Một chút thơ.....

Hội Tây


Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo ,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo !
Bà quan tênh hếch xem bơi trải ,
Thằng bé lom khom ghé hát chèo.
Cậy sức , cây đu nhiều chị bám;
Tham tiền , cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế ,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu
 
Tổng Vịnh Kiều (*)


Kiều nhi giấc mộng, bặt như cười
Tỉnh dậy xuân sanh quá nửa rồi .
Số kiếp bởi đâu mà lận đận ?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi !
Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén,
Giọt nước sông Tiền nợ chửa xuôi.
Chẳng trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi.
 
Kiều Bán Mình


Thằng bán tơ kia giở giói ra ,
Làm cho bận đến cụ Viên già .
Muốn êm phải biện ba trăm lạng ,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa .
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ , (*)
Đem thân chuộc lấy tội tình cha .
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ ?
Đời trước làm quan cũng thế a ?
 
Thu Điếu


Ao thu lạnh lẽo nước trong veo ,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo .
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí ,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo .
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được ,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo .
 
Thu Ẩm


Năm gian nhà có thấp le te ,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt ,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe .
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe .
Rượu tiếng rằng hay , hay chả mấy ,
Ðộ năm ba chén đã say nhè .
 
Thu Vịnh


Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao ,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu ,
Nước biếc trong như tầng khói phủ ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào .
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái ,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút ,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào .(*)

Nguyễn Khuyến


* Ðào tức ông Ðào Tiềm thời Tấn .
 
VỊNH MÙA HÈ

Biếng trông trời hạ nước non xa,
Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ.
Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.
Thơ Đào (1) cửa miệng đưa câu rượu
Xóm Liễu (2) quanh khe chịu tiếng khờ.
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa.

1. Đào tức là Đào Tiềm đời Tấn.
2. Liễu Tôn Nguyên bị vua bắt tội, phải về quê, tự cho mình là ngu dại.
 
TỰ TRÀO

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng,
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
 
TỰ THUẬT

Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,
Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa, thưa rằng được.
Chén rượu say rồi, nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.
 
CHẾ ÔNG ĐỖ CỰ LỘC

Văn hay chữ tốt ra tuồng,
Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.
Vẻ thầy như vẻ con tôm,
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.
Vẻ lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,
Vẻ cô đầu nói móc có vài câu:
Anh chẳng sang, mà cũng chẳng giàu.
Hầu bao ních, rận bâu quanh chiếu;
Khăn nhuộm lờ lờ mùi nước điếu,
Nón sơn không méo cũng không tròn.
Quần vải thô, ngại giặt ngả màu son,
Giày cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lấy.
Phong lưu ấy, mà tình tính ấy,
Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,
Xinh thay diện mạo anh hùng!
 
MỪNG ÔNG NGHÈ MỚI ĐỖ

Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
Ân tứ (1) dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh, (2)
Hoãn (3) đẹp nàng này khó nhẽ che.
Hiển quí đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe. (4)

1. Ân tứ: ơn vua ban.
2. Câu này rút ý câu ca dao:
Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.
Ông nghè sai lính ra ve,
- Trăm lạy ông nghè, tôi đã có con.
- Có con thì mặc có con.
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.
3. Hoãn: một loại hoa tai vàng.
4. Câu này rút ý câu tục ngữ:
Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.
 
HỎI THĂM QUAN TUẦN BỊ MẤT CƯỚP

Tôi nghe khẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông ðến giữa ðồng.
Lấy của ðánh người quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc có ðau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước ði ðâu mất mảy lông.
Thôi cũng ðừng nên ki cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!
 
TẶNG ĐỐC HỌC HÀ NAM

Ai rằng ông dại với ông điên,
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
Khoét thằng mặt trắng (1) lấy tam nguyên (2)
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,
Phép nước xin chừa móng lợn đen (3)
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.


1. Thằng mặt trắng: do câu "Bạch diện thư sinh" chỉ người học trò.
2. Tam nguyên: ba đồng bạc; còn đồng âm với chữ "Tam nguyên" là đỗ đầu luôn ba khoa: thi hương, thi hội và thi đình.
3. Móng lợn đen: ám chỉ việc ông đốc học này đã có lần bị Tây đá đít.
 
MỪNG ĐỐC HỌC HÀ NAM

Ông làm đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,
Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy. (1)
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.



1. Một chầy: tức một tiền. Ngày xưa, mỗi thí sinh khi vào nộp quyển khảo thi, phải nộp kèm theo một tiền (60 đồng kẽm).
 
TẶNG BÀ HẬU CẨM

Nghĩ xem đẹp nhất ở làng Và,
Tiếc gọi rằng già cũng chửa già
Làn sóng liếc ngang đôi mắt phượng
Tóc mây rủ xuống một đuôi gà.
Nói năng duyên dáng coi như thể...
Đi đứng khoan thai thế cũng là...
Nghe nói muốn thôi, thôi chửa được,
Được làm dơ dở đã thôi a?
 
THẦY ĐỒ VE GÁI GOÁ

Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay!
Bắc cầu, câu cũ (1) không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa (2) vẫn đắng cay.
Ở góa thế gian nào mấy mụ?
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy?
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

1. Do câu ca dao:
"Muốn sang thì bắc cầu kiều..."
2. Do câu ca dao:
"Trách người quân tử vô tình,
Có gương mà để bên mình không soi"
ý nói: người đàn bà goá chê thầy đồ nhát gan, không dám mạnh bạo hơn trong việc ve gái.
 
LỜI GÁI GOÁ

Chàng chẳng biết gái này gái goá,
Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.
Khéo thay cái mụ tá ơm. (1)
Đem chàng trẻ tuổi ép làm lứa đôi.
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,
Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao.
Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?

Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi;
Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
Tư bôn (2) lại phải kẻ cười người chê.
Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?
Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay.
Thương thì gạo vải cho vay,
Lấy chồng thì gái goá này xin van!



1. Mụ tá ươm: chỉ người mai mối.
2. Tư bôn: chỉ người con gái chốn nhà đi theo trai
 
MUỐN LẤY CHỒNG

Bực gì bằng gái trực phòng không?
Tơ tưởng vì chung một tấm chồng.
Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại, nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
 
LẤY TÂY

Con gái đời này, gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
Ba vuông phất phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
Trời đất khéo thương chàng bạch quỉ (1)
Giang san riêng sướng ả hồng nhan
Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
Con gái đời nay, gái mới ngoan! (2)


(1) Bạch quỉ: chỉ tên người Pháp.
(2) Tác giả tỏ thái độ chua chát trước cảnh "lấy Tây" của gái Việt thời đó.
 
LỜI VỢ ANH PHƯỜNG CHÈO

Xóm bên đông có phường chèo trọ,
Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò:
Rằng: "ta thường làm quan to,
Sao người coi chẳng ra trò trống chi?"
Vợ giận lắm mắng đi mắng lại:
"Tuổi đã già sao dại như ri?
Đêm hôm ai chẳng biết chi,
Người ta biết đến thiếp thì hổ thay!
Ở đời có hai điều nên sợ:
Sống chết người, quyền ở trong tay.
Thế mà chàng đã chẳng hay.
Còn ai sợ đến phường này nữa chăng?
Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,
Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì,
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề".
 
Back
Bên trên