Năm Cam và đồng bọn.

56. Bị can Đào Quang Cường (Cường "Hải Phòng", Cường "Nghiện", Cường "Hiện")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1963 tại Hải Phòng

- ĐKHKTT: 181 Ngô Quyền, Vạn Mỹ, Ngô Quyền, Hải Phòng

- Chỗ ở: Từ 1998 đến 2001, không nơi ở nhất định

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Con ông: Đào Quang Hiện (sinh 1924) Con bà: Trần Thị Nhuật (sinh 1934)

- Vợ: Lưu Bích Hiền, sinh 1970.

- Có 2 con (lớn sinh 1984, nhỏ sinh 1989).

b. Quá trình hoạt động

Năm 1963-1979: Ở với cha mẹ và đi học tại Hải Phòng. Ngày 23/12/1979 bị Công an quận Ngô Quyền, Hải Phòng bắt giữ 6 ngày về hành vi trộm cắp. Ngày 15/4/1980 bị Công an quận Ngô Quyền, Hải Phòng bắt, bị tòa án xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội trộm cắp theo bản án số: 141/HSST ngày 28/8/1980. Ngày 25/2/1982 bị Công an quận Ngô Quyền - Hải Phòng bắt về hành vi cưỡng đoạt tài sản. Năm 1982-1996: Ở với cha mẹ, buôn bán tại Hải Phòng. Năm 1996-1997: Buôn lậu hàng điện tử bị Công an Hải Phòng bắt giữ hàng, Cường bỏ trốn. Năm 1997 Cường ra đầu thú, tạm đình chỉ điều tra. Ngày 31/10/1998 bị Công an Hà Nội bắt, xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc. Năm 1998-2001: Vào TP HCM tham gia tổ chức đánh bạc.

- Tạm giam: 9/10/2001

c. Hành vi phạm tội

Bị can Đào Quang Cường bị bắt quả tang trong sòng bạc, nhưng trong quá trình điều tra ngoan cố không khai nhận hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc. Căn cứ vào chứng cứ thu thập được (cuốn sổ ghi ăn chia tiền bạc thu tại sòng bạc) và lời khai của các bị can, có đủ căn cứ kết luận:

- Tại sòng bạc số 351A Khu phố 1, phường Phước Long A, quận 9: Đào Quang Cường thường xuyên cùng đi với Nguyễn Khánh Quốc đến đánh bạc trong thời gian khoảng 20 ngày, mỗi ván đặt cược từ 500.000 đến 3.000.000 đồng; góp vốn trong sòng bạc cùng với Nguyễn Khánh Quốc 25 triệu, được chia lời 10 triệu đồng. (BL số 11, 25 - V4 - tập 74)

- Tại sòng bạc 1102 đường Tự Lập, phường 4, Tân Bình, sau đó dời về 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8. Sòng bạc này do Nguyễn Khánh Quốc cùng Nguyễn Văn Nhã tổ chức, Cường góp vốn làm cái, số tiền ban đầu là 120 triệu đồng, sau đó tăng lên 190 triệu; và tham gia đánh bạc mỗi ván đặt tiền từ 500.000 đến 3.000.000 đồng, tham gia từ khi sòng bạc hoạt động cho đến khi bị bắt khoảng 30 ngày. (BL số 11, 25 - V4 - tập 74)

Căn cứ lời khai của Nguyễn Thị Kim Phượng: Phượng hùn vốn 10 triệu đồng ở sòng bạc 1102 Tự Lập, Tân Bình được chia lời 9 triệu và tại sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, quận 8 (tháng 10/2001) được chia lời 5.560.000 đồng. Như vậy Đào Quang Cường hùn vốn ban đầu tại 1102 Tự Lập lúc đầu 140 triệu, sau tăng lên 190 triệu đồng. Bình quân phần hùn của Cường là 150 triệu x 9 triệu đồng/phần là 135 triệu; tại sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, Cường được chia tiền lời là 190 triệu, tương đương 190 phần x 5.560.000 đồng/phần là 105.640.000 đồng. (BL: V4 T74: 19-28)

Tổng cộng Cường được chia tiền lời do đóng góp vốn trong sòng bạc là 250.640.000 đồng.

Tài sản của Đào Quang Cường bị tạm giữ tại sòng bạc (nhằm đảm bảo thi hành án) gồm: 1 dây chuyền vàng 18K/70% nặng 2,083 lượng có mặt dây chuyền bằng đá màu xanh nặng 0,596 lượng. Một lắc vàng nặng 1,963 lượng vàng 18K70%, một nhẫn kim loại màu trắng gắn hột đá có trọng lượng 2,47 chỉ, một đồng hồ đeo tay hiệu Rolex, 100.000 đồng; 1.500 USD và một điện thoại di động hiệu Nokia.

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Đào Quang Cường đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN
 
57. Bị can Trương Văn Lang (Chín "Đờn Cò")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1956 tại Long An

- ĐKNKTT: 12 Nguyễn Công Trứ, phường 19, Bình Thạnh, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 8/12

- Con ông: Trương Văn Táng (chết)

- Con bà Phạm Thị Bưng

- Vợ: Nguyễn Thị Tuyết Anh, sinh năm 1964

- Có 4 con (lớn nhất sinh năm 1975, nhỏ nhất sinh năm 1985)

b. Quá trình hoạt động

Năm 1956-1971: Còn nhỏ, đi học đến lớp 8/12 tại Long An. Năm 1971-1996: Làm nghề điện lạnh, lái xe tại TP HCM. Năm 1997-2001: Cổ đông công ty TNHH Vận tải biển Tài chính.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: 2

- Tạm giam: 9/10/2001

c. Hành vi phạm tội

Đầu tháng 9/2001 Trương Văn Lang cùng Nguyễn Văn Dương (tự Dượng) đến sòng bạc xóc đĩa ăn tiền tại số 1102 Tự Lập, phường 4, Tân Bình để cùng đồng bọn tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Lang trực tiếp góp tiền hùn cái 20 phần (mỗi phần 1.000.000 đồng) cho Nguyễn Thị Kim Phượng (người theo dõi sổ sách) và hùn bằng miệng chung với Nguyễn Văn Dương 20 phần để được nhà cái chia tiền lời, sòng bạc hoạt động được 23 ngày. Tại đây bị can Lang hùn tiền cùng Dương đánh bạc 2 lần, Lang 1 phần còn Dương 9 phần nhưng chỉ hùn miệng và giao cho Dương trực tiếp đánh bạc. Một lần thua 10.000.000đ, Lang phải bỏ ra 1.000.000 đồng. Một lần thắng bạc 8.000.000 đồng, Lang được chia 800.000 đồng. Đến cuối tháng 9/2001 sòng bạc chuyển về số: 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8. Lang vẫn giữ nguyên phần hùn cái và cùng Dương đến sòng bạc để đánh bạc thì bị bắt quả tang. (BL số 3718, 3719 - V4 - tập 72)

Phần tiền lời của 40 phần hùn của Trương Văn Lang tại sòng bạc ở quận Tân Bình và quận 8 được chia tổng cộng 50.000.000 đồng.

Ngoài ra vào cuối tháng 9/2001 Trương Văn Lang vay của Phạm Thị Lượng số tiền 100.000.000 đồng quy thành 20 cây vàng 9999, lãi suất 3%/tháng. Hiện tại vợ của bị can Trương Văn Lang (Nguyễn Thị Tuyết Anh) đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra số tiền 100.000.000 đồng mà Trương Văn Lang vay của Phạm Thị Lượng. (BL số 3714 - V4 - tập 72)

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Trương Văn Lang đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN.

Vật chứng thu giữ của Lang khi bắt giữ gồm:

- 1.049.000 (một triệu không trăm bốn mươi chín ngàn đồng) tiền Việt Nam

- 1 ĐTDĐ hiệu NOKIA - 8210

-1 đồng hồ đeo tay hiệu Longient

- 100.000.000 đồng (một trăm triệu) vay của Phạm Thị Lượng do vợ Lang đem nộp

Tài sản kê biên: Nhà số 12 Nguyễn Công Trứ, phường 19, Bình Thạnh.
 
58. Bị can Tăng Văn Sên

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1934 tại Kiên Giang

- ĐKNKTT: Ấp Phước Rung, Vĩnh Phước, Gò Quao, Kiên Giang

- Chỗ ở (tạm trú): Ấp 2, Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 2/12

- Con ông: Tăng Văn Chương (chết)

- Con bà: Phan Thị Dậu (chết)

- Vợ 1: Huỳnh Thị Hai (chết) có 5 con (lớn sinh 1957, nhỏ sinh 1968)

- Vợ 2: Đỗ Thị Phương, sinh 1947. Có 2 con (lớn sinh 1979, nhỏ sinh 1983)

b. Quá trình hoạt động

Năm 1934-1984: ở với cha mẹ tại Kiên Giang làm ruộng. Năm 1984 bị Công an TP HCM bắt về tội đánh bạc, sau đó được trả tự do không truy cứu trách nhiệm hình sự. Năm 1996 sống với người vợ sau tạm trú tại ấp 2, Hiệp Bình Phước, Thủ Đức. Năm 1999-2001 tham gia tổ chức đánh bạc và đánh bạc.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: 1

- Tạm giam: 9/10/2001

c. Hành vi phạm tội

Từ tháng 10/1999 đến tháng 10/2001 Tăng Văn Sên tham gia đánh bạc và tổ chức đánh bạc với vai trò làm “hồ lỳ” (chung chi tiền bạc cho sòng bạc), tại các sòng bạc sau:

- Sòng bạc tại số 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 (cuối năm 1999 đầu năm 2000) mỗi ngày Sên được trả công 100.000 đồng (một trăm nghìn). Tăng Văn Sên tham gia được 15 ngày thì ngưng và được trả công tổng cộng 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm ngàn).

- Sòng bạc do Lý Đôi và Triệu Tô Hà tổ chức tại quận 6 vào tháng 7/2001 Tăng Văn Sên tham gia được 10 ngày và được trả công 1.000.000 đồng (một triệu).

- Sòng bạc tại 1102 đường Tự Lập, phường 4, Tân Bình vào tháng 9/2001 Tăng Văn Sên tham gia được 13 ngày và được trả công 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn).

- Sòng bạc tại số 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 vào tháng 10/2001, Tăng Văn Sên tham gia được 10 ngày và được trả công 1.000.000 đồng (một triệu) thì y cùng sòng bạc bị bắt.

Tổng cộng Tăng Văn Sên đã thu lợi bất chính từ hành vi tham gia tổ chức đánh bạc tại 3 sòng trên là 4.800.000 (bốn triệu tám trăm ngàn) đồng. Bị can khai đã tiêu xài hết còn lại 104.000 (một trăm lẽ bốn ngàn) đồng hiện đang bị tạm giữ. (BL số 2057, 2058 - V4 - tập 28)

Ngoài ra Tăng Văn Sên còn trực tiếp đánh bạc trong các sòng bạc xóc đĩa mỗi ván đặt từ 100.000 (một trăm ngàn) đồng đến 150.000 (một trăm năm mươi ngàn) đồng, bị thua khoảng 13.000.000 (mười ba triệu) đồng. Do thua bạc thiếu tiền nên Sên đã vay của Phạm Thị Lượng 3.000.000 (ba triệu) đồng để đánh bạc với lãi suất 20%/tháng. (BL số 2057 - V4 tập 28)

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Tăng Văn Sên đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN.

Vật chứng thu giữ 104.000 (một trăm lẻ bốn ngàn) đồng.
 
59. Bị can Nguyễn Văn Nghĩa

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1958 tại Sài Gòn

- ĐKNKTT: 57/3 Bùi Thị Xuân, phường 5, quận Tân Bình, TP HCM

- Chỗ ở: 291/9 Cách Mạng Tháng 8, phường 7, quận Tân Bình, TP HCM

- Văn hóa: 10/12

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

Tôn giáo: Thiên Chúa

- Con ông Nguyễn Văn Tôi (chết)

- Con bà Lê Thị Thứ (chết)

- Vợ: Trần Thị Xuân Mai, sinh 1964

- Có 2 con (lớn sinh 1984, nhỏ sinh 1993)

b. Quá trình hoạt động

Năm 1958-1976: Ở với cha mẹ, đi học. Năm 1976-1977: Đi thanh niên xung phong. Năm 1977-2000: Sửa xe gắn máy. Tháng 6/2000 đến 2001: Bán cà phê tại 1102 Tự Lập, phường 4, Tân Bình.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 9/12/2001

c. Hành vi phạm tội

Căn nhà 1102 Tự Lập, phường 4, quận Tân Bình do vợ chồng Nguyễn Văn Nghĩa và Trần Thị Xuân Mai đứng tên chủ quyền và kinh doanh quán cà phê truyền hình cáp cho khách xem trực tiếp bóng đá quốc tế. Đầu tháng 9/2001 Bùi Viết Hùng (bị bắt chung vụ), giới thiệu Nguyễn Khánh Quốc(cũng bị bắt chung vụ) thuê nhà của Nghĩa để tổ chức đánh bạc, Quốc, Hùng và Nghĩa thỏa thuận giá thuê nhà mỗi ngày là 4.500.000 đồng, trong đó tiền thuê nhà 2.000.000 đồng và 2.500.000 đồng để Nghĩa lo việc bảo đảm an toàn cho sòng bạc. (BL số 3382, 3383 - V4 - tập 64)

Tên Nghĩa khai nhận: Sau khi nhận 4.500.000 đồng mỗi ngày của sòng bạc do tên Quốc và tên Hùng giao (gồm 2.000.000 đồng tiền cho thuê nhà và 2.500.000 đồng tiền hối lộ địa phương), y không dùng tiền của sòng bạc lo hối lộ mà dùng số tiền đó mua thuốc chữa bệnh cho mẹ vợ. Ngày 28/9/2001 Nghĩa sợ bị bắt nên không cho Quốc tiếp tục thuê nhà. Ngày 29/9/2001 sòng bạc chuyển về 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 hoạt động tiếp. Nghĩa đã giao nộp số tiền thu lợi bất chính gồm tiền cho sòng bạc thuê nhà và tiền để đưa hối lộ của 23 ngày là 103.500.000 đồng. (BL số 3382 - V4 - tập 64)

Hành vi gá bạc của bị can Nguyễn Văn Nghĩa đã phạm vào các điều 249 của BLHS nước CHXHCNVN.

Tài sản kê biên: Nhà số 291/9 Cách Mạng Tháng Tám, phường 7, Tân Bình và nhà số 1102 Tự Lập, phường 4 Tân Bình.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 52): Lý lịch 12 đối tượng tổ chức đánh bạc

Nguyễn Thị Kim Phượng, Nguyễn Thị Giang (Mợ Giang) tham đổi phỉnh, ghi chép sổ sách thu chi và góp vốn làm cái tại các sòng bài ở quận 6, 9 và Tân Bình. Nguyễn Văn Hơn (Út Mỡ) làm nhiệm vụ giám sát, phục vụ sòng 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 với tiền công 130.000 đồng/ngày.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

60. Bị can Nguyễn Thị Kim Phượng

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 17/11/1967 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 69/23 Nguyễn Công Trứ, phường 19, quận Bình Thạnh, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 7/12

- Con ông: Nguyễn Thành Long

- Con bà: Tạ Thị Bút (chết)

- Chồng: Nguyễn Tấn Bửu, sinh năm: 1963

- Có 1 con, sinh năm: 1993

b. Quá trình hoạt động

Từ năm 1967-1981: Sống với gia đình và đi học đến lớp 7/12. Năm 1981-2001: Buôn bán, cư ngụ tại 69/23 Nguyễn Công Trứ, phường 19, quận Bình Thạnh.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam từ ngày 9/10/2001 đến ngày 14/1/2001

c. Hành vi phạm tội

- Tháng 11/1999 Nguyễn Thị Kim Phượng được Nguyễn Văn Nhã đưa vào sòng bạc tại số nhà 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 làm nhiệm vụ lên xuống tiền và đổi phỉnh cùng với Nguyễn Thị Kim Hòa. Ngoài ra Phượng còn được giao nhiệm vụ ghi sổ theo dõi phần hùn thu chi hàng ngày cho sòng bạc. Mỗi ngày được sòng bạc trả công 120.000 đồng. Phượng tham gia được 135 ngày thì sòng bạc giải tán. Phượng được sòng bạc trả công là 16.200.000 đồng.

- Tháng 1/2001 sòng bạc mở tại số 351A khu phố 1, phường Phước Long A, quận 9 do Nguyễn Văn Nhã làm chủ sòng, Phượng được Nhã giao nhiệm vụ lên xuống tiền cho cái, đổi phỉnh và ghi chép thu chi cho sòng bạc. Phượng tham gia 26 ngày được tại sòng bạc trả công 3.120.000 đồng.

- Tháng 7/2001, Triệu Tô Hà và Tạ Đắc Lung mở sòng bạc tại số 27/23 và 27/6 Văn Thân, phường 8, quận 6, Thị Phượng được Thị Hòa (vợ tên Lung) rủ đến tham gia làm nhiệm vụ lên xuống tiền và đổi phỉnh, ghi chép sổ sách theo dõi phần hùn, thu chi cho sòng bạc. Phượng tham gia được 20 ngày được trả công là 2.400.000đ.

- Tháng 9/2001 sòng bạc mở tại nhà 1102 Tự Lập, Phường 4, Quận Tân Bình, Thị Phượng tham gia lên xuống tiền, đổi phỉnh, ghi chép sổ sách thu chi sòng bạc và góp vốn làm cái 10 triệu đồng. Sòng bạc hoạt động được 23 ngày, Thị Phượng thu lợi bất chính gồm: 9.000.000đ tiền lời góp vốn làm cái và 2.760.000đ tiền công.

- Ngày 29/9/2001 sòng bạc mở tại nhà 74/18 Trần Nguyên Hãn Phường 13 Quận 8, Thị Phượng vẫn còn làm nhiệm vụ lên xuống tiền cho cái và đổi phỉnh, ghi sổ sách theo dõi phần hùn, thu chi cho sòng bạc và hùn vốn 10 triệu đồng. Phượng được sòng bạc chia tiền lời và tiền công là 5.560.000 đồng.

Sòng bạc hoạt động đến ngày 09/10/2001 thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Khi bị bắt Phượng khai báo thành khẩn. Tổng cộng số tiền thu lợi bất chính của Thị Phượng tại các sòng bạc là 39.040.000 đồng (Ba mươi chín triệu không trăm bốn mươi ngàn đồng) (BL số 18 - V4 - tập 74). Khi bị bắt, Nguyễn Thị Kim Phượng khai báo thành khẩn.

Hành vi tổ chức đánh bạc của bị can Nguyễn Thị Kim Phượng đã phạm vào điều 249 của BLHS nước CHXHCNVN.
 
61. Bị can Nguyễn Văn Hơn (Út Mỡ)

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 28/09/1957 tại TP HCM

- ĐKNKTT: D8 khu Tái Thiết, đường 38, phường 4, quận 4, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 5/12

- Con ông: Nguyễn Văn Năm (chết)

- Con bà: Trần Thị Bé, sinh 1928

- Vợ 1: Phạm Thị Lan, sinh 1957, có 2 con, lớn nhất sinh 1976, nhỏ nhất sinh 1978

- Vợ 2: Nguyễn Thị Huệ, sinh 1957, có 2 con, lớn nhất sinh 1981, nhỏ nhất sinh 1982

- Vợ 3: Nguyễn Thị Dung, sinh 1960, có 1 con

- Vợ 4: Châu Thị Mai, sinh 1965, có 4 con, lớn nhất sinh 1986, nhỏ nhất sinh 1996

b. Quá trình hoạt động

Năm 1957-1970: Ở với cha mẹ và đi học văn hóa ở quận 4. Năm 1970-1972: Học sửa xe gắn máy tại quận 4. Năm 1972-1975: Sửa xe gắn máy và học đờn ca tài tử tại quận 4. Năm 1975-1977: Thành viên ban nhạc Nhà văn hóa quận 4. Năm 1977-1979: Thành viên Ban Văn nghệ, Công ty Xây lắp - Bộ Nội thương. Năm 1979-1989: Phụ bán quần áo tại chợ Dân Sinh, quận 1. Năm 1989-2002: Lái xe du lịch thuê và đàn ca tại các tụ điểm ca nhạc.

c. Hành vi phạm tội

Tháng 11/1999, Nguyễn Văn Hơn (tự Út Mỡ) được Tô Văn Tốt (Ba Mạnh) đưa vào sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 làm nhiệm vụ giám sát, phục vụ dọn dẹp trong sòng bạc. Mỗi ngày Ba Mạnh giao cho Nguyễn Văn Nhã trả công cho Nguyễn Văn Hơn 130.000 đồng. Hơn tham gia khoảng hai tháng rưỡi và được trả công khoảng 11.250.000 đồng. Ngoài ra thỉnh thoảng Nguyễn Văn Hơn tham gia đánh bạc mỗi ván đặt cược 100.000 đến 200.000 đồng. Tổng cộng thua khoảng 15.000.000 đồng. (BL số 2902 - V4 - tập 51)

Bị can Nguyễn Văn Hơn tại ngoại và đã nộp cho cơ quan điều tra 11.250.000 đồng số tiền thu lời bất chính do tham gia tổ chức sòng bạc.

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Nguyễn Văn Hơn đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN
 
62. Bị can Nguyễn Thị Giang (Mợ Giang, Châu)

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1930 tại Nam Định

- ĐKNKTT: 202 phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 5/10

- Con ông: Nguyễn Duy Ninh (chết)

- Con bà: Trần Thị Thuận, 90 tuổi

- Chồng: Nguyễn Duy Châu, chết 1994

- Có 3 con: Lớn nhất 48 tuổi, nhỏ nhất 40 tuổi

b. Quá trình hoạt động

Năm 1948-1954: Ở với cha mẹ tại Nam Định. Năm 1954-1985: Nhân viên Công ty Ăn uống Hà Nội, ngụ tại 202 phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm 1985-2002: Nghỉ hưu, ở tại 202 phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

- Tạm giam: 8/7/2002.

c. Hành vi phạm tội

Từ tháng 11/1999, Nguyễn Thị Giang từ Hà Nội vào TP HCM tham gia hùn vốn làm cái tại các sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8, số 351A Khu phố 1, phường Phước Long A, quận 9, số 27/23 và 27/6 Văn Thân phường 8 quận 6, số 1102 đường Tự Lập, phường 4, Tân Bình và 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8. Mỗi sòng bạc, Giang hùn 10 phần: 10.000.000 đồng và tham gia đánh bạc ở các sòng bạc nêu trên, mỗi ván đặt cược từ 50.000 đến 500.000 đồng. (BL số 3295, 3296 - V4 - tập 61)

Giang khai nhận quá trình đánh bạc bị thua khoảng 4.400.000 đồng. Riêng tiền lời được chia do góp vốn 10.000.000 đồng trong sòng bạc Giang không nhớ được chia bao nhiêu. Căn cứ vào lời khai của Nguyễn Văn Nhã thì cứ 10 phần hùn tại sòng bạc 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 năm 1999-2000, trong bốn tháng rưỡi thì mỗi tháng bình quân được chia 20.000.000 đồng. Sòng bạc tại quận 9 là khoảng 5.000.000 đồng, sòng bạc tại quận 6 huề vốn và tại sòng bạc 1102 đường Tự Lập, phường 4, Tân Bình chuyển về số 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 khoảng 13.000.000 đồng. Như vậy Giang hùn vốn 10.000.000 đồng trong các sòng bạc được chia lời khoảng 38.000.000 đồng. (BL số 3287 - V4 - tập 61 và số 25 - V4 - tập 74)

Hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc của bị can Nguyễn Thị Giang đã phạm vào các điều 249, 248 của BLHS nước CHXHCNVN
 
63. Bị can Trương Thoại (Thoại Kỳ)

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1943 tại Chợ Lớn

- ĐKNKTT: 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Hoa

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 6/12

- Con ông: Trần Liên (chết)

- Con bà: Trương Thoại Chi (chết)

- Vợ: Huỳnh Muối, sinh 1944.

- Có 4 con (lớn nhất 35 tuổi, nhỏ nhất 19 tuổi)

b. Quá trình hoạt động

Năm 1943-1968: Ở với cha mẹ đi học đến lớp 6/12, phụ giúp gia đình. Năm 1968 đi lính Bộ binh ngụy được 6 tháng đào ngũ về nhà cùng gia đình cư ngụ tại 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 và hành nghề ướp trà bán cho đến năm 1981. Tháng 6/1981 bị Công an quận 8 bắt về hành vi đánh bạc cảnh cáo tha. Năm 1981-2001: Làm nghề ướp trà và cho thuê nhà mở sòng bạc.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Tháng 6/1981 bị Công an quận 8 bắt về hành vi đánh bạc, cảnh cáo tha

- Tạm giam: 9/10/2001

c. Hành vi phạm tội

- Từ đầu tháng 10/1999 đến đầu tháng 1/2000 Trương Thoại cho Nguyễn Văn Nhã (Sáu Nhà) cùng Tô Văn Tốt (Ba Mạnh) thuê nhà của Thoại để mở sòng bạc với giá 400.000 đồng/ngày (bốn trăm nghìn). Ngoài việc cho thuê nhà mở sòng bạc Trương Thoại còn giúp Nguyễn Văn Nhã, Ba Mạnh đem tiền phân phát cho 8 (tám) hộ dân tại hẻm 74 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 mỗi hộ 20.000 đồng/ngày (hai chục ngàn) để các hộ dân không tố giác hành vi phạm tội của y và đồng bọn. Sòng bạc hoạt động được hơn hai tháng tạm ngưng. Số tiền Trương Thoại thu lợi bất chính từ việc cho thuê nhà khoảng 32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng. (BL số 2800 - V4 - tập 46)

- Cuối tháng 2/2000 Trương Thoại lại tiếp tục cho Nguyễn Văn Nhã (Sáu Nhà), Tô Văn Tốt (Ba Mạnh) thuê nhà để mở sòng bạc với giá 400.000 đồng/ngày (bốn trăm ngàn). Lần này Trương Thoại cũng nhận tiền từ sòng bạc đem phân phát cho 8 (tám) hộ dân trong hẻm, mỗi hộ 20.000 đồng/ngày (hai chục nghìn). Tháng 4/2000 sòng bạc ngưng, Trương Thoại đã thu lợi bất chính khoảng 24.000.000. (hai mươi bốn triệu) đồng. BL số 2800 - V4 - tập 46)

- Từ ngày 29/9/2001 đến 9/10/2001 Trương Thoại lại tiếp tục cho Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Khánh Quốc thuê nhà 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 để mở sòng bạc với giá 500.000 đồng/ngày (năm trăm nghìn), đồng thời nhận tiền từ sòng bạc đem phân phát cho 8 (tám) hộ dân tại hẻm 74 Trần Nguyên Hãn phường 13 quận 8 mỗi hộ 20.000 đồng/ngày (hai chục nghìn) cũng nhằm mục đích để họ không tố giác hành vi phạm tội của y và đồng bọn. Số tiền Trương Thoại thu lợi bất chính trong 10 ngày cho thuê nhà là 5.000.000 (năm triệu) đồng. (BL số 2800 - V4 - tập 46)

Tổng cộng 3 lần cho thuê nhà mở sòng bạc Trương Thoại được bọn tổ chức sòng bạc trả tiền thuê nhà là 61.000.000 đồng (sáu mươi mốt triệu).

Khi bắt giữ sòng bạc, cơ quan điều tra thu giữ tại nhà Thoại một máy phát điện và 13.000.000 (mười ba triệu) đồng. Trương Thoại khai máy phát điện là của y mua vào năm 1990, và sử dụng phát sáng cho sòng bạc chơi bạc chơi bạc khi mất điện, còn 13.000.000 đồng cũng là tiền do y cho thuê nhà mở sòng bạc mà có, còn lại những đồ vật phục vụ cho việc tổ chức sòng bạc bị thu giữ là của bọn tổ chức sòng bạc bỏ tiền ra mua.

Hành vi gá bạc của bị can Trương Thoại đã phạm vào điều 249 của BLHS nước CHXHCNVN.

Tài sản kê biên: Nhà số 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8.
 
Thứ ba, 18/2/2003, 07:00 GMT+7
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 63): Lý lịch Võ Quang Thắng và Hoàng Linh

Nguyên phó ban thư ký báo Công An TP HCM, Võ Quang Thắng đã tác động, đe dọa đòi nhận tiền và quà của một số cá nhân, cơ quan. Tổng giá trị 150 triệu đồng. Hoàng Linh (nguyên phóng viên báo Tuổi Trẻ) dùng danh nghĩa nhà báo để chiếm đoạt tài sản của 3 đối tượng trên 233 triệu đồng và 8 chỉ vàng.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

135. Bị can Võ Quang Thắng

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm 1959 tại Bình Thuận

- ĐKNKTT: 110 Huỳnh Mẫn Đạt, phường 2, quận 5, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 12/12

- Cha: Võ Quang Tỷ, sinh 1921

- Mẹ: Nguyễn Thị Hoàn, sinh 1927

- Vợ: Dương Thanh Thủy, sinh 1960

- Con: 2 người con, lớn sinh 1983, nhỏ sinh 1991

b. Quá trình hoạt động

Từ 1959 đến 1975 còn nhỏ và đi học các trường phổ thông ở Hà Nội. Từ 1975 đến 1977, học sinh cấp 3 Lê Quý Đôn, TP HCM. Từ 1978 đến 1982 là sinh viên Đại học tổng hợp chuyên ngành ngữ văn. Từ 3/1983 vào ngành công an, làm phóng viên báo Công An TP HCM. Từ 3/1993 đến 12/1994 tổ trưởng tổ phóng viên báo Công An TP HCM.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Bị can tại ngoại

c. Hành vi phạm tội

Là một cán bộ công an công tác trên lĩnh vực báo chí, lẽ ra Quang Thắng phải thực hiện chức năng, quyền hạn của mình để góp phần phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn TP HCM, trong đó có hành vi phạm tội của Trương Văn Cam và đồng bọn. Song Quang Thắng đã không làm tròn trách nhiệm của mình mà lao theo những cám dỗ vật chất, móc nối với một số nhà báo (trong đó có Hoàng Linh), lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao, bao che cho các hoạt động phạm tội bằng các thủ đoạn như dùng những thông tin đã biết được trong quá trình hoạt động nghề nghiệp về một số cá nhân, doanh nghiệp để tác động hoặc đe dọa, từ đó nhận tiền và các lợi ích vật chất khác. Nếu không được đáp ứng yêu cầu thì Quang Thắng sử dụng báo chí tấn công gây khó khăn cho việc làm ăn của các cá nhân, doanh nghiệp đó. Cơ quan điều tra chứng minh được Quang Thắng đã lợi dụng chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ được giao để nhận tiền, quà và ăn nhậu với tổng giá trị là 150 triệu đồng.

Hành vi trên của Võ Quang Thắng đã phạm tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điều 280 BLHS.

Ngoài ra Quang Thắng còn lợi dụng nghề nghiệp của mình quan hệ và buộc một số nhà hàng phải mua rượu bia của vợ mình là Dương Thanh Thủy với giá cao hơn, thu lợi bất chính trên 60 triệu đồng. Hành vi của Võ Quang Thắng đã phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội danh được quy định tại điều 281 BLHS.

Như vậy Võ Quang Thắng đã phạm vào 2 tội:

- Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điều 280 BLHS.

- Tội tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội danh được quy định tại điều 281 BLHS.

Tài sản và tang vật thu giữ: 1 đồng hồ Rolex
 
136. Bị can Hoàng Linh

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 13/10/1962 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 35/3A Nhị Bình, Hóc Môn, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 12/12

- Cha: Hoàng Tâm (chết)

- Mẹ: Phan Thị Như Ngọc (chết)

- Vợ: Nguyễn Phương Tường Linh

- Con: 2 người con, lớn nhất sinh 1996, nhỏ nhất sinh 1998

b. Quá trình hoạt động

Từ nhỏ ở với gia đình, năm 1980 học ĐH Sư phạm TP HCM. Đến năm 1984 ra trường về dạy tại trường Lý Thường Kiệt. Đến năm 1986 chuyển về dạy tại Thạch Lộc, TP HCM. Năm 1989 đến 2000 làm tại báo Tuổi Trẻ Cười (năm 1992 đến 1999 làm tại Ban chính trị xã hội báo Tuổi Trẻ. Năm 1999 đến tháng 4/2000 làm tại ban bưu chính viễn thông. Từ tháng 5/2000 đến khi bị bắt, làm tại phòng quảng cáo báo Tuổi Trẻ).

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 22/3/2002

c. Hành vi phạm tội

Lợi dụng danh nghĩa nhà báo, trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao, Hoàng Linh biết được một số thông tin liên quan đến hoạt động phạm tội của Trương Văn Cam, các sai phạm của Công ty Epco, nhà hàng Karaoke 67 Sương Nguyệt Ánh. Hoàng Linh đã lợi dụng các thông tin này đe dọa viết bài đăng báo tố cáo việc làm vi phạm pháp luật của các đơn vị và cá nhân như trên, buộc Trương Văn Cam phải nhiều lần cho tiền và vàng (tổng cộng 75 triệu và 8 chỉ vàng); Liên Khui Thìn cho 150 triệu và 1 điện thoại di động trị giá 15 triệu; Trần Nghệ Dân cho 8 triệu. Tổng cộng Hoàng Linh lợi dụng danh nghĩa nhà báo để chiếm đoạt tài sản của 3 đối tượng trên là 233 triệu đồng, 8 chỉ vàng và 1 điện thoại di động.

Hành vi trên của Hoàng Linh đã phạm vào tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điều 280 BLHS.

Ngoài ra, Hoàng Linh còn lợi dụng quyền hạn được giao để nhận tiền của bà Đoàn Thị Minh Hương (15 triệu), của bà Huỳnh Liên Thuận (quà và tiền tổng cộng 12 triệu), của Ban giám đốc công ty Tamexco (40 triệu và 100 USD), của Phạm Ngọc Lâm (11 triệu), của Phan Trứ Phiêu (26 triệu). Tổng số, Hoàng Linh đã nhận của những người này là 105 triệu và 1 đồng hồ Rado trị giá 2,8 triệu. Tuy Hoàng Linh không có những hành vi đe dọa những người này nhưng y cũng hiểu rằng họ cho tiền để y giúp đỡ trong hoạt động nghề nghiệp.

Hành vi trên của Hoàng Linh đã phạm vào tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội danh được quy định tại điều 281 BLHS.

Sau khi bị bắt, Hoàng Linh đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội, đồng thời khai báo về hành vi phạm tội của một số nhà báo khác để Cơ quan Cảnh sát điều tra xem xét, xử lý.

Như vậy, Hoàng Linh đã phạm vào 2 tội:

- Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (điều 280 BLHS).

- Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ (điều 281 BLHS).

Tài sản kê biên: 2 căn nhà.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 64): Lý lịch 2 anh em Châu Phát Lai cùng 3 đối tượng khác

Châu Phát Lai Em đã dùng dao đâm chết Đổng Chí Nam. Sau đó, đối tượng cùng gia đình tìm cách "chạy tội". Điều tra viên Lâm Xuân Phát khi được giao thụ lý vụ án trên, đã không làm tròn trách nhiệm. Cơ quan điều tra đề nghị truy tố Lai Em về tội giết người, song Phát lại đề xuất truy tố về tội danh khác, dẫn đến bỏ lọt tội phạm nguy hiểm.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

137. Bị can Châu Phát Lai Em

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 16/4/1959 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 88X/4 Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Phật

- Trình độ văn hóa: 5/12

- Cha: Châu Phát Qưới (chết)

- Mẹ: Nguyễn Thị Chính (chết)

- Vợ: Nguyễn Thị Ngọc Diệp

- Con: 3 người con, lớn nhất sinh 1980, nhỏ nhất sinh 1982

b. Quá trình hoạt động

Từ 1959 đến 1977 còn nhỏ ở với gia đình, lớn đi học đến lớp 5 nghỉ học phụ giúp gia đình. Từ 1977 đến 1979 tham gia thanh niên xung phong tại Đồng Xoài, Sông Bé. Từ 1979 đến 1984, tham gia lực lượng bộ đội sư đoàn 5 đóng ở Campuchia. Năm 1984 bị Công an TP HCM bắt giam 6 tháng về tội đua xe trái phép, không ra tòa. Từ 1984 đến 1987 tham gia lực lượng quân báo cho quận đội quận 1, TP HCM. Năm 1987 bị Công an TP HCM bắt giam 12 tháng tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, được TAND trả tự do vì không có tội. Từ 1988 đến 1994 về sống với gia đình, buôn bán. Từ 1994 đến 1997 tham gia quân báo cho bộ chỉ huy quân sự TP HCM. Từ 1997 đến nay buôn bán cùng gia đình tại chợ Cầu Ông Lãnh, quận 1.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: 2

- Tạm giam: 18/12/2001

c. Hành vi phạm tội

* Hành vi giết Đổng Chí Nam

Sinh ra trong một gia đình có nhiều anh em là đối tượng hình sự, trong đó Châu Phát Lai Em thể hiện là một tên côn đồ hung hãn nhất. Chỉ từ một mâu thuẫn nhỏ với anh Đổng Chí Nam, Lai Em đã dùng dao (đã chuẩn bị từ trước) đâm ba nhát, tước đoạt tính mạng của Nam.

Sau khi bị bắt, Lai Em cùng gia đình đã tìm mọi cách lo chạy các cơ quan pháp luật để làm giảm nhẹ tội mà y đã gây ra, Lai Em đã không bị xử lý hình sự. Từ đó tiếp tục gây ra nhiều hành vi phạm tội khác trong thời gian dài làm mất trật tự xã hội trên địa bàn rộng.

Hành vi của Châu Phát Lai Em đã phạm vào tội giết người, tội danh được quy định tại điều 101 BLHS (năm 1985) cần được xử lý nghiêm minh.

* Hành vi cưỡng đoạt tài sản

Châu Phát Lai Em là một đối tượng đã có nhiều tiền án, tiền sự, bản thân y đã xác định là có quan hệ mật thiết với Trương Văn Cam trong quá trình hoạt động phạm tội. Mọi hoạt động của Châu Phát Lai Em đều phải được Trương Văn Cam đồng ý, cụ thể như khi Lai Em muốn thu tiền bảo kê của nhà hàng, khách sạn nào thì đều phải xin ý kiến Trương Văn Cam. Lai Em đã tập hợp được một số đàn em xung quanh như Minh "Cuội", Hòa "Búa", Út "Khùng"... để sẵn sàng đi quậy phá những nơi mà Lai Em cần hoặc do Trương Văn Cam yêu cầu. Căn cứ lời khai của Lai Em về phương thức cưỡng đoạt tài sản bằng cách cho đàn em đến quậy phá rồi để nhận tiền bảo kê, kết hợp với đơn tố cáo của Hứa Văn Em thấy có đủ cơ sở xác định Lai Em đã cho đàn em đến khách sạn Phong Phú quậy phá để Hứa Văn Em phải nhờ Lai Em can thiệp, rồi qua đó đưa đàn em đến khách sạn ăn, nghỉ và không trả tiền. Tổng số tiền mà Lai Em không trả là 16 triệu đồng. Hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội Cưỡng đoạt tài sản cần phải đưa truy tố trước pháp luật, tội danh được quy định tại điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.

Tài sản và tang vật thu giữ:

- 96.425.000 đồng

- 16 tờ ngân phiếu loại 1 triệu đồng

- 280 USD

- 2 lượng vàng SJC

- 1 dây chuyền vàng 18K

- 1 điện thoại di động Nokia 8250

- 1 xe ô tô Mazda

- 1 đồng hồ đeo tay

- 1 máy ghi âm

- 1 băng ghi âm

- 1 máy quay phim

- 1 CPU và 10 đĩa mềm vi tính

- 1 áo chống đạn

- 1 máy chơi game và 1 kg xu chơi game

- 23 kính chiếu hậu xe máy

- 7 bộ phụ tùng xe máy

- 8 chìa khóa

- 1 xe Spacy

- 6 đĩa CD

- kê biên 01 căn nhà
 
138. Bị can Lâm Xuân Phát

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày: 4/9/1957 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 151/153C Nguyễn Trãi, phường 2, quận 5, TP HCM

- Chỗ ở: 210 Cô Bắc, Cô Giang, quận 1, TP HCM.

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Phật giáo.

- Trình độ văn hóa: 9/12

- Con ông: Lâm Chấn Mậu, sinh 1927

- Con bà: Lý Thị Tiết, sinh 1936

- Vợ: Trương Thị Tuyết Phương

- Con: 2 con, lớn 14 tuổi, nhỏ 10 tuổi

b. Quá trình hoạt động

Từ 1974 đến 1975 tham gia lớp tập luyện bóng đá. Từ năm 1975 tham gia phong trào thanh niên phường 2, quận 5. Từ năm 1976 tham gia phong trào thanh niên xung phong quận 5. Từ năm 1977 về công tác tại Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1978 đến 1979 học trường Trung cấp Kiểm sát. Từ năm 1980 đến 1992 công tác tại Viện kiểm sát nhân dân TP HCM và Viện kiểm sát các quận, huyện thuộc TP HCM. Từ năm 1993 đến nay tự học nghề điện và làm nghề điện gia dụng.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Bị can tại ngoại

c. Hành vi phạm tội

Là kiểm sát viên được giao kiểm sát điều tra vụ án Châu Phát Lai Em, bị can Phát đã không làm tròn trách nhiệm được giao. Khi cơ quan điều tra đề nghị truy tố Châu Phát Lai Em về tội giết người là đúng với hành vi và tội phạm mà Châu Phát Lai Em đã gây ra thì Lâm Xuân Phát lại đề xuất truy tố Lai Em về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong khi hồ sơ có nhiều mâu thuẫn, dẫn đến bỏ lọt tội phạm nguy hiểm.

Trong quá trình công tác, Lâm Xuân Phát đã thiếu trách nhiệm để làm mất hồ sơ vụ án gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý.

Hành vi của Lâm Xuân Phát đã phạm vào tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tội danh được quy định tại điều 220 BLHS (năm 1985) cần xử lý nghiêm minh.
 
139. Bị can Châu Phát Út (Út "Khùng")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1963 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 15 Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 2/12

- Con ông: Châu Phát Qưới (chết)

- Con bà: Nguyễn Thị Chín (chết)

- Vợ: Nguyễn Thị Ngọc Mai (ly dị)

- Con: 1 con, 16 tuổi

b. Quá trình hoạt động

Từ nhỏ đến 1982 ở với gia đình, học hết lớp 2/12, sau đó ở nhà không có nghề nghiệp. Ngày 13/10/1982 đến tháng 7/1984 cưỡng bức lao động. Ngày 7/4/1985 đến 12/10/1998 tù 17 năm tội giết người. Từ 1998 đến 2001 làm nhân viên bốc vác tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM. Ngày 14/2/2001 đến 31/5/2001 bị bắt tạm giam về tội cố ý thương tích, Viện Kiểm sát nhân dân quận I đình chỉ điều tra, sau đó về làm bốc vác tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM.

- Tiền án: 1 tiền án 17 năm tù tội giết người.

- Tiền sự: 1 tiền sự cố ý gây thương tích cưỡng bức lao động

- Tạm giam: 15/3/2002

c. Hành vi phạm tội

Là đối tượng hình sự nguy hiểm, có bản tính côn đồ hung hãn, có nhiều tiền án tiền sự. Do có nhiều hành động càn quấy nên một số người dân ở khu vực chợ cá Cầu Ông Lãnh rất sợ Châu Phát Út. Ngày 10/8/1999, tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà Út đã chỉ đạo cho đàn em là Nguyễn Trần Lam và Đinh Tuấn Huy dùng kiếm chém anh Trần Văn Minh gây thương tật nặng (27%).

Sau khi sự việc xảy ra, vì sợ gia đình Châu Phát Út, trong đó có Châu Phát Lai Em là đối tượng hình sự chuyên nghiệp rất hung hãn trả thù nên nạn nhân không dám tố cáo hành vi phạm tội của Út. Vì vậy, Út càng lộng hành, coi thường pháp luật, coi thường tính mạng người khác.

Với bản chất con đồ, hung hãn, ngày 21/11/2000, do mâu thuẫn với Trát Minh Dũng, Châu Phát Út dùng dao chém Trát Minh Dũng gây cố tật 31%. Hành vi này của Châu Phát Út lẽ ra phải được đưa ra xét xử nghiêm khắc. Nhưng do thủ đoạn lôi kéo, mua chuộc một số cán bộ trong các cơ quan pháp luật, trong đó có Nguyễn Bá Phong - nguyên viện trưởng VKSND TP HCM - nên hành vi của Châu Phát Út đã được bao che và để lọt, không bị xử lý.

Hành vi tổ chức cho đàn em dùng dao, kiếm chém Trần Văn Minh và trực tiếp chém Trát Minh Dũng của Châu Phát Út thể hiện tính chất lưu manh chuyên nghiệp có hệ thống, có thủ đoạn che giấu và chạy tội. Hành vi đó đã phạm vào tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại điều 104 BLHS cần xử lý nghiêm minh để làm gương cho kẻ khác.
 
140. Bị can Nguyễn Trần Lam (Lam "Sát Thủ")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm: 1966 tại Hải Phòng

- ĐKNKTT: 611/53 Điện Biên Phủ, phường 1, quận 3, TP HCM.

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 10/10

- Con ông: Nguyễn Văn Quí, 61 tuổi

- Con bà: Trần Thị Ninh, 56 tuổi

- Vợ: Nguyễn Thị Thùy Linh

b. Quá trình hoạt động

Từ nhỏ đến 1983, ở với gia đình, học hết lớp 10/10 sau đó đi học thợ máy tàu biển. Năm 1984 đi nghĩa vụ quân sự, tháng 5/1984 bị Công an quận 4 bắt về tội trộm cắp tạm giam 6 tháng sau cảnh cáo tha (chưa bị tước quân tịch). Chưa hết nghĩa vụ quân sự thì ngày 14/2/1986 bị bắt về tội cướp và tàng trữ vũ khí trái phép tòa xử phạt 18 năm tù giam đến 31/12/1998 tha. Đến ngày 25/11/1999 bị bắt về tội cướp, cưỡng đoạt và bắt giữ người trái pháp luật, Tòa xử phạt 12 năm tù giam.

- Tiền án: 2 tiền án

- Tiền sự: 1 tiền sự tội trộm cắp

- Bị can hiện đang cải tạo tại trại giam Thủ Đức, V26, Bộ Công an.

c. Hành vi phạm tội

Nguyễn Trần Lam là đối tượng hình sự, đàn em của Châu Phát Út. Mặc dù không mâu thuẫn gì với bị hại là Trần Văn Minh (Minh "Cuội") nhưng khi được Châu Phát Út sai đi chém Minh thì lập tức đã thực hiện ngay. Lam cùng với Đinh Tuấn Huy dùng dao chém Minh gây thương tật nặng, tổn hại 27%.

Hành vi của Nguyễn Trần Lam thể hiện tính côn đồ hung hãn, coi thường sinh mạng người khác cần xử lý nghiêm khắc trước pháp luật.

Hành vi của Nguyễn Trần Lam đã phạm tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại khoản 2 điều 104 BLHS.
 
Sáng nay, một người đàn ông đột ngột xông vào văn phòng của Reuters ở Bắc Kinh và tuyên bố có mang theo một quả bom. Ông ta yêu cầu những người có mặt đứng im và đòi được xuất hiện trước ống kính truyền hình để nói về nạn tham nhũng trong chính phủ Trung Quốc.

Sau hai tiếng tạm giữ các nhân viên Reuters, người đàn ông nói trên đã cho phép tất cả ra ngoài một cách an toàn. Chỉ còn một mình ông ta trong phòng, bao vây xung quanh là hàng chục cảnh sát mang áo chống đạn, trong đó có một nhà thiện xạ. Toàn bộ người trong tòa tháp văn phòng Sunflower 25 tầng ở Bắc Kinh, nơi có cơ sở của Reuters trên tầng 6 đã được sơ tán. Kẻ dọa nổ bom đã bị cảnh sát bắt giữ.

Những nhân chứng cho biết, người đàn ông nói trên khoảng 30 tuổi, tự xưng là Fang Qinghui, một cựu công nhân ngành thép ở tỉnh Hắc Long Giang đã bị thất nghiệp 5 năm. Ông ta tuyên bố mục đích của việc mình làm là "vì công lý".

Sự việc diễn ra đúng vào thời điểm đang diễn ra Đại hội Nhân dân toàn quốc. Tháng trước, hai quả bom đã phát nổ tại khuôn viên Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa khiến 9 người bị thương
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 65): Lý lịch viện trưởng VKSND quận 1

Bị can Nguyễn Bá Phong, nguyên viện trưởng VKSND quận 1, TP HCM đã cố tình làm sai lệch tội danh của Châu Phát Lai Út trong vụ giết chết Đổng Chí Nam, để ra quyết định đình chỉ điều tra đối tượng này. Ngoài ra, năm 2001, ông Phong đã can thiệp để Công an quận 1 không đưa Lai Út đi giáo dục bắt buộc.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

142. Bị can Nguyễn Bá Phong (Phấn)

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm 1957 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 19 Nguyễn Thái Bình, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP HCM.

- Quốc tịch: Việt Nam

- Dân tộc: Kinh

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: Đại học

- Con ông: Nguyễn Bá Vân (chết)

- Con bà: Lý Thị Phụng (chết )

- Vợ: Võ Thị Nga, sinh 1957,

- Con: 3 con, lớn nhất 17 tuổi, nhỏ 8 tuổi.

b. Quá trình hoạt động bản thân

Còn nhỏ đi học và làm nghề sửa xe gắn máy. Tháng 7/1977 đến 1981: Tham gia công tác phường đội, phường Cô Giang, quận 1, TP HCM. Tháng 10/1981 đến 5/1983: Học trường Đảng Nguyễn Văn Cừ, TP HCM. Tháng 6/1983 về công tác tại Viện kiểm sát quận 1 cho đến khi bị bắt; năm 1988 được bổ nhiệm kiểm sát viên sơ cấp; năm 1996 được bổ nhiệm Phó viện trưởng Viện kiểm sát quận 1; năm 1999 được bổ nhiệm Viện trưởng.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: Không

- Tạm giam: 24/5/2002

c. Hành vi phạm tội

Là một cán bộ công tác lâu năm trong ngành viện kiểm sát, với chức vụ là Viện trưởng Viện kiểm sát quận 1, Nguyễn Bá Phong đương nhiên phải thấy rõ hành vi của tên Châu Phát Út có 3 tình tiết để định khung hình phạt ở khoản 2 điều 104: Dùng hung khí nguy hiểm; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân và có tính côn đồ. Ông Lê Mạnh Quân, Phó viện trưởng đã có ý kiến là phải xử lý bị can ở khoản 2 nhưng Nguyễn Bá Phong vẫn cố tình đưa hành vi phạm tội của Út về khoản 1 để đình chỉ điều tra.

Ngoài ra năm 2001, khi Công an quận 1, TP HCM lập hồ sơ đề nghị đưa Châu Phát Út đi cơ sở giáo dục bắt buộc, bị can Phong đã có văn bản can thiệp không đưa Út đi. Việc làm này cho thấy bị can Phong đã có hành vi bao che là có hệ thống cho Châu Phát Út. Hành vi của Nguyễn Bá Phong đã tiếp tay cho tội phạm, tạo điều kiện cho Châu Phát Út tiếp tục lộng hành, coi thường pháp luật gây mất lòng tin của nhân dân vào các cơ quan luật, không dám tố cáo hành vi phạm tội của bọn chúng. Vì vậy hành vi của Nguyễn Bá Phong cần xử lý nghiêm để làm gương cho kẻ khác và lấy lại lòng tin của nhân dân.

Hành vi của bị can Nguyễn Bá Phong đã phạm vào tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, tội danh được quy định tại điều 294 BLHS năm 1999 cần xử lý nghiêm minh.
 
Kết luận điều tra chuyên án Năm Cam (phần 66): Lý lịch 6 đối tượng tham gia cưỡng đoạt tài sản

Khánh "Bà Mì" đe dọa, buộc chủ khách sạn Minh Thắng (anh Nguyễn Minh Đức) phải chi hơn 109 triệu đồng tiền bảo kê. Đỗ Đạt Giang đã chiếm đoạt 50 lượng vàng và 130 triệu đồng của nhiều người. Trần Văn Tâm thường "xin đểu" tiền của 9 chủ ô cá ở chợ Cầu Ông Lãnh, mỗi lần 20.000-100.000 đồng.

Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can

143. Bị can Nguyễn Minh Khánh (Khánh "Bà Mì")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm 1968 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 94/7A tổ 39, khu phố 3, Tân Thuận Đông, quận 7, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 5/12

- Cha: Nguyễn Văn Minh

- Mẹ: Nguyễn Thị Kim Loan

- Vợ: Nguyễn Thị Yến

- Con: 1 người con, sinh 1983

b. Quá trình hoạt động

Từ 1968 đến 1979 còn nhỏ sống với cha mẹ, đi học hết lớp 5/12. Từ 1979 đến 1984 nghỉ học làm mướn. Ngày 2/9/1985 phạm tội cướp giật tài sản công dân, TAND TP HCM xử 3 năm tù, ra tù ngày 4/11/1988. Tháng 10/1991, gây rối trật tự công cộng, Công an phường Cô Giang bắt đưa đi cưỡng bức lao động tại Tân Uyên, Sông Bé đến tháng 2/1992. Ngày 13/9/2001 sử dụng trái phép chất ma túy, Công an phường lập hồ sơ cảnh cáo. Ngày 15/9/2001, sử dụng trái phép chất ma túy, Công an phường lập hồ sơ cảnh cáo. Ngày 3/10/2001, tàng trữ trái phép chất ma túy, Công an phường Cô Giang bắt, Công an quận 1 lập hồ sơ cảnh cáo.

- Tiền án: 1

- Tiền sự: 5

- Tạm giam: 11/4/2002

c. Hành vi phạm tội

Cuối năm 1995, Nguyễn Minh Khánh đã đến khách sạn Minh Thắng của anh Nguyễn Minh Đức quậy phá không cho khách đến khách sạn ăn, nghỉ rồi bắt chủ khách sạn phải chi tiền “bảo kê” hàng tháng cho Khánh nếu không Khánh sẽ tiếp tục quậy phá. Do đó kể từ tháng 1/1996 đến tháng 2/2002 anh Nguyễn Minh Đức chủ khách sạn Minh Thắng đã phải đưa cho Nguyền Minh Khánh mỗi tháng 1,5 triệu đồng; tổng số tiền mà Khánh chiếm đoạt trong 73 tháng là 109.500.000 đồng. Với các tài liệu chứng cứ thu được có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Minh Khánh phạm tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điểm d, khoản 2, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN cần phải đưa truy tố trước pháp luật.
 
144. Bị can Đỗ Đạt Giang

a. Lý lịch bị can

- Sinh ngày 15/7/1968 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 147 Thích Quảng Đức, phường 4, Phú Nhuận, TP HCM

- Chỗ ở: 21/15A Trường Sơn, phường 4, Tân Bình, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 6/12

- Cha: Đỗ Văn Tu (chết)

- Mẹ: Nguyễn Thị Phương Hải, sinh 1935

- Vợ: Lê Thị Trúc Phượng, vợ 2 Nguyễn Thị Mỹ An

- Con: 1 người con

b. Quá trình hoạt động

Từ nhỏ đến 1985, sống chung với cha mẹ đi học hết lớp 6/12, sau đó nghỉ học ở nhà. Từ 1985 đến 1989 tuổi làm thuê tại quận 6. Từ 1989 đến 1992, buôn bán. Từ 1993 đến 1994, lái xe cho Bộ Lâm nghiệp. Từ 1994 đến 1997 làm ở khách sạn Sơn Lâm. Năm 1999 đến tháng 11/2001, ở tại 21/15 Trường Sơn, không làm công việc gì.

- Tiền án: Năm 1996 can tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bị TAND quận Phú Nhuận xử 6 tháng tù cho hưởng án treo.

- Tiền sự: Tháng 6/1996 gây tai nạn giao thông. PC16 TP HCM lập hồ sơ đề nghị truy tố, VKSND TP HCM đình chỉ điều tra. Ngày 30/11/1995, PC25 bắt tội gây rối trật tự công cộng.

- Tạm giam: 7/1/2002

c. Hành vi phạm tội

Đỗ Đạt Giang là đối tượng hình sự hoạt động trong băng nhóm của Trương Văn Cam nhiều năm, có mối quan hệ đặc biệt với Sáu Được, trong quá trình phạm tội y đã sử dụng uy tín của giới giang hồ để phô trương thanh thế nhằm cưỡng đoạt tài sản.

Năm 1997, Đỗ Đạt Giang và Nguyễn Thanh Tuyền đã thuê căn nhà 21/15A đường Trường Sơn để chung sống với nhau như vợ chồng. Năm 1998 chị Nguyễn Thanh Tuyền đã bỏ tiền ra mua căn nhà này của anh Trần Huy Hoan với giá 52 lượng vàng (Tuyền đã trả cho anh Hoan 45 lượng vàng), nhưng sau đó đã bị Giang cưỡng đoạt bằng cách ép Tuyền phải để Giang ký vào giấy bán nhà, phải giao giấy tờ căn nhà này cho Giang và phải viết giấy xác nhận cam kết không tranh chấp căn nhà này với Giang. Giá trị tài sản đã chiếm đoạt chính là 45 lượng vàng mà chị Tuyền đã thanh toán trả cho anh Hoan khi mua nhà. Ngoài ra Giang còn cưỡng đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc Nương 5 lượng vàng; cưỡng đoạt của chị Lê Thị Hồng Ngọc 100 triệu đồng; Cưỡng đoạt của anh Lâm Hưng Quốc 20 triệu đồng. Tổng số tài sản mà Giang đã chiếm đoạt được là 50 lượng vàng và 130 triệu đồng. Quá trình đấu tranh, Giang ngoan cố khai báo quanh co, chối tội không thừa nhận hành vi sai phạm nhằm trốn tránh nhiệm. Với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được nêu trên, có đủ cơ sở kết luận Đỗ Đạt Giang phạm tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại điểm a, khoản 3, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN.

Tài sản và tang vật thu giữ

- 11.000.000 đồng

- 1 ngân phiếu 1 triệu đồng

- 550 USD

- 1 máy vi tính xách tay

- 2 đồng hồ GuGic

- 0,6 lượng vàng trang sức

- 1 dao thái lan và 1 dao bầu

- 1 la bàn

- 1 đĩa CDRom

- 2 ĐTDĐ Nokia và Motorola

Tài sản kê biên:01 căn nhà số 21/15 Trường Sơn, phường 4, Tân Bình.
 
145. Bị can Trần Văn Minh (Minh "Cuội")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm 1963 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 152/1 Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, quận 7, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 4/12

- Cha: Trần Văn Cuội

- Mẹ: Nguyễn Thị Châu

- Vợ: Trần Thị Hồng Phượng

- Con: 1 con trai, sinh năm 1996

b. Quá trình hoạt động

Từ 1963 đến 1982 còn nhỏ đi học hết lớp 4/12. Từ 1983 đến 1985 cải tạo tại trại Đồng Phú 3 về tội cướp giật tài sản công dân. Từ 1986 đến nay làm dân phòng tại chợ cá Cầu Ông Lãnh.

- Tiền án: 1

- Tiền sự: không

- Tạm giam: 7/1/2002

c. Hành vi phạm tội

Trần Văn Minh là một đối tượng hình sự thường quậy phá, gây rối trật tự công cộng tại khu vực chợ cá Cầu Ông Lãnh và đã bị đưa đi cưỡng bức lao động, làm cho các hộ kinh doanh tại chợ rất lo sợ bị Minh quậy phá. Đặc biệt sau khi đi cưỡng bức lao động về, Minh được đưa vào tổ dân phòng của phường thì uy thế của Minh càng lớn hơn. Mặc dù đã được trả lương hàng tháng nhưng Minh vẫn tìm cách và chỉ đạo cho Lê Văn Thơm đi thu tiền bảo kê của một số chủ ô cá, cụ thể đã thu của Lê Thị Lắm mỗi tháng 600.000 đồng, tổng số đã thu được 12 tháng bằng 7.200.000 đồng; thu của chị Đặng Thị Kim Nho mỗi tháng 200.000 đồng, tổng số đã thu được 12 tháng bằng 2.400.000 đồng. Với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có đủ cơ sở kết luận Trần Văn Minh và Lê Văn Thơm phạm tội Cưỡng đoạt tài sản, tội danh được quy định tại khoản 1, điều 135 Bộ luật hình sự nước CHXHCNVN, cần phải đưa truy tố trước pháp luật, trong đó Trần Văn Minh là đối tượng có vai trò cầm đầu, chủ mưu còn Lê Văn Thơm là người thực hiện.

Tài sản và vật chứng thu giữ: 1 xe máy Honda
 
146. Bị can Lê Văn Thơm (Thơm "Đui")

a. Lý lịch bị can

- Sinh năm 1962 tại TP HCM

- ĐKNKTT: 177X Bến Chương Dương, Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM

- Chỗ ở: 290/14 Dương Bá Trạc, phường 1, quận 8, TP HCM

- Dân tộc: Kinh

- Quốc tịch: Việt Nam

- Tôn giáo: Không

- Trình độ văn hóa: 2/12

- Cha: Hồ Văn Hải (chết)

- Mẹ: Lê Thị Hạnh, sinh 1941

- Vợ: Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Thị Dung (không hôn thú)

- Con: 4 người con.

b. Quá trình hoạt động

Từ 1961 đến 1975 còn nhỏ ở với cha mẹ tại 177X Bến Chương Dương. Từ 1975 đến 1980 đi kinh tế mới tại Long Hòa 2, Bến Cát, Sông Bé. Từ 1980 đến 1982 đi cưỡng bức lao động tại Duyên Hải, hành vi trộm cắp tài sản công dân. Từ 1982 đến 1985 đạp xích lô. Từ 1985 đến 1989 bốc vác tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1. Từ 1989 đến 2002 bốc xếp tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, quận 1. Hiện nay ở số 290/14 Dương Bá Trạc, phường 1, quận 8.

- Tiền án: Không

- Tiền sự: 1

- Bị can tại ngoại

c. Hành vi phạm tội

Lê Văn Thơm là bảo vệ dân phòng phường Cầu Ông Lãnh, quận 1 được tuyển vào làm việc từ năm 1987 đến tháng 3/2002 thì nghỉ việc. Ngoài nhiệm vụ được giao làm công tác an ninh trật tự tại khu vực chợ cá thì Lê Văn Thơm được Trần Văn Minh giao nhiệm vụ hằng tháng trực tiếp đến 2 ô cá của Lê Thị Lắm (Năm Mọi) và Đặng Thị Kim Nho thu tiền bảo kê (trong 12 tháng). Số tiền thu được, Thơm đưa lại cho Trần Văn Minh, Minh trực tiếp đưa cho Thơm mỗi tháng từ 120.000 đến 200.000 đồng. Giá trị tài sản, Minh và Thơm đã cưỡng đoạt là 9.600.000 đồng.

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ thu thập được, lời khai của bị hại và lời khai nhận tội của Lê Văn Thơm, Cơ quan Cảnh sát điều tra đủ cơ sở kết luận Lê văn Thơm đồng phạm về tội cưỡng đoạt tài sản, tội danh quy định tại khoản 1, điều 135 BLHS.
 
Back
Bên trên