Một chút thơ.....

Sơn Hữu Xu (Tam Chương)

Sơn hữu xu,
Thấp hữu du.
Tử hữu y thường,
Phất duệ phất lâu.
Tử hữu xa mă,
Phất tŕ phất khu,
Uyển kỳ tử hỹ,
Tha nhân thị du.

(Đường Phong)
 
Núi cao mọc sẵn cây xu,
Dưới đồng lại có cây du mọc dày.
Áo quần người có đủ đầy,
Cất đi không mặc, chẳng hoài của sao?
Xe xe, ngựa ngựa xôn xao,
Cất xe nhốt ngựa, hôm nào mới đi?
Nhỡ ra ngài chết một khi,
Ngựa xe, quần áo, người th́ chiếm luôn

Khuyết Danh dịch
 
Tầm ẩn giả Vi Cửu ư Đông Khê thảo đường

Tầm đắc tiên nguyên phỏng ẩn luân ,
Tiệm lại thâm xứ tiệm vô trần .
Sơ hành trúc lư duy thông mă ,
Trực đáo hoa gian thủ kiến nhân .
Tứ diện vân sơn thùy thị chủ ,
Sổ gia yên hỏa tự vi lân .
Lộ bàng tiều khách hà tu vấn ,
Triều thị như kim bất tính Tần


Châu Loan
 
T́m nhà ẩn dật Vi Cửu ở thảo đường Đông khê

T́m được nguồn tiên , thăm dật nhân ;
Dần sâu , dần hết bụi trần gian .
Xuyên đường trúc , đủ len chân ngựa ;
Vào khóm hoa , mới thấy người nhàn .
Mây núi bốn bể , ai đó chủ ?
Xóm giềng vài nóc khói nhà dân .
Gă tiều bên lộ cần chi hỏi ;
Triều chợ giờ đây chẳng họ Tần .


Bản dịch Trần Trọng San
 
Khiển Hoài


Lạc thác giang hồ tái tửu hành ,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh .
Thập niên nhất giác Dương châu mộng ,
Doanh đắc thanh lâu bạc hănh thanh .

Đỗ Mục
 
Khiển Hoài


Vơ vẩn sông hồ nghiêng ngả say ;
Lưng thon bé nhỏ tựa trong tay .
Dương Châu chợt tỉnh mười năm mộng ,
Được tiếng lầu xanh phụ bạc hoài .

Bản dịch Trần Trọng San
 
Bạc Tần Hoài


Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa ,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia .
Thương nữ bất tri vong quốc hận ,
Cách giang do xướng Hậu đ́nh hoa

Đỗ Mục
 
Thuyền đậu sông Tần Hoài


Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông c̣n hát Hậu Đ́nh Hoa .


bản dịch Trần Trọng San
 
Xích Bích Hoài Cổ



Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu ,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều .
Đông phong bất dữ Chu Lang tiện ,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều .

Đỗ Mục
 
Xích Bích Hoài Cổ

Giáo ch́m , sắt vẫn c̣n trơ ,
Rửa xem , nhận biết triều xưa rơ ràng .
Gió đông không giúp Chu Lang
Khóa xuân Đồng Tước đă giam hai Kiều .

Bản dịch Trần Trọng San
 
THÁN HOA

Tự thị tầm phương khứ giảo tŕ
Bất tu trù trướng oán phương th́
Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc
Lục diệp thành âm tử măn chi

 
Dịch thơ :

Thuở t́m hương trong phút muộn màng
Chẳng trách xuân khi vàng nắng hạ
Gió lay rơi cánh hồng hoa
Trái trĩu đầy cành lẫn lá non xanh

 
Thất Tịch


Ngân chúc thu quang lănh họa b́nh
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
Tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh

Đỗ Mục
 
Dịch nghĩa :

Ngọn nến bạc , toả ra ánh sáng thu , chiếu lên bức b́nh phong giá lạnh
Chiếc quạt lụa nhỏ mềm xua đập những con đom đóm bay
Trên thềm trời , màu đen mát mẻ như nước
Nằm trông sao Khiên Ngưu và sao Chức Nữ

 
Đêm Thất Tịch

Nến soi bức họa, lạnh đêm thâu ;
Quạt lụa xua hoài lũ đóm bâu .
Màu tối thềm trời như nước mát ;
Nằm trông Ả Chức gặp chàng Ngâu .


Bản dịch Trần Trọng San
 
KIM CỐC VIÊN

Phồn hoa sự tán trục hương trần
Lưu thủy vô t́nh thảo tự xuân
Nhật mộ đông phong oán đề điểu
Lạc hoa do tự trụy lâu nhân
 
Dịch nghĩa :

Những việc phồn hoa đă tan tác theo lớp bụi thơm
Nước vô t́nh chảy cỏ cứ việc tự tươi thắm
Chiều về chim kêu ai oán trong gió đông
Hoa rụng mà c̣n như người nào (năm xưa) nhảy xuống lầu

 
Dịch thơ :

KIM CỐC VIÊN

Phồn hoa tan tác bụi trần
Vô t́nh nước chảy cỏ xuân tươi màu
Gió đông ai oán chim sầu
Hoa rơi giống kẻ rơi lầu ngày xưa

Trần Trọng San dịch
 
KÍ DƯƠNG CHÂU HÀN SƯỚC PHÁN QUAN

Thanh sơn ẩn ẩn thủy điều điều
Thu tận Giang Nam thảo vị(mộc) điêu
Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ
Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu

 
Dịch nghĩa :

Núi xanh mờ mờ nước xa xa
Giang Nam cuối thu cỏ c̣n chưa xơ xác
Tại cầu Nhị thập tứ đêm trăng sáng
Người đẹp biết ở đâu nhờ dạy thổi sáo

 
Back
Bên trên