối cùng trong tháng chị Hồng phải nộp đủ cho Nga 12 triệu đồng (cả gốc và lãi).

Lần 2: Chị Hồng vay của Nga 10 triệu đồng với lãi suất 20%/tháng, mỗi ngày Nga thu 400.000 đồng, đến ngày cuối cùng trong tháng chị Hồng phải nộp đủ cho Nga 12 triệu đồng (cả gốc và lãi).

Lần 3: Chị Hồng vay của Nga 20 triệu đồng với lãi suất 15%/tháng, mỗi ngày Nga thu 730.000 đồng, đến ngày cuối cùng trong tháng chị Hồng phải nộp đủ cho Nga 23 triệu đồng (cả gốc và lãi).

Lần 4: Chị Hồng vay của thị Nga 20 triệu đồng với lãi suất 15%/tháng, mỗi ngày thị Nga thu 730.000 đồng, đến ngày cuối cùng trong tháng chị Hồng phải nộp đủ cho Nga 23 triệu đồng (cả gốc và lãi).

Lần 5: Chị Hồng vay của Nga 10 triệu đồng với lãi suất 10%/tháng, mỗi ngày Nga thu 350.000 đồng, đến ngày cuối cùng trong tháng chị Hồng phải nộp cho Nga 11 triệu đồng (cả gốc và lãi).

Năm 1998, chị Hồng vay của Nga 2 lần (lãi đứng):

Lần 1: Chị Hồng vay của Nga 50 triệu đồng (lãi đứng) với lãi suất 10%/tháng, 1 tháng Nga thu 5.000.000 đồng tiền lãi, chị Hồng đã trả lãi cho Nga 16 tháng tiền lãi là 80 triệu đồng.

Lần 2: Chị Hồng vay của Nga 2.500 USD với lãi suất 8%/tháng, Nga quy đổi số ngoại tệ trên thành 35 triệu đồng, 1 tháng chị Hồng phi nộp cho Nga 2.800.000 đồng tiền lãi. Số tiền này Nga đã thu lãi của chị Hồng 16 tháng thành 44.800.000 đồng. Đến tháng 10/1999 do bị thua lỗ trong kinh doanh, chị Hồng đề nghị với Nga cho nộp tiền gốc, chị Hồng đã trả tiền mặt và hiện vật cho Nga là 45.888.000 đồng. (BL: V15 T4: 470-477)

Hai lần vay số tiền 50 triệu đồng và 2.500 USD được chứng minh tại biên nhận ngày 11/6/1998. Các lần chị Hồng vay tiền, Đinh Văn Được đều biết và đã được Được chở Nga đi đến nhà chị Hồng đòi tiền lãi.

* Chị Huỳnh Thị Kim Xuyến khai vay của Nga 8 triệu đồng:

Lần 1: Chị Xuyến vay của Nga 3 triệu đồng (lãi đứng) với lãi suất 30%/tháng, sau 3 tháng chị Xuyến phải nộp cho Nga cả gốc và lãi 5.700.000 đồng.

Lần 2: Chị Xuyến vay của Nga 5 triệu đồng với lãi suất 30%/tháng, mỗi ngày chị Xuyến nộp cho Nga 50.000 đồng. Mỗi tháng, Nga thu 1,5 triệu đồng tiền lãi. Chị Xuyến đã trả được 3 tháng, tiền lãi 4,5 triệu đồng. Tháng thứ 4, Nga chuyển sang vay trả góp, cuối tháng chị Xuyến trả 6 triệu đồng (cả gốc và lãi), số tiền lãi trên Nga yêu cầu hằng ngày trả cho bà Hải là mẹ của Nga. (BL: V15 T4: 430-433)

Hai lần vay được thể hiện ở trang 2 sổ ghi nợ số 7 của Hải; trang 4 sổ ghi nợ số 7 của Hải. (BL: V15 T4: 506)

* Chị Đào Thị Nhung ở số 247 lô N, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh khai vay của Nga 15 triệu đồng, Nga thu lãi 2.700.000 đồng, tiền gốc chị Nhung đã trả cho Hải.

Trong 15 triệu đồng vay lãi trên, có 10 triệu đồng vay lãi trả góp, mỗi ngày thị Nga thu 400.000 đồng, sau 28 ngày chị Nhung phải nộp cho Nga 11.200.000 đồng. Còn 5 triệu vay lãi đứng, mỗi ngày Nga thu 50.000 đồng, 1 tháng phi nộp cho Nga 1.500.000 đồng tiền lãi. Số tiền lãi, Nga yêu cầu chị Nhung trả cho bà Hải là mẹ của Nga. Số tiền chị Nhung vay được thể hiện trang 3 sổ ghi nợ số 7 của Hải. (BL: V15 T4: 458-459, 506)

* Chị Nguyễn Kim Mai, ở số 530 A, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh khai vay của Nga 10 triệu, trả lãi 10.500.000 đồng với lãi suất 60%/tháng, cụ thể như sau: Vào khoảng tháng 6/1998, do thiếu tiền kinh doanh, chị Mai có hỏi Hải (mẹ đẻ của Nga) cho vay tiền nhưng không có. Hải đã dẫn chị Mai đến gặp Đỗ Thị Phương Nga (con gái Hải) ở địa chỉ 141A Phan Đăng Lưu (khách sạn Sơn Lâm). Khi đến nơi, Hải nói với Nga cho Mai vay 5 triệu đồng. Nga đồng ý cho vay, trực tiếp đưa 5 triệu cho Mai và yêu cầu hằng ngày phải nộp tiền lãi cho bà Hải mỗi ngày 50.000 đồng, một tháng là 1.500.000. Chị Mai đã đưa tiền lãi cho bà Hải được một tháng. Đến tháng thứ hai, Mai tiếp tục hỏi vay bà Hải 5 triệu đồng với hình thức trả góp, Hải đã cho Mai mượn và nói số tiền này là của Nga. Mỗi ngày trả góp 200.000 đồng, sau 30 ngày trả thành 6 triệu đồng, cả gốc và lãi. Còn 5 triệu vay đứng ở trên, hằng ngày chị Mai trả tiền lãi là 50.000 đồng, chị Mai đã trả được 6 tháng tiền lãi thành 9 triệu đồng (trả luôn gốc). (BL: V15 T4: 410-411)

Chị Nguyễn Thị Kim Mai (vợ anh Thắng) đã vay lãi của chị Hồ Thị Phúc ở phường 27, cư xá Thanh Đa, Bình Thạnh nên đã dùng giấy tờ nhà đất ở địa chỉ 12/7 phường Hiệp Bình Phước, Thủ Đức để thế chấp cho Phúc. Sau khi không có tiền trả đã thỏa thuận bán cho vợ chồng Được với giá 58 cây vàng (giấy mua bán ngày 1/9/1998). Từ những căn cứ trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra thấy không đủ cơ sở kết luận vợ chồng Được chiếm đoạt mảnh đất trên. (BL: V15 T4: 406-409, 495-505)

Theo yêu cầu của Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra, tại công văn số 357 ngày 5/4/2002 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh TP HCM đã xác định mức lãi suất của từng người mà vợ chồng Được và Nga đã cho vay để làm căn cứ xác định số tiền thu lợi bất chính của Đinh Văn Được và Đỗ Thị Phương Nga của từng người vay tiền trong từng thời điểm.

Qua đấu tranh khai thác, Nga chỉ thừa nhận cho chị Hồng vay lãi 50 triệu đồng, 2.500 USD với lãi suất 5%/tháng. Đinh Văn Được khai nhận trực tiếp cho anh Nguyễn Thanh Liêm vay 20.000 USD, lãi suất 5%/tháng và cho anh Hoàng Minh Chiếu vay 40.000 USD, lãi suất 5%/tháng. Ngoài ra, việc cho vay tiền là do vợ y là Đỗ Thị Phương Nga thực hiện, tuy nhiên qua điều tra đã xác định có sự bàn bạc giữa Nga và Được trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Nga và Được đều không thừa nhận hành vi cho vay lãi nặng nhưng căn cứ vào chứng cứ điều tra thu thập được và lời khai của người bị hại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an có đủ căn cứ để kết luận Đỗ Thị Phương Nga đã đồng phạm với chồng là Đinh Văn Được phạm tội cho vay lãi nặng. Tổng số tiền cho vay lãi nặng của vợ chồng Nga và Được là 158 triệu đồng, 62.500 USD, thu lời bất chính là 156.200.000 đồng, 33.500 USD.

Với các tài liệu chứng cứ nêu trên, căn cứ vào quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất cho vay thời điểm này đối với tiền ngoại tệ và tiền VNĐ, theo quyết định số 718/2001QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức trần lãi suất cho vay ngoại tệ USD không được vượt quá 6%/năm, nhưng thực tế Được và Nga đã cho vay lấy lãi 60%/năm (BL: V15 T4: 295-304), lớn hơn quy định của ngân hàng 10 lần. Hành vi trên của Đinh Văn Được và Đỗ Thị Phương Nga đã phạm vào tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại khoản 2, điều 163 BLHS.
 
Dương Quốc Bình đã viết:
ông nói ai rác board????
Có mỗi chú post ở đây, còn ai nữa? :D Mà thôi không cãi nhau, không khéo lại bị moved ;)
 
He,xin lỗi mày nhé nhưng mày mà đánh tay được hết đống này thì sáng nay tao chẳng cần đến sửa máy cho mày đâu.
 
thằng Bình chơi xấu, toàn copy đại ở nơi khác rồi mang vào đây.
 
kể là bài viết tự đánh máy vào hay là copy từ nơi khác đưa vào, Bình cũng cần đưa nguồn thông tin, tác giả bài viết.

Em sớm thêm vào nhé.

Thanks
 
TỪ PHẦN` 1 ĐẾN PHẦN 12 LÀ EM TỰ GÕ. CÒN TỪ PHẦN 13 TRỞ ĐI LÀ EM SCAN.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 29): Nguyễn Thị Phương Hải cho vay nặng lãi

Nguyễn Thị Phương Hải đã cho vay tổng cộng 464.000.000 đồng, với lãi suất có khi lên tới 50%/tháng. Tại cơ quan điều tra, Hải không thừa nhận hành vi bị khởi tố. Tuy nhiên, có rất nhiều lời khai của các nhân chứng và người vay tiền nói rõ về hoạt động cho vay nặng lãi của đối tượng này.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

4. Hành vi cho vay nặng lãi của Nguyễn Thị Phương Hải

Ngày 12/4/2002, trong khi thi hành lệnh khám nhà Nguyễn Thị Phương Hải đã thu giữ được 7 quyển sổ trong đó ghi số tiền vay, số tiền nợ cũng như lãi suất của các lần vay, cơ quan điều tra đã xác minh ghi lời khai của những người có tên trong sổ, kết quả:

4.1. Chị Đoàn Thị Hồng Mai ở ấp Thanh Sơn, xã Thanh Tân, Bến Tre vay của Hải 161 triệu đồng với lãi suất 20-30%/tháng

- Lần 1: Ngày 28/10/1997, chị Mai vay của Hải 5 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày phải nộp 200.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 6 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 2: Ngày 25/11/1997, chị Mai vay 15 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày phải nộp 600.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 18 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 3: Ngày 1/11/1997, chị Mai vay 5 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày phải nộp 200.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 6 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 4: Ngày 5/11/1997, chị Mai vay của Hải 10 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày phải nộp 400.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 12 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 5: Ngày 7/11/1997 chị Mai vay 4 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày phải nộp 160.000 đồng, sau 30 ngày trả cả gốc lẫn lãi là 4,8 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 6: Ngày 10/11/1997, chị Mai vay 10 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày nộp 400.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 12 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 7: Ngày 12/11/1997, chị Mai vay 5 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày nộp 200.000 đồng, sau 30 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 6 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 8: chị Mai vay của Hải 150 USD với hình thức trả góp, trả lãi 30%/tháng.

- Lần 9: Ngày 20/11/1997, chị Mai vay 2 triệu đồng với hình thức lãi đứng, lãi suất 30%/tháng.

- Lần 10: Ngày 16/11/1997, chị Mai vay 5 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày nộp 200.000 đồng, sau 30 ngày trả gốc lẫn lãi là 6 triệu (20%/tháng).

- Lần 11: Ngày 20/11/1997, chị Mai vay 15 triệu đồng với hình thức vay lãi đứng. Mỗi ngày trả 150.000 đồng, sau 30 ngày phải trả 4.500.000 đồng tiền lãi (30%/tháng).

- Lần 12: Ngày 13/12/1997, chị Mai vay 15 triệu đồng với hình thức vay lãi đứng. Mỗi ngày trả 150.000, sau 30 ngày phải trả 4.500.000 đồng tiền lãi (30%/tháng).

- Lần 13: Ngày 20/11/1997, chị Mai vay 5 triệu đồng với hình thức lãi đứng. Mỗi ngày trả 50.000 đồng. Sau 1 tháng trả 1.500.000 đồng, lãi suất 30%/tháng.

- Lần 14: Ngày 9/3/1998, chị Mai vay 25 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày nộp 1.000.000 đồng, sau 30 ngày phải trả gốc lẫn lãi là 30 triệu đồng (20%/tháng).

- Lần 15: Ngày 15/3/1998, chị Mai vay 25 triệu đồng với hình thức vay lãi đứng. Mỗi ngày trả 250.000 đồng, sau 30 ngày trả 7.500.000 đồng tiền lãi (30%/tháng).

- Lần 16: Ngày 26/3/1998, chị Mai vay 15 triệu đồng với hình thức trả góp. Mỗi ngày nộp 450.000 đồng, sau 40 ngày phải trả cả gốc lẫn lãi là 18 triệu (20%/tháng). (BL: V15 T6: 434-441, 506 sổ 2, trang 2-16).

4.2. Chị Huỳnh Thị Kim Xuyến ở số 93/1, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, TP HCM vay của Hải 21 triệu với lãi suất 20-30%/tháng. Ngoài số gốc đã trả thì chị Xuyến đã phải trả cho Hải tổng số tiền lãi 31.100.000 đồng. Các lần vay của chị Xuyến được thể hiện như sau:

- Chị Xuyến vay của Hải 6 triệu đồng, trong đó có 3 triệu vay lãi đứng và 3 triệu cho vay trả góp. Đối với 3 triệu đồng vay lãi đứng thì mỗi ngày Hải thu 30.000 đồng. Một tháng phải nộp cho Hải 900.000 đồng, tức lãi suất 30%/tháng. Số tiền vay lãi đứng thực hiện được 3 tháng, chị Xuyến đã thanh toán đầy đủ với tổng số tiền 2.700.000 đồng. Sang tháng thứ 4 thì mỗi ngày chị Xuyến phải trả Hải 120.000 đồng, trong một tháng phải trả đủ cả gốc và lãi 3.600.000 triệu đồng. Đối với 3 triệu đồng vay trả góp thì thực hiện trong một tháng và mỗi ngày Xuyến phải trả cho Hải 120.000 đồng, trong một tháng thì trả đủ cả gốc và lãi 3.600.000 đồng, tức lãi suất 20%/tháng. Như vậy, tổng số tiền lãi mà chị Xuyến đã phải trả cho Hải là 3.900.000 đồng. (BL: V15 T6: 430-433)

Ngày 25/9/1997, chị Xuyến vay của Hải 10 triệu đồng (có biên nhận của chị Xuyến) với lãi suất 30%/tháng, thực hiện được 7 tháng và chị Xuyến đã trả lãi đầy đủ với số tiền 21 triệu đồng. Sau 7 tháng thì số tiền 10 triệu này chuyển sang hình thức cho vay trả góp trong 2 tháng. Tháng đầu thì mỗi ngày chị Xuyến phải trả Hải 240.000 đồng. Đến tháng thứ 2 thì mỗi ngày chị Xuyến phải trả cho Hải 200.000 đồng. Như vậy trong hai tháng, chị Xuyến phải trả cho Hải cả gốc và lãi là 13.200.000 đồng. Tổng số tiền lãi trong 9 tháng (7 tháng vay đứng và 2 tháng vay trả góp) mà chị Xuyến đã trả cho Hải là 24.200.000 đồng. (BL: V15 T6: 430-433, 506 sổ 5 trang 1)

- Ngày 10/11/1997, chị Xuyến vay của Hải triệu đồng (có biên nhận) với lãi suất 30%/tháng, thực hiện trong 2 tháng. Chị Xuyến đã trả lãi cho Hải đầy đủ với tổng số tiền đã trả lãi là 3 triệu đồng. (BL: V15 T6: 430-433, 506 sổ 5 trang 6)

4.3. Chị Hoàng Thị Huệ, ở số 115 lô S, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM vay của Hải với tổng số tiền là 92 triệu đồng, lãi suất cao nhất là 30%/tháng

Ngoài số tiền gốc đã trả, chị Huệ còn phải trả cho Hải 212.600.000 tiền lãi. Số lần vay cụ thể như sau:

- Khoảng tháng 2/1994, Hải chủ động đến nhà chị Huệ để cho vay tiền lãi. Lần đầu chị Huệ vay 10 triệu đồng, mỗi ngày Hải thu 70.000 đồng, tức lãi 21%/tháng. Thực hiện được 6 tháng, chị Huệ đã trả lãi đầy đủ, tổng số tiền lãi đã trả trong 6 tháng là 12.600.000 đồng, còn gốc giữ nguyên. Do chị Huệ trả lãi sòng phẳng, Hải tiếp tục cho chị Huệ vay 30.000.000 đồng, cộng với số tiền gốc vay trước là 40 triệu đồng, lãi suất 30%/tháng. Số tiền này, chị Huệ vay trong 2 năm (1994-1996). Ngoài số gốc phải trả cho Hải tổng cộng 201.600.000 đồng tiền lãi. (BL: V15 T6: 448-449)

- Ngày 13/9/1997, chị Huệ đã vay của Hải 7 triệu đồng (có biên nhận) với hình thức lãi đứng, mỗi ngày Hải thu 50.000 đồng, tức 21%/tháng, số tiền này Huệ vay trong 2 tháng, ngoài số gốc phi trả, chị Huệ đã phải trả cho Hải 3 triệu đồng tiền lãi. (BL: V15 T6: 448-449, 506 sổ 2 trang 33)

- Ngày 14/10/1997, chị Huệ đã vay của Hải 10 triệu đồng (có biên nhận) với hình thức trả góp, mỗi ngày Hải thu 400.000 đồng, tức 20%/tháng, sau 29 ngày phải trả cho Hải cả gốc và lãi 11.600.000 đồng. (BL: V15 T6: 448-449, 506 sổ 2 trang 19)

- Ngày 24/10/1997, chị Huệ đã vay của Hải 20 triệu đồng (có biên nhận) với hình thức trả góp. Mỗi ngày Hải thu 600.000 đồng, tức 15%/tháng, sau 40 ngày chị Huệ phải trả cho Hải cả gốc và lãi 24 triệu đồng. (BL: V15 T6: 448-449, 506 số 2 trang 19)

- Ngày 2/12/1997, chị Huệ đã vay của Hải 15 triệu đồng với hình thức lãi trả góp, mỗi ngày Hải thu 600.000 đồng, tức lãi suất 20%/tháng. Sau 29 ngày, Hải thu cả gốc và lãi là 17.400.000 đồng. (BL: V15 T6: 448-449, 506 số 2 trang 27)

4.4. Chị Hà Thị Phong Điệp, ở số 32 lô P, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM vay của Hải 67 triệu đồng (có biên nhận), lãi suất 15-50%/tháng.

Ngoài số tiền gốc phải trả, Hải đã thu tiền lãi là 24.300.000 đồng. Cụ thể các lần vay:

- Lần 1: Chị Điệp vay của Hải 10 triệu đồng tiền lãi đứng (30%/tháng). Mỗi ngày chị Điệp phải nộp cho Hải 100.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 3 triệu đồng tiền lãi. Số tiền này sau 1 tháng chị Điệp đã trả hết gốc và lãi cho Hải. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 2 trang 17)

- Lần 2: Chị Điệp vay của Hải 15 triệu đồng tiền lãi góp. Mỗi ngày chị Điệp phải nộp cho Hải 800.000 đồng, sau 29 ngày Hải thu 23.200.000 đồng cả gốc và lãi thành lãi suất trên 50%/tháng. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 2 trang 17)

- Lần 3: Chị Điệp vay của Hải 5 triệu đồng tiền vay lãi trả góp. Mỗi ngày chị Điệp phải nộp cho Hải 200.000 đồng, sau 1 tháng Hải thu 6.000.000 đồng cả gốc và lãi, lãi suất 20%/tháng. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 2 trang 18)

- Lần 4: Ngày 15/8/1997, chị Điệp vay của Hải 10 triệu đồng tiền vay lãi trả góp. Mỗi ngày, chị Điệp phải nộp 300.000 đồng, sau 40 ngày Hải thu 12.000.000 đồng cả gốc và lãi, tức lãi suất 15%/tháng. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 2 trang 18)

- Lần 5: Chị Điệp vay của Hải 5 triệu đồng tiền lãi đứng (30%/tháng). Mỗi ngày chị Điệp phải nộp 500.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 1.500.000 đồng tiền lãi. Số tiền này chị Điệp khai đã trả hết tiền gốc cho Hải, chị Điệp không nhớ rõ trả cho Hải là bao nhiêu tiền lãi. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 6 trang 2).

- Lần 6: Chị Điệp vay của Hải 10 triệu đồng tiền lãi đứng (với lãi suất 30%/tháng). Mỗi ngày chị Điệp phải nộp cho Hải 100.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 3.000.000 đồng tiền lãi. Số tiền này chị Điệp khai đã trả hết tiền gốc, chị Điệp không nhớ rõ trả cho Hải là bao nhiêu tiền lãi. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 6 trang 3)

- Lần 7: Chị Điệp vay của Hải 12 triệu đồng tiền lãi đứng (với lãi suất 15%/tháng), mỗi ngày chị Điệp phải nộp cho Hải 60.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 1.800.000 đồng tiền lãi. Số tiền này chị Điệp khai đã trả lãi 2 tháng là 3.600.000 đồng. Tiền gốc chị Điệp đã trả đủ cho Hải. (BL: V15 T6: 446-447, 506 sổ 1 trang 20)

4.5. Chị Đào Thị Nhung, ở số 207 lô N, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM vay của Hải 93.500.000 đồng (có biên nhận), lãi suất 20-30%/tháng

Ngoài số tiền gốc phải trả, Hải đã thu tiền lãi là 87.700.000 đồng. Cụ thể các lần vay:

- Lần 1: Ngày 25/8/1997, chị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng tiền lãi trả góp (20%/tháng). Mỗi ngày chị Nhung phải nộp cho Hải 400.000 đồng, mỗi tháng Hải thu cả gốc và lãi 12 triệu đồng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 3)

- Lần 2: Ngày 25/8/1997, chị Nhung vay của Hải 3 triệu đồng trả góp. Mỗi ngày phải nộp cho Hải 120.000 đồng, sau 1 tháng Hải thu 3.600.000 đồng cả gốc và lãi thành lãi suất trên 20%/tháng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 4)

- Lần 3: Chị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng tiền vay lãi đứng. Mỗi ngày chị Nhung phải nộp 100.000 đồng, sau 1 tháng thị Hải thu 3.000.000 đồng tiền lãi (lãi suất 30%/tháng). Tháng thứ 2, Hải chuyển sang vay trả góp, mỗi ngày chị Nhung phải nộp cho Hải 400.000 đồng, sau 1 tháng Hải thu 12.000.000 đồng cả gốc và lãi, thành lãi suất trên 20%/tháng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 số 2 trang 6)

- Lần 4: Ngày 30/8/1997, chị Nhung vay của Hải 3 triệu đồng tiền vay lãi đứng (30%/tháng). Mỗi ngày chị Nhung phải nộp cho Hải 30.000 đồng, sau 1 tháng Hải thu 900.000 đồng tiền lãi. Tháng thứ 2, Hải chuyển sang vay lãi trả góp, mỗi ngày chị Nhung phải nộp 120.000 đồng. Sau 1 tháng, Hải thu 3.600.000 đồng cả gốc và lãi, thành lãi suất trên 20%/tháng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 7)

- Lần 5: Chị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng tiền lãi đứng (30%/tháng), mỗi ngày chị Nhung phải nộp 100.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 3.000.000 đồng tiền lãi (lãi suất 30%/tháng). Số tiền này chị Nhung đã trả lãi cho Hải 5 tháng là 15 triệu đồng. Chị Nhung thỏa thuận với chị Điệp ở 32 lô P. trả số tiền gốc 10 triệu đồng cho Hải (vì chị Điệp nợ tiền chị Nhung). (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 8)

- Lần 6: Chị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng tiền đứng, sau không có nhu cầu sử dụng nên chỉ vay 2.000.000 đồng, với hình thức vay lãi đứng. Mỗi ngày chị Nhung phải nộp 20.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 600.000 đồng tiền lãi. Chị Nhung thỏa thuận với chị Huệ ở số 15 lô S, cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM trả cho Hải tiền gốc là 2 triệu đồng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 9-10)

- Lần 7: Ngày 16/9/1997 chị Nhung vay của Hải 2 triệu đồng tiền lãi đứng (với lãi suất 20%/tháng). Mỗi ngày chị Nhung phải nộp 20.000 đồng, mỗi tháng Hải thu 600.000 đồng tiền lãi. Tháng thứ hai, Hải chuyển sang vay trả góp, mỗi ngày thu 80.000 đồng, ngày cuối cùng trong tháng phải nộp 2.400.000 đồng, lãi suất 20%/tháng. (BL: V15 T6: 452-455, 506 sổ 2 trang 13).

- Ngày 26/6/1997, chị Nhung vay của Hải 14 triệu đồng lãi đứng, mỗi ngày thu 140.000 đồng, một tháng chị Nhung phải nộp cho 4.200.000 đồng tiền lãi, số tiền vay trên chị Nhung đã nộp cho Hải 5 tháng lãi là 21 triệu đồng (chị Nhung đã trả hết tiền gốc cho Hải).

- Ngày 26/6/1997, chị Nhung vay của Hải 10 triệu đồng lãi đứng (30%/tháng). Một tháng chị Nhung phải nộp 3.000.000 đồng tiền lãi, số tiền vay trên chị Nhung đã nộp cho Hải 5 tháng lãi là 15 triệu đồng. Khi không có khả năng thanh toán lãi nữa, Hải đã cho Đỗ Đạt Tước, là con trai, cùng một số thanh niên đến bắt nợ chị Nhung một đầu máy National, 1 tivi 14 inch JVC để trừ nợ.

- Ngày 26/7/1997, chị Nhung vay của Hải 17 triệu đồng lãi suất 30%/tháng. Hải thu lãi 1 tháng là 5.100.000 đồng. Số tiền trên chị Nhung đã trả lãi cho 25.500.000 đồng (tiền gốc chị Nhung đã trả hết cho Hải). (BL: V15 T6: 452-455, 506 tại biên bản ghi 3 lần vay vào ngày 26/6/1997 và 27/7/1997)

4.6. Nguyễn Kim Mai, ở 531A Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, Bình Thạnh, TP HCM vay của Hải 16 triệu với lãi suất 20-60%/tháng

Số tiền lãi mà Mai đã trả cho Hải là 17.200.000 đồng. Các lần vay cụ thể như sau:

- Lần 1: Ngày 12/9/1997, vay 3 triệu tiền đứng, lãi suất 60%/tháng. Mỗi ngày nộp 60.000 đồng. Sau 1 tháng trả 1.800.000 đồng. Số này Mai đã trả 3 tháng, thành 5.400.000 đồng. Ngoài 3 tháng chuyển qua trả góp, mỗi ngày trả cho Hải 120.000 đồng. Một tháng trả cho Hải cả gốc và lãi là 3.600.000 đồng (20%/tháng). (BL: V15 T6: 411-412, 506 sổ 2 trang 32)

- Lần 2: Ngày 4/10/1997, vay 1 triệu tiền đứng, lãi suất 60%/tháng. Mỗi ngày nộp 20.000 đồng. Sau 1 tháng trả 600.000 đồng. Số này Mai đã trả 1 tháng lãi, đến ngày 11/11/1997, vay tiếp 1 triệu đồng trả góp nhưng phải viết giấy nợ 2 triệu (vì còn 1 triệu gốc chưa trả). Mỗi ngày trả cho Hải 80.000 đồng, sau 30 ngày phải trả 2.400.000 đồng. (BL: V15 T6: 412- 506 sổ 2 trang 26, 28)

- Lần 3: Ngày 25/1/1998, vay 7 triệu đứng, lãi suất 60%/tháng. Số tiền này Mai vay trong 2 tháng, đã trả cả gốc và lãi 15.400.000 đồng. Nhưng Hải lấy tròn 15 triệu, số tiền này trả bằng vàng là 3 lượng, do anh Thắng (chồng chị Mai) trực tiếp trả cho Hải. (BL: V15 T6: 411-412, 506 sổ 3 trang 13)

Qua đấu tranh khai thác, Hải chỉ thừa nhận cho những người trên vay thu lãi 5%, không thừa nhận hành vi cho vay lãi nặng. Căn cứ vào chứng cứ điều tra và lời khai các bị hại, các giấy biên nhận của người bị hại thu được khi khám xét nhà Nguyễn Thị Phương Hải, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công có đủ căn cứ để kết luận Hải phạm tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại khoản 2, điều 163 BLHS (tổng số tiền cho vay là 464.000.000 đồng, thu lợi bất chính 398.300.000 đồng).
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 30): Hành vi cho vay lãi nặng của Nguyễn Thị Kiệm

Năm 1998-2001, Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay với tổng số hơn 12,7 tỷ đồng, với lãi suất 10-50%/tháng. Con nợ của Kiệm chủ yếu là những người tổ chức và tham gia đánh bạc tại sòng của Năm Cam như Đoàn Minh Chánh, Nguyễn Văn Lắn (Lũng "Đầu Bò"), Nguyễn Văn Sy, Phạm Văn Minh…

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

5. Hành vi cho vay lãi nặng của Nguyễn Thị Kiệm, Hồ Văn Phú Ba, Trần Anh Tú và Phạm Thị Lượng

Do có mối quan hệ thân thiết với Trương Văn Cam và một số tên chuyên tổ chức sòng bạc nên Nguyễn Thị Kiệm và Phạm Thị Lượng đến sòng bạc đánh bạc và cho các con bạc vay tiền với lãi suất cao. Đồng thời cho nhiều người vay với số tiền lớn. Hình thức cho vay và lãi suất Nguyễn Thị Kiệm và Phạm Thị Lượng áp dụng như sau:

5.1. Hành vi cho vay lãi nặng của Nguyễn Thị Kiệm:

Từ năm 1998 đến năm 2001, Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay với lãi suất từ 10 đến 54,09%/tháng Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay tổng số tiền 12.790.000.000 (mười hai tỷ bảy trăm chín mươi triệu) đồng cao hơn 10 lần lãi suất quy định cho vay của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm cho vay.

Nguyễn Thị Kiệm khai nhận hình thức cho vay nợ và lãi suất cho vay Nguyễn Thị Kiệm áp đặt cho con nợ gồm:

- Cho vay trả góp: Cho con nợ vay vốn và lãi thỏa thuận trong thời gian 1-2 tháng, hằng ngày phải nộp trả góp tiền nợ cho Kiệm. Nếu trả trong 30 ngày thì lãi suất 20%/tháng, 40 ngày thì lãi suất 15%/tháng, 60 ngày thì lãi suất 10%/tháng. (BL: V15 T9: 784)

- Cho vay trả lãi hằng tháng: Áp dụng đối với những người kinh doanh có tài sản thế chấp và vay nhiều tiền. Lãi suất được tính 10-15%/tháng. (BL: V15 T9: 784)..

- Cho vay đứng: Con nợ vay vốn phải đóng tiền lời mỗi ngày cho đến khi trả được vốn và cho vay nóng đối với những người vay tiền ngân hàng đến kỳ hạn giải chấp nhưng không đủ tiền trả nợ, phải vay tiền của Nguyễn Thị Kiệm để giải chấp ngân hàng lấy giấy tờ nhà đất đem đi thế chấp ngân hàng khác vay tiền trả lại cho Nguyễn Thị Kiệm. Với hình thức cho vay này Nguyễn Thị Kiệm tính lãi suất 1%/ngày tương đương 30%/tháng và đã cho 4 người vay tổng số tiền 4 tỷ đồng đã thu lời bất chính 207 triệu đồng. (BL: V15 T9: 784, 785)

Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay tổng số tiền 12.790.000.000 (mười hai tỷ bảy trăm chín mươi triệu) đồng, thu lợi bất chính số tiền 1.858.650.000 (một tỷ tám trăm năm mươi tám triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng, đã thực thu số tiền lãi là 963.500.000 (chín trăm sáu mươi ba triệu năm trăm nghìn) đồng. Khi bị bắt Nguyễn Thị Kiệm còn đang cho con nợ vay số vốn là 2.108.600.000 (hai tỷ một trăm lẻ tám triệu sáu trăm nghìn) đồng. (BL: V15 T9: 874)

Nhiều tên tham gia tổ chức đánh bạc và đánh bạc như: Đoàn Minh Chánh, Nguyễn Văn Lắn (Lũng "Đầu Bò"), Nguyễn Văn Sy, Phạm Văn Minh… là con nợ của Nguyễn Thị Kiệm.

Nguyễn Thị Kiệm không biết chữ, sử dụng con ruột là Hồ Văn Phú Ba giúp việc ghi chép sổ sách cho vay, kiểm tra giấy tờ, tài sản thế chấp, liên hệ giải chấp tài sản tại ngân hàng, thu nợ, thu lời. Trần Anh Tú làm môi giới, giới thiệu những người vay tiền đến vay tiền của Nguyễn Thị Kiệm. Nguyễn Thị Kiệm hằng ngày giao dịch với con nợ, tính lãi suất hoặc định giá tài sản, xuất tiền cho vay.

Cơ quan điều tra đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh TP HCM giúp xác định lãi suất cho vay trả góp của bị can Nguyễn Thị Kiệm như sau: Lãi suất trả góp trong 20 ngày là 30%/tháng; 30 ngày là 20%/tháng; 40 ngày là 15%/tháng; 48 ngày là 12,5%/tháng; 60 ngày là 10%/tháng. (BL: V15 T9: 1001-1004)

Nguyễn Thị Kiệm đã cho 32 người vay lãi nặng cụ thể như sau:

- Nguyễn Văn Lắn (Lũng "Đầu Bò") ngụ 109D/1/9 Bến Vân Đồn phường 8, quận 4 đã vay 6 lần:

+ 23/2/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 5/3/2001 vay 30 triệu đồng không tính lãi suất.

+ 24/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 10/4/2001 vay 100 triệu đồng góp 4 triệu x 30 ngày với lãi suất cho vay 20%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 22/5/2001 vay 200 triệu đồng góp 6 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 13/1/1999 vay 150 triệu đồng góp 2 triệu x 90 ngày với lãi suất cho vay 6,66%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,01%.

Tổng số vốn đã cho vay là 480 triệu đồng. (BL: V15 T9: 786)

- Châu Quang Vinh (Tẻo) ngụ tại 364/3 Phan Xích Long, phường 2, Phú Nhuận đã vay 5 lần:

+ 13/3/2001 vay 200 triệu đồng góp 6 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 18/4/2001 vay 150 triệu đồng góp 3 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 18/6/2001 vay 150 triệu đồng góp 3 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 29/7/2001 vay 150 triệu đồng góp 3 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 22/9/01 vay 150 triệu góp 3 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 800 trăm triệu đồng. (BL: V15 T9: 787)

- Phạm Thị Thảo (vợ của Tẻo) ngụ tại 65 Nguyễn Văn Cừ, phường 1, quận 5 đã vay 8 lần:

+ 26/2/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 7/4/2001 vay 100 triệu góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 24/4/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 11/6/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 22/7/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 5/8/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 6/9/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 30/9/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 750 triệu đồng. (BL: V15 T9: 787)

- Đoàn Minh Chánh (Tư Chánh) ngụ tại 232A chung cư Phạm Thế Hiển, phường 4, quận 8 đã vay 9 lần:

+ 29/1/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 2/4/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 6/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 6/7/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 4/8/2001 vay 200 triệu đồng góp 5 triệu x 48 ngày với lãi suất cho vay 12,5%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 20/9/2001 vay 200 triệu đồng góp 5 triệu x 48 ngày với lãi suất cho vay 12,5%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 30/9/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 4/12/2001 vay 20 triệu đồng góp 600.000 x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,90%.

+ 2/12/2001 vay 186 triệu đồng góp 3 triệu đến hết vốn, không tính lãi suất. (BL: V15 T9: 789)

Tổng số vốn đã cho vay là 1,17 tỷ đồng.

- Võ Thị Bảy Nhỏ (Bảy Em) ngụ tại 109D/96/2 Bến Vân Đồn, phường 8 quận 4 đã vay 10 lần:

+ 1/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 11/2/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 4/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

+ 2/6/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 7/7/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 8/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 9/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 2/11/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 20/11/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 12/2001 vay 20 triệu đồng không tính lãi suất.

Tổng số vốn đã cho vay là 670 triệu đồng. (BL: V15 T9: 792)

- Cù Thị Ngọc Hạnh (Hạnh "Hô" - vợ Ba Tê) ngụ tại 106/5A ấp Cây Bàng, Thủ Thiêm, quận 2 đã vay 6 lần:

+ 2/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 9/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 3/2001 vay 200 triệu đồng góp 4 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 24/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 4 triệu x 30 ngày với lãi suất cho vay 20%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 7/5/2001 vay 500 triệu đồng góp 15 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 24/4/2001 vay 200 triệu đồng góp 6 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%.

Tổng số vốn đã cho vay là 1 tỷ đồng. (BL: V15 T9: 797)

- Trịnh Bá Hiếu (Ba Tê) ngụ tại 98F/12 Lê Lai, Bến Thành, quận 1 đã vay 4 lần:

+ 15/3/2001 vay 300 triệu đồng góp 10 triệu x 36 ngày với lãi suất cho vay 16,66%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 19/5/2001 vay 200 triệu đồng góp 6 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 25/6/2001 vay 200 triệu đồng góp 6 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 4/8/2001 vay 300 triệu đồng góp 5 triệu x 72 ngày với lãi suất cho vay 8,33%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 1 tỷ đồng. (BL: V15 T9: 798)

- Nguyễn Hiệp (Hiệp "Trái Cây") ngụ tại 140 khu Chợ Gà, Cầu Ông Lãnh, quận 1 đã vay 3 lần:

+ 29/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 30/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 28/9/2001 vay 50 triệu đồng góp 2 triệu x 30 ngày với lãi suất cho vay 20%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 250 triệu đồng. (BL: V15 T9: 799)

- Nguyễn Văn Sy (Bảy Sy) ngụ tại 148/12/73 Tôn Đản, phường 8, quận 4 đã vay 4 lần:

+ 9/2001 vay 30 triệu đồng góp 1,5 triệu x 24 ngày với lãi suất cho vay 25%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 25/9/2001 vay 30 triệu đồng góp 1,5 triệu x 24 ngày với lãi suất cho vay 25%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 13/10/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 10/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

Tổng số vốn đã cho vay là 160 triệu đồng. (BL: V15 T9: 802)

- Nguyễn Văn Lộc (chú Tiến) ngụ tại 1629 Phạm Thế Hiển, phường 6, quận 8 đã vay 2 lần:

+ 3/2001 vay 30 triệu đồng góp 600.000 x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 29/3/2001 vay 100 triệu đồng góp 3 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

Tổng số vốn đã cho vay là 130 triệu đồng. (BL: V15 T9: 791)

- Huỳnh Ngọc Phu ngụ tại 160 Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cư Trinh, quận 1 đã vay tháng 4/2001 là 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%. (BL: V15 T9: 791)

- Đỗ Đăng Minh (Minh Bò) ngụ tại 129/54M cư xá Vĩnh Hội, phường 6, quận 4 đã vay 2 lần:

+ 15/3/2001 vay 200 triệu đồng góp 4 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

+ 14/5/2001 vay 300 triệu đồng góp 6 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 500 triệu đồng. (BL: V15 T9: 795)

- Nguyễn Thị Cúc ngụ tại 188/35 Tôn Thất Thuyết, phường 3, quận 4 đã vay 2 lần:

+ 2/2001 vay 30 triệu đồng góp 1 triệu x 33 ngày với lãi suất cho vay 9,1%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,05%.

+ 19/3/2001 vay 50 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 20%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,025%.

Tổng số vốn đã cho vay là 80 triệu đồng. (BL: V15 T9: 800)

- Nguyễn Mậu Hiền ngụ tại 825/1 Trần Hưng Đạo, phường 1, quận 5, tháng 3/2001 vay 10 triệu đồng góp 400.000 x 30 ngày với lãi suất cho vay 20%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,03%. (BL: V15 T9: 801)

- Tạ Đắc Lung (Lý Đôi) ngụ tại 679/43/9 Nguyễn Kiệm, phường 3, quận Gò Vấp, ngày 6/2001 vay 50 triệu đồng góp 3 triệu x 20 ngày với lãi suất cho vay 30%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%. (BL: V15 T9: 802)

- Chị Hoa - Bình đã vay 3 lần:

+ 1/9/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 6/11/2001 vay 100 triệu đồng góp 2 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 23/9/2001 vay 50 triệu đồng góp 1 triệu x 60 ngày với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 200 triệu đồng. (BL: V15 T9: 803)

- Chị Anh (bán quần áo chợ Dân Sinh, quận 1) đã vay 2 lần:

+ 9/2001 vay 30 triệu đồng góp 1,5 triệu x 24 ngày với lãi suất cho vay 25%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 3/10/2001 vay 30 triệu đồng góp 1,5 triệu x 24 ngày với lãi suất cho vay 25%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

Tổng số vốn đã cho vay là 60 triệu đồng. (BL: V15 T9: 804)

- Thanh Nhí: Tháng 10/2001 đã vay 40 triệu đồng góp 1 triệu trong 48 ngày với lãi suất cho vay 12,5%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%. (BL: V15 T9: 804)

- Anh Đông (bán phụ tùng xe đường Nguyễn Công Trứ, quận 1) đã vay 7 lần:

+ 20/10/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 24/11/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 11/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 8/11/1 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 18/12/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 28/8/2001 vay 5 triệu đồng với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 4/12/2001 vay 5 triệu đồng với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

Tổng số vốn đã cho vay là 260 triệu đồng. (BL: V15 T9: 804)

- Anh Mỹ đã vay 2 lần:

+ 5/12/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

+ 15/11/2001 vay 50 triệu đồng góp 1,5 triệu x 40 ngày với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,9%.

Tổng số vốn đã cho vay là 100 triệu đồng. (BL: V15 T9: 804)

- Phạm Gia Tiến ngụ tại 26A Lò Siêu, phường 16, quận 11 đã vay trả lãi tháng 2 lần vào tháng 6/2001 và tháng 11/2001 tổng cộng 100 triệu đồng với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%. (BL: V15 T9: 804, 806, 976)

- Nguyễn Phước Quý Nhàn ngụ tại 292 Trần Hưng Đạo, Nguyễn Cư Trinh, quận 1 đã vay trả lãi tháng 2 lần tổng cộng 50 triệu đồng vào tháng 6/2001 và tháng 8/2001 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%. (BL: V15 T9: 806, 960)

- Lâm Thành (Thành "Vịt Quay") ngụ tại 582/1 Nguyễn Chí Thanh, phường 4, quận 11 đã vay trả lãi tháng 2 lần với số tiền 110 triệu đồng đồng trong tháng 6/2001 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%. (BL: V15 T9: 807)

- Nguyễn Văn Hồng (Hồng "Hài Nhi") ngụ tại 10 Trần Văn Nghi, phường 10, Gò Vấp đã vay 3 lần:

+ 6/8/2001 vay 100 triệu đồng với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 16/9/2001 vay 100 triệu đồng với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 7/9/2001 vay 30 triệu đồng với lãi suất cho vay 15%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 230 triệu đồng. (BL: V15 T9: 809)

- Trần Bích Đài ngụ tại 4/2A Hương Lộ 80B, Tân Chánh Hiệp, quận 12 vay 2 lần:

+ 10 triệu đồng vay trả lãi tháng vào tháng 12/2001 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,90%.

+ Vay trả lãi ngày số tiền 1,8 tỷ đồng đồng trong tháng 11/2001 với lãi suất cho vay 30%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,90%.

Tổng số vốn đã cho vay là 1,81 tỷ đồng. (BL: V15 T9: 808, 927)

- Nguyễn Hoàng Khương ngụ tại 148/12/14/3 Tôn Đản, phường 10, quận 4 đã vay 30.000.000 đồng góp trong 33 ngày từ ngày 29/10/1999 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,10%. (BL: V15 T9: 822)

- Huỳnh Hoa Hạnh ngụ tại H89 Nguyễn Tri Phương, Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương đã vay 2 lần:

+ 9/2001 vay trả lãi ngày số tiền 1,7 tỷ đồng với lãi suất cho vay 30%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

+ 5/2001 vay trả lãi ngày số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất cho vay 30%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%.

Tổng số vốn đã cho vay là 1,75 tỷ đồng. (BL: V15 T9: 925, 927)

- Lê Văn Tài ngụ tại 67 Trần Phú, Phan Thiết, Bình Thuận đã vay trả lãi ngày số tiền 450.000.000 đồng trong tháng 7/2001 với lãi suất cho vay 30%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 0,95%. (BL: V15 T9: 993)

- Phạm Văn Minh (Minh "Bu") ngụ tại N38 Hoàng Hoa Thám, phường 13, Tân Bình đã vay 2 lần:

+ 13/1/1999 vay trả góp 60 ngày số tiền 100 triệu đồng với lãi suất cho vay 18,55%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,10%.

+ 6/5/1999 vay trả góp 12 tuần số tiền 50 triệu đồng với lãi suất cho vay 11,69%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,10%.

Tổng số vốn đã cho vay là 150 triệu đồng. (BL: V15 T9: 822)

- Nguyễn Hoàng Sơn (Sơn "Đen") ngụ tại 188/35 Tôn Thất Thuyết, phường 3, quận 4 đã vay trả góp 60 ngày số tiền 50.000.000 đồng từ ngày 20/4/1999 với lãi suất cho vay 10%; lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,10%. (BL: V15 T9: 822)

- Con chú Nhà (vựa trái cây Cầu Ông Lãnh) đã vay trả góp trong 60 ngày số tiền 50 triệu đồng từ ngày 27/5/1999 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1,1%. (BL: V15 T9: 822)

- Vương Tử (Xây - Việt kiều Canada) vay 200 triệu đồng trong tháng 4/2001 với lãi suất cho vay 10%, lãi suất ngân hàng quy định cùng thời điểm là 1%. (BL: V15 T9: 822)

Ngoài ra Nguyễn Thị Kiệm cho nhiều người vay tiền, vàng với lãi suất cho vay từ 3% đến 10%/tháng (mức chưa phải chịu trách nhiệm hình sự). Tổng cộng số tiền cho vay 3.208.800.000 đồng và 130 lượng vàng đã thu lãi 518.800.000 đồng. (BL: V15 T9: 1005 - 1006)

Hành vi của Nguyễn Thị Kiệm đã phạm vào tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại khoản 2 điều 163 BLHS.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 31): Hành vi cho vay lãi nặng của Hồ Văn Phú Ba

Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba) là người ghi chép sổ sách cho vay tiền, trực tiếp đi thu tiền nợ, tiền lời, cùng với người vay tiền đến ngân hàng làm thủ tục giải chấp đảo nợ cho trùm vay nặng lãi Nguyễn Thị Kiệm. Ngoài ra, Ba còn cho nhiều người vay hàng tỷ đồng.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

5.2. Hành vi cho vay lãi nặng của Hồ Văn Phú Ba

Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba) là người giúp sức đắc lực cho Nguyễn Thị Kiệm trong việc cho vay lãi nặng với vai trò ghi chép sổ sách cho vay tiền, trực tiếp đi thu tiền nợ, tiền lời, cùng với người vay tiền đến ngân hàng làm thủ tục giải chấp đảo nợ. Cụ thể những người mà Hồ Văn Phú Ba cùng với Nguyễn Thị Kiệm ghi chép sổ sách cho vay tiền và Phú Ba đi thu tiền lời là:

- Nguyễn Văn Lắn (Lũng "Đầu Bò") ngụ tại 109D/1/9 Bến Vân Đồn, phường 8, quận 4 vay 470.000.000 đồng.

- Châu Quang Vinh (Tẻo) ngụ tại 364/3 Phan Xích Long, phường 2, Phú Nhuận vay 540.000.000 đồng.

- Phạm Thị Thảo (vợ của Tẻo) ngụ tại 65 Nguyễn Văn Cừ, phường 1, quận 5 vay 170.000.000 đồng.

- Đoàn Minh Chánh (Tư Chánh) ngụ tại 232A cc Phạm Thế Hiển, phường 4, quận 8 vay 430.000.000 đồng.

- Võ Thị Bảy Nhỏ (Bảy Em) ngụ tại 109D/96/2 Bến Vân Đồn, phường 8, quận 4 vay 100.000.000 đồng.

- Cù Thị Ngọc Hạnh (Hạnh "Hô", vợ Ba Tê) ngụ tại 106/5A ấp Cây Bàng, Thủ Thiêm, quận 2 vay 730.000.000 đồng.

- Trịnh Bá Hiếu (Ba Tê) ngụ tại 98F/12 Lê Lai, phường Bến Thành, quận 1 vay 663.000.000 đồng và 7.200 USD.

- Nguyễn Hiệp (Hiệp "Trái Cây") ngụ tại 140 khu Chợ gà, phường Cầu Ông Lãnh, quận 1 vay 358.500.000 đồng.

- Nguyễn Văn Sy (Bảy Sy) ngụ tại 148/12/73 Tôn Đản, phường 8 quận 4 vay 40.000.000 đồng.

- Tạ Đắc Lung (Lý Đôi) ngụ tại 679/43/9 Nguyễn Kiệm, phường 3, quận Gò Vấp vay 50.000.000 đồng.

- Thanh Nhí vay 40.000.000 đồng.

- Phạm Gia Tiến ngụ tại 26A Lò Siêu, phường 16, quận 11 vay 55.000.000 đồng.

- Lâm Thành (Thành "Vịt Quay") ngụ tại 582/1 Nguyễn Chí Thanh, phường 4 quận 11 vay 110.000.000 đồng.

- Nguyễn Văn Hồng (Hồng "Hài Nhi") ngụ tại 10 Trần Văn Nghi, phường 10, Gò Vấp vay 100.000.000 đồng

- Trần Bích Đài ngụ tại 4/2A Hương Lộ 80B, Tân Chánh Hiệp, quận 12 vay 10.000.000 đồng.

- Huỳnh Hoa Hạnh ngụ tại H89 Nguyễn Tri Phương, Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương vay 50.000.000 đồng.

- Nguyễn Hoàng Sơn (Sơn "Đen") ngụ tại 188/35 Tôn Thất Thuyết, phường 3, quận 4 vay 20.000.000 đồng. (BL: V15 T10: 1066-1071)

Hồ Văn Phú Ba cùng Nguyễn Thị Kiệm cho vay giải chấp đối với những người sau:

- Huỳnh Hoa Hạnh ngụ tại H89 Nguyễn Tri Phương, Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương vay 1.700.000.000 đồng.

- Trần Bích Đài ngụ tại 4/2 Hương Lộ 80B, Tân Chánh Hiệp, quận 12 vay 1.800.000.000 đồng.

- Lê Văn Tài ngụ tại 67 Trần Phú, Phan Thiết, Bình Thuận vay 450.000.000 đồng. (BL: V15 T10: 1066-1071)

Hành vi của Hồ Văn Phú Ba đã phạm vào tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại khoản 2 điều 163 BLHS.

Hồ Văn Phú Ba còn khai nhận: Năm 1998, Phú Ba cùng anh ruột là Hồ Văn Quý mua một chiếc xe ôtô hiệu Toyota Lexus không giấy tờ, sau đó thuê Nguyễn Anh Dũng làm hồ sơ giả đăng ký xe mang biển số 64H-1914. Chiếc xe này liên quan đến vụ án buôn lậu xe ôtô do Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an đang thụ lý. Phần giấy tờ giả đăng ký xe ô tô nói trên cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an tiếp tục điều tra.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 32): Hành vi cho vay lãi nặng của Trần Anh Tú

Trần Anh Tú làm "cò mồi" giới thiệu người đến vay tiền của Nguyễn Thị Kiệm, để hưởng tiền hoa hồng hoặc chênh lệch tiền lãi thu được. Ngoài ra, Tú cùng với Hồ Văn Phú Ba (con của Kiệm) còn đảm nhận việc giao nhận tiền vay, thu lãi cho Kiệm.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

5.3. Hành vi cho vay lãi nặng của Trần Anh Tú

Từ năm 1998, Trần Anh Tú quen với Hồ Văn Phú Ba (Bé Ba, con ruột bị can Nguyễn Thị Kiệm). Do biết được Nguyễn Thị Kiệm cho vay tiền lấy lãi nên Trần Anh Tú đã giới thiệu người đến vay tiền của Kiệm để hưởng tiền hoa hồng hoặc hưởng tiền chênh lệch tiền lãi thu được. Trong quá trình môi giới để Kiệm cho vay tiền, Trần Anh Tú (cùng với Bé Ba) còn trực tiếp giúp sức cho Kiệm trong việc giao nhận tiền vay, đi theo thu lãi…

Từ năm 1999 đến 2001, Trần Anh Tú giới thiệu 5 người đến vay tiền của Kiệm với lãi suất từ 5%/tháng đến 30%/tháng. Tổng số tiền vốn Tú môi giới cho thị Kiệm cho vay là 3.110.000.000 đồng và Trần Anh Tú thu lợi được số tiền là 35.500.000 đồng. Trong đó, số tiền cho vay đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi cho vay lãi nặng là 450.000.000 đồng, số tiền lãi Trần Anh Tú thu lợi bất chính là 18.000.000 đồng. Cụ thể Trần Anh Tú đã môi giới để Nguyễn Thị Kiệm cho vay như sau:

- Trần Bích Đài ngụ tại 4/2A Hương Lộ 80B, Tân Chánh Hiệp, quận 12 vay 1.800.000.000 đồng với lãi suất 24%/tháng.

- Lê Văn Tài ngụ tại 67 Trần Phú, Phan Thiết, Bình Thuận vay 450.000.000 đồng với lãi suất 45%/tháng, Tú được hưởng lợi 18.000.000 đồng.

- Huỳnh Hoa Hạnh ngụ tại H89 Nguyễn Tri Phương, Chấn Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương vay 500.000.000 đồng với lãi suất 5%/tháng, Tú được hưởng lợi 7.000.000 đồng.

- Ông Lành nhà gần Cầu Ông Lãnh, quận 1 vay 50.000.000 đồng với lãi suất 7%/tháng, Tú được hưởng lợi 1.500.000 đồng.

- Ông Hùng nhà ở Đồng Nai vay 300.000.000 đồng với lãi suất 6%/tháng, Tú được hưởng lợi 9.000.000 đồng. (BL: V15 T11: 1138-1140)

Ngoài ra, Trần Anh Tú còn làm môi giới và giúp sức cho Phạm Thị Hoàng Nga (sinh năm 1953, ngụ 489A/19A Huỳnh Văn Bánh, phường 13, Phú Nhuận) cho vay lãi nặng 2 người với tổng số tiền cho vay là 3.550.000.000 đồng, lãi suất cho vay từ 24%/tháng đến 45%/tháng. Nga thu lợi bất chính được 247.500.000 đồng và chia cho Tú 27.000.000 đồng. Trong số người vay tiền của Nga là Lê Văn Tài (cũng là con nợ của Kiệm), ngụ tại Phan Thiết, Bình Thuận chưa trả tiền vốn cho Nga. Vì vậy, Nga gởi đơn tố cáo Lê Văn Tài chiếm đoạt tài sản đến Công an tỉnh Bình Thuận (hiện nay Cơ quan Điều tra Công an Bình Thuận đang thụ lý). Do đó, Cơ quan An ninh Điều tra Công an TP HCM đã có công văn đề nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Bình Thuận điều tra làm rõ hành vi cho vay lãi nặng của Phạm Thị Hoàng Nga và Trần Anh Tú.

Ngoài việc môi giới cho vay tiền, Trần Anh Tú cùng với Hồ Văn Phú Ba còn làm dịch vụ vay tiền ngân hàng cho Trần Bích Đài với tổng số tiền vay là 6.000.000.000 đồng (vay tại ngân hàng Công thương – chi nhánh 14 – Thủ Đức). Trần Anh Tú hưởng lợi số tiền 25.000.000 đồng.

Trần Anh Tú khai nhận tổng số tiền Tú được hưởng lợi do môi giới cho vay lãi nặng, môi giới cho vay tiền ngân hàng là 87.500.000 đồng. Trong đó tiền hưởng lợi do môi giới cho Nguyễn Thị Kiệm cho vay lãi nặng phải chịu trách nhiệm hình sự là 18.000.000 đồng; môi giới cho Phạm Thị Hoàng Nga cho vay lãi nặng Tú được hưởng 27.000.000 đồng; môi giới cho Trần Bích Đài vay thế chấp ngân hàng Tú được hưởng 25.000.000 đồng. (BL: V15 T11: 1138-1140).

Hành vi của Trần Anh Tú đã phạm vào tội cho vay lãi nặng, tội danh được quy định tại, khoản 2 điều 163 BLHS.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 33): Hành vi cho vay lãi nặng của Phạm Thị Lượng

Năm 2000-2001, Lượng đã cho nhiều người (chủ yếu là con bạc) vay hơn 1,3 tỷ đồng, lãi suất 18-40%/tháng. Lượng đã hủy bỏ sổ sách, giấy tờ liên quan việc một số đối tượng khác vay lãi nặng, nên cơ quan điều tra không xác định được số tiền đã xuất.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

IV. Các vụ cho vay lãi nặng

5.4. Hành vi cho vay lãi nặng của Phạm Thị Lượng

Trong năm 2000 và 2001 Phạm Thị Lượng đã cho 6 người vay tiền (chủ yếu là những con bạc) lãi suất từ 18,79% đến 36,57%/tháng thu lời bất chính số tiền là 363.900.000 đồng và cho 4 người vay lãi suất từ 3% đến 5%/tháng với số tiền vay là 370.000.000 đồng và 80 lượng vàng, lãi suất 3% và 5%/tháng. (BL: V15 T12: 1216-1218)

Quá trình tham gia đánh bạc, Lượng còn cho các con bạc vay tiền để đánh bạc với hình thức vay trả góp ngày và lãi suất 3-5%/tháng đối với vàng; tiền: 18,79-36,57%/tháng. Cụ thể như sau:

- Cho Nguyễn Văn Sy (Bảy Sy) vay năm 1999 nhiều lần, mỗi lần 5.000.000 đồng (năm triệu) lãi suất 10%/tháng hình thức góp ngày 100.000-150.000 đồng. (BL: V15 T12: 1210)

- Cho Bùi Viết Hùng (Tùng "Béo") vay nhiều lần năm 1999 đến nay, mỗi lần 5.000.000 (năm triệu) đồng, lãi suất 10%/tháng (tức 5.000.000 đồng thành 5.500.000 đồng). Tổng cộng: 20.000.000 đồng, góp ngày 150.000 đồng, số tiền phải góp 22.000.000 đồng.(BL: V15 T12: 1213)

- Cho Nguyễn Thị Kim Hòa vay nhiều lần năm 1999 mỗi lần 5.000.000 (năm triệu) đồng lãi suất 18,79%/tháng. Tổng cộng: 15.000.000 đồng, số tiền phải góp 16.500.000 đồng hình thức góp ngày 100.000-200.000 đồng. (BL: V15 T12: 1213)

- Cho Tăng Văn Sên vay năm 1999 hai lần, tổng cộng: 3.000.000 đồng lãi suất 20%/tháng, góp ngày 50.000-80.000 đồng. (BL: V15 T12: 1212)

- Cho Nguyễn Văn Lắn (Lũng "Đầu Bò") vay năm 2001 ba lần, lãi suất 12,5-20%/tháng:

+ Lần 1: Số tiền 10.000.000 đồng, góp ngày 400.000 đồng, thời hạn 30 ngày, số tiền phải góp: 12.000.000 đồng, lãi 2.000.000 đồng.

+ Lần 2: Số tiền 20.000.000 đồng góp ngày 800.000 đồng thời hạn 30 ngày, số tiền phải góp: 24.000.000 đồng, lãi 4.000.000 đồng.

+ Lần 3: Số tiền 40.000.000 đồng góp ngày 1.000.000 đồng, thời hạn 48 ngày, góp được 8 ngày = 8.000.000 đồng, hiện còn nợ khoảng 40.000.000 đồng do không còn khả năng trả. (BL: V15 T12: 1210)

- Cho Đoàn Minh Chánh (Tư Chánh) vay khoảng tháng 05/2001 3 lần lãi suất từ 15% đến 20%/tháng.

+ Lần 1: Số tiền 30.000.000 đồng góp ngày 1.200.000 đồng thời hạn 30 ngày, số tiền phải góp 36.000.000 đồng, lãi 6.000.000 đồng.

+ Lần 2: Số tiền 50.000.000 đồng góp ngày 1.500.000 đồng thời hạn 40 ngày, số tiền phải góp 60.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng.

+ Lần 3: Số tiền 100.000.000 đồng góp ngày 3.000.000 đồng thời hạn 40 ngày, đã góp được 70.000.000 đồng, còn nợ 50.000.000 đồng. (BL: V15 T12: 1211)

- Cho Nguyễn Văn Dương (Chín Dượng) vay hai lần giữa năm 2001.

+ Lần 1: Số tiền 220.000.000 đồng (quy thành 20.000 USD) lãi suất 8,76%/tháng, hình thức góp tuần từ 15.000.000 đến 25.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng.

+ Lần 2: Vay 50.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, chưa thực hiện đóng lãi đến ngày 9/10/2001 Dương bị bắt về hành vi đánh bạc. (BL: V15 T12: 1211)

- Cho Trương Văn Lang (Chín "Đờn Cò") vay 100.000.000 đồng tháng 9/2001 (quy thành 20 lượng vàng) lãi suất 3%/tháng. Chưa thực hiện đóng lãi, Lang đã bị bắt về tội đánh bạc ngày 9/10/2001.

- Cho Trần Quốc Dân (Gia) vay 40 lượng vàng tháng 9/2001, lãi suất 5%/tháng (chưa đóng lãi). (BL: V15 T12: 1211)

- Cho Nguyễn Thị Kiệm (Ba Kiệm) vay 40 lượng vàng giữa năm 2001, lãi suất 3%/tháng đã nhận lãi 3 lần mỗi lần 12 chỉ vàng = 36 chỉ. (BL: V15 T12: 1211)

Trong số 10 người vay tiền của Phạm Thị Lượng nêu trên, có đủ căn cứ kết luận Phạm Thị Lượng cho 6 người vay lãi nặng với tổng số tiền cho vay là 308.000.000 đồng đã thu lời 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu) lãi suất từ 18,79% đến 36,57%/tháng và 4 người vay lãi suất từ 3% đến 8,76%/tháng với tổng số tiền là 370.000.000 đồng và 80 lượng vàng với số tiền lời đã thu là 36 (ba mươi sáu) chỉ vàng và 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Ngoài ra Phạm Thị Lượng khai nhận cho nhiều người vay tiền lãi suất từ 3% đến 10% có sổ ghi chép việc cho vay nhưng Phạm Thị Lượng đã hủy bỏ các sổ sách giấy tờ liên quan đến việc cho vay lãi nặng. Nên cơ quan điều tra không xác định được một số người mà Phạm Thị Lượng cho vay số lượng tiền, với lãi suất bao nhiêu. (BL: V15 T12: 1217-1218)

Như vậy Nguyễn Thị Kiệm, Phạm Thị Lượng, Hồ Văn Phú Ba, Trần Anh Tú đã phạm tội cho vay lãi nặng quy định tại khoản 2, điều 163 BLHS.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 34): Trần Văn Thuyết bắt, giữ người trái pháp luật

"Quân sư" của Năm Cam, Trần Văn Thuyết (Thuyết "Buôn Vua") đã hai lần cử một số đối tượng giang hồ đến bắt, nhốt và đánh đập Vũ Quốc Tuấn, buộc anh này phải viết giấy biên nhận khống nợ Thuyết 15.500 USD. Bởi trước đó, anh Tuấn đã từ chối không mua ôtô với giá quá cao của Thuyết.

B. Các vụ phạm tội do các đối tượng khác thực hiện

V. Vụ Trần Văn Thuyết bắt, giữ người trái pháp luật

Trần Văn Thuyết quen biết với anh Vũ Quốc Tuấn, sinh 1962, trú tại số nhà 6A1 tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Khoảng đầu tháng 5/1995, Thuyết gạ bán cho anh Tuấn 1 xe ôtô Ford 15 chỗ ngồi giá 15.500 USD với thoả thuận cho Tuấn chạy xe thử một tuần, nếu không thích thì trả lại. Sau một tuần, anh Tuấn không mua vì lý do xe cũ, giá cao và chạy tốn nhiên liệu. Đem xe trả lại cho Thuyết thì Thuyết không đồng ý vì lý do trong thời gian anh Tuấn chạy thử xe đã gây tai nạn làm hư hỏng nặng nên Thuyết bắt anh Tuấn phải mua chiếc xe trên. (BL: V17: 56-60)

Sự việc chưa được thoả thuận dứt điểm thì vào cuối tháng 5/1995, Thuyết thông qua Nguyễn Văn Thắng (Thắng "Tài Dậu") chỉ đạo Trần Quốc Sơn (Sơn "Bạch Tạng") cho đàn em là Hoàng Quốc Thắng (Thắng "Điếc") đến nhà anh Tuấn, chở Tuấn đến nhà Thuyết ở 91 Nguyễn Thái Học nhốt vào phòng kín rồi đánh, ép anh Tuấn viết giấy nhận nợ của Thuyết 15.500 USD, sau đó mới cho anh Tuấn về. Sau đó Hoàng Quốc Thắng nhiều lần rủ bọn tay chân tới nhà anh Tuấn đập phá nhà cửa, đe doạ và đòi anh Tuấn phải trả nợ số tiền 15.500 USD. (BL: V17: 62 a–62e, 63-73)

Khoảng tháng 9/1996, Thuyết tiếp tục sai Thắng điếc đến bắt anh Vũ Quốc Tuấn về nhà Thuyết tại 91 Nguyễn Thái Học, nhốt vào buồng kín. Lần này Thắng điếc trực tiếp đánh vào mặt Tuấn, còn Thuyết bắt Tuấn viết giấy biên nhận và thoả thuận trả nợ. Tuấn bị giam giữ từ 10h tới 18h trong ngày. Do sợ bị đánh đập và ép buộc nên Tuấn phải viết giấy biên nhận nợ, sau đó Thuyết mới cho Tuấn về. (BL: V17: 77- 87, 119a-119b)

Do sợ bị Thuyết và đồng bọn tiếp tục đánh đập và bắt giữ nên Vũ Quốc Tuấn. Gia đình Tuấn có đơn tố cáo hành vi phạm tội của Trần Văn Thuyết và đồng bọn trước cơ quan pháp luật. (BL: V17: 74-76)

Qua đấu tranh đã có đủ cơ sở kết luận Trần Văn Thuyết và Hoàng Quốc Thắng đã phạm tội bắt giữ, giam người trái pháp luật, tội danh được quy định tại điểm a khoản 2, điều 123 BLHS.

Riêng bị can Hoàng Quốc Thắng đã bỏ trốn, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. (BL: V17: 10a-10d)

Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an còn nhận được đơn của anh Phạm Đình Thái ở 80 Yên Ninh, Ba Đình, Hà Nội và anh Trần Văn Tiến ở 119 ngõ 88, Trần Phú, Hà Nội tố cáo Trần Văn Thuyết lừa đảo 2.000 USD và 50 triệu đồng. Nhưng qua đấu tranh, Thuyết không thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên vì ngoài những lời khai của các bên, không có tài liệu, chứng cứ trực tiếp khác để chứng minh. Do đó chưa có cơ sở kết luận. (BL: V17: 89-100)
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 35): Lý lịch Trương Văn Cam

15 tuổi, Trương Văn Cam đã dùng dao đâm chết người và nhận án tù. Đối tượng từng tham gia lính quân vận, là vận động viên bơi lội của Cục quân vận quận đội Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, Năm Cam buôn bán đồng hồ, radio cũ ở chợ Huỳnh Thúc Kháng, song nhanh chóng bỏ nghề chuyển sang "đánh bạc".

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

1. Bị can Trương Văn Cam (Năm Cam)

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 22/4/1947 tại TP HCM

- Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 107/38 đường Trương Định, phường 6, quận 3, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Phật giáo

- Văn hóa : 5/12

- Con ông: Trương Văn Bưởi (chết)

- Con bà: Nguyễn Thị Hường (chết)

- Chị: Trương Thị Sẩm (chết)

- Vợ 1: Phan Thị Trúc, sinh năm 1946, ngụ tại 107/38 Trương Định, quận 3 (là bị can trong cùng vụ án bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt tháng 1/2002). Có 5 con chung, trong đó có Trương Hiền Bảo là bị can trong cùng vụ án bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt tháng 1/2002.

- Vợ 2: Trương Thị Lành, sinh 1946, ngụ tại 168/3 Tôn Thất Thuyết phường 3 quận 4, có 3 con chung (lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh 1983).

b. Quá trình hoạt động:

Năm 1947-1962: Còn nhỏ ở với cha mẹ, ngụ tại hẻm Bến Vân Đồn (nay là hẻm 109), khi cha chết (1957) thì chuyển về ở tại hẻm 148 Tôn Đản, quận 4, Sài Gòn. Tháng 11/1962 đánh nhau, dùng dao đâm chết anh Trần Ánh Tuyết, bị chế độ ngụy quyền Sài Gòn bắt giam. Ngày 10/6/1964, Toà án Sài Gòn xử phạt 3 năm tù giam về tội “cố ý đả thương - nhân thương chí mạng”. Tháng 1/1965 được trả tự do.

Từ 1966 đến trước năm 1975, tham gia lính ngụy (lính quân vận) thuộc đại đội 313, đóng quân tại đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt, quận 11), là vận động viên bơi lội cho Cục quân vận ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1971, bị công an Ty Hàng Keo - Gia Định (ngụy quyền Sài Gòn) bắt giữ về tội đánh bạc, bị giam 7 ngày, sau đó giao cho Tòa án quân sự ngụy quyền Sài Gòn xử lý và trả về đơn vị cũ. Sau 30/4/1975 ra trình diện Ban quân quản quận 4, đi học cải tạo 3 ngày ở phường Lý Nhơn (nay là phường 6, quận 4). Sau đó làm nghề mua bán đồng hồ cũ, radio cũ ở chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, TP HCM. Năm 1977 tham gia đánh bạc, sau này mở sòng bạc tại hẻm 148 Tôn Đản, quận 4. Ngày 3/6/1978 bị Công an quận 1 TP HCM bắt giữ về tội đánh bạc, giam ở Mạc Đĩnh Chi khoảng 2 tháng được trả tự do. Năm 1980 mua nhà, chuyển về hẻm 115 Trần Đình Xu, quận 1 sinh sống. Ngày 30/12/1980 bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM bắt giam về tội tổ chức đánh bạc, bị giam 8 tháng ở trại Chí Hoà, sau đó được trả tự do, bị phạt 2 triệu đồng. Ngày 5/11/1982 bị phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM bắt về tội đánh bạc, sau đó đưa đi cưỡng bức lao động 2 năm ở trại Đồng Phú (Sông Bé cũ). Tháng 1/1984 được trả tự do, về ở tại nhà số 107/38 Trương Định, phường 6 quận 3 và cư ngụ tại đây cho đến khi bị bắt. Ngày 20/5/1995 UBND TP HCM ra quyết định đưa đi tập trung cải tạo 3 năm tại Trại Thanh Hà về hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Ngày 4/10/1997, được tha trước thời hạn 7 tháng, trở về gia đình làm ăn.

- Tiền sự: 5

- Tạm giam: 12/12/2001

c. Hành vi phạm tội

* Hành vi giết Vũ Hoàng Dung (Dung Hà):

Do mâu thuẫn trong việc tranh giành địa bàn làm ăn, tạo uy thế trong giới giang hồ, Vũ Hoàng Dung (Dung Hà) là đối tượng hình sự cầm đầu băng nhóm tội phạm tại Hải Phòng đã chỉ đạo cho đàn em thực hiện nhiều hành vi quậy phá trên địa bàn TP HCM, ý đồ gây thanh thế, gây áp lực và bắt buộc Trương Văn Cam chia cho một số lợi nhuận trong việc bảo kê sòng bài, nhà hàng, vũ trường. Từ đó gây mâu thuẫn gay gắt với Trương Văn Cam làm cho Trương Văn Cam rất bực và muốn thanh toán Dung Hà. Vì vậy Trương Văn Cam điện thoại cho Nguyễn Tuấn Hải than phiền về việc Vũ Hoàng Dung cho đàn em quậy phá ở một số nơi làm mất mặt Trương Văn Cam. Trương Văn Cam có nói với Nguyễn Tuấn Hải “chú gặp Dung Hà nói với nó là chỗ làm ăn của anh em, đừng có quậy phá nữa, phải điều đình với nó để mà sống”, “chú ở gần Dung Hà thì chú biết tánh nó rồi, nó muốn làm gì thì làm chứ không nể ai đâu, còn nếu điều đình không được thì tự em tính, nếu có dính dáng gì đến pháp luật thì để anh Năm lo…” , “anh không muốn thấy nó trên đời này nữa”. (BL: V1 T2: 283)

Bằng những lời nói mang tính chỉ thị trong giới giang hồ, Trương Văn Cam đã chỉ đạo cho Nguyễn Tuấn Hải tổ chức thực hiện hành vi giết Vũ Hoàng Dung vào lúc 0h25' tại 17 Bùi Thị Xuân, Bến Thành, quận 1, TP HCM.

Trương Văn Cam đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận đã chỉ đạo cho Nguyễn Tuấn Hải giết Dung Hà, phù hợp với lời khai của Nguyễn Tuấn Hải, Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Trường và tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và lời khai nhận tội của các bị can đã có đủ cơ sở kết luận Trương Văn Cam là một tên tội phạm nguy hiểm, đứng đầu một tổ chức tội phạm lớn, hoạt động theo kiểu xã hội đen. Y đã thâu tóm, chỉ huy toàn bộ hoạt động của đồng bọn trên một địa bàn rộng dưới các hình thức cưỡng đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc và đánh bạc, cho vay lãi nặng, kinh doanh rửa tiền qua các dịch vụ nhà hàng, vũ trường, khách sạn, kinh doanh địa ốc. Khi cần thiết để phân chia địa bàn, tranh giành quyền lợi và ngôi vị, sẽ tổ chức cho đàn em thanh toán nhau và đã chủ mưu gây ra vụ bắn Vũ Hoàng Dung.

Trong quá trình chỉ đạo cho đàn em thực hiện tội phạm, Trương Văn Cam luôn tạo ra các chứng cứ ngoại phạm, không trực tiếp tham gia mà ra lệnh cho đàn em bằng những ám hiệu, tiếng lóng… buộc đàn em phải thi hành. Bằng thủ đoạn này, y đã né tránh được vai trò chủ mưu trong các vụ án. Hành vi của Trương Văn Cam đã phạm tội giết người, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm O, khoản 1, điều 93 BLHS.

* Hành vi tạt axit Lê Ngọc Lâm (Lâm "Chín Ngón")

Căn cứ vào tài liệu điều tra thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra có cơ sở kết luận: Giữa Lê Ngọc Lâm và Trương Văn Cam có mâu thuẫn gay gắt với nhau trong việc tranh giành quyền lợi, vị trí ngôi thứ trong "thế giới ngầm", Cam quyết định thanh toán Lâm, tiêu diệt Lâm để ngăn ngừa hiểm hoạ về sau. Để tránh bị bại lộ từ phía nạn nhân và cơ quan công an, Trương Văn Cam đã chỉ đạo Vũ Hoàng Dung - trùm "xã hội đen" gốc Hải Phòng - tổ chức thực hiện tạt axít Lâm "Chín Ngón". Hành vi sử dụng axit đậm đặc với thể tích lớn tạt vào mặt và đầu nạn nhân là rất nguy hiểm, xâm hại tới sức khoẻ, thẩm mĩ và sinh mạng của Lê Ngọc Lâm (do Lâm có thể lực tốt, lại được cấp cứu kịp thời nên thoát chết) nhưng bị thương tật rất nặng (tỷ lệ 75%), đã cấu thành tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điều 104 BLHS.

Trong vụ án này Trương Văn Cam giữ vai trò chủ mưu, Vũ Hoàng Dung giữ vai trò tổ chức thực hiện, Nguyễn Văn Thọ là người mua axit và chỉ nhà, chỉ mặt Lê Ngọc Lâm cho Vũ Hoàng Dung nhận diện. Nhưng do Vũ Hoàng Dung đã bị bắn chết ngày 2/10/2000 nên không khởi tố bị can đối với Dung. Nguyễn Văn Thọ đã bị khởi tố bị can, nhưng do y bỏ trốn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Mặc dù quá trình điều tra rất công phu nhưng tới nay ngoài Vũ Hoàng Dung kẻ trực tiếp tổ chức thực hiện vụ tạt axit, Cơ quan điều tra chưa tìm thêm kẻ mà Dung cử trực tiếp tạt axit Lê Ngọc Lâm.

Tuy nhiên căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã thu thập được và lời khai nhận tội của Trương Văn Cam, đã có đủ cơ sở kết luận Trương Văn Cam phạm tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điều 104 Bộ luật hình sự cần phải được xử lý nghiêm khắc.

* Hành vi che giấu tội phạm và tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trong vụ giết Phan Lê Sơn

Sau khi vụ án xảy ra, Trương Văn Cam là kẻ chủ mưu trong việc chỉ đạo, tổ chức đưa Bùi Anh Việt trốn sang Campuchia để tiếp tục trốn sang Canada, tạo điều kiện cho y và đồng bọn có thời gian bố trí, sắp xếp, khống chế lời khai của các nhân chứng, các bị can khi khai báo với Cơ quan điều tra có lợi cho Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Hữu Thịnh nhằm mục đích chạy thoát tội cho Thọ "Đại Úy", giảm nhẹ tội cho Nguyễn Hữu Thịnh. Trương Văn Cam đã trực tiếp chi cho Hiệp "Phò Mã" 20.000 USD để Hiệp có điều kiện thuê người, tổ chức cho Bảy Việt đi trốn sang Cămpuchia.

Hành vi của Trương Văn Cam đã cùng một lúc phạm 2 tội che giấu tội phạm, tội danh được quy định tại điều 313 và tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, tội danh được quy định tại điều 275 BLHS năm 1999 với vai trò chủ mưu, cầm đầu.
 
* Hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc

Năm 1999 sau khi đi tập trung cải tạo về Trương Văn Cam (Năm Cam) bàn với Tô Văn Tốt (Ba Mạnh), Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thành Thảo và Nguyễn Văn Nhã (Sáu Nhà) tổ chức sòng bạc xóc đĩa tại quận 8, TP HCM. Sau khi bàn bạc thống nhất nhiệm vụ của từng tên, thống nhất cách ăn chia (nêu ở phần nội dung vụ án). Khoảng tháng 10/1999 Ba Mạnh thuê nhà 74/18 và 74/16 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 của Trương Thoại và Lê Định Quốc cho Nhã mở sòng bạc. Sòng bạc hoạt động đến ngày 26/1/2000, tên Phạm Văn Minh (Minh "Bu") phạm tội giết người nên Trương Văn Cam và Ba Mạnh cho sòng bạc tạm ngưng. Cuối tháng 2/2000 Ba Mạnh và Trương Văn Cam cho sòng bạc xóc đĩa hoạt động trở lại. Đến cuối tháng 4/2000, Ba Mạnh chết nên sòng bạc giải tán. Sòng bạc hoạt động tổng cộng 4 tháng rưỡi. Trương Văn Cam được chia tiền xâu, tiền lời 600 triệu đồng và tiền lo hối lộ là 270.000.000 đồng . Tổng cộng 870.000.000 đồng. (BL: V4 T74: 02, 07)

Tháng 1/2001, Trương Văn Cam và Thảo giao cho Nhã mở sòng bạc tại 351A, khu phố 1, Phường Phước Long A, quận 9, sòng bạc được mở làm 2 đợt (trước và sau tết âm lịch năm 2001). Trương Văn Cam được chia tiền xâu 40 triệu đồng, tiền lời 1/10 là 100 triệu đồng và tiền ngoại giao lo hối lộ là 54 triệu đồng. Tổng cộng 194 triệu đồng. (BL: V4 T74: 02, 07)

Ngoài ra, Trương Văn Cam chỉ đạo cho Nguyễn Văn Nhã chia cho Lê Thị Thu Hà (Hà "Trề") một phần tiền xâu để Hà "Trề" sử dụng số tiền này nuôi Phạm Văn Minh đang bị tạm giam về tội giết người.

Tháng 7/2001 Tạ Đắc Lung (Lý Đôi) và Triệu Tô Hà xin phép Trương Văn Cam mở sòng bạc tại nhà Triệu Tô Hà số 46/12 Âu Cơ, phường 9, quận Tân Bình nhưng Trương Văn Cam không cho. Mặc dù Trương Văn Cam không cho phép nhưng Lung và Triệu Tô Hà vẫn mở sòng bạc. Vì Trương Văn Cam không cho phép nên sòng bạc của Lung và Hà không có nhiều con bạc đến đánh. Khoảng 5 ngày sau, Lung và Hà dời sòng bạc về nhà Hà Gia Quyền số 27/23 Văn Thân, quận 6. Lung mời Sáu Nhà đến tham gia nhưng không có phép của Trương Văn Cam nên Sáu Nhà không tham gia và sòng bạc cũng ít con bạc đến chơi. Sòng bạc mở tại nhà Hà Gia Quyền được 7 ngày thì dời sang nhà Nguyễn Thị Dung số 27/6 Văn Thân, quận 6. Lúc này Trương Văn Cam cho phép Sáu Nhà và Nguyễn Hoàng Khương đến tham gia thì sòng bạc có nhiều con bạc đến chơi và số lượng hùn vốn làm cái tăng lên. Trương Văn Cam được chia 1/10 tiền lời làm cái là 100 triệu đồng và 2 triệu đồng/ngày tiền bảo kê lo hối lộ là 34 triệu đồng. Tổng cộng 134 triệu đồng. (BL: V4 T74: 02, 07)

Cuối tháng 8 đầu tháng 9/2001, Trương Văn Cam cho phép Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Khánh Quốc trực tiếp tổ chức điều hành sòng bạc tại 1102 đường Tự Lập, phường 4, quận Tân Bình. Sòng bạc hoạt động được khoảng 23 ngày thì chuyển về 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 cho đến ngày bị bắt (9/10/2001). Trương Văn Cam khai nhận được chia 85 triệu đồng tiền xâu, 200 triệu đồng tiền lời đầu 10 và 46 triệu đồng tiền lo hối lộ. Tổng cộng 331 triệu đồng. (BL: V4 T74: 02, 07)

Tháng 10/2001, sòng bạc được dời về 74/18 Trần Nguyên Hãn, quận 8 cho đến ngày bị bắt. Trương Văn Cam được chia 114.550.000 đồng tiền lời và 8 triệu đồng tiền lo hối lộ. Tổng cộng 122.550.000 đồng. (BL: V4 T74: 02, 07)

Ngoài việc tổ chức sòng bạc xóc đĩa, Trương Văn Cam cùng tên Xây, Triệu Tô Hà, Lương Cẩm Huy, Trần Quốc Dân, Nguyễn Thành Thảo tổ chức sòng bạc xập xám. Trương Văn Cam dùng uy danh trong giới xã hội đen của mình lôi kéo các con bạc có nhiều tiền tham gia đánh bạc xập xám tại các sòng bạc:

- Số 780 Nguyễn Đình Chiểu, phường 1, quận 3 vào khoảng tháng 6/2000, tổ chức đánh bạc khoảng 7 ngày. Trương Văn Cam thỉnh thoảng tham gia đánh bạc, mỗi chến đánh từ 15 triệu đến 30 triệu đồng và khai nhận thu được tiền xâu là 850 triệu đồng và chia cho Trần Lệ Nguyên 200 triệu đồng, Triệu Tô Hà, Trần Quốc Dân, Vương Tử (Xây), Trương Văn Cam mỗi tên 150 triệu đồng và Nguyễn Thành Thảo 50 triệu đồng. Nhưng Nguyên, Hà, Dân không thừa nhận số tiền trên, chỉ có Nguyễn Thành Thảo khi đối chất với Trương Văn Cam, Thảo mới miễn cưỡng thừa nhận. Do đó Trương Văn Cam phải chịu trách nhiệm về số tiền xâu 800 triệu đồng. (BL: V4 T74: 03)

- Ngày 8 và 9/10/2001, tổ chức đánh bạc xập xám tại 122 Trần Hưng Đạo B, quận 5. Sang ngày hoạt động thứ hai, nghe tin sòng bạc xóc đĩa tại quận 8 bị bắt nên Trương Văn Cam cho sòng này giải tán. Năm Cam được chia tiền xâu là 15 triệu đồng. (BL: V4 T74: 3)

Tổng số tiền Trương Văn Cam được chia trong các sòng bạc xập xám, xóc đĩa là 2.466.550.000 đồng, trong đó có 412.000.000 đồng là tiền 2 triệu đồng/ngày mà bọn tổ chức sòng bạc giao cho Trương Văn Cam để hối lộ.

Trong bản cung ngày 19/3/2002, ngày 7/9/2002, Trương Văn Cam thừa nhận tất cả các sòng bạc nêu trên đều do Trương Văn Cam trực tiếp tổ chức và giao cho Nguyễn Văn Nhã trực tiếp quản lý điều hành sòng bạc, phần tiền lời của Trương Văn Cam từ các sòng bạc do Nhã quản lý bao gồm tiền bảo kê 2.000.000 đồng/ngày, tiền xâu, tiền lời làm cái hằng tuần Nhã giao cho Thảo một lần để Thảo giao lại cho Trương Văn Cam. Trong đó 412.000.000 đồng là khoản tiền 2.000.000 đồng/ngày sòng bạc nộp về cho Trương Văn Cam đi đưa hối lộ theo chủ trương của y. Với số tiền trên Trương Văn Cam cùng với Thảo đưa hối lộ, ăn nhậu với một số người để bảo vệ cho sòng bạc. (BL: V4 T74: 4)
 
Ngoài hành vi tổ chức đánh bạc, Trương Văn Cam còn có hành vi đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá. Thấy Nguyễn Văn Thành (Mười "Lù"), bị can trong vụ án - thường cá độ bóng đá, Trương Văn Cam đã góp tiền với Thành để cá độ bóng đá. Cụ thể như sau: Ngày nào có trận bóng đá mà Trương Văn Cam thích thì Trương Văn Cam điện thoại cho Thành đề nghị góp 10% số tiền cá cược (nếu Thành cá độ 50 triệu đồng thì Trương Văn Cam góp 5 triệu). Ngày hôm sau, nếu thắng thì Thành lấy tiền từ các con bạc bị thua đưa cho Trương Văn Cam tại nhà hàng Ra Khơi và ngược lại. Việc Thành cá độ với ai thì Trương Văn Cam không biết. Tổng cộng Trương Văn Cam đã góp tiền với Thành để cá độ 3 lần, trong đó 2 lần thắng 10 triệu đồng và một lần thua 5 triệu. Do lâu ngày nên Trương Văn Cam không nhớ rõ đã bắt đội nào thuộc giải nào. (BL: V6 T10: 1902, 1958
 
* Hành vi đưa hối lộ

Để các hoạt động phạm tội của Trương Văn Cam và đồng bọn tồn tại và hoạt động lâu dài, ngoài việc tổ chức và chỉ đạo chặt chẽ, Trương Văn Cam còn có thủ đoạn xảo quyệt, lôi kéo, dùng số tiền lớn để mua chuộc, móc nối và làm tha hoá nhiều cán bộ trong các cơ quan Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trương Văn Cam sống bằng hoạt động phạm tội nên biết rõ hành vi của y là vi phạm pháp luật nghiêm trọng, sẽ bị phát hiện và xử lý nghiêm khắc. Vì vậy để giảm nhẹ tội và trốn tránh hình phạt của pháp luật, y đã dùng số tiền lớn để bao ăn nhậu và đưa tiền cho nhiều cán bộ đã thoái hoá biến chất để bao che cho hành vi phạm tội của y và đồng bọn. Hành vi này của Trương Văn Cam có hệ thống, phạm tội trong một thời gian dài, thủ đoạn rất trắng trợn nhưng chặt chẽ, được phân công cụ thể cho từng tên, phụ trách quan hệ và đưa tiền cho từng cấp có thẩm quyền. Vì vậy, đã làm vô hiệu hoá một số hoạt động của các cơ quan chức năng có nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hình sự, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, làm cho nhiều cán bộ, có cả cán bộ do Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật, trong số đó có nhiều người bị truy tố trước pháp luật.

Cụ thể như sau:

* Năm 1995, trước khi bị bắt đưa đi tập trung giáo dục cải tạo, y và gia đình đã đưa tiền cho Trần Văn Thuyết để hối lộ cho các cán bộ trong các cơ quan nhà nước nhằm mục đích không bị đưa đi tập trung cải tạo, không bị điều tra, truy tố về hành vi phạm tội của y và đồng bọn đã gây ra trước đó. Hành vi của Trương Văn Cam đã làm thoái hoá biến chất một số cán bộ có chức vụ trong các cơ quan nhà nước gây hậu quả lớn cho xã hội. Số tiền mà Trương Văn Cam trực tiếp đưa hối lộ là 10.000 USD trong tổng số tiền 1,3 tỷ đồng mà y đã chủ mưu cùng gia đình gồm vợ là Phan Thị Trúc và con rể là Dương Ngọc Hiệp thực hiện.

Hành vi trên của Trương Văn Cam đã phạm vào tội đưa hối lộ, tội danh được quy định tại khoản 3 điều 289 BLHS. Để đề cao kỷ cương, pháp luật của nhà nước, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hành vi phạm tội của Trương Văn Cam cần phải được xử lý thật nghiêm khắc với mức án cao nhất để làm gương cho những kẻ khác.

* Sau khi đi tập trung cải tạo về (được trả tự do vào tháng 10/1997), Trương Văn Cam (Năm Cam) cùng đồng bọn là các tên Tô Văn Tốt (Ba Mạnh), Nguyễn Văn Nhã (Sáu Nhà), Nguyễn Khánh Quốc (Quốc "Lủi"), Phạm Văn Minh (Minh "Bu"), Lê Thị Thu Hà (Hà "Trề") và Thành Chân đã phục hồi lại sòng bạc xóc đĩa.

Tháng 10/1999, bọn chúng tổ chức sòng bạc xóc đĩa tại địa bàn quận 8 và phân công Tô Văn Tốt lo việc thuê nhà tổ chức sòng bạc và lo khâu bảo vệ, an ninh tại địa bàn quận 8. Trương Văn Cam lo tìm kiếm móc nối con bạc đến đánh bạc và lo “ngoại giao” cho sòng bạc. Sáu Nhà lo điều hành quản lý sòng bạc. Việc mua chuộc cán bộ để đảm bảo an ninh cho sòng bạc chúng phân công cho Ba Mạnh lo các cấp ở quận 8, Trương Văn Cam cùng Nguyễn Thành Thảo lo cấp thành phố. (BL: V5 T2: 156)

Trương Văn Cam chủ trương nguồn tiền dùng để mua chuộc cán bộ công an bao che sòng bạc lấy từ nguồn tiền xâu thu mỗi ván 5% của người thắng bạc và được trích ra làm 2 khoản sử dụng:

- Khoản thứ nhất gọi là tiền “phí ngoại giao” 2 triệu đồng/ngày nộp về cho Trương Văn Cam để dùng làm chi phí hối lộ, mua chuộc một số cán bộ đơn vị có chức năng phòng chống tội phạm thuộc Công an TP HCM nhờ bao che dung túng cho hoạt động vi phạm pháp luật của băng nhóm Trương Văn Cam và các sòng bạc của y. (BL: V5 T2: 157, 164)

Về chủ trương lập ra khoản tiền hối lộ này, Trương Văn Cam khai lập ra khoản chi phí này để sử dụng đưa hối lộ, trước đây Trương Văn Cam trực tiếp ở trong sòng bạc nên mỗi ngày trích ra 2 triệu đồng thì những người cùng hùn làm chủ sòng đều biết. Sau khi tái lập sòng bạc xóc đĩa ở quận 8, Trương Văn Cam không trực tiếp vào sòng bạc mà hàng ngày Nguyễn Văn Nhã rồi Nguyễn Thành Thảo đem tiền về nộp Trương Văn Cam. Vì muốn công khai không để người khác nghi ngờ Trương Văn Cam chiếm đoạt sử dụng riêng nên Trương Văn Cam đã kêu Nguyễn Văn Nhã vào sòng bạc bàn bạc với các chủ sòng khác, sau đó Sáu Nhà báo lại cho Trương Văn Cam là các chủ sòng khác đều nhất trí mỗi ngày trích ra 2 triệu đồng nộp cho Trương Văn Cam làm "phí ngoại giao" để Trương Văn Cam quan hệ mua chuộc, đút lót cho cán bộ cấp thành phố. Từ năm 1999 đến tháng 10/2001, các chủ sòng bạc xóc đĩa (kể cả người mới tham gia như Nguyễn Khánh Quốc) đều phải nộp về cho Trương Văn Cam khoản tiền trên. (BL: V5 T2: 176, 181)

- Khoản thứ hai là tiền thuê nhà và tiền lo “an ninh cho sòng” tại quận, phường nơi sòng hoạt động. Mỗi ngày Nguyễn Văn Nhã (Sáu Nhà) giao cho Tô Văn Tốt (Ba Mạnh) 3.300.000 (ba triệu ba trăm nghìn) đồng, trong đó có 400.000 đồng trả tiền thuê nhà, 300.000 đồng để chi cho bọn canh gác sòng bạc, còn lại 2.600.000 (hai triệu sáu trăm nghìn) đồng dùng để đưa hối lộ hằng tuần cho một số cán bộ công an quận và công an phường nơi có sòng bạc hoạt động. (BL: V5 T2: 156; V5 T3: 202A)

Thời gian Tô Văn Tốt còn sống, Trương Văn Cam giao cho Ba Mạnh lo hối lộ Công an quận 8. Tô Văn Tốt lợi dụng sự quen biết với ông Lê Văn Tiếu (tức Năm Tiếu, nguyên phó trưởng Công an quận 8) để tiếp xúc móc nối với Lê Minh Hùng (Đội trưởng Đội cảnh sát Hình sự Công an quận 8) nhờ bao che sòng bạc xóc đĩa của Tốt tại phường 13. (BL: V5 T8: 386)

Sau khi Tô Văn Tốt chết, Trương Văn Cam giao cho Nguyễn Văn Thọ lo việc chạy hối lộ để bao che cho sòng bạc. Thọ đã móc nối Nguyễn Xuân Liệu (con rể Tô Văn Tốt) đi hối lộ cho Công an quận 8 để bảo đảm an ninh cho sòng bạc.

Sòng bạc xóc đĩa hoạt động tại 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 vào các thời điểm sau:

- Từ tháng 10/1999 đến khoảng giữa tháng 1/2000, do Phạm Văn Minh (Minh "Bu") phạm tội giết người ở đường Hải Triều, quận 1 nên Trương Văn Cam cho sòng tạm nghỉ. Từ cuối tháng 2/2000 đến đầu tháng 5/2000 thì sòng bạc họat động lại (do Tô Văn Tốt chết đột ngột nên Trương Văn Cam cho sòng bạc tạm ngưng hoạt động). Tổng cộng số ngày sòng bạc hoạt động là 135 ngày, tiền “phí ngoại giao” đã nộp cho Trương Văn Cam là 270 triệu đồng, tiền Nguyễn Văn Nhã và Tô Văn Tốt dùng để đi hối lộ là 351 triệu đồng. (BL: V5 T3: 202A, 202B)

- Sau khi di chuyển nhiều địa điểm, sòng bạc xóc đĩa lại quay về hoạt động từ 29/9/2001 đến 9/10/2001 thì bị Công an TP HCM bắt quả tang. Thời gian sòng bạc hoạt động là 11 ngày, tiền “phí ngoại giao” đã nộp cho Trương Văn Cam là 8 triệu đồng (vì sòng bạc nộp tiền về Trương Văn Cam qua Nguyễn Thành Thảo theo tuần, Thảo mới thu tiền tuần đầu, tuần kế tiếp chưa đến kỳ thu), tiền Cô Đệ và Nguyễn Văn Thọ đã lấy để đi hối lộ là 36 triệu đồng. (BL: V5 T3: 202B; V5 T4: 214-215, 217)

Trong thời gian 1999-2000, sòng bạc xóc đĩa này còn rời tới hoạt động tại các địa điểm sau:

- Nhà Nguyễn Thị Liên số 351A khu phố 1, phường Phước Long A, quận 9 từ cuối tháng 1/2001 (hạ tuần tháng chạp năm Canh Thìn) đến Tết và từ mùng 10 Tết Canh Thìn (tức khoảng tháng 2/2001) hoạt động thêm 10 ngày. Tiền “phí ngoại giao” đã nộp cho Trương Văn Cam là 54.000.000 đồng, tiền hối lộ cấp địa phương không xác định được (BL: V5 T3: 202B, 202D)

- Nhà Nguyễn Thị Dung số 27/6 Văn Thân, phường 8, quận 6 hoạt động hơn 10 ngày. Tiền “phí ngoại giao” đã nộp cho Trương Văn Cam là 20.000.000 đồng, chi phí canh gác sòng bạc và tiền hối lộ cấp địa phương. Triệu Tô Hà thu hằng ngày 4.500.000 đồng, nhưng Triệu Tô Hà khai đã chiếm hưởng riêng để đánh bạc. (BL: V5 T19: 927)

- Nhà Nguyễn Văn Nghĩa số 1102, đường Tự Lập, Phường 4, Tân Bình 23 ngày. Tiền “phí ngoại giao” đã nộp cho Trương Văn Cam là 46.000.000 đồng, tiền hối lộ cấp địa phương Nguyễn Khánh Quốc và Nguyễn Văn Nhã đã giao cho Nguyễn Văn Nghĩa 57.500.000 đồng. Nhưng Nguyễn Văn Nghĩa khai đã chiếm hưởng sử dụng riêng số tiền này (Nguyễn Văn Nghĩa đã nộp lại cho Cơ quan điều tra số tiền này cùng với số tiền sòng bạc trả tiền thuê nhà tổng cộng là 103.500.000 đồng). (BL: V5 T3: 202B; V5 T4: 220B)

Riêng vào tháng 7/2001, Triệu Tô Hà và Tạ Đắc Lung mở sòng tại số 46/12 Âu Cơ, phường 9, quận Tân Bình 5 ngày rồi chuyển sang nhà Hà Gia Quyền số 27/23 Văn Thân, phường 8, quận 6 hoạt động thêm 5 ngày. Vì hai sòng bạc này Trương Văn Cam không nhận bảo kê nên Triệu Tô Hà và Tạ Đắc Lung không nộp “phí ngoại giao” 2.000.000 đồng/ngày. Triệu Tô Hà vẫn thu 4.500.000 đồng mỗi ngày gồm 200.000 đồng thuê nhà và 4.300.000 đồng tiền hối lộ địa phương.

Tổng số tiền Trương Văn Cam đã nhận “ phí ngoại giao” từ các sòng bạc nộp về là 398.000.000 đồng, là khoản tiền để mua chuộc, hối lộ cho một số cán bộ thuộc các đơn vị chức năng phòng chống tội phạm cấp thành phố. Trương Văn Cam khai đã sử dụng hết số tiền 398.000.000 đồng để đưa hối lộ và chi ăn nhậu với một số cán bộ chức năng của Công an thành phố (BL: V4 T74: 4). Trong đó đưa cho Dương Minh Ngọc, nguyên trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM 10 triệu đồng, và “bao” Dương Minh Ngọc ăn nhậu trị giá 20 triệu đồng.

Ngoài ra, Trương Văn Cam còn chỉ đạo cho Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Khánh Quốc lấy tiền từ sòng bạc để đưa hối lộ cho một số cán bộ có chức năng phòng chống tội phạm ở cấp phường quận, nơi mở sòng bạc với tổng số tiền là 501.000.000 đồng.

Như vậy theo chỉ đạo của Trương Văn Cam, tổng số tiền đã lấy từ tiền xâu của sòng bạc xóc đĩa để đi đưa hối lộ là 899.000.000 đồng.

Tổng cộng, Trương Văn Cam đã có hành vi đưa hối lộ số tiền 10.000 USD và 899.000.000đ và chịu trách nhiệm về việc cùng vợ con đưa hối lộ số tiền 75.000 USD và 20 triệu đồng (Hiệp trực tiếp đưa cho Thuyết).

Ngoài ra, Trương Văn Cam khai còn dùng tiền để bao ăn nhậu và đưa tiền cho một số cán bộ khác gồm công an, quân đội, viện kiểm sát, nhà báo nhằm bao che cho hành vi phạm tội của y và đồng bọn. Số tiền này lên đến hàng tỷ đồng, trong đó Trương Văn Cam khai đưa cho Nguyễn Mạnh Trung, nguyên phó thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM 70 triệu đồng; Dương Minh Ngọc – nguyên trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM 80 triệu (mới chứng minh được Dương Minh Ngọc có nhận 10 triệu đồng và vật chất khác trị giá 6 triệu đồng); Hoàng Linh, nguyên phóng viên báo Tuổi Trẻ 75 triệu và 8 chỉ vàng; Quang Thắng, nguyên phó tổng thư ký báo Công An TP HCM 8 triệu... Lời khai của Trương Văn Cam là có căn cứ, trong đó có một số bị can là cán bộ công an bị khởi tố về tội nhận hối lộ tại quận 8 đã nhận tội. Tuy nhiên việc đưa tiền chỉ có Trương Văn Cam và những người nhận tiền biết, không có nhân chứng nên việc điều tra gặp nhiều khó khăn. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã khởi tố các đối tượng nhận tiền của Trương Văn Cam về các tội danh khác nhau để xử lý. Do thời hạn điều tra đã hết, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ các hành vi nhận hối lộ của một số trường hợp khác để xử lý sau.
 
Như vậy, Trương Văn Cam đã phạm vào 7 tội danh:

- Tội giết người với vai trò chủ mưu, tội danh được quy định tại điểm o, khoản 1, điều 93 BLHS.

- Tội cố ý gây thương tích với vai trò chủ mưu, tội danh được quy định tại khoản 3, điều 104 BLHS.

- Tội tổ chức đánh bạc với vai trò chủ mưu, tội danh được quy định tại khoản 2, điều 249 BLHS.

- Tội đánh bạc, tội danh được quy định tại khoản 2, điều 248 BLHS.

- Tội đưa hối lộ với vai trò chủ mưu, tội danh được quy định tại khoản 4, điều 289 BLHS.

- Tội che giấu tội phạm, tội danh được quy định tại điều 313 BLHS.

- Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, tội danh được quy định tại khoản 1, điều 275-BLHS.

Tài sản và vật chứng thu giữ:

- 1 xe Spacy

- 246.000.000 đồng

- Vật chứng tạm giữ: 870.538.128 đồng trong đó có 166.152.000 đồng (tương đương 12.000 USD) là của Trương Văn Cam và Tống Viết Hòa thế chân để thuê mặt bằng số 5 Công trường Mê Linh quận 1 do Công ty Dịch vụ Du lịch Bến Thành nộp.

- 28.020 USD

- 17 lượng vàng SJC

- 2 CPU vi tính

- 11 thùng rượu

- 356 gói thuốc lá ngoại

- 2 điện thoại di động Nokia 8210

- 1 đồng hồ đeo tay

- 2 kính đeo mắt

- 4 bộ bài tây

- 11 côn nhị khúc

- 5 chìa khoá

Tài sản kê biên:

- 9 tivi 29 inch

- 1 máy phát điện

- 31 máy lạnh

- 3 căn nhà

- 7.970 m2 đất

Kê biên tài sản:

Khung sườn nhà của nhà hàng Ra Khơi, trong đó Trương Văn Cam 50%, Tống Viết Hòa 50%. Ngày 7/6/2002, Cơ quan An ninh Điều tra Công an TP HCM có công văn số 768-CV/PA24 đề nghị Sở Tài chánh Vật giá TP HCM giám định giá trị còn lại của vật kiến trúc xây dựng nhà hàng Ra Khơi trên nền đất số 5 Công trường Mê Linh, quận 1. Ngày 11/7/2002, Sở Tài chính Vật giá TP HCM có văn bản số 2309/TCVG-BVG trả lời kết quả giám định giá trị còn lại của nhà hàng Ra Khơi là 704.386.128 đồng (bảy trăm lẻ bốn triệu ba trăm tám mươi sáu nghìn một trăm hai mươi tám). Ngày 24/7/2002, Công ty Dịch vụ du lịch Bến Thành đã nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 704.386.128 đồng (bảy trăm lẻ bốn triệu ba trăm tám mươi sáu ngàn một trăm hai mươi tám). Cơ quan điều tra đã ra quyết định hủy bỏ lệnh kê biên tài sản (nhà hàng Ra Khơi, số 5 Công trường Mê Linh, quận 1) của Trương Văn Cam, giao cho Công ty Dịch vụ du lịch Bến Thành sử dụng.

Theo lời khai của Trương Văn Cam thì tổng giá trị tài sản của Năm Cam gồm nhà, đất, các cổ phần kinh doanh khoảng 25 tỷ đồng.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 36): Lý lịch 3 kẻ thực hiện vụ bắn chết Dung Hà

Qua chỉ đạo của Năm Cam, Nguyễn Tuấn Hải đã mượn súng và tổ chức cho Nguyễn Việt Hưng và Nguyễn Xuân Trường (hai sát thủ ở Hà Nội) bắn chết Vũ Hoàng Dung (trùm xã hội đen gốc Hải Phòng, người muốn gây thanh thế ở TP HCM để vượt mặt Năm Cam), vào rạng sáng 2/10/2000.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

2. Bị can Nguyễn Tuấn Hải (Hải "Bánh")

a. Lý lịch bị can:

- Sinh ngày 7/11/1967 tại Hà Nội

- Đăng ký hộ khẩu thường trú: 36 Hàng Cót, Hàng Mã, Hà Nội

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 8/12

- Cha: Nguyễn Văn Bánh

- Mẹ: Trần Thị Thân

- Vợ: Nguyễn Hồng Hà, sinh 1970

- Con: 1 con gái, sinh 1990

b. Quá trình hoạt động:

Từ nhỏ ở với gia đình, học đến lớp 8 (1982) nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình. Từ 1982, làm nghề thợ hàn. Ngày 19/9/1984 bị Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội bắt về tội trộm cắp tài sản công dân. Ngày 12/5/1985 bị Công an quận Hoàn Kiếm bắt về tội cố ý gây thương tích. Ngày 10/12/1985 bị Công an Hà Nội bắt về tội cố ý gây thương tích, bị TAND Hà Nội xử phạt 42 tháng tù có thời hạn (số 254/PT ngày 12/9/1986). Năm 1987-1990 làm thợ hàn và phụ giúp gia đình. Ngày 20/6/1990, bị Công an Ba Đình, Hà Nội bắt về tội trộm cắp tài sản công dân. Ngày 15/5/1991, bị Công an quận Hoàn Kiếm bắt về tội trộm cắp tài sản công dân, bị TAND quận Ba Đình xử phạt 24 tháng tù giam (số AS 248/ST ngày 30/11/1991). Ngày 22/6/1996, bị Công an Hoàn Kiếm bắt về tội gây rối trật tự công cộng, bị TAND Hà Nội xử phạt 33 tháng tù (số 513 ngày 6/5/1996). Tháng 7/2000, vào sống tại 21 Thủ Khoa Huân, Bến Thành, quận 1, TP HCM. Ngày 29/5/2001, bị Công an TP HCM bắt về tội gây rối trật tự công cộng.

- Tiền án: 3

- Tiền sự: 4

- Tạm giam: 29/5/2001

c. Hành vi phạm tội:

Nguyễn Tuấn Hải là đối tượng hình sự phạm tội chuyên nghiệp, có nhiều tiền án, tiền sự, chuyên thực hiện các hành vi bảo kê các nhà hàng, vũ trường ở Hà Nội, là một trong những đàn em tin cậy của Trương Văn Cam.

Tháng 8/2000, Nguyễn Tuấn Hải vào TP HCM được Trương Văn Cam giúp đỡ cho làm bảo kê vũ trường Phi Thuyền tại 34 Tôn Đức Thắng, quận 1, TP HCM, mỗi tháng Trương Văn Cam cho Nguyễn Tuấn Hải 10.000.000 đồng và cho tiền làm vốn mở tiệm uốn tóc. Trong thời gian này, Vũ Hoàng Dung (Dung Hà) cũng là đàn em của Trương Văn Cam ở Hải Phòng vào TP HCM đã thường xuyên tổ chức quậy phá ở một số điểm nhằm gây thanh thế tại TP HCM. Biết được những sự việc trên, Trương Văn Cam rất bực tức, đã gọi điện cho Nguyễn Tuấn Hải yêu cầu Hải gặp Vũ Hoàng Dung để dàn xếp chấm dứt tình trạng Vũ Hoàng Dung quậy phá, Nguyễn Tuấn Hải cũng đã gặp Vũ Hoàng Dung trao đổi, nhưng Dung không nghe và đưa ra nhiều điều kiện bắt Trương Văn Cam và Nguyễn Tuấn Hải phải thực hiện. Do đó, Trương Văn Cam đã chỉ đạo cho Nguyễn Tuấn Hải tổ chức bắn chết Dung Hà. Thực hiện sự chỉ đạo của Trương Văn Cam, Nguyễn Tuấn Hải đã mượn súng của Lưu Tấn Nhơn và tổ chức cho hai đàn em thân tín là Nguyễn Việt Hưng và Nguyễn Xuân Trường thực hiện việc bắn chết Vũ Hoàng Dung vào lúc 0h25' ngày 2/10/2000. Trước Cơ quan điều tra, Nguyễn Tuấn Hải đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của y và đồng bọn.

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ thu thập được, lời khai nhận tội của Nguyễn Tuấn Hải và đồng bọn đã có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Tuấn Hải đã phạm tội giết người, tội danh được quy định tại điểm O, khoản 1, điều 93 BLHS và tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, tội danh được quy định tại điều 230 BLHS nước CHXHCN Việt Nam với vai trò tổ chức thực hiện. Tuy nhiên trong quá trình khai thác, Nguyễn Tuấn Hải đã tự giác khai báo, tố cáo hoạt động phạm tội của Trương Văn Cam và đồng bọn giúp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra triệt phá toàn bộ băng nhóm tội phạm do Trương Văn Cam cầm đầu nên trong quá trình xét xử cũng cần được xem xét.

Ngoài ra Nguyễn Tuấn Hải cũng đã khai nhận toàn bộ hành vi cố ý gây thương tích (dùng 3 chiếc đĩa đựng thức ăn đập vào đầu anh Lê Quang Hiếu tại quán ăn Tân Hải Vân vào lúc 0h30' ngày 24/5/2001 gây thương tích 5%). Hành vi của Nguyễn Tuấn Hải đã phạm vào tội cố ý gây thương tích, có tính chất côn đồ, hung hãn, tội danh được quy định tại điểm i, khoản 1, điều 104 BLHS. Ngày 1/6/2001, Cơ quan Cảnh sát điều tra quận 1 TP HCM khởi tố Nguyễn Tuấn Hải về tội gây rối trật tự công cộng. Ngày 10/8/2002, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã thay đổi tội danh đối với Nguyễn Tuấn Hải từ tội gây rối trật tự công cộng sang tội cố ý gây thương tích để kết luận và đề nghị xét xử.

Như vậy, Nguyễn Tuấn Hải đã phạm vào 3 tội:

- Tội giết người, tội danh được quy định tại điểm O, khoản 1, điều 93 BLHS.

- Tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điểm i, khoản 1, điều 104 BLHS.

- Tội tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, tội danh được quy định tại điều 230 BLHS.

3. Bị can Nguyễn Việt Hưng (Hưng "Chùa", Hưng "Phinhon")

a. Lý lịch bị can:

- Sinh năm 1974 tại Hà Nội

- Đăng ký hộ khẩu thường trú: 9A Lê Quý Đôn, Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 10/12

- Con ông: Nguyễn Huy Tuyền, sinh 1942

- Con bà: Kim Thị Ngọc Hồng, sinh 1949

b. Quá trình hoạt động:

Còn nhỏ ở nhà với gia đình, học hết lớp 10 thì nghỉ, nghiện ma túy. Ngày 21/9/1995 bị Công an quận Hoàn Kiếm bắt về tội cướp tài sản công dân, Tòa án Hà Nội xử 20 tháng tù (số 397/ST ngày 7/5/1996), được tha về ngày 3/5/1997. Năm 1999 vào TP HCM sinh sống, không nghề nghiệp, sống lang thang và nghiện ma túy. Ngày 20/4/2001 phạm tội giết người, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra quyết định truy nã, đến ngày 31/1/2002 thì bị bắt.

- Tiền án: 1

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 31/1/2002

c. Hành vi phạm tội:

Tháng 8/2000, Nguyễn Việt Hưng vào TP HCM được Nguyễn Hoàng Phát (Phát "Con") cưu mang và bố trí nơi ở tại chung cư Nguyễn Thiện Thuật, quận 3. Hưng và Phát đều là đàn em tin cậy của Nguyễn Tuấn Hải (Hải "Bánh").

Khoảng 24h ngày 29/9/2000, sau khi Vũ Hoàng Dung cho đàn em quậy phá vũ trường Phi Thuyền, Nguyễn Tuấn Hải điện vào máy di động của Nguyễn Thế Phát nhắn Hưng và Trường lên vũ trường Phi Thuyền có việc cần nhờ. Trường và Hưng mượn xe của Phát đến vũ trường Phi Thuyền nhưng không gặp Nguyễn Tuấn Hải, Trường điện cho Nguyễn Tuấn Hải thì Nguyễn Tuấn Hải nói đến quán ăn Tân Hải Vân ở 162 Nguyễn Trãi, quận 1, TP HCM. Khi Trường và Hưng gặp Nguyễn Tuấn Hải tại quán ăn Tân Hải Vân, Nguyễn Tuấn Hải nói “bây giờ đi tìm bọn Dung Hà”. Cả bọn gồm Nguyễn Tuấn Hải, Hưng, Trường, Long "Tây" đi trên xe Toyota (Nguyễn Tuấn Hải mượn của vũ trường Phi Thuyền) do Long tây lái đi tìm Dung Hà. Ngồi trên xe, Hưng thấy Nguyễn Tuấn Hải đưa cho Trường 1 khẩu Rulo, Nguyễn Tuấn Hải cầm 1 khẩu súng Col 45. Đi tìm một số nơi không thấy Dung Hà, đêm đó cả bọn về nhà nghỉ. (BL:V1 T4: 518)

Đêm ngày 30/9/2000, tại phòng ngủ, Trường nói với Hưng “anh Hải nhờ tôi và ông bắn Dung Hà”. Hưng hỏi lại “ý ông thế nào”, Trường nói “việc này chỉ có tôi và ông biết, anh Hải nhờ thì mình phải làm thôi”. (BL: V1 T4: 519)

Ngày 1/10/2000, Hưng và Trường lên tiệm uốn tóc của Hải từ lúc 19h. Khoảng 20h, Hải gọi Hưng lên gác đưa khẩu súng Rulo và 6 viên đạn, hướng dẫn cho Hưng cách thao tác và cho xem ảnh Dung Hà. Sau đó cả bọn gồm: Nguyễn Tuấn Hải, Long "Tây", Anh Thư, Hưng, Trường đến vũ trường Phi Thuyền uống rượu. Hưng uống 1 ly thì gục xuống bàn ngủ. Đến khoảng hơn 23h, Hải gọi Hưng dậy, đưa điện thoại của Long "Tây" cho Hưng, lấy chìa khóa xe Spacy của Anh Thư đưa cho Trường để Trường và Hưng đi bắn Dung Hà. Trường chở Hưng đi từ vũ trường Phi Thuyền về ngã 6 Phù Đổng, đến ngã ba Cách Mạng Tháng Tám - Bùi Thị Xuân thì rẽ trái. Đi qua số nhà 17 Bùi Thị Xuân không nhìn thấy Vũ Hoàng Dung, Trường lái xe chạy đến cây xăng trên đường Bùi Thị Xuân. Khi quay lại phát hiện được Vũ Hoàng Dung đang ngồi uống nước với bốn người khác, Trường nói “Dung Hà kìa” và cho xe chạy ra đường Cách mạng Tháng Tám, cách ngã ba Cách Mạng Tháng Tám - Bùi Thị Xuân 50 m phía bên phải đường (hướng đi quận 1) thì dừng lại. Hưng xuống xe cho súng vào túi quần bên phải, hai tay bỏ vào hai túi quần đi bộ về phía Vũ Hoàng Dung ngồi. Khi đến sát chỗ Dung ngồi thì kê súng sát vào đầu Dung, từ trái qua phải, từ trên xuống dưới cách khoảng 20 cm bóp cò. Súng nổ, Vũ Hoàng Dung gục xuống, Hưng chạy ra chỗ Trường nhảy lên xe chạy trốn. Trường cho xe chạy ngược chiều vào đường Nguyễn Du, đi lòng vòng đến nhà hàng ABC ở đường Nguyễn Đình Chiểu thì dừng lại cho Hưng xuống đi taxi về nhà trọ. Khi về đến nhà trọ, Hưng thay quần áo, kiểm tra thấy súng còn 5 viên đạn và 1 cát tút đạn. Sau đó điện thoại cho Phát "Con" gọi Phát về nói rõ toàn bộ nội dung sự việc cho Phát biết và nhờ Phát chở đi vứt súng tại một cây cầu trong địa bàn TP HCM nhưng không nhớ cụ thể.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và lời khai nhận tội của các bị can đã có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Việt Hưng là kẻ trực tiếp dùng súng bắn chết Vũ Hoàng Dung vào lúc 0h25' ngày 2/10/2000 theo lệnh của Trương Văn Cam và Nguyễn Tuấn Hải. Trong quá trình đấu tranh khai thác, Nguyễn Việt Hưng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Hành vi của Nguyễn Việt Hưng đã phạm vào tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, tội danh được quy định tại điểm O, khoản 1, điều 93 và điều 230 BLHS nước CHXHCN Việt Nam.

4. Bị can Nguyễn Xuân Trường (Trường "Xoăn")

a. Lý lịch bị can:

- Sinh năm 1974 tại Hà Nội

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: 28 tổ 7, Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Cha: Nguyễn Xuân Vương

- Mẹ: Đặng Thị Hồng

- Vợ: Đỗ Thiên Hương, sinh 1979

- Con: 1 con trai, sinh 1997

b. Quá trình hoạt động:

Còn nhỏ sống cùng gia đình ở 13 Hàng Hành, Hà Nội. Đến năm 1995 cùng gia đình chuyển đến 28 tổ 7, Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngày 29/11/1994, Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội bắt về tội gây rối trật tự công cộng. Ngày 20/6/1997, Công an quận Hoàn Kiếm bắt về tội cố ý gây thương tích, TAND Hoàn Kiếm xử phạt 10 tháng tù treo (số 131 ngày 6/5/1998). Ngày 2/10/2001, phạm tội giết người, Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an ra lệnh truy nã. Ngày 11/1/2002, ra đầu thú tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an.

- Tiền án: 1 Tiền sự: 1

- Tạm giam: 11/1/2002

c. Hành vi phạm tội:

Nguyễn Xuân Trường là đàn em thân tín của Nguyễn Tuấn Hải và Nguyễn Thế Phát. Ngày 3/9/2000, Trường vào trông coi quán nhậu “Cây khế” của Phát ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, TP HCM và ở tại chung cư trên đường Nguyễn Thiện Thuật, quận 3 do Phát thuê.

Khoảng 24h ngày 29/9/2000, Trường và Hưng đang ở tại nhà trọ tại chung cư Nguyễn Thiện Thuật thì được Nguyễn Thế Phát nhắn lại là Nguyễn Tuấn Hải gặp có việc cần. Trường và Hưng mượn xe máy của Phát đến vũ trường Phi Thuyền nhưng không gặp Nguyễn Tuấn Hải. Trường đến điện thoại công cộng điện vào máy của Nguyễn Tuấn Hải được biết Nguyễn Tuấn Hải đang ăn đêm ở quán Tân Hải Vân. Đến nơi, Trường và Hưng thấy Nguyễn Tuấn Hải, Long "Tây", Anh Thư, và 3-4 người khác đang ăn tối. Trường và Hưng cùng ngồi ăn uống chung. Trong khi ăn, Nguyễn Tuấn Hải có nói về việc Dung Hà cho đàn em đến quậy phá vũ trường Phi Thuyền và yêu cầu cả bọn gồm Trường, Hưng, Long "Tây" lên xe Toyota 4 chỗ do Long "Tây" lái đi tìm Dung Hà để trả thù. Trên xe Nguyễn Tuấn Hải đưa cho Trường 1 khẩu Rulo còn Nguyễn Tuấn Hải cầm 1 khẩu súng Col 45. Tìm một số nơi không thấy Dung Hà, cả bọn về nhà nghỉ.

Ngày 30/9/2000, Nguyễn Tuấn Hải chính thức nói với Trường là nhờ Trường và Hưng bắn Dung Hà. Ngay trong đêm, Trường đã bàn bạc việc này với Hưng tại nhà trọ ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật.

Ngày 1/10/2000, Trường và Hưng đến tiệm hớt tóc của Nguyễn Tuấn Hải tại 21 Thủ Khoa Huân, cả bọn ăn cơm tối tại đây và Nguyễn Tuấn Hải đưa súng Rulo cho Hưng đồng thời hướng dẫn cách sử dụng. Sau đó Nguyễn Tuấn Hải, Long tây, Anh Thư, Trường, Hưng kéo nhau đến vũ trường Phi Thuyền uống rượu chờ xem băng Vũ Hoàng Dung có đến quậy tiếp không. Khoảng 23h30' không thấy băng Vũ Hoàng Dung đến, Nguyễn Tuấn Hải gọi Hưng dậy đưa chìa khóa xe Spacy của Anh Thư và điện thoại của Long tây cho Trường. Trường chở Hưng đi từ vũ trường Phi Thuyền đến trước số nhà 17 Bùi Thị Xuân, chạy qua lại quán bar của Vũ Hoàng Dung 1-2 lần thì Trường Phát hiện thấy Dung ngồi trước quán bar cùng 4 người khác. Trường nói với Hưng “Dung Hà kìa” và cho xe chạy ra đầu đường Cách Mạng Tháng Tám cách ngã ba Cách Mạng Tháng Tám - Bùi Thị Xuân khoảng 50 m thì dừng lại nói “đưa súng đây để tôi vào bắn” nhưng Hưng không đồng ý và nói “để tôi, ông đã có vợ con rồi’.

Hưng đi bộ đến chỗ Vũ Hoàng Dung ngồi, một lúc sau thì Trường nghe tiếng súng nổ, Hưng chạy ra nhảy lên xe nói “tôi bắn nó chết rồi, đi nhanh”, Trường cho xe chạy đường Nguyễn Du (ngược chiều) đến chỗ nhà hàng ABC đường Nguyễn Đình Chiểu thì dừng, Hưng xuống đi taxi còn Trường vào một quán bán trứng vịt lộn trên đường Trần Quốc THảo gọi điện cho Nguyễn Tuấn Hải báo là Hưng đã bắn chết Dung Hà và bảo Hải đến lấy xe, Chờ một lúc sau thì Lưu Bạch Đằng (Đằng "Tây") chở Lâm. Long "Tây" trên một xe Honda khác đến lấy xe Spacy và điện thoại. Sau đó Đằng chở Trường về nhà trọ Nguyễn Thiệt Thuật gặp Phát, Hưng tại đây và được Phát chở đến nhà bạn của Phát ở quận 7 ngủ đêm tại đó. (BL: V1 T4: 520-521)

Như vậy, trong vụ án giết Dung Hà, Nguyễn Xuân Trường đã có vai trò giúp sức đắc lực cho Nguyễn Tuấn Hải và cùng với Hưng tích cực thực hiện hành vi phạm tội.

Trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra, Trường có thái độ ngoan cố, không chịu khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã thu thập được và lời khai của đồng bọn có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Xuân Trường phạm vào tội Giết người, tội danh được quy định tại điểm O, khoản 1, điều 93 BLHS với vai trò giúp sức.

Nguyễn Xuân Trường là đối tượng hình sự chuyên nghiệp, ngoài hành vi tổ chức bắn chết Vũ Hoàng Dung, đã có hành vi cùng đồng bọn dùng dao chém liên tiếp gây thương tích nặng cho anh Nguyễn Đình Phong tại 261 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội vì những lý do mâu thuẫn rất nhỏ nhặt, thể hiện tính côn đồ hung hãn, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Hành vi cố ý gây thương tích của Trường đã được Công an thành phố Hà Nội điều tra, kết luận và xử lý riêng.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 37): Lý lịch 3 bị can che giấu kẻ bắn chết Dung Hà

Lưu Tấn Nhơn đã cho Nguyễn Tuấn Hải mượn súng Rulo để tổ chức bắn Dung Hà theo lệnh của Năm Cam. Nguyễn Anh Thư (bồ của Hải) cùng Lê Duy Long cùng biết rõ kế hoạch này. Vụ án xảy ra, cả ba biết kẻ nào là thủ phạm song không tố giác với cơ quan chức năng.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

5. Bị can Lưu Tấn Nhơn (Lưu Bạch Đằng, Đằng "Tây")

a. Lý lịch bị can:

- Sinh năm 1963 tại Hà Nội

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: 56 Nguyễn Phi Khanh, Tân Định, quận 1, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 12/12

- Cha: Lưu Chi Lăng (chết)

- Mẹ: Ngô Ngọc Ba, sinh 1933

b. Quá trình hoạt động:

Từ 1963-1975 sống cùng cha mẹ tại Hà Nội, học tại trường Quang Trung và trường Văn Chương. Năm 1975-1980 chuyển vào TP HCM sống tại số 56 Nguyễn Phi Khanh, quận 1, TP HCM, học hết lớp 12, sau đó học trường trung cấp đường sông thuộc xí nghiệp vận tải, quản lý tàu trực thuộc Tổng công ty vận tải sông Cửu Long. Năm 1981-1984 đi hợp tác lao động tại Bulgaria. Năm 1985-1987 là công nhân xí nghiệp xây dựng công trình cảng Bến Nghé TP HCM. Năm 1988-1992 đi học và làm thủy thủ tàu viễn dương cho xí nghiệp VietTransimex trực thuộc công ty xuất nhập khẩu thiết bị phụ tùng của Bộ GTVT. Từ 1993 đến nay ở nhà, buôn bán. Năm 1998, bị Công an quận 1 TP HCM phạt hành chính 500.000 đồng về hành vi đánh nhau gây mất trật tự công cộng.

- Tiền sự: 1

- Tạm giam: 12/12/2001

c. Hành vi phạm tội:



Năm 1991, Lưu Tấn Nhơn là thủy thủ tàu VietTransimex số 1 thuộc Công ty XNK thiết bị phụ tùng Bộ GTVT. Lúc tàu đi sang Campuchia, Nhơn có mua 1 khẩu súng Rulo nòng ngắn khoảng 15 cm và 6 viên đạn với giá 6 phân vàng 24K và cất giữ từ đó. Khoảng đầu tháng 9/2000 Nguyễn Tuấn Hải (Hải "Bánh") mở tiệm uốn tóc tại 21 Thủ Khoa Huân, phường Bến Thành, quận 1, TP HCM có đến nhà Lưu Tấn Nhơn tại 56 Nguyễn Phi Khanh, phường Tân Định, quận 1, TP HCM hỏi mượn khẩu súng này và nói để dọa bọn lưu manh đến tiệm uốn tóc của Hải quậy phá. Vì nể tình bạn bè nên Lưu Tấn Nhơn đã đồng ý cho Nguyễn Tuấn Hải mượn. (BL: V1 T6: 667)

Sau này Nhơn mới biết Nguyễn Tuấn Hải dùng khẩu súng của Nhơn để cho đàn em là Hưng và Trường bắn Dung Hà nhưng sợ không dám tố giác. Nhơn cũng khai nhận: Sau khi giết chết Vũ Hoàng Dung, Nguyễn Tuấn Hải có điện thoại cho Nhơn đến đầu đường Lê Văn Sỹ - Trần Quốc Thảo lấy xe và điện thoại do Trường đang sử dụng. Lúc đầu Nhơn kêu mệt nhưng vì Nguyễn Tuấn Hải năn nỉ quá nên Nhơn đã chở Lê Quốc Lâm ra điểm hẹn gặp Trường nhận xe, điện thoại. Khi đi Nhơn có gặp Long "Tây" trước cửa vũ trường Phi Thuyền, sau đó Nhơn, Lâm và Long "Tây" ra chỗ Trường hẹn. Khi gặp Trường, Lâm lấy xe Spacy đưa về quán cà phê Ca Dao 38 Lý Tự Trọng, quận 1, TP.HCM cất giữ. Long lấy điện thoại và cùng với Nhơn đưa Trường về nhà trọ ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Sáng hôm sau Long "Tây" đến quán cà phê Ca Dao lấy xe trả về 21 Thủ Khoa Huân cho Nguyễn Tuấn Hải. (BL: V1 T6: 667 - 668)

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, lời khai nhận tội của Lưu Tấn Nhơn và đồng bọn đã có đủ cơ sở kết luận Lưu Tấn Nhơn đã phạm tội che giấu tội phạm và tội tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tội danh được quy định tại điều 313 và 230 BLHS nước CHXHCN Việt Nam.

Như vậy, Lưu Tấn Nhơn đã phạm vào hai tội:

- Tội che giấu tội phạm (điều 313 BLHS)

- Tội tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng (điều 230 BLHS)

Tài sản và vật chứng thu giữ:

- 3 điện thoại di động Nokia

- 1 CPU máy vi tính

- 1 xe gắn máy hiệu Spacy màu xám, biển số 53S6 - 3637, số máy JF 04E - 2036230, số khung JF 04 - 1102052

- 1 xe Toyota nhãn hiệu CELICA có nguồn gốc nhập lậu.

6. Bị can Nguyễn Thị Anh Thư

a. Lý lịch bị can:

- Sinh ngày 9/10/1978 tại TP HCM

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: 1/4 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 9/12

- Cha: Nguyễn Văn Tòng

- Mẹ: Nguyễn Thị Bạch Tuyết

- Chồng: Trịnh Văn Thanh (đã ly dị)

- Con: 1 con, sinh 1998

b. Quá trình hoạt động:

Năm 1978-1993 ở với gia đình tại 1015 Trần Hưng Đạo, phường 15, quận 5, học trường Kim Đồng, Ba Đình, quận 5. Năm 1993-1997 học hết lớp 9 nghỉ, phụ gia đình buôn bán tại chợ An Đông, quận 5. Năm 1997 lấy chồng (không đăng ký), ngụ tại 1/4 cư xá Lữ Gia. Năm 1999 đến 12/12/2001 làm tiếp viên tại Karaoke Sài Gòn Bring, sau đó làm quản lý tại tiệm uốn tóc 21 Thủ Khoa Huân, Bến thành, quận 1.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 12/12/2001

c. Hành vi phạm tội:

Thư quen Nguyễn Tuấn Hải vào khoảng tháng 6/2000 tại vũ trường Phương Đông, quận 1, TP HCM. Ngày 8/9/2000 Hải khai trương tiệm uốn tóc “Vân’s” tại số 21 Thủ Khoa Huân, Bến Thành, quận 1 và nhận Thư vào làm tại tiệm với nhiệm vụ là quản lý thợ và tiếp khách, tiền công mỗi tháng 2.500.000 đồng. Từ đó Hải và Thư sống với nhau như vợ chồng. Trong đêm 1/10/2000 (đêm xảy ra vụ án Dung Hà), Thư cùng Hải và Long "Tây" đi đến vũ trường Phi Thuyền chơi. Khoảng thời gian từ 22h30' đến 1h ngày 2/10/2000, Nguyễn Tuấn Hải có mượn xe của Thư đưa cho Hưng và Trường đi đâu không rõ, đồng thời trong thời điểm này Hải cũng mượn điện thoại của Thư để thực hiện nhiều cuộc gọi đi các nơi. Song Thư không biết Hải điện cho ai, nội dung nói gì. Khi vụ án Vũ Hoàng Dung xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP HCM đã gọi Thư đến làm việc nhiều lần. Lúc đó, Thư biết là Nguyễn Tuấn Hải cho đàn em giết Vũ Hoàng Dung, nhưng và sợ không dám tố giác. (BL: V1 T7: 769 - 770)

Hành vi của Nguyễn Thị Anh Thư đã phạm tội không tố giác tội phạm, tội danh được quy định tại điều 314 BLHS nước CHXHCN Việt Nam.

Tài sản và vật chứng thu giữ:

- 1 điện thoại di động Nokia 8250

- 1 xe Spacy màu trắng, biển số 52H1 - 3321, số khung JF - 1032096, số máy JF04 - 2033345

- 1 xe mô tô hiệu Honda, biển số 50H - 0421, số máy 5431, số khung 0431 (đã trả cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết ở 1/4 cư xá Lữ Gia, phường 15, quận 11, TP HCM.

7. Bị can Lê Duy Long (Long "Tây")

- Sinh năm 1976 tại Hà Nội

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: F52 B19, phường Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

- Dân tộc: Tày

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 12/12

- Con ông: Lê Duy Ân, sinh 1946

- Con bà: Dương Ngọc Huệ, sinh 1946

b. Quá trình hoạt động:

Năm 1976-1984 ở với gia đình, học hết lớp 12. Tháng 9/1994, phạm tội gây rối trật tự công cộng và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bị Tòa án TP Hà Nội xử 36 tháng tù giam (ngày 22/7/1995). Ngày 27/3/1999 đánh bạc, bị công an quận Đống Đa bắt, khởi tố tại ngoại, sau đó cảnh cáo tha. Ngày 25/11/1999, gây rối trật tự công cộng, Công an quận Hoàn Kiếm bắt, sau đó đình chỉ điều tra.

- Tiền án: 1

- Tiền sự: 2

- Tạm giam: 21.12.2002

c. Hành vi phạm tội

Khoảng đầu tháng 9/2000, Lê Duy Long vào TP HCM ở với Nguyễn Tuấn Hải (Hải "Bánh") tại 21 Thủ Khoa Huân, quận 1, TP HCM được Nguyễn Tuấn Hải nuôi dưỡng và sai bảo. Trong thời gian này, Long chứng kiến việc Dung Hà cho đàn em đến quậy phá tiệm uốn tóc của Nguyễn Tuấn Hải và vũ trường Phi Thuyền. Tối 11/9/2000, Hải bảo Long "Tây" lấy xe Spacy màu trắng của Anh Thư (bồ Hải "Bánh") chở đến nhà Lưu Bạch Đằng (Đằng "Tây") ở 56 Nguyễn Phi Khanh, Tân Định, quận 1, TP HCM lấy “đồ” (súng).

Trong ba ngày (từ 29/9/2000 đến 1/10/2000), Long biết Trường, Hải, Hưng liên tục gặp nhau bàn bạc. Khoảng 24h ngày 29/9/2000, Hải mượn một xe ôtô hiệu Camry màu vàng, BKS: 52M - 9330 (xe của vũ trường Phi Thuyền) cùng Long, Trường, Hưng đi xác định nơi ở của Dung Hà. Long trực tiếp lái xe, trên xe Long nghe thấy Hưng nói với Hải “em chưa biết mặt con Dung Hà”, Hải trả lời “Dung Hà người thấp béo, tóc ngắn tỉa đuổi, nó chuẩn bị khai trương nhà mới xây và sẽ về đấy ở, để anh hỏi lại xem cụ thể thế nào”. Hưng bảo Nguyễn Tuấn Hải “lúc nào anh chỉ cho em nhà mới xây của nó ở đâu để em tính”. Khi Long điều khiển xe ôtô qua ngã ba Bùi Thị Xuân, Hải "Bánh" bảo Hưng, Trường “tầm tối, Dung Hà hay ngồi vỉa hè trước cửa quán karaoke hóng mát với mấy đứa đàn em của nó, chỉ có hai địa điểm đó thôi, tùy chúng mày tính”. Hưng liền nói “Thôi, để đấy em tính, chơi luôn nó ở nhà mới khai trương cho tiện”. Sau đó, Hải bảo Long lái xe đưa Hải, Hưng, Trường về 21 Thủ Khoa Huân. Long đem xe ôtô đến vũ trường Phi Thuyền trả xe, giao chìa khóa xe cho bảo vệ và đón taxi về nhà. Tối ngày 1/10/2000, Long "Tây" đến vũ trường Phi Thuyền uống rượu cùng Hải, Thư, Cường “Đồng”, Diệp (người yêu Cường). Nguyễn Tuấn Hải dặn Long “tý nữa Trường, Hưng đến, em đón chúng nó lên dãy bàn trên ngồi”. Khoảng 15 phút sau, Trường và Hưng đến, Long ra đón Trường và Hưng lên dãy bàn trên, phía trên bàn Nguyễn Tuấn Hải. Long, Trường và Hưng ngồi uống rượu Henessy và ăn hoa quả một lát thì Hải đi lên, gọi Trường và Hưng ra đầu lan can sàn thứ ba nói chuyện. Sau đó, Hải lấy điện thoại di động của Long đưa cho Trường (số 091320456), lấy xe Spacy của Anh Thư giao cho Trường và Hưng. Khoảng 0h30' ngày 2/10/2000, Long lấy xe Max đi về trước. Ra đến cổng vũ trường, Long gặp Đằng "Tây" và Lâm đang đi xe Dream II, Long gọi Đằng "Tây" và mượn điện thoại điện vào máy 091320456 tìm Trường. Sau đó Long cùng Đằng, Lâm đi hai xe máy đến chỗ Trường đang ngồi ở một quán bán trứng vịt tại đường Trần Quốc Thảo. Gặp Trường, Long lấy lại điện thoại và thấy mắt Trường đỏ ngầu, giọng nói run, mất bình tĩnh. Lâm lấy xe Spacy đưa về quán Ca Dao. Đằng "Tây" đưa Trường về nhà trọ. Sáng hôm sau, Long đến lấy xe đưa về 21 Thủ Khoa Huân trả cho Nguyễn Tuấn Hải. (BL: V1 T8: 810-811)

Ngày 2/10/2000, sau khi nghe tin Vũ Hoàng Dung bị bắn chết, Long "Tây" biết vụ án này do Nguyễn Tuấn Hải, Hưng, Trường gây ra nhưng sợ không dám tố giác.

Năm 2001, khi Long ở Hà Nội, Long thường xuyên gặp Trường, Hưng và đi chơi với nhau ở các tụ điểm như vũ trường Haleclub ở 64 Nguyễn Du, vũ trường New Century ở 10 Tràng Thi, Hà Nội. Ngày 21/12/2001, Long "Tây" bị Công an thành phố Hà Nội bắt về tội cố ý gây thương tích.

Qua đấu tranh xét hỏi, Long thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Hành vi của Lê Duy Long đã phạm vào tội không tố giác tội phạm, tội danh được quy định tại điều 314 BLHS nước CHXHCN Việt Nam. Trong đó hành vi không tố giác Nguyễn Tuấn Hải tràng trữ trái phép vũ khí quân dụng là tình tiết tăng nặng cần xem xét khi xét xử.

Ngoài ra, Long còn thừa nhận có hành vi cố ý gây thương tích cho anh Nguyễn Đăng Đức và Nguyễn Văn Thảo đúng như nội dung đã kết luận nêu ở phần nội dung vụ án. Hành vi của Long đã phạm vào tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điều 104 BLHS.

Như vậy, Lê Duy Long đã phạm vào 2 tội:

- Không tố giác tội phạm, tội danh được quy định tại điều 314 BLHS.

- Cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điều 104 BL
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 38): Lý lịch hai tên giết hại cảnh sát Phan Lê Sơn

Nguyễn Hữu Thịnh, cháu ruột Năm Cam, là kẻ chủ mưu, trực tiếp đâm cảnh sát hình sự Phan Lê Sơn và Hồ Phước Hưng. Phạm Văn Minh là người tích cực chuẩn bị hung khí, đâm nhiều nhát dao vào ngực gây nên cái chết của anh Sơn.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

8. Bị can Nguyễn Hữu Thịnh

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày 30/10/1977 tại TP HCM

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: 148/12/30/13 Tôn Đản, phường 8, quận 4, TP HCM.

- Chỗ ở: 41 Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3, TP HCM.

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Phật.

- Văn hóa: 12/12.

- Con ông: Nguyễn Văn Thọ (Thọ "Đại Úy"), sinh 1958, là bị can trong cùng vụ án, đang bị truy nã.

- Con bà: Lê Thị Điệu, sinh 1958.

b. Quá trình hoạt động bản thân

Từ nhỏ sống cùng cha mẹ tại 148/12/30/13 Tôn Đản, phường 8, quận 4, TP HCM. Năm 1997 học hết lớp 12/12 nghỉ học, buôn bán giúp việc cho gia đình tại 41 Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3, làm nghề buôn bán giày.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 31/1/2000

c. Hành vi phạm tội

Lúc 1h36’ ngày 27/1/2000, tại quán Cấm Chỉ (số 4, đường Hải Triều, quận 1), Phan Lê Sơn đã gây gổ, đánh Từ Anh Kiệt và Nguyễn Hữu Thịnh. Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ, nhưng với bản chất của tên côn đồ, lại là cháu của Trương Văn Cam, Nguyễn Hữu Thịnh đã tổ chức, lôi kéo đồng bọn: Gọi điện thoại di động cho Bùi Anh Việt (Bảy Việt) báo cho Bảy Việt biết cho người ra Hải Triều “giải quyết” việc bị đánh, lại được cha ruột của mình tích cực tham gia. Thịnh đã chuẩn bị hung khí (quay về quán 136 Nguyễn Thái Học lấy 2 con dao), phân phát cho đồng bọn.

Nguyễn Hữu Thịnh là tên trực tiếp gây nên cái chết của cả 2 nạn nhân. Là tên trực tiếp đâm, chém nạn nhân rất quyết liệt, dã man, nhằm tước đoạt bằng được sinh mạng của họ: Trực tiếp đâm 1 nhát dao vào bụng, là nguyên nhân gây cái chết của anh Hưng; đâm nhiều nhát vào vùng ngực, là những vị trí có các vết tử thương gây nên cái chết của Phan Lê Sơn.

Như vậy trong vụ án này, Nguyễn Hữu Thịnh là tên chủ mưu, cầm đầu và tích cực thực hiện hành vi phạm tội, nên mặc dù ra đầu thú nhưng với mục đích là đối phó với Cơ quan điều tra. Đến khi không còn chỗ dựa, chứng cứ rõ ràng, Nguyễn Hữu Thịnh mới chịu cúi đầu, khai nhận hành vi tội lỗi của mình và đồng bọn.

Hành vi của Nguyễn Hữu Thịnh đã phạm tội giết người, tội danh được qui định tại Điều 101-BLHS năm 1985.

9. Bị can Phạm Văn Minh

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1956 tại TP HCM

- Đăng ký nhân khẩu thường trú: N38 Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình, TP HCM.

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 9/12

- Con ông: Nguyễn Văn Sái (chết) con bà: Phạm Thị Hữu (chết)

- Vợ: Lê Thị Thu Hà (Hà "Trề"), sinh 1954, bị can cùng trong vụ án.

- Có 4 con (lớn sinh 1984 nhỏ sinh 1998).

b. Quá trình hoạt động

Từ nhỏ sống cùng cha mẹ tại TP HCM, học hết lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà học nghề thợ bạc. Năm 1974 đến tháng 1/1975, đi lính địa phương chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Từ tháng 8/1976 đến năm 1980 bị bắt tập trung cải tạo, sau khi ra trại về làm nghề đạp xích lô, làm thuê và không nghề cho đến nay.

* Tiền án, tiền sự

- Năm 1976 bị bắt tập trung cải tạo.

- Ngày 20/12/1985 phạm tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài bị Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang (cũ) xử phạt 18 tháng tù giam.

- Năm 1998, phạm tội tổ chức đánh bạc, bị truy nã. Tháng 3/2001 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, TP HCM phạt 18 tháng tù chưa thi hành án.

- Năm 1995, phạm tội đánh bạc. Tháng 4/2002, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 15 tháng tù giam, chưa thi hành án.

- Ngày 4/1/2002 bị Cơ quan An Ninh điều tra Công an TP HCM khởi tố về tội tổ chức đánh bạc, chưa xét xử.

- Tạm giam: 15/6/2000

c. Hành vi phạm tội

* Hành vi giết Phan Lê Sơn

Phạm Văn Minh (tức Minh "Bu") là tên tay chân thân cận đã có “số” (tiền án, tiền sự) của Nguyễn Văn Thọ (tức Thọ "Đại Úy") và Trương Văn Cam, được Thọ và Trương Văn Cam giao cho quản lý, tổ chức một số sòng bạc trong thành phố. Trong vụ án, mặc dù không bàn bạc trước với Nguyễn Hữu Thịnh, nhưng khi thấy tên đàn anh là Nguyễn Văn Thọ ra hiệu “đi”, Minh "Bu" đã hiểu ngay là phải đi đánh nhau cùng với Thọ và Thịnh. Y là kẻ tích cực chuẩn bị hung khí (dao), thực hiện hành vi phạm tội rất quyết liệt và tàn bạo: đâm nhiều nhát vào ngực, tạo ra những thương tích gây nên cái chết của Phan Lê Sơn.

Hành vi của Phạm Văn Minh đã phạm tội giết người qui định tại Điều 101 BLHS năm 1985 với vai trò là tên thủ ác tích cực thực hiện tội phạm.

* Hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc

Từ tháng 10/1999 đến tháng 1/2000, Phạm Văn Minh tham gia tổ chức đánh bạc tại 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8. Minh "Bu" cùng vợ là Lê Thị Thu Hà hùn vốn 100.000.000 đồng (một trăm triệu) và giữ vai trò lắc cái. Ngày 26/01/2000, Minh phạm tội trong vụ giết Phan Lê Sơn, bỏ trốn đến ngày 15/6/2000 bị bắt. Phần tiền hùn của Minh và Hà trong sòng bạc này vẫn giữ nguyên. Minh và Hà được Trương Văn Cam chia thêm một nửa phần tiền xâu để nuôi Minh "Bu". Tiền lời và tiền xâu được chia giao cho thị Hà. Tổng cộng 500.000.000 đồng. (BL: V4 T74: 14, 23)

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Phạm Văn Minh đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN.

Như vậy, Phạm Văn Minh đã phạm 3 tội:

- Tội giết người (điều 101 BLHS 1985).

- Tội tổ chức đánh bạc (điều 249 BLHS).

- Tội đánh bạc (điều 248 BLHS).

Kiến nghị Tòa án tổng hợp hình phạt của bản án của TAND quận Gò Vấp tuyên phạt 15 tháng tù giam và TAND quận Bình Thạnh xử 18 tháng tù giam đối với Phạm Văn Minh về hành vi tổ chức đánh bạc
 
Back
Bên trên