Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ




Đài BBC phỏng vấn Khánh Ly


Hương Ly thực hiện


Phần I:
(Nhạc dạo)

BBC: Xin chào ca sĩ Khánh Ly và rất là cám ơn ca sĩ Khánh Ly đã đến với chuyên mục Phỏng Vấn Hàng Tuần của đài BBB Luân Đôn. Trước hết là xin ca sĩ cho biết đôi nét về thân thế sự nghiệp của mình ạ, từ khi nào thì ca sĩ bắt đầu bước vào lĩnh vực âm nhạc ạ ?

Khánh Ly: Thưa trước hết xin phép chị cho Khánh Ly được gửi lời chúc mừng đầu năm đến tất cả những người VN ở trên khắp thế giới, nói chung một lời chúc mừng năm mới nhiều sức khỏe, hạnh phúc và may mắn.

Thưa chị nếu mà nói về đi hát mà chính thức, trở thành chuyên nghiệp đó thì Khánh Ly đã bắt đầu từ năm 16 tuổi, còn trước đó nữa thì có lẽ nhờ ảnh hưởng của ông cụ cho nên Khánh Ly biết hát cùng lúc với biết nói và (cười) cái thời gian đó thì mình không tính làm gì nhưng mà khi bắt đầu trở thành mà chuyên nghiệp hát và làm ra tiền đó là năm 16 tuổi tức là năm 1962 .

BBC: Vậy thưa ca sĩ lúc đó là ca sĩ bắt đầu cái nghiệp hát của mình là ở Saigon ?

Khánh Ly: Dạ thưa em bắt đầu chính thức đi hát chuyên nghiệp là ở Saigon, vì hồi di cư đó thì lúc đó em mới có 9, 10 tuổi thôi .

BBC: Thưa ca sĩ thì lúc bắt đầu bước vào cái nghiệp ca hát như vậy thì có cái kỷ niệm nào mà ca sĩ nhớ nhất ạ ?

Khánh Ly: À… Em thì em có nhiều kỷ niệm lắm là bởi vì cái mà nặng nề nhất là gia đình, tại vì gia đình em quá khó cho nên không có bằng lòng cho em đi hát và em phải trải qua rất nhiều cơ cực ở trong gia đình vì cái chuyện hát hò này đó là một trong những cái kỷ niệm em mà không bao giờ em có thể quên được với sự khắc khe mà gần như là tàn nhẫn của bố mẹ em, bây giờ mình nghĩ lại đó thì mình thấy là các cụ cấm mình đi hát đó, đôi khi các cụ cũng có lý chứ không phải là không .

BBC:
Dạ thưa ca sĩ thì ca sĩ có nhớ một trong những ca khúc đầu tiên mà ca sĩ hát đó là ca khúc gì không ? Và lần đầu tiên mà ca sĩ xuất hiện trước công chúng, trước khán giả thì ca sĩ cảm thấy thế nào ạ ?

Khánh Ly: Bài hát đầu tiên mà em biết hát là bài hát "Chiều Vàng" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, bài "Con Thuyền Không Bến” của nhạc sĩ Đặng Thế Phong, và tất cả nhạc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Từ Linh và bài "Biệt Ly" của nhạc sĩ Dzoãn Mẫn và khi mà em hát đó tại vì em còn quá nhỏ, em chưa có đủ tuổi vào vũ trường cho nên em đi theo người anh của em và khi mà em vào vũ trường thì em cứ tự động leo lên sân khấu hát thôi và em cũng chẳng thấy ai phản đối cả, chủ cũng không phản đối mà người đi nghe nhạc, thời đó là họ đi nhảy không hà chứ chưa có phòng trà chị, thì cũng chả có ai phản đối gì cả, lúc đó khoảng 60, 61 thì em chỉ lên hát chơi thôi, cho đến năm 62 em mới chính thức nhận hát cho một cái phòng trà mà nguyên nó là một cái quán cơm của sinh viên ở đường Bùi Viện và cái quán đó tên quán Anh Vũ nó nằm ở cái chỗ mà hồi xưa người Saigon gọi là Ngã Tư Quốc Tế, thì lúc đó thì em có được tiền nhưng mà rất là ít nghĩa là họ trả tượng trưng thôi tại vì em không phải là ca sĩ nổi tiếng, em coi như là một khuôn mặt mới, lạ thì coi như họ thưởng tiền cho mình vậy thôi chứ không phải là trả lương .

BBC: Như vậy lúc đó ca sĩ vừa mới nói ca sĩ mới có 16 tuổi thôi mà ca sĩ đã trình bày những ca khúc như "Con thuyền không bến" và những ca khúc khúc như vậy nó mang tâm tư của cả đời người cơ vậy tại sao tuổi mới có 16 mà ca sĩ đã chọn những ca khúc đó để mà trình bày ạ ?

Khánh Ly: Em được ảnh hưởng của ông cụ em, thì khi mà em vừa tập nói thì ông cụ em chơi đàn mandoline thì ông cụ hay hát những bài hát đó, và những bài hát đó lem bị nhập tâm từ lúc em mới 2,3 tuổi gì đó em đã biết những bài đó, rồi sau di cư em chọn toàn nhạc tiền chiến không, mặc dù là em nhỏ nhưng mà em không thể, em không thể có một cái cảm xúc nào khi mà em nghe những cái bài hát viết theo trong cái thời đó mà lúc nào em cũng nhớ tới những bài hát mà các nhạc sĩ thì đa số đều ở lại ngoài miền Bắc hết .

BBC:
Khi mà nói tới sự nghiệp ca hát của mình đó, thì giai đoạn nào đối với ca sĩ là đáng nhớ nhất ạ ?

Khánh Ly: Dạ thưa chị, giai đoạn đầu thì trải qua nhiều cái khó khăn cực khổ bởi vì chỉ có một thân, một mình và không có được một người nào đỡ đầu hay là hướng dẫn thì tự động mình tìm cho mình một cái chỗ đứng thật là khó khăn, tại vì lúc đó Saigon ca sĩ còn là một cái gì rất là mới lạ đối với người dân ở Sai gon chưa có tới 10 ca sĩ chị, đó là thời gian đầu. Cái đáng nhớ thứ hai cái giai đoạn thứ hai là cái giai đoạn em được đi hát với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đến giai đoạn thứ ba là giai đoạn mà khi em đã ra nước ngoài rồi .

BBC:
Ca sĩ vừa mới nhắc đến giai đoạn thứ hai tức là lúc ca sĩ được đi hát với lại nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đó thì phải nói là khi mà nói đến Khánh Ly thì người ta cũng không thể tách rời một tên tuổi khác trong âm nhạc rất là nổi tiếng, đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và cách đây nhiều năm, tức là hồi thập niên 80, chính ca sĩ Khánh Ly có viết một bài mà về sau tờ Tin Thanh Niên ở VN có đăng lại là cái bài có nhan đề là "Sống giữa đời sống cũng cần có một tấm lòng" thì trong bài đó ca sĩ cũng có kể lại sự hội ngộ của ca sĩ và Trịnh Công Sơn như thế nào, thì bây giờ xin ca sĩ cho quí thính giả của đài BBC biết cái gì đã đưa đẩy ca sĩ đến với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được hay không ạ ?

Khánh Ly: Em là một cái người mà …mê hát, em thích hát và em đặt cái chuyện hát và âm nhạc đối với em như là một tôn giáo cho nên cái chuyện hát có tiền hay không có tiền là cái chuyện về sau, có cũng được có thì tốt mà không có thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến em tại vì khi mà em chính thức đi hát thì em đã bị gia đình từ, và từ đó em sống nhờ bạn bè mỗi người cho một tí mắm, mỗi người cho một chút gạo và đại khái như vậy mà em tự sống một mình

Vậy cho nên khi năm 64 anh Trịnh Công Sơn từ Lâm Đồng anh cũng đi tìm một người để hát nhạc của anh nhưng với một điều kiện là hát và không có tiền không có đòi hỏi gì cả nghĩa là chỉ có hát thôi, thì có họa sĩ Ðinh Cường là một người bạn chí thân của anh Trịnh Công Sơn từ nhỏ, có nói với anh Trịnh Công Sơn lúc đó đang ở Lâm Đồng là: “Ở Đà Lạt có một cái con nhỏ nó hát nghe cũng được lắm thì bây giờ toi thử lên toi nghe xem thử coi". Thì em nhớ có một cái đêm em không nhớ tháng nhưng em nhớ nó là năm 64 anh Trịnh Công Sơn lên Đa Lạt và đến vũ trường Night Club ngồi nghe em hát rồi anh làm quen em, anh tự giới thiệu và anh làm quen em rồi sau đó hai anh em tập hát với nhau. Em với anh Trịnh Công Sơn thì quen và thân nhau rất là nhanh gần giống như là điện mà chạm nhau vậy đó, bắt được cái cảm nghĩ, cái cảm nhận của nhau rất là lẹ và anh Trịnh Công Sơn không có tốn thời giờ để mà tập hát cho em, đó là năm 64.

Rồi sau đó anh muốn em về Saigon hát nhưng mà em không chịu là bởi vì em yêu Đà Lạt vì Đà Lạt nó yên tĩnh và không có cái cảnh mà phải bon chen, phải đi chạy chọt đi tìm chỗ này chỗ kia hát, tại vì em không có một người nào quen là nhạc sĩ ở Saigon để mà đỡ đầu cho mình cho nên em từ chối, em từ chối rồi đến năm 66 thì em với anh Trịnh Công Sơn gần như là mất liên lạc với nhau vì lúc đó anh Sơn đi về Saigon .

Ðến năm 67, thì sau cái lần ly dị đầu tiên là năm 67 em về Saigon và tình cờ em gặp lại anh Trịnh Công Sơn, lúc đó thì anh Trịnh Công Sơn hát một mình thôi tại vì anh không tìm được ai để đi hát với anh cả, trong một cái điều kiện mà hát không tiền thì cũng khó lắm chị cho nên khi anh Trịnh Công Sơn gặp em, anh Sơn mừng lắm, anh Sơn hỏi em là "Mai có rảnh thì đến đây hát với anh” thì em nhận lời liền và từ năm 67 cho tới năm 75, dù có anh Sơn hay là dù người khác đàn thay anh Sơn em cũng vẫn đi tới những trường học, trường đại Học, trung học, em đi tới những viện mồ côi, nhà thờ, nhà chùa hoặc là những tiền đồn xa xôi để em hát và vẫn theo cái tiêu chuẩn mà anh Sơn đặt ra là "không lấy tiền" .

BBC: Dạ thưa chị có thể nói là sau này ngoài ca sĩ Khánh Ly ra thì cũng còn rất là nhiều ca sĩ khác hát nhạc của Trịnh Công Sơn, ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thế nhưng mà công chúng họ vẫn đánh giá là ca sĩ Khánh Ly đã chuyển tải một cái cách mà có thể nói là có một không hai những cái ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vậy thì xin chị cho biết là khi mà chị hát các ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì có điều gì để mà làm cho chị có thể chuyển tải được một cách khác biệt như vậy

Khánh Ly: À thưa chị điều thứ nhất là em gần anh Sơn nhiều và anh Sơn và em hai người dù có ngồi với nhau cả một ngày hay cả một tháng chúng em anh Sơn và em rất ít nói về bài hát nhưng khi anh Sơn hát ra một bài thì em cảm nhận được ngay những điều mà anh Sơn muốn gửi gấm vào trong bài hát và em nhập tâm liền. Em có một cái cảm giác là "anh Sơn viết cái bài này cho mình" dẫu rằng anh viết cho một người khác ở trong một cái hoàn cảnh khác nhưng mà em vẫn tìm thấy được cái dáng dấp của mình, cái đời sống của mình, cái cảm nghĩ của mình, cái tình yêu của mình ở trong những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, cho nên anh Sơn không cần phải nói nhiều với em về bài hát mà anh đã viết, trừ những bài hát về Ca Khúc Da Vàng thì đôi lúc có những điều em không hiểu thì em hỏi và anh Sơn không bao giờ ngại cắt nghĩa cho em nghe.

Sau này có nhiều người hát nhạc Trịnh Công Sơn, theo em thì cũng rất là đạt, em thấy là một bài hát của một nhạc sĩ làm ra không thể nói là dành riêng cho một người nào, dẫu rằng trong lòng người nhạc đó nghĩ đến người ca sĩ đó để viết cái bài hát đó, nhưng không thể nói rằng "tôi viết bài này hay ông ấy viết bài này cho tôi thì để một mình tôi hát thôi" mà em thì em thấy là càng nhiều người hát thì càng tốt là bởi vì mỗi người có thể diễn tả cái bài hát theo cái cảm nghĩ của mình, theo cái xúc cảm, tình cảm của mình lúc đó nó được bộc phát như thế nào qua cái bài hát đó thì sẽ làm cho cái giòng nhạc của người nhạc sĩ đó trở nên phong phú hơn, giàu có hơn, chớ nếumà nghe một người ..có thể nhiều khi nó là một cái thói quen nghe một người hát quá lâu loại nhạc của một nhạc sĩ rồi tới lúc mà nghe một người khác hát thì đôi khi cũng có những người họ bị shocked là bởi vì cái người nhạc sĩ đó người ca sĩ đó và những tình khúc đó đã là một cái kỷ niệm, một cái phần đời của họ không có cái gì có thể thay thế được .

BBC: Thưa ca sĩ Khánh Ly thế thì khi mà nói về những kỷ niệm đi hát cùng với lại nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đó, thế thì có những kỷ niệm nào đáng nhớ nhất vì cách đây nhiều năm thì các con trai của chị có ra 1 cuốn Vidéo kỷ niệm “30 năm đời đi hát” của chị thì trong đó có những thước phim tư liệu ghi lại những cái lần trình diễn các ca khúc trong tập Ca Khúc Da Vàng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì chị có thể cho biết đôi nét về những giai đoạn đó được hay không ?

Khánh Ly: Thật ra đó là một giai đoạn rất là khó khăn cho Trịnh Công Sơn, là bởi vì anh bị cả 2 phía dồn anh, gần như là săn đuổi anh và gây cho anh nhiều khó khăn, bên VN cộng Hòa hồi đó có nhiều người che chở giúp đỡ cho anh Sơn và ở bên phía miền Bắc thì cũng có bạn bè muốn lôi kéo anh Sơn về phía của họ cho nên anh Sơn không ở một chỗ nào yên được, anh luôn luôn phải di chuyển là bởi vì anh không muốn đứng về phía nào cả, tức là ý của anh Sơn là anh chỉ là một người làm nhạc và anh không làm chính trị, anh không muốn bị lôi kéo bị trở thành một cái công cụ cho bất cứ một người nào dùng anh để mà sáng tác nhạc riêng cho bên nào, thành ra đó là một giai đoạn rất là khó khăn cho anh Sơn và em ít được gặp anh trong những cái năm sau Tết Mậu Thân là anh về Huế, rồi em phải bay ra Huế để gặp anh Trịnh Công Sơn thì tình trạng đó trở lại gần như là bình thường vào khoảng năm 70, nhưng mà lúc đó thì chỉ có khi nào đặc biệt lắm là anh Sơn mới đàn cho em hát thôi .

BBC: Vâng thế thì xin chị cho biết cái kỷ niệm nào khi mà làm việc chung với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà đáng nhớ nhất trong cuộc đời của chị.

Khánh Ly: Thưa chị cái khoảng thời gian đầu khi mà tập dượt với nhau rất là đáng nhớ vì anh Sơn không phải là cái người dễ tính, anh Sơn là một người rất là nghiêm chỉnh trong công việc và anh muốn cái người mà hát với anh cũng phải nghiêm chỉnh giống như vậy đối với những nhạc phẫm của anh, cho nên em hoàn toàn tôn trọng tất cả những ý kiến của anh Trịnh Công Sơn. Đó là một thời gian rất là khó khăn khi em bị anh Sơn bắt em chuyển từ giọng óc qua giọng thật tức là giọng bụng của mình, em phải tập dượt mấy tháng trời và bị tắt tiếng 1 tháng không hát được và cái kỷ niệm kế tiếp là năm 92 khi mà gặp nhau lại lần thứ 2, năm 88 thì em gặp anh Sơn ở Paris khoảng thời gian gặp gỡ nhau chỉ được 3 lần thôi, lúc đó thì anh em chỉ có ôm nhau mà khóc thôi chứ không có hát hò gì được . Nhưng mà năm 92 khi mà anh Sơn qua Canada để mà chữa bệnh thì em được gần anh Sơn nhiều hơn và anh Sơn tập cho em một số những bài mới như là bài “ Tôi đang lắng nghe” “Tôi ơi đừng tuyệt vọng” " Một Cõi đi về", "Một cõi đi về" thì anh Sơn làm từ năm 73 ở ngoài Huế và anh Sơn đã tập cho em từ thời 73 nhưng mà em vì tập nhanh quá cho nên em hát sai, đến năm 92 anh Sơn tập lại cho em cái bài "Một cõi đi về" cùng với một số bài mới anh viết sau này . Đó là cái thời gian rất là đẹp mà em được gặp anh Sơn ở Việt Nam . Rồi sau đó em trở về Việt Nam gặp anh Sơn năm 97 thì chỉ được có 5 ngày thôi . Nhưng mà đến năm 2000 khi em trở về em được ở gần anh Sơn 3 tuần lễ, ngày nào em cũng ngồi với anh Sơn từ sáng cho đến khoảng sau nửa đêm thì em mới về tới chỗ nhà riêng em ở và đó chúng em cũng không nói được nhiều và lúc đó là lúc anh Sơn tập cho em những bài hát gần như là những bài hát cuối cùng của anh

( Nhạc dạo ..tiếng hát Khánh Ly "Nhìn những mùa thu đi ..em nghe sầu lên trong nắng …và lá rụng ngoài song ..nghe tên mình vào quên lãng ..nghe tháng ngày chết trong thu vàng ….")

Phần II

(Nhạc dạo …tiếng hát Khánh Ly "Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em …đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền …ngoài phố mùa đông đôi môi em là đốm lửa hồng… Ru đời đi nhé cho ta nương nhờ lúc thở than …chân đi nằng nặng hoang mang … ta nghe tịch lạc rơi nhanh … dưới khe im lìm….”)

BBC: Có thể nói chị đã từng trình bày rất nhiều ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng mà chị tâm đắc nhất với ca khúc nào và vì sao ?

Khánh Ly: Đối với em mỗi một bài của anh Trịnh Công Sơn là một nét đẹp riêng là những cái điều thầm kín sâu xa mà trong đó có cả hạnh phúc và khổ đau cho nên phải nói là bài nào của anh Trịnh Công Sơn em cũng thích hết, miễn là được hát lên đúng lúc, không thể nói rằng em thích bài nào nhất, tất cả bài của anh Sơn thì bài nào em cũng đều yêu cả, chỉ có tùy cái lúc mà tâm hồn mình nó rung cảm với một ca khúc nào đó mình cảm thấy hợp với mình trong lúc đó thì khi mình hát lên mình sẽ hát với cả trái tim và tấm lòng của mình .

BBC: Nhưng mà nếu nói đến một ca khúc nào cụ thể nào đấy chị có thể nói là chị thích hay chị cảm thấy nó gần gủi với chị nhất thì đó là ca khúc nào ?

Khánh Ly: Thưa chị đó là bài "Để gió cuốn đi” chị .

BBC: Tại sao chị lại cảm thấy bài "Để gió cuốn đi” là hợp với mình nhất ?

Khánh Ly: À thưa chị tại vì em hỏi anh Sơn cái thời mà em còn nhỏ và lúc đó anh em nghèo lắm, anh Sơn và em nghèo lắm, thì em hỏi anh là : "Mình sống trong đời sống thì mình cần cái gì ?" tại vì anh Sơn còn là một người thầy của em nữa, và em yêu quí anh Sơn hơn tất cả mọi người, ngoại trừ ông cụ em thì em yêu quí anh Sơn trên tất cả mọi người . Khi em hỏi câu đó là "Mình sống trong đời sống mình cần phải có cái gì ? Danh vọng, tiền bạc hay là tình yêu ?" thì anh Sơn trả lời là: " Em cứ sống trong đời sống bằng một tấm lòng" thì em hỏi: "Tấm lòng để làm cái gì ? trong khi đó mình quá nghèo, mình chẳng có cái gì trong tay, cái áo dài mình cũng không có nữa" thì anh Sơn cười anh Sơn nói là: "Em cứ sống với một tấm lòng dù chẳng để làm gì cả dù chỉ để gió cuốn đi và hãy cố gắng sống một cách tử tế với tất cả mọi người, tử tế với mình trước thì sẽ tử tê được với tất cả mọi người” Cái lời nói đó đã cách đây gần 40 năm rồi nhưng mà nó là kim chỉ nam cho em, đó là những điều mà em luôn luôn giữ gìn và em đi đúng, em nghĩ, em biết chứ không phải là nghĩ, em biết là em đã đi đúng những điều mà anh Sơn đã chỉ dẫn cho em .

BBC: Vâng tôi cũng nhớ là cái bài đó nó có cái đoạn nói là : “ Sống giữa đời sống cần có một tấm lòng, để làm chi em biết không ?... để gió cuốn đi” nhưng mà 40 năm nay chị cũng đã hát ca khúc đó nhiêu lần nhưng chị còn tin vào điều đó không nhất là trong lúc cái cuộc sống hằng ngày nó đổi thay, nó hiện đại hóa .

Khánh Ly: Thưa chị em tin, em tin ở tấm lòng của mọi người vốn là những người tử tế, vốn là những người lúc nào cũng nghĩ đến những điều tốt đẹp và em tin cả điều anh Sơn nói rằng “ Hãy cứ yêu đời sống dù đã mệt kiếp người, còn cuộc đời ta cứ vui dù vắng bóng ai dù có người bỏ đời mà đi mà mình vẫn còn phải sống thì mình hãy cứ vui tới như mọi người, vẫn phải sống tới như tất cả mọi người để chờ đến một lúc nào đó rồi mình cũng được gió cuốn đi . Em rất tin cái điều đó dù bây giờ thế giới tất cả mọi thứ đều được hiện đại hóa, dù người ta đã lên trên mặt trăng, dù người ta làm bất cứ một điều gì thì những cái lời của anh Trịnh Công Sơn, em nghĩ là nếu em còn có thể sống được một trăm năm nữa hay em sống cho đủ một trăm năm thì những cái điều anh Sơn nói với em vẫn đúng như thường .

BBC: Quí vị khán thính giả đài BBC Luân Đôn đang nghe cuộc phỏng vấn với ca sĩ Khánh Ly . Dạ thưa ca sĩ Khánh Ly, chị là người rời VN vào buổi tối ngày 29 tháng 4 năm 1975 và đến tận năm 1997 thì chị mới quay trở lại VN, thì trong khoảng thời gian đó làm sao mà lâu như vậy chị mới quay trở lại thăm VN ạ ?

Khánh Ly: Thưa chị , chị cũng biết là đời sống ở bên Mỹ không phải là thiên đàng như là nhiều người đã nghĩ, nếu mình nghĩ đây là thiên đàng thì cũng đúng chứ không phải là không, nhưng nếu bảo là hoàn toàn không phải làm gì cả cứ ra vườn hát lá cây mà ăn á thì cái điều đó không có, qua đây thì em và những người VN ra đi lúc đó bắt đầu một cuộc sống, bắt đầu làm lại từ đầu, bằng con số không và làm bất cứ chuyện gì, cái thứ nhất là để sống còn, cái thứ hai là để cho những người Mỹ họ nghĩ rằng dân tộc VN, những người VN là những chịu thương chịu khó, cần cù và tử tế khi sống ở đất nước người ta thì làm một cái việc gì để sống còn đều là một điều nên làm, em nghĩ là nghề nào cũng lương thiên cả chỉ có người là không lương thiện chứ không có nghề nào là xấu hay là không có nghề nào là không lương thiện cho nên em bắt đầu phải đi làm bằng những công việc thấp nhất trong xã hội tức là đi chùi rửa, đi làm janitor đó, đi làm vệ sinh ở trong một cái trường kiểu mẫu cho trẻ em, nhưng trong một thời gian ngắn thôi và sau đó thì cộng đồng VN bắt đầu tụ tập lại và chỉ một thời gian ngắn thôi mấy tháng sau thì em là người đầu tiên làm băng nhạc lại và trở lại đời sống đi hát của mình với một cây đàn guitar từ Mỹ qua đến Âu Châu đến Canada và Úc Châu . Cho nên cái thời gian của em ở đây nó rất là eo hẹp, vì còn gia đình, còn chồng còn con cho nên em không có một thời gian nào rãnh để mà nghĩ đến cái chuyện đi đâu xa . Anh Sơn thì muốn em về thăm nhà rất nhiều lần nhưng em không thể bỏ gia đình ở đây được rồi đến 97 thì em đi với phái đoàn của Nhật Bổn để về VN làm một cuốn phim về cuộc đời của em và trong đó thì không thể nào thiếu anh Trịnh Công Sơn được .

BBC: Thưa chị khi mà năm 1997 đó về thăm VN lần đầu tiên từ khi chị ra đi là năm 1975 thì khi đó về chị có cảm thấy là VN thay đổi nhiều so với hồi chị ra đi hay không ?

Khánh Ly: Thưa thay đổi nhiều lắm chị, thay đổi nhiều thay đổi nhiều đếc cái độ mà em không nhìn ra, em không tìm được con đường về nhà cũ của em, cái nhà mà sau khi di cư vào em ở đường Trần Hưng Đạo em không nhìn ra, đường Công Lý em cũng không nhìn ra, Hàng Xanh em cũng không nhận ra, Thủ Đức em cũng không biết, em đi đâu em cũng chỉ thấy hotel không hà, em không có dịp trở lại những cái trường học ngày xưa, những cái trường đại học mà em đã hát, em chỉ có dịp đi ngang trường Trưng Vương và trường Gia Long nhưng mà em thấy là một VN thay đổi nhiều, nhưng mà thật ra đó không giống như là những cái điều mà em mơ ước em từng ttưởng tượng ra, tại vì khi em đi Saigon chỉ có 2 triệu dân hay hơn một chút, nhưng khi em về năm 97 thì có tới 7,8 triệu người ở nội trong Saigon thôi thành ra có những cái điều làm cho em hơi sợ về vấn đề giao thông đó, rồi nhà cửa thay đổi rất là nhiều, chỉ có một cái điều là nhà thương thì em không thấy, trường học em cũng không thấy…mà cái điều mà em nhìn thấy nhiều nhất là …hotel .

BBC: Thưa chị khi mà chị quay về VN như thế đó, thì cái lần đó chị chỉ về thăm thôi hay chị có biểu diễn hay không ạ ?

Khánh Ly: Dạ thưa chị không, em về với phái đoàn Nhật, anh Trịnh Công Sơn thì hát cho em nghe và em được gặp gia đình một người chị ruột của em và các cháu của em còn ở lại VN, em được đi thăm mộ của bên gia đình chồng tức là ông bố chồng em .

BBC: Dạ thưa chị từ cái hồi mà năm 1997 là lần đầu tiên chị về VN đó thì sau đó chị cũng có quay trở lại VN 2 lần nữa thế thì trong những cái lần đó có lần nào chị có cái buổi biểu diễn ở VN hay không ạ ?

Khánh Ly: Dạ thưa chị em không hát

BBC: Cái giai đoạn thứ ba của cuộc đời chị nghĩa là lúc chị bắt đầu sự nghiệp ca hát ở Hải Ngoại đó thế thì nền âm nhạc của VN ở hải ngoại bây giờ như thế nào ?

Khánh Ly: Nói chung thì nhạc ở hải ngoại, cái lớp tuổi của các anh nhạc sĩ lớn, đa số các anh cũng đã qua đời, bây giờ là lớp trẻ lên và họ có những cái sáng tác ngắn gọn và hợp với cái đời sống thực tiễn tại Mỹ nhiều hơn là cái khoảng thời gian trước 75 hay là thời gian mới tới Mỹ, nó thiếu cái sự thơ mộng, nó thiếu cái đẹp của một thứ hạnh phúc mình khó nắm bắt, đối với em thì nó quá thực tiễn, nó giống như một với một là hai thành ra nó ít gây cho em một cái sự xúc động, tuy nhiên cũng có những bài hay của một số thí dụ như là của các nhạc sĩ như là nhạc sĩ Nam Lộc, nhạc sĩ Trịnh Nam Sơn, nhạc sĩ Trúc Hồ, những nhạc sĩ trẻ bây giờ như Trần Quảng Nam, như là anh Ngô Thụy Miên cũng còn sáng tác hay anh Từ Công Phụng, anh Vũ THành An thì bây giờ anh đã là Thầy Sáu tức là anh đã đi tu, còn lại một số thì em nghĩ là không hạp với cái tuổi của em có lẽ là hạp với lứa tuổi đến Mỹ khi còn nhỏ hoặc là được sinh ra và lớn lên ở Mỹ

BBC: Thưa ca sĩ Khánh Ly là trong những năm sinh sống …định cư tại Mỹ đó thế thì chị biểu diễn những ca khúc của ai ạ ?

Khánh Ly: Dạ thưa chị vẫn là nhạc Trịnh Công Sơn thưa chị, vẫn là nhạc anh Trịnh Công Sơn là số một, từ 27 năm nay, em đi tới đâu em hát, mỗi cuối tuần em đi show thì đều là những nhạc của anh Sơn .

BBC: Có khi nào chị muốn trở về VN làm một hoặc hai hoặc là nhiều buổi trình diễn hay không ?

Khánh Ly: Thưa chị hiện tại bây giờ đó thì em chưa có nghĩ đến vì em còn một cháu út còn đang đi học cho nên em không thể nào bỏ nhà đi lâu được, em chưa nghĩ tới có một lúc nào đó em có thể để chồng con ở đây và em làm một chuyến đi dài 1,2 tháng. Thành ra em nghĩ với cái tuổi của em bây giờ đó tìm một cái cơ hội nào để mình có thể trở về VN đó em nghĩ cái đó khó vì em sợ là không kịp nữa đối với cái tuổi của em bây giờ .

BBC: Nhưng bây giờ hỏi là trong cuộc đời chị có những cái lúc nào chị cảm thất thất bại hoặc là chị chịu những cái cay đắng thì đó là những cái điều gì ạ ?

Khánh Ly: Em được một cái may mắn là vấn đề nghề ngiệp chưa gặp thất bại cho đến bây giờ em vẫn và một người may mắn được đứng trên sân khấu chung với cái thế hệ sau em, còn nói về cay đắng thì đời của một người, bất cứ một người nào dù ở ngay trên quê hương của mình hay là ở xứ người thì chắc chắn là không thể tránh khỏi cái điều bất như ý hoặc là cay đắng đưa đến bởi cái đời sống xã hội hoặc là bởi đồng nghiệp hoặc ngay chính cả ở trong gia đình nữa thì cũng không thể nào tránh khỏi được và có một cái điều là em biết dù em ở đâu đi chăng nữa thì em vẫn nhớ và em vẫn yêu VN, vì lúc nào em cũng là người VN dù em có đổi đời nhưng mà đời em thì chưa bao giờ đổi cả, em vẫn là người VN nếu mà Chúa thương, trời đất thương thì sẽ có một lần nào đó mà nếu cái may mắn còn ở với em thì em cũng muốn được trở về để hát từ Nam ra đến Bắc và hát để giúp cho những trẻ mồ côi, cho những bệnh nhân bị bệnh cùi và những người thiếu may mắn và không lấy một đồng xu nào cả, nhưng mà lúc đó sẽ là lúc em từ giã cuộc đời đi hát của em, tức là em nói thẳng là lúc đó là lúc em giải nghệ vì em hy vọng là em sẽ có thể em làm một điều gì đó nó có ý nghĩa một chút trước khi em rời xa sân khấu để đúng như lời anh Trịnh Công Sơn nói là "Hãy sống và sống tử tế với nhau bằng một tấm lòng" .

(nhạc dạo …tiếng hát Khánh Ly và Trịnh Công Sơn … " Bỏ mặc căn nhà bỏ mặc tôi ..Bỏ mặc nơi đây bỏ mặc người …Bỏ trăm năm sau ngàn năm nữa …Bỏ mặc tôi là tôi là ai …Em đi bỏ lại con đường ..Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em …Ra đi em đi bỏ lại dặm trường ngàn dâu cố quận muôn trùng nhớ thêm ….Bỏ mặc đêm dài bỏ mặc tôi …Bỏ mặc gian nan bỏ mặc người ..Bỏ xa xôi yêu và gần gũi ..Bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui ….")





 
Chỉnh sửa lần cuối:

Khánh Ly nói chuyện với Trường Kỳ


Ngoài anh em và người thân trong gia đình, có lẽ Khánh Ly là người gắn bó với Trịnh Công Sơn nhất, thì Khánh Ly có lẽ là người nhớ thương ông vô hạn vì chị đã coi Trịnh Công Sơn như một nửa đời sống của mình sau gần 40 năm gắn liền với những tác phẩm của người nghệ sĩ tài hoa.
Sang Montreal trong dịp gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm lễ cầu siêu cho người nhạc sĩ quá cố vào ngày 8 tháng Tư năm 2001, Khánh Ly đã dành cho người viết một cuộc nói chuyện đặc biệt, trong đó chị đã tỏ bầy tâm sự của mình bằng tất cả sự xúc động sau cái chết của Trịnh Công Sơn...Cuộc nói chuyện được diễn ra trên lầu nhà hàng La Famille Vietnamienne, góc đường St André và Duluth, do vợ chồng em gái nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - bà Trịnh Vĩnh Tâm và ông Hoàng Tá Thích - khai thác từ nhiều năm qua, vào lúc 7 giờ 30 tối ngày 8 tháng Tư năm 2001. Phòng khách trên lầu nơi gia đình em gái Trịnh Công Sơn cư ngụ đã từng diễn ra những buổi họp mặt thân mật và ấm cúng giữa gia đình và bạn bè của Trịnh Công Sơn trong dịp ông sang Montreal thăm các em và các cháu vào năm 1992. Một mình với Khánh Ly nơi có trưng bày một tác phẩm hội họa của Trịnh Công Sơn trong một bầu không khí ảm đạm, người viết đã được nghe những tâm sự của chị liên quan đến Trịnh Công Sơn, vốn là người mà chị coi là "gắn bó như một định mệnh". Dưới đây là những đoạn trích nguyên văn từ những câu trả lời của Khánh Ly trong buổi nói chuyện đặc biệt này, xen lẫn với những tiếng sụt sùi, nghẹn ngào trên một khuôn mặt đượm nét u buồn...


Trường Kỳ: Chị là một trong số những người ở hải ngoại biết được tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời sớm nhất. Cảm giác của chị khi nghe được tin ấy ra sao?

Khánh Ly: Tôi không biết là trong trường hợp những người khác, cảm giác của họ khi nhận được tin một người thân vừa đi xa như thế nào. Nhưng mà lúc đó thì tôi hoàn toàn tôi như một người bị đông đá! Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng và tôi ngồi sững người trên ghế cho đến khi tôi nghe tiếng chồng tôi khóc! Lúc đó tôi mới tỉnh lại, tôi nói với nhà tôi là "Anh Sơn đi rồi!".

Trường Kỳ : Sau đó?

Khánh Ly: Sau đó, tôi được nói chuyện với anh Thích, em rể của anh Sơn...ở thành phố này, tôi muốn xác nhận tin đó là đúng hay chỉ là tin đồn. Tôi được xác nhận là điều đó đúng và chính anh Thích lúc đó cũng gần như là rơi vào một tình trạng như tôi. Có lẽ tôi là người đầu tiên liên lạc với anh Thích.

Trường Kỳ: Tôi được bạn bè bên California cho biết chị đã phải vào bệnh viện cấp cứu sau khi nghe tin này...

Khánh Ly: Tôi có ngã từ trên ghế xuống...Tôi cảm thấy tôi thở không được nữa. Đó là ngày hôm sau, sau khi tôi liên lạc về Sài Gòn. Nhà tôi có đưa tôi đi cấp cứu và tôi nằm đến chiều thì tôi đòi về. Vì tôi muốn ở nhà để chờ tin Sài Gòn. Thực sự mà nói, cho tới bây giờ là một tuần lễ đã qua tôi vẫn thấy dường như điều đó không phải là sự thật, tôi không nghĩ rằng đó là sự thật.

Trường Kỳ: Nhưng đúng là anh Sơn đã ra đi...

Khánh Ly: Có lẽ là tôi phải mất một thời gian nữa, lâu lắm tôi mới có thể tin rằng, sự ra đi của anh Sơn là chuyện có thật. Những nỗi vui đến với tôi nhanh và tôi mau quên. Nhưng cái mất mát, cái đau buồn đến với tôi, thường thâm nhập vào tôi rất là chậm và càng ngày tôi càng nhận thức được nỗi đau, nỗi khổ của mình là sự thật. Nó không phải là giấc mơ nữa! Còn đến giờ phút này tôi vẫn như là người sống ở trong một cơn mơ, giống như là sự lập lại của một ngày vào tháng Tư năm 75. Đó là ngày 29 tháng Tư năm 75 khi tôi rời Sài Gòn. Phải đến 15 năm sau khi rời xa Việt Nam tôi mới nhận thức được, tôi mới chịu nhìn nhận rằng là tôi đã thực sự ở xa Việt Nam.

Trường Kỳ: Trường hợp của anh Sơn đối với chị cũng như vậy?

Khánh Ly:Tôi nghĩ là ông Trịnh Công Sơn đi xa, đi đâu đó một vài giờ đồng hồ, một vài ngày như ông thường đi ra quán nghệ sĩ mỗi buổi sáng để gặp các bạn bè của ông. Dẫu rằng ông chỉ ra đó, ông ngồi uống một ly trà rồi ông đi bộ về. Bây giờ tôi vẫn còn cái cảm giác đó là một lát nữa đây có thể là ông sẽ trở về . Tại vì ở thành phố này là nơi mà năm 92 tôi được gặp ông. Cũng trong căn phòng này, chúng tôi đã quây quần với các em của ông, các cháu của ông, các bạn của ông. Chúng tôi đã ngồi đây rất hạnh phúc trong một khoảng thời gian mấy tháng trời. Và cũng có lúc ông đi ra ngoài quán cà phê ngồi để nhìn những người khách lạ đi qua lại. Bây giờ tôi cũng nghĩ rằng không có mặt ông ở đây chắc là ông đang còn ở một quán cà phê nào đó và ông sẽ trở về kịp bữa cơm tối nay.

Trường Kỳ: Chị đã gặp anh Sơn lần nào sau năm 75?

Khánh Ly: Lần đầu tiên tôi gặp ông Trịnh Công Sơn sau năm 75 là năm 88 tại Paris. Rồi đến năm 92 thì tại Canada, tại đây. Đến năm 97 tôi về với phái đoàn Nhật Bổn và năm ngoái, tháng Năm, tôi cũng về với phái đoàn Nhật để hát cho một cuốn phim nói về một người ký giả Nhật đã chết ở Việt Nam. Và khi tìm được xác của anh thì trong túi của anh vẫn còn một cuốn cassette nhạc của ông Trịnh Công Sơn do tôi hát. Trong suốt thời gian đó, sau những giờ làm việc với phái đoàn của Nhật, của hãng phim Nhật tôi dành hết thì giờ để được nói chuyện với ông Trịnh Công Sơn, được ngồi với ông và một số bạn bè như Lan Ngọc, như Hồng Vân, như anh Nguyễn Ánh 9, anh Nguyễn Ngọc Thạch, thoáng gặp Cẩm Vân một lần. Và Hồng Vân Lan Ngọc là những người bạn, những người em cũ; anh Nguyễn Ánh 9 thì lại là người quá thân, một nhạc sĩ mà tôi rất là quí mến. Đồng thời tôi cũng được gặp Bảo Phúc. Bảo Phúc tập nhạc cho tôi tại nhà của anh Sơn. Và anh Sơn đã chỉ cho tôi hát bài "Đồng Dao 2000" và bài "Tiến Thoái Lưỡng Nan"

Trường Kỳ: Như vậy vào tháng Năm năm ngoái là lần cuối chị gặp anh Sơn?

Khánh Ly: Dạ! Đó là lần cuối. Thật ra sau Tết tôi nghe tin anh Sơn nhập viện, tôi có dự định về thăm anh. Nhưng rồi chính tôi cũng lại không được khỏe cho nên tôi hoãn lại. Và đến khi tôi nghe anh Thích và chị Tâm từ Việt Nam về cho biết là tình hình sức khỏe anh Sơn đã khá tôi cũng mừng. Tôi cũng mừng và nghĩ rằng có thể là tôi thu xếp để từ giờ đến cuối năm về thăm anh. Nhưng không ngờ là chỉ có mấy ngày sau thì tôi được tin anh đã nhập viện và bị "coma".

Trường Kỳ: Được biết ở Việt Nam có tin cho là chị sẽ về dự lễ an táng anh Sơn?

Khánh Ly: Tôi biết, có nhiều người e-mail cho tôi và ở bên Úc cũng liên lạc cho tôi biết về tin đồn này. Nhưng tôi nghĩ là tôi về thì cũng chẳng còn được nhìn thấy anh. Mà nhiều khi sự có mặt của tôi cũng trở thành thừa thi và cũng...chẳng có ích lợi gì cho ai! " Cho nên ngày hôm nay tôi có mặt ở đây cùng với những người cháu của ông Trịnh Công Sơn và ông Hoàng Tá Thích là em rể của ông Trịnh Công Sơn để làm lễ cầu siêu cho ông Sơn thì cũng là một sự gặp gỡ, chia xẻ trong gia đình. Tôi nghĩ là về Việt Nam hay qua đây thì cũng giống nhau thôi!

Trường Kỳ: Nhưng thật sự trong thâm tâm chị có muốn về Việt Nam ngay sau khi nghe tin anh Sơn qua đời?

Khánh Ly: Tôi rất muốn! Tôi rất muốn! Nhưng tôi suy nghĩ kỹ thì tôi thấy là tôi không nên về!.

Trường Kỳ: Tại sao chị cho là chị không nên về, chị nghĩ sao khi nói câu đó?

Khánh Ly: Bởi vì như tôi đã trình bầy là tôi không được thấy mặt ông nữa... và... tôi cũng chẳng muốn cho ai thấy mặt tôi ở Việt Nam trong những giờ phút đó!

Trường Kỳ: Khi nói chuyện với chị sáng nay tại lễ cầu siêu cho anh Sơn, tôi có nghe chị nói giữa chị và anh Sơn có một sự liên hệ lạ lùng. Sự liên hệ chị cho là lạ lùng đó như thế nào?

Trường Kỳ: À! cái sự liên hệ giữa ông Trịnh Công Sơn với tôi đã kéo dài một thời gian quá lâu. Một sự gắn bó như một định mệnh. ông Trịnh Công Sơn có thể có những giây phút không nhớ đến tôi. Nhưng riêng tôi thì lúc nào tôi cũng nhớ đến ông. Bởi vì như tôi đã nói, ông là một nửa đời sống của tôi. Và ngay bây giờ khi tôi nói những lời này, thực sự tôi muốn thưa cùng tất cả là tôi không biết tôi còn hát nổi nữa hay không. Có thể tôi sẽ từ giã... bây giờ điều tôi mơ ước nhất là nếu tôi có thể tan biến đi ra khỏi cuộc đời này hoặc là tôi sẽ không thức dậy sau một đêm, sau một giấc ngủ thì có lẽ điều đó tốt cho tôi hơn!"

Trường Kỳ: Như chị đã nói, Trịnh Công Sơn là nửa đời sống của chị, thì đó là một sự liên hệ về mặt tình cảm hay văn nghệ thuần túy hoặc là một sự liên hệ nào khác?

Khánh Ly: Ông Trịnh Công Sơn và tôi có một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường. Và vì tôi được gần ông Trịnh Công Sơn nhiều và tôi được ông cắt nghĩa rõ ràng những tác phẩm, nhạc phẩm của ông. Tôi thấy rõ, hiểu rõ được con người của ông cũng như tác phẩm của ông. Cho nên cảm nhận của tôi là mối liên hệ tình cảm đó phải vượt lên trên tất cả những tình cảm của đời thường. Bởi vì ở ông Trịnh Công Sơn, điều vĩ đại nhất, vĩ đại hơn cả những tác phẩm của ông là nhân cách, nhân phẩm của ông. ông là người nhạc sĩ duy nhất đã sống trong đời sống này có một tấm lòng không có thù hận. Và phải hiểu những tác phẩm của ông thì mới có thể nói và yêu thương ông nếu không hiểu những tác phẩm của ông thì tt cả những điều nói về ông có thể là sai, là không đúng sự thật! Trong lúc này thì thật ra tôi cũng xin phép là tôi không dám nói nhiều, nhưng tôi hy vọng trong cuốn sách tôi sẽ in trước khi tôi từ giã. Tôi sẽ xin được kể lại rất là thật thà, tất cả mọi chuyện từ khởi đầu cho tới kết thúc, quan hệ tình cảm giữa ông Trịnh Công Sơn và tôi. Còn bây giờ tôi xin phép cho tôi được giữ riêng một số những kỷ niệm rất riêng tư giữa chúng tôi.

Trường Kỳ: Khi nào sách sẽ phát hành và tựa đề là gì?

Khánh Ly: Tôi dự định in cuốn sách đó trong năm 2000 vừa qua, nhưng tôi cũng chưa đủ phương tiện và tôi cũng cảm thấy có nhiều điều còn thiếu sót cho nên có lẽ là năm tới tôi hy vọng sẽ hoàn tất được cuốn sách đó. Và tôi đã lựa cho cuốn sách đó một cái tựa cách đây trên 10 năm là "Đằng Sau Những Nụ Cười".

Trường Kỳ: Chị vừa nhắc đến câu "trước khi tôi từ giã ". Chị muốn nói lên điều gì qua câu đó?

Khánh Ly: Thưa anh, thực sự ngay bây giờ khi tôi ngồi đây với anh, tôi không nghĩ là tôi có cất nổi tiếng hát nữa hay không. Và tôi cũng không biết là tôi còn sống tới ngày nào, tôi cũng không biết là tôi sẽ đi lúc nào nữa! Thành ra tất cả những cái gì mà tôi đã viết nếu còn dang dở thì cũng đành chịu thôi. Và nhà tôi sẽ là người cho in cuốn sách đó với những điều dở dang. Cứ coi giống như là một câu chuyện nửa đường đứt gánh vậy thôi. Cũng như một đời người vậy! Tôi không thể nói chắc được bất cứ chuyện gì trong giây phút này.

Trường Kỳ: Là người hiểu rõ những tác phẩm của Trịnh Công Sơn, như chị nói, và chị cũng là người đã trình bầy rất nhiều nhạc phẩm của anh Sơn. Đối với chị, chị yêu thích những nhạc phẩm nào nhất?

Khánh Ly: Có nhiều người yêu những bản tình ca của ông Trịnh Công Sơn. Riêng tôi thì tôi thấy...tôi lại yêu những Ca Khúc Da Vàng hơn bởi vì nó lớn hơn tình ca. Tình ca ai viết cũng được, mỗi người viết theo cái cảm xúc của trái tim mình. Và trong những bản tình ca của ông Trịnh Công Sơn, ai cũng nhìn thấy mình ở trong đó, nhất là tôi! Luôn luôn tôi nhìn thấy tôi ở trong tất cả những bản tình ca của ông. Riêng Ca Khúc Da Vàng, tôi còn nhìn thấy cả một quê hương, cả những mơ ước, cả những đớn đau, thân phận của một dân tộc, mơ ước của cả một dân tộc về một nền hòa bình, về một sự thống nhất, một đất nước sau một cuộc nội chiến quá đau thương . Và đó là cái điều mà cả tôi, và tôi nghĩ rằng rất nhiều người, đều mơ ước được sống, được ở lại Việt Nam trong sự thống nhất một đất nước Việt Nam với tự do, với hạnh phúc thực sự "

Trường Kỳ: Anh Sơn đã sáng tác những nhạc phẩm nào dành riêng cho chị?

Khánh Ly: Tôi nghĩ là cũng có... tôi nghĩ là cũng có! Anh Sơn cũng có nói với tôi... nói với tôi ở đây cùng với tất cả các anh em ở đây, đặc biệt nhất là bài "Rơi Lệ Ru Người" anh viết sau năm 75 khi anh nghĩ là tôi đã chết trên biển Đông, và anh đã viết bài đó cho tôi. Rồi mãi đến năm 90,91 anh mới tìm lại được bài hát đó và anh đã tập cho tôi khi anh qua đây năm 92. Còn những bài khác thì bằng cách này và cách khác, chúng tôi có những cách nói với nhau mà không ai biết được, đó là cái cách nói mà không thành tiếng và chỉ nói bằng mắt mà thôi!"

Trường Kỳ: Còn riêng về con người của Trịnh Công Sơn, chị có những nhận xét gì?

Khánh Ly: ông Trịnh Công Sơn là người nhạc sĩ duy nhất chỉ sống cho người mà không sống cho mình. Cái ông quan tâm đến là gia đình, là bạn bè, là anh em. Và trên hết là dân tộc, là quê hương. Có nghĩa ông là người Việt Nam và ông yêu quê hương, yêu tổ quốc. Cho nên tôi đã nói ông ở lại Việt Nam là điều đúng. Và ông đã ở lại Việt Nam, ông đã sống những tháng ngày ở Việt Nam sau năm 75 bằng cả một tấm lòng, một tấm lòng, một trái tim không nặng nề cho dẫu là có những đau đớn ông phải trải qua, có những nỗi oan ông phải gánh chịu. Và chính những điều đó ông Trịnh Công Sơn, hình ảnh của ông lại càng trở nên vĩ đại hơn, lớn lao hơn trong trái tim của tôi, trong sự suy nghĩ của tôi.

Trường Kỳ: Có thể đây là một chi tiết nhiều người đã biết, tuy nhiên trong dịp này xin chị nhắc lại về trường hợp chị gặp anh Sơn?

Khánh Ly: Cũng là tình cờ thôi! Tôi là người may mắn được gặp ông Trịnh Công Sơn năm 64 và đến năm 67 thì tôi bắt đầu được hát cùng với ông. ông là hình, tôi là bóng. Và tôi đã được sống cùng với tên tuổi của ông từ 67, nếu phải kể thì phải từ 64 cho tới bây giờ.

Trường Kỳ: Và từ đó, nhờ anh Sơn chị mới có được thành công, mới tạo được tên tuổi?

Khánh Ly: Từ ông Sơn cũng như tôi đ thưa nhiều lần là nhờ ông, mọi người mới biết đến tôi và tôi mới được sự thương yêu của mọi người, tôi mói thành nhân và mới thành danh. Do đó chẳng bao giờ tôi quên được lời ông dặn tôi là phải ráng sống với một tấm lòng, sống với mọi người bằng sự tử tế và hãy làm những điều gì tốt đẹp nhất cho Việt Nam, có nghĩa là cho quê hương của chúng tôi."

Trường Kỳ: Và chị đã luôn thực hành lời dặn này?

Khánh Ly: Dĩ nhiên là tôi làm, tôi cố gắng trong khả năng. Dĩ nhiên là trong đời sống của một người tôi khó có thể nào nói rằng mình là một người toàn hảo, không bao giờ làm một điều gì lầm lỗi. Nhưng kể từ ngày ra đời cho đến bây giờ, rồi từ lúc được biết ông Trịnh Công Sơn tôi chưa bao giờ tôi phạm phải một cái lầm lỗi nào. Tôi chưa bao giờ làm cho ai phải đau đớn mà tôi cũng chưa bao giờ phụ lòng tin của ông Trịnh Công Sơn là sống với mọi người bằng sự tử tế, bằng một tấm lòng mà ông Sơn đã dậy tôi. Từ những ngày tôi còn trẻ cho tới bây giờ, tôi nghĩ là tôi không làm cho ông Trịnh Công Sơn thất vọng, cũng như là ông Trịnh Công Sơn không hề phụ lại lòng yêu thương của những người đã thương yêu ông Sơn trong suốt mấy chục năm qua.

Trường Kỳ: Mọi người cho là nếu không có Trịnh Công Sơn sẽ không có Khánh Ly. Chị có cho nhận xét này là đúng?

Khánh Ly: Tôi luôn luôn nói rằng nếu không có ông Trịnh Công Sơn thì sẽ không có tôi. Có thể tôi vẫn chỉ là một cái bóng mờ nào đó hoặc là tôi sẽ có một cái đường đi nó chật hẹp hơn. Do đó...tôi luôn luôn nghĩ rằng tôi may mắn đã có được sự giúp đõ, sự an ủi, dạy bảo, nâng đỡ của ông Trịnh Công Sơn. Và tôi không bao giờ tôi quên cái ơn nghĩa này.

Trường Kỳ: Qua sự thành công của chị, có thể nói chị là một người may mắn?

Khánh Ly : Tôi một người có rất nhiều may mắn, nhưng đồng thời cũng là một người có rất nhiều bất hạnh. Được may mắn nhiều và cũng đón nhận được nhiều bất hạnh. Tôi chịu nhiều cái tang trong đời sống, nhiếu cái tang mà không bao giờ tôi quên. Và mỗi người đi thì để lại trong tim tôi một vết thương. Bây giờ trong trái tim của tôi chỉ còn một chỗ rất là nhỏ nhoi là còn nguyên vẹn. Và cái mảnh tim nguyên vẹn đó còn lại, tôi muốn xin để ghi nhớ ân tình của tất cả mọi khán thính giả ở khắp nơi đã yêu thương tôi, của các con tôi và của chồng tôi. Bởi vì một người giống như tôi khó có thể nào mà chịu đựng được quá nhiều bất hạnh như vậy trong cuộc sống. Những bất hạnh mà những may mắn không đền bù nổi. Tôi tin là sẽ có người khi nghe tâm sự này của tôi sẽ hiểu những điều mà tôi nói là thật.
Những điều tôi nói đúng theo lời ông Trịnh Công Sơn dậy là sự tử tế với mọi người. Thì hôm nay những điều tôi nói đều là sự thật, những sự tử tế tôi muốn gửi đến mọi người. Nếu tôi có đi xa thì cũng xin như một lời chia tay. Tôi cũng xin một giọt nước mắt của những người đã vì ông TCS mà yêu thương tôi.





 
Khánh Ly Người Bạn Đặc Biệt

"Khánh Ly là một người bạn đặc biệt” đó là câu trả lời của Trịnh Công Sơn khi có ai hỏi về liên hệ thân thiết giữa anh và chị Mai . Năm 1975, chị Mai ôm con ra đi từ Vũng Tàu . Theo nhà báo Trường Kỳ đã viết: "Vào những ngày đầu tháng Năm 1975, nhiều tin đồn đã được tung ra và được truyền đi một cách nhanh chóng. Nào là xác Elvis Phương, Khánh Ly và một số nghệ sĩ khác trôi dạt về bãi trước Vũng Tàu. Ngoài ra còn đủ mọi thứ tin đồn vô căn cứ khác về giới nghệ sĩ. Những tin đồn này đã khiến những người yêu nhạc hoang mang rất nhiều để lo lắng cho số phận những tên tuổi họ ưa thích" .

Chưa có tin chị Mai mà cả Saigon thời đó đồn ầm là có người thấy xác chị trôi vào bãi biển Vũng Tàu làm hoang mang nhiều người và người hoang mang đau đớn hơn ai hết là anh Sơn, anh buồn da diết nhớ thương một người bạn thân thương đã bao năm chia ngọt xẻ bùi, đã đi bên anh suốt cả tuổi trẻ buồn nhiều hơn vui . Nỗi đau đớn nhớ thương này của anh Sơn đã được chị Lâm Thị Mỹ Dạ ghi lại trong bài " Những Kỷ Niệm Còn Mãi Trong Tôi” chị đã viết để nhớ về Trịnh Công Sơn . Hư Vô xin mạn phép trích một đoạn ngắn ra đây :

“ Năm 1976, …Tôi hăm hở bước lên cầu thang, phòng anh Sơn rất ít khi đóng cửa . Tôi bước vào nhà, cất tiếng gọi . Không ai trả lời . Tôi ngập ngừng đi tiếp vào phía trong - chỗ làm việc của anh . Anh Sơn đang ngồi trên tay cầm cây bút xạ, mũi vẫn còn hướng xuống mặt bàn, khuôn mặt thảng thốt như đang chìm vào một thế giới xa xăm . Trời ơi hai chữ Khánh Ly, Khánh Ly được viết đầy cả tấm giấy to gần kín cả mặt bàn . Có lẻ anh Sơn đã viết rất lâu nên nó mới nhiều đến thế . Anh Sơn ngồi lặng, rồi như chợt tỉnh, anh đứng dậy lấy ghế mời tôi ngồi . Và như không ngăn nổi tình cảm đang trào dâng trong lòng - nỗi nhớ Khánh Ly . Và như đang cần có một người bạn để chia sẻ đó là tôi . Trịnh Công Sơn liền tìm đưa cho tôi một tập ảnh .

- Này, Dạ xem đi .

Tôi xem chăm chú từng tấm ảnh . Khánh Ly đẹp quá . Cô có vẻ đẹp tự nhiên, vừa cổ điển vừa hiện đại – duyên dáng , nhu mì, mạnh mẽ . Hầu như toàn bộ tập ảnh đó là ảnh chụp chung của hai người . Tôi xem nhiều chiếc rồi dừng lại ở bức chân thật nhất – Khánh Ly đang ngồi trong lòng anh Sơn, trên hai bắp chân . Tôi nhin vào tấm ảnh rồi hồn nhiên hỏi anh:

- Chị Khánh Ly là người yêu của anh phải không ?

Anh cười thật hiền:

- Khánh Ly là một người bạn đặc biệt .

- Ở miền Bắc, ảnh chụp chung như vậy thường là hai người yêu nhau . Tôi nói .

- Dạ có biết ai chụp hình cho tụi mình không ? Anh hỏi .

Tôi lắc đầu .

- Chồng của Khánh Ly đấy, ở trong này, nam nữ chụp hình chung là chuyện bình thường, không có gì lạ .

Anh xếp lại tập ảnh rồi xếp vào cuốn sổ . Như để chuyển sang không khí khác, anh hỏi tôi:

- Ði chợ về có chi lạ không ?

- Dạ có mua cho anh một cái đầu cá tươi lắm . Tôi vui vẻ .

- Ồ. mình sẽ nấu cháo . Trưa nay có Ðinh Cường và Bửu Ý đến chơi.….

..…Tôi nhìn đồng hồ, đã gần trưa . Anh Sơn lặng lẽ đi đến ổ cắm điện với tay lấy chiếc máy Sony đã cũ, găm phích vào rồi tua qua một đoạn, bản Valse của Schubert . Bản Valse này tôi rất thích, nhất là đoạn điệp khúc . Anh Sơn biêt điều đó . Anh là người tinh tế và nhạy cảm . Bản Valse vừa ngừng . Tôi sắp sửa đứng lên thì chợt ngón tay trỏ của anh Sơn ấn vào máy tua lại băng nhạc . Và tài tình làm sao khi anh ấn nút, đoạn điệp khúc của bản Valse lại bắt đầu …

Ðó là cách lưu khách rất dễ thương của anh . Nhất là ngày hôm nay khi anh đang hẫng hụt trống vắng . Nỗi nhớ gan ruột một người bạn đã quá xa vời . Một người đã cùng anh qua bao thăng trầm – vinh quang, khổ đau, hạnh phúc – đó là ca sĩ Khánh Ly . Nếu tôi không đến thăm anh , làm cắt mạch tư duy, cảm xúc của anh thì trên mặt bàn ấy đã chồng chéo không biết bao nhiêu lớp tên của Khánh Ly . Và chắc cây bút xạ của anh đã cạn khô hết mực . Tôi có cảm giác dòng máu từ trái tim anh đổ ra để viết tên cô, Khánh Ly, Khánh Ly, Khánh Ly, Khánh Ly, Khánh Ly, Khánh Ly. Khánh Ly .

Không biết Trịnh Công Sơn đã gọi cái tên ấy bao nhiêu lần . Cái tên yêu quý đó, trong mơ cũng như trong đời thực, luôn luôn hiện hữu trong tâm hồn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn .…."

Lâm Thị Mỹ Dạ
Huế 20/04/01



 

Tình Bạn, Hồi Sinh Cơn Hôn Mê

" May thay trong đời vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa." Trịnh Công Sơn.

Tôi và Sơn cùng tuổi Kỷ Mão. Sơn sinh ngày 28 tháng 2 (bốn năm mới có ngày 29). Theo mấy con giáp Tây Phương thì Sơn con Cá, tôi con Cua. Trở thành bạn với nhau năm 20 tuổi. Lúc tôi ra Huế học Mỹ Thuật, năm 1959. Huế là quê ngoại, và nhà thờ Nội tôi cũng ở đây (làng Nam Trung - những người trong Nam ra Huế làm việc dưới triều Nguyễn). Thời gian này, Sơn cũng vừa từ giã Sài Gòn, từ giã mái trường trung học Chasseloup Laubat (*) mà Sơn đang học năm cuối, classe philo. Để về Huế sống với gia đình.

Những năm sống tự lập, Sơn kể đã trọ tại nhà bác Kỉnh tại Sài Gòn, là gia đình người bạn thân của ba Sơn. Sau khi ba Sơn mất năm 1954 trong một tai nạn xe, khi đang đi vespa. Sơn kể là hồi nhỏ đã từng vào ở trong tù với ba Sơn ở lao Thừa Phủ thời kháng chiến chống Pháp.

Những tối đi chơi khuya về, Sơn thường rủ tôi ở lại nhà, lúc đó là tiệm Thanh Tâm, bán xe đạp ở Ngã Giữa (đường Gia Long, rồi Phan Bội Châu, nay là Phan Đăng Lưu). Tôi còn nhớ rõ, ở chân cầu thang lên lầu, bên vách, Sơn treo bức hình James Dean thật lớn, hình như Lê Vinh vẽ. Lúc đó, Lê Vinh là họa sĩ vẽ phông xi-nê rất giỏi, không ai vẽ đẹp và nhanh bằng - cả Sài Gòn và Huế.

Má Sơn thường nhường cho chúng tôi ngủ trên chiếc giường Hồng Kông rộng, có bốn cột trụ treo mùng bằng sắt đen, chạm trổ... đêm, cứ nằm nói chuyện bâng quơ, không dứt. Chuyện gì cũng tâm sự. Ngay cả chữ ký cũng hỏi nhau. Tôi còn nhớ, Sơn ký nhiều chữ ký, rồi quyết định chọn chữ có gạch ngang chạy dài trên đầu, hỏi tôi chịu không. Tôi nói, gạch ngang phía trên là cao thượng, chịu chứ. Sao ông không vẽ thêm con cá vào cho vui. Thế là Sơn vẽ con cá dưới góc mặt chữ ký, như cái triện của mình. Sơn chỉ vẽ một nét với cái vòng tròn con cá trước mặt tôi, tôi nói ông phải thành họa sĩ mới đúng... Những năm sau này, Sơn thường nói với bạn bè, Sơn vẽ là vì sự kích thích và gần gũi với những nơi chốn mà tôi đặt atelier. " Tôi là khách vãng lai thường trực của atelier Đinh Cường. Đêm cũng như ngày. Thế giới tranh của Cường đối với tôi không có gì xa lạ, bởi vì chúng tôi đã cùng sống trong thế giới ấy từ những ngày lòng chưa hề vướng bận về một tiếng thở dài..." (Trịnh Công Sơn - Thanh Niên số 47, 21.11.1988).

Chữ ký có gạch ngang kéo dài trên đầu và con cá, biểu trưng cho tuổi Sơn, đã theo Sơn suốt từ những sáng tác nhạc, tranh và trên thư từ gởi cho bạn bè. Cho đến gần mười năm sau cùng, Sơn mới đổi chữ ký, bỏ gạch ngang. Ký ba chữ với ba chữ hoa ở đầu, lên xuống tùy theo tâm trạng... " Trong từng giọng nói có màu tàn phai ", nghe Sơn hát đến câu này khi nào tôi cũng thấy rưng rưng, và tôi hay nói với Sơn " có nghe đời nghiêng ".

Đời mới nghiêng thôi mà Sơn đã rơi xuống vực... " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ". Vực thẳm là tôi, đang âm thầm khóc bạn. Tôi cứ ngồi nhìn qua cửa sổ, khu rừng đàng sau nhà mà nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm... " Giữa cuộc đời điên đảo này đây, tôi chỉ còn sống trong vùng kỷ niệm. Lạ lùng thay cho phần số tôi : quân bình giữa cuộc đời này và một cõi đời khác, giữa ranh giới những gì đã qua và những cái nhãn tiền. " (Paul Klee).

Kỷ niệm đã ghi dấu trên từng năm tháng, từng chặng đường. Còn để lại gì .

THỜI XUÂN XANH

Khi tôi ra Huế, thì đã nghe " ba Sơn, ba Hải, ba Hà ", các bạn hay gọi nhau như vậy. Đó là Trịnh Công Sơn, Thanh Hải và Hà Thanh (không phải Thanh Hải hát nhạc Sơn sau này, hiện sống ở Đức). Ba người bạn đã đàn ca với nhau rất sớm, bằng tất cả tấm lòng say mê âm nhạc thuở xuân xanh. Năm 1957, Hà Thanh đã hát trên đài Phát Thanh Huế. Sơn sáng tác những bản nhạc đầu tay và Thanh Hải thì đàn guitare rất bay bướm, hay biểu diễn cho bạn bè xem, đàn ở nhiều vị thế ... Thời đó còn có Đặng Nho thổi clarinette. Hà Thanh là ca sĩ đầu tiên bạn của Sơn và hát nhạc Sơn. Hà có nhiều em gái, Ph. Th. là đẹp nhất. Sơn ngỡ đó là mối tình đầu của mình. Đã ghi trong " Nhật Ký tuổi 30 " - " Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi, là một thất vọng không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhau nhưng tôi vẫn khó xóa được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này ..." (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 8.4.2001).

Đúng là các gia đình Huế thường chọn môn đăng hộ đối, để ý đến bằng cấp khi cưới hỏi cho con. Dạo ấy, Sơn thường rủ tôi đến nhà Hà Thanh ở đường Huyền Trân Công Chúa. Trước mặt nhà là dòng sông bến Ngự, khúc sông gần nhà ga và trường dòng Pellerin. Nhớ là tôi có đem đến tặng Hà Thanh bức tranh vẽ cô gái ngồi trước biển với con dã tràng đỏ, mà Hà Thanh cứ cười : " cổ con gái chi mà dài ngoằn rứa " - cái thời mê Modigliani mà .

Tháng 4 vừa qua, sau hai tuần Sơn mất, bạn bè ở Washington D.C. làm lễ cầu siêu cho Sơn tại chùa Hoa Nghiêm. Cách một tuần sau, Hà Thanh từ Boston lên hát cho ngày lễ Phật đản. Tôi và Hà cùng nhắc lại những ngày xa xưa ấy..., mà " Nắng Thủy Tinh ", " Nhìn Những Mùa Thu Đi ", " Gọi Tên Bốn Mùa " là cảm hứng từ một vẻ đẹp thánh thiện " em đứng lên gọi mưa vào hạ...", để rồi sau đó Ph. Th. đi lấy chồng, là một viện trưởng viện đại Học Huế , rồi Bộ Trưởng Giáo Dục... Sau năm 1975, ở trại cải tạo về, một thời gian thì mất. Ph. Th. ở vậy cho đến nay tại Boston. Là một phụ nữ Huế đoan trang, đức hạnh.

MỐI ĐỒNG CẢM NGHỆ THUẬT

Năm 1958, Trịnh Cung từ Nha Trang ra Huế học Mỹ Thuật. Làm thơ với bút hiệu Thương Nguyệt, trong nhóm bạn thơ Nha Trang, với Thanh Nhung, Cao Hoành Nhân. Những bài thơ tình đầy sương khói Huế.

Sơn đã phổ nhạc bài thơ 4 chữ " Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu " của Trịnh Cung, và sửa câu cuối. " Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay " thành " nỗi lòng anh đây ". Sơn nói, " nỗi buồn hôm nay " có vẽ thời thượng quá. Thật vậy, câu Sơn sửa trong nhạc nghe thật hơn, hay hơn. Sau đó in trong tập nhạc Sơn tự chép tay 1968.

Nguyễn văn Liễu (tên thật) và Thương Nguyệt đã thành Trịnh Cung từ đó.

Tôi về Huế sau Trịnh Cung một năm. Và đã thuê chung với Trịnh Cung nhà ở đường Nguyễn thị Giang, chợ Cống. Căn nhà giữa đồng lúa hoang vắng. Chúng tôi đã vẽ với tất cả " cuồng nộ sáng tạo ". Những bức tranh cực kỳ lãng mạn của thời xanh lam. Năm 1962, Trịnh Cung ra trường, về lại Nha Trang rồi vào Sài Gòn làm việc. Sau đó nhập ngũ...

Tôi, Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường càng ngày càng thân nhau hơn. Tường đã viết những bài ký kể về một " Tuyệt Tình Cốc " (Ngọn Núi ảo ảnh - Thanh Niên 1999). Đó là một căn nhà lá thấp, xưa cổ của ba mẹ Tường trong xóm. Nơi tôi và Tường ở trong sự tịch lặng, thỉnh thoảng bạn bè thân thiết đến chơi, cũng là nơi để tiếp những bạn ở xa về . Như lần tiếp Thế Uyên từ Sài Gòn ra (Thế Uyên lúc đó là nhà văn đang ở trong quân đội, bạn Tường). Sơn đã hát, đã trao đổi những suy nghĩ về một cuộc chiến... Tường đã viết về những ngày Đà Lạt trong mùa lễ Giáng Sinh đáng nhớ nhất của chúng tôi, lần tôi và Sơn đang ở cùng nhau trên cao nguyên một thời gian dài. Thời Sơn dạy học ở Blao. Xe đò thoăn thoắt đi về giữa Blao, Đà Lạt, Đơn Dương... quá thơ mộng và giang hồ. " Những chuyến xe đò thoăn thoắt đi về, nối liền tiếng chim cao nguyên với loài hải âu vùng biển. Rồi lời sóng chưa kịp tan đã vội vàng nghe ra điệu suối. Kỳ thú như một con gió lăng loàn..." (TCS, Thanh Niên, 21.11.1998).

" Đà Lạt, Noël 1965 và Đinh Cường " (Thanh Niên, xuân 1993), và " Căn Nhà của Những Gã Lang Thang " (Thanh Niên, xuân Tân Tỵ 2001), nói về căn nhà nơi Sơn đã ở, có những hàng cây long não mà Sơn đã gửi hồn mình trên những phiến lá ánh bạc mỗi lần ra đứng ngoài bao lơn , nhìn xuống chờ D. đi ngang qua.

Tôi kể lại cũng không bằng Tường. Tường là người bạn một thời tôi gần gũi, tôi hiểu, một người chỉ thích :

Mùa xuân lên đồi cỏ thơm
Mùa hạ nhìn trời mây khói
(Dù Năm Dù Tháng, Người Hái
Hoa Phù Dung, thơ, nxb HNV 1992).

Một người yêu sự mong manh của hoa phù dung, nhớ hoài một màu hoa violette. Luôn giữ tình cảm lãng mạn thuần khiết với đời, với bạn . Mà cứ mãi gặp những oan khiên, hiểu lầm, gán ghép...

Mọi biến cố ở Huế, đều có tôi và Sơn. Từ mùa xuân Mậu Thân 1968. Lúc đó gia đình tôi tản cư về Hồ Mưng, còn gia đình Sơn vào trú trong thư viện Viện đại Học. Sau cái Tết thảm khốc đó, Sơn làm nhiều ca khúc gây những xúc động mạnh (" Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người. ") Bãi Dâu, cái tên nghe đã rờn rợn của những hố hầm chôn người... của bao nhiêu vành khăn tang trắng. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972, những ngày trước tháng 4.1975... Huế di tản...

Lần nào Sơn cũng cùng chung lo cho gia đình bạn bè có phương tiện di tản. Nhờ anh Hồ Đăng Lễ đang làm trưởng khu công chánh, giúp cho xe chuyên chở. Việc dựng tượng cụ Phan Bội Châu, Sơn cũng nhờ anh Lễ, khi Lê Thành Nhơn đưa ra ý kiến làm và đúc tượng đồng. Vì Huế còn có Phường đúc, nơi đúc đồng nổi tiếng còn lại. Nhơn ra Huế dạy điêu khắc, có nhiều tâm huyết. Anh Lễ đã xoay xở vật liệu, tài chánh ban đầu để có thể khởi công. Ròng rã nhiều tháng, bao nhiêu công sức. Có lúc phải dở dang vì thiếu phương tiện. Sau cùng cũng hoàn thành. Tượng đúc đồng để mãi tại Phường đúc, đến sau tháng 4.1975, nhiều tiếng nói đóng góp vào, tượng được đem về dựng tại nhà thờ cụ Phan Bội Châu tại Bến Ngự.

Nhắc đến Lê Thành Nhơn, cũng là nhắc đến căn nhà 101 Nguyễn Du, nơi Nhơn ở. Những ngày trước tháng 4.75, Sơn đã đem nhiều thùng sách nhạc mới in xong đến gởi đó. Sơn và Nguyễn Trung có những ngày ở luôn tại đó. Những ngày đầu giải phóng, Sơn đến tìm lấy lại những thùng sách nhạc, thì thấy la liệt trước sân, bị lấy làm vật lấp những vũng bùn. Ứa lệ thay, những ngày đầu của thanh lọc văn hóa. Tranh của chúng tôi còn lại, tại Dolce Vita, gallery nhỏ thuộc khách sạn Continental, cũng bị xe ba gác chở đi vất.

HUẾ, NHÓM BẠN MỘT THỜI, MÃI MÃI

Ban đầu là Sơn, Tường và tôi. Sau có thêm Ngô Kha và Bửu Ý. Tường sau khi làm luận án cao học Triết, đại học Văn Khoa Sài Gòn (giáo sư Nguyễn Văn Trung bảo trợ), về dạy triết trường Đồng Khánh. Ngô Kha sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm khóa đầu tiên của đại học Huế (1959), dạy tại Quốc Học. Kha lấy thêm cử nhân Luật (1962). Bửu Ý thì làm trưởng khoa Pháp văn, đại học sư phạm Huế. Chúng tôi thường nói với nhau : có nhạc, có triết, có họa, nay có thơ và dịch thuật nữa thì còn gì hơn. Thật vậy, với tình bạn, với say mê văn chương nghệ thuật, bổ sung cho nhau những kiến thức, chúng tôi đã một thời làm việc đầy hưng phấn. Ngô Kha cho in " Hoa Cô độc ", do Rừng vẽ bìa 1962, gây luồng gió mới cho thơ. Bửu Ý dịch " Vườn đá Tảng " của Nikos Kazantzakis, " Con Lừa Và Tôi " của Ramon Rimenez rất thơ mộng. Tường say sưa với siêu hình học. Còn Sơn và tôi với những quả chín đầu mùaấ: " Diễm Xưa " của Sơn, và " Miền Lệ Xanh " của tôi, được chọn dự triển lãm lưỡng niên họa sĩ trẻ tại Paris, 1962.

Ngô Kha bị công an Huế bắt và bị chết ngay sau khi hiệp định Paris vừa được ký kết 1973 (đến nay vẫn chưa biết đích xác bị chết như thế nào, chưa tìm ra dấu tích).

Thời gian này có thêm Bửu Chỉ. "...Trong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình, thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hoà bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen..." (TCS, Bửu Chỉ Một Cuộc Truy Hoan Vô Tận Về Cõi Vô Thường).

Không khí bạn bè lúc ấy, phải kể anh chị Đỗ Long Vân, từ Pháp về. Anh Đỗ Long Vân từ đại học Sorbonne về dạy đại học Văn Khoa Huế. Đêm nào chúng tôi cũng cùng anh chị Vân, Quỳ đạp xe đạp vào cà phê Dung trong thành nội, ngồi nói chuyện với nhau cho đến khuya. Hai người bạn ngoại quốc nữa là Christian Cauro, dạy đại học Văn Khoa, và bác sĩ Eric Wulff, dạy đại học Y Khoa... Cauro và Wulff hiện ở Paris và ở Đức, vẫn liên lạc với chúng tôi, tình nghĩa như xưa...

VÀI NGƯỜI BẠN GÁI CỦA SƠN MÀ TÔI BIẾT...

Trở thành bạn thân thiết chung của chúng tôi sau đó. Cho đến nay, Tôn Nữ Bích Kh. trong " Biển Nhớ " còn ở Nha Trang, tôi có lần ghé thăm. Hai chị em Bích D., và Dao A., ở California, trong " Diễm Xưa " và " Xin Trả Nợ Người ". Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao A. về thăm, suốt tuần sáng nào A. cũng đến ngồi trên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà. Chúng tôi thường đùa với Sơn : " D. xưa, A. nay ". Dạo đó, nhà Sơn dọn về ở khu nhà mới xây của Dòng Chúa Cứu Thế, 11/3 Nguyễn Trường Tộ. Địa chỉ của Sơn cho đến sau 75. Hiện nay gia đình Hoàng Phủ Ngọc Tường đang ở : "...Hình như trong mỗi góc đầy bóng tối của căn nhà này, trên chiếc bàn viết gỗ mục của Sơn để lại, và trong chiếc ghế bằng sợi mây hèo to của Cường thường ngày vẫn ngồi vẽ, đều dậy lên mùi hương lặng lẽ của tuổi trẻ chúng tôi. " (HPNT- Căn Nhà của Những Gã Lang Thang - Thanh Niên, xuân 2001).

Căn nhà mang nhiều kỷ niệm của Sơn, nhất là tháng ngày sau giải phóng. Khi cả gia đình Sơn đã ở tại căn nhà mới xây không lâu trước 75, 47C Duy Tân, nay là Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. Sơn trở lại Huế một mình với bạn bè, sống những ngày đầu sau giải phóng, còn biết bao khó khăn, nghi kị. Sơn vào sinh hoạt tại hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường đi lao động chung cùng Bửu Chỉ, khi tại Huế, khi tại Quảng Trị (không hề đi cải tạo hay kinh tế mới ở Khe Sanh như nhiều tin đã viết).

Mỗi đêm, chúng tôi vẫn đến nhà cùng Sơn uống rượu, Lữ Quỳnh và tôi ở trong Thành Nội, đạp xe qua Sơn, Quỳnh thường lấy chai đi mua rượu đế (chai mua hôm trước, hôm sau đến đổi lấy chai mới về). Phần lớn là rượu dổm, vì khan hiếm gạo nếp... còn nghe nói bỏ cả thuốc rầy vào cho trong. Ôi, một thời của những buổi rượu độc hại như thế, mà quây quần và nói cười, vẽ chân dung bạn bè treo đầy tường, nhất là Bửu Chỉ. Phải kể đến người bạn mới quen sau 75 mà chúng tôi rất quý mến : Thái Bá Vân, người viết phê bình nghệ thuật được các họa sĩ nể trọng. Vân mất trước Sơn hai năm, cũng vào tháng 4. Vân đã viết : "...Riêng tôi, mãi sau khi miền Nam giải phóng, nhờ những chuyện dạy học ở Huế, 1978-1981, tôi mới được gần Trịnh Công Sơn, trên căn nhà nhỏ đường Nguyễn Trường Tộ, đầy kỷ niệm với bạn bè trong đó. Niềm an ủi ấy là của hàng triệu người đã khuất, dành cho chúng tôi, và mỗi lần nhớ lại, chúng tôi đều thầm rơi nước mắt. " ( Thái Bá Vân - Tiếp Xúc Với Nghệ Thuật , Viện MTVN 1997).

Chính tại căn nhà này Sơn đã viết bài " Diễm Xưa ", ghi một dấu mốc cho ca từ đầy chất huyền thoại của Sơn "...Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau ". Có lần Sơn bắt gặp một nhánh hoa sầu đông tím cắm trước cửa sổ nhà. Mà còn ai, ngoài cô gái mỗi ngày vẫn đi học ngang qua đó. Tất nhiên là Sơn kể cho tôi ngay với nhiều xúc động. Và, Sơn đã bạo dạn một lần, nhờ tôi đi cùng , qua thăm D., nhà bên kia sông, qua cầu Phú Cam, rẽ mặt, đi một đoạn đường Phan Chu Trinh... Lúc này, tôi cũng đã thuê phòng trọ trong con hẻm đá gần nhà D. và nhà Tuý Hồng (chị dạy Việt văn trường trung học Hàm Nghi, đã viết truyện ngắn đăng ở Bách Khoa, gây chú ý nhiều độc giả). Tường về đó ở chung cùng tôi để đi dạy gần hơn. Tôi còn nhớ nét mặt nghiêm của ông cụ D. , giáo sư Pháp văn trường Đồng Khánh. Ông cụ đã nhìn chúng tôi bằng đôi mắt nghi kị, nhất là Sơn, tóc dài, có râu lưa thưa dưới cằm. Nhưng đã liều thì phải chịu trận. Lúc D. đưa chúng tôi ra cổng, cổng sân là hai liếp cửa gỗ thấp. Còn nhớ rõ là lúc đó, em gái D., còn nhỏ lắm, chạy theo ra nhìn Sơn. Ai ngờ sau này Sơn đã da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của A. , để rồi, thất vọng, để rồi... hai mươi năm sau mới được : "...Hai mươi năm em trả lại rồi. Trả nợ một đời xa vắng vòng tay ...".

" Biển Nhớ ", hay bóng dáng của Bích K.. Là một giai đoạn ngắn, vì hoàn cảnh và thời cuộc lúc đó. Sơn vào Qui Nhơn nấp dưới bóng trường Sư Phạm. Hè 1962, tôi vào thăm Sơn vì Sơn ở lại, không về Huế. Đêm nào Sơn cũng rủ Bích K. cùng tôi ra biển ngồi đến khuya. Bích K. từ Nha Trang ra Qui Nhơn học, cùng lớp, hay săn sóc cho Sơn, lúc ấy chỉ thấy khi nào Sơn cũng mặt chiếc áo chemise kaki vàng. K. thường đem cà phê đến tặng Sơn. Chúng tôi đã ngồi uống cà phê với nhau dưới mái quán thấp ven biển lợp bằng lá kè. " Biển Nhớ " là cảm hứng từ muôn vàn đợt sóng lấp lánh trong những đêm khuya khoắt ấy, mà Sơn đã kéo cao cổ áo, chợt rùng mình, rồi có một ngày sẽ xa những dấu chân trên cát, có còn " trời cao níu bước Sơn Khê ...". Thời Qui Nhơn này của Sơn phải kể đến " Trường Ca Tiếng Hát Dã Tràng ", mà hè 1964, trong lễ ra trường, Sơn đã dàn dựng cùng bạn bè hát rất thành công. Sơn đã chép tặng tôi mấy trang bản trường ca này. Tôi đem về, dán đầy các ô cửa kính. Tiếc là bây giờ thất lạc, không tìm lại được.

Nhắc đến Sơn - Khê, Sơn hay ghép tên bạn gái vào lời nhạc của mình một cách hồn nhiên như vậy. Như sau này, một cô gái bình thường, có sắc đẹp quyến rũ, ở cạnh nhà Tôn Thất Văn, làng Báo Chí, Thủ Đức. Tôn Thất Văn là họa sĩ vẽ tranh lụa nổi tiếng, bạn thân của chúng tôi. Tuần nào chúng tôi cũng về nhà Văn uống rượu. Sơn đi chiếc xe PC màu vàng cam ... " Cây sẽ cho Lộc và cây sẽ cho hoa. " Lộc là cô láng giềng của Văn mà Sơn đã si tình.

Cũng như " Bống bồng ơi " sau này của Sơn. Bống là tên gọi ở nhà của Hồng Nhung :

Ngày Bống Mẹ bồng
Nhẹ quá tơ tằm
Lay nhẹ bống bồng bông
Lay nhẹ đóa Hồng Nhung.

Và còn nữa, Quỳnh H. của " nụ cười khúc khích trên lưng ", Chu Nguyệt Ng., mà chúng tôi đã sửa soạn đi ăn cưới, Michiko, cô gái Nhật rất thương Sơn, chơi bóng rổ giỏi, đã làm luận án về nhạc Sơn tại đại học Sorbonne, Paris...

ĐÀ LẠT MÙ SƯƠNG 1965

Là những tháng ngày sương khói, lãng đãng nhất. Hình ảnh phải ghi lại kẻo quên, là chiếc khoen tai lớn với mái tóc dài, đang băng qua đồi Cù. Phùng thị L. , hình ảnh của " Như Cánh Vạc Bay " :

Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi...

mà tôi đã gặp lại bên này, khi đến Canada, về thăm Ottawa.

" Tóc gió thôi bay " như một âm hưởng của nhạc Sơn khởi đi từ Đà Lạt. Như " Đàn Bò Vào Thành Phố " khởi đi từ B"lao.

Sau triển lãm tranh một mình đầu tiên ở Huế, rồi Đà Nẵng, Noël 1965 triễn lãm tại Alliance Francaise, Đà Lạt. Nơi nào Sơn cũng ở bên tôi . Thời gian này Sơn gặp Khánh Ly, mới hát ở Night Club Đà Lạt. Sau đó về hát với Sơn ở sân trường Văn Khoa, Quán Văn, Sài Gòn, được sinh viên nồng nhiệt tán thưởng.

Đà Lạt, căn phòng tôi thuê ở đường Hoa Hồng. Những chiều chúng tôi thường ra Kiosque cô Ba, gần hồ Xuân Hương, uống bia. Sơn giới thiệu tôi với cô Ba, tôi làm nghề sửa xe, vì tay chân lem luốc sơn màu. Cô Ba thấy chúng tôi còn trẻ, mà chiều nào cũng ra quán ngồi, thắc mắc lắm. Sau đó, khi bày tranh, Sơn nói tôi mời cô Ba đến dự. Lúc đó cô mới ưu đãi chúng tôi hơn nữa. Uống bia nửa giá...

Những đêm khuya Đà Lạt, lúc đó Nguyễn Xuân Thiệp, trung uý, mới nhận chức trưởng đài phát thanh quân đội Đà Lạt, có chiếc jeep, cứ tối xuống là cùng nhau uống rượu, khuya về, lái xe cứ lòng vòng vì say...

Bên cạnh Sơn, còn có em Sơn, Trịnh Xuân Tịnh. Thời ở Đà Lạt, Tịnh là người gần gũi, chăm sóc cho Sơn, lo in và phát hành nhạc, từ những bản nhạc rời cho đến in thành tập. Thời gian đầu tiên đó, tôi luôn vẽ bìa cho Sơn và được " nổi tiếng lây ", khi tờ Le Monde, tờ báo lớn và uy tín của Pháp, có bài của Pomonti viết về Sơn, in kèm cái dessin tôi vẽ Sơn rất kỹ bằng bút sắt, trong tập ca khúc đầu tiên của Sơn được in ra, rất đẹp, nhà xuất bản An Tiêm. Tô Thùy Yên viết bài giới thiệu. Chắc Tịnh không quên được cái đêm Sơn và Tịnh vơ hết tiền của anh em khi Sơn và Tịnh đánh xì tẩy thắng, lận tiền dày cộm trong áo, đi giữa khuya Đà Lạt. Sơn chơi binh xập xám và xì tẩy chì lắm.

TRỞ LẠI SÀI GÒN, THỜI " CẬU "


Còn non choẹt lúc đó, mà đêm nào chúng tôi cũng vào dancing Tự Do, được tài-pán Cường lúc nào cũng ngả người " chào cậu " và luôn dành cho cái bàn nhỏ trên lầu. Sơn nhảy bebop bay bướm và thích nhất điệu này. Những đêm đi phòng trà thường có cả Trịnh Cung, lúc đó, đang thuê căn phòng trong khu phố sau chợ Trương Minh Giảng, cạnh phòng Huy Cường, tài tử xi-nê đang ăn khách. Có những đêm tôi và Sơn lên Trịnh Cung chơi, vì hết tiền. Đang ngồi lơ mơ với nhau, đã khuya, mà có người gõ cửa mua tranh. Cung bán được tấm tranh, chúng tôi lại xuống phố...

Sơn có những cuộc si tình kỳ lạ. Kỷ niệm si tình đáng nhớ nhất, là không biết Sơn mua chiếc nhẫn bằng platine bạc lúc nào, đeo ở ngón tay. Đêm đó, sau khi nhảy xong - thường là với Dung và Thanh Thuý Tàu (vì cô lai Tàu, và để phân biệt với ca sĩ Thanh Thuý), Sơn nói là có món quà tặng Thuý, chốc nữa về sẽ trao. Khi ra khỏi cửa phòng trà, giữa khuya, đi một đoạn đường Tự Do, thì Sơn nói Thanh Thuý nhắm mắt lại, Sơn lấy chiếc nhẫn đeo vào ngón tay đeo nhẫn cưới của Thanh Thuý, làm Thanh Thuý cảm động, bỏ chạy tới trước, chiếc robe trắng tung bay trong phố khuya...

Đêm trên phố khuya ấy là một kỷ niệm đẹp. Trong chúng ta, ai mà không có những góc phố kỷ niệm :

Níu vai phố rộng xin về
Với cây gió trút với hè nắng rưng
(Bùi Giáng)

Với Sơn thì :

Về trên phố cao nguyên ngồi
Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi

như còn nghe rõ " ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì " của chúng tôi trên phố Blao, Đơn Dương, Đà Lạt ...

Năm 1965, có lẽ là năm tháng đáng ghi nhớ nhất của tôi và Sơn. Sơn được các bạn ở Sài Gòn tổ chức buổi ra mắt đầu tiên trước quần chúng tại khu đất trống sau lưng trường Văn Khoa Sài Gòn cũ (nay là Thư Viện Quốc Gia). "...Với tôi, đây là buổi thể nghiệm xem mình có thể tồn tại trong lòng quần chúng được không. Trước mặt đám đông đến mấy nghìn người gần đủ thành phần văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên, tôi cảm thấy mình quá trơ trọi và đầy lo âu trên bục gỗ với cây đàn guitare dưới ánh sáng đèn... Buổi hát đã để lại một ấn tượng khá tốt đẹp cho người trình bày lẫn người nghe..." (TCS) Còn tôi có cuộc bày tranh Noël ở Đà Lạt với đông bạn bè lên dự, có cả Phạm Duy, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân, Tôn Nữ Kim Phượng, Christian Cauro... Tôi, Sơn và Tường không còn gì hạnh phúc hơn tình bạn... Phòng tranh này tôi đề tặng Tuyết Nhung...

THỜI GIAN XA BẠN

Tôi có 15 năm sau giải phóng, còn ở lại cùng Sơn. SàiGòn - Huế - Hà Nội. Cùng gặp những người bạn vong niên rất quý : Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán, Thái Bá Vân... Các anh Tuân và Văn Cao thân thiết với Sơn nhất. Đến chơi với Sơn cũng là đến với bạn bè Sơn, vì lần nào Sơn cũng gọi chúng tôi đến cùng uống rượu. Sơn và Văn Cao có dáng dấp giống nhau. Người gầy, hai bàn tay ngón dài tài hoa. Thơ, nhạc, vẽ đều tài hoa. Hoàng Ngọc Hiến đã tiến cử một bài thơ tình hay nhất của thế kỷ, nhân một nhóm những người yêu thơ yêu cầu, đó là lời của bài nhạc " Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ ". Tôi cũng đồng ý như vậy. Mấy năm ở Sài Gòn, tôi có vẽ bức sơn dầu " Bỏ Tôi Đứng Bên Đời Kia ", cảm xúc từ mấy câu của Sơn :

Lòng tôi có đôi lần khép cửa
Rồi bên vết thương tôi quỳ
Vì em đã mang lời khấn nhỏ
Bỏ tôi đứng bên đời kia.

Sau đó bán cho người khách đem về Nhật. Tháng trước khi Sơn mất, tôi còn gọi điện thoại về đùa với Sơn : Hoàng Ngọc Hiến bình chọn ông có bài thơ tình hay nhất thế kỷ, bây giờ mình sẽ bình chọn ông là người vẽ hay nhất của thế kỷ. Sơn cười khoái chí, nói, đừng nói vậy mà người ta ghét. Sơn sợ người ta ghét lắm. Vì Sơn chẳng ghét ai bao giờ. Thây kệ (không phải thôi kệ) là chữ Sơn hay nói khi có ai xấu với mình...

Tôi cùng gia đình qua Mỹ cuối năm 1989. Những ngày đầu năm 1990, Sơn đã viết thư chia xẻ với tôi những lo toan lúc ban đầu khi đến Salt Lake city, tiểu bang Utah : " Mình nghĩ ban đầu có khó khăn, nhưng dần dà rồi đâu cũng vào đấy cả. Lẽ ra cái tuổi bọn mình, phải bắt đầu nhàn thì bây giờ chỉ mới khởi công. Cũng gay go thật. Chúc tất cả hãy can đảm và thiền trước mọi cảnh đời đa đoan phức tạp " (trích thư Sơn, 5.3.1990).

Hai năm sau, đang nhớ bạn, thì Sơn nhắn, sẽ qua Montreal, Canada thăm gia đình các em. Lúc đó là tháng 3.1992, Canada còn tuyết nhiều. Tôi qua thăm Sơn ngay, có gặp cả Khánh Ly. Lại suốt ngày lang thang ở phố thị, St. Laurent, Duluth, ... Sơn cứ chỉ bảng số xe của Canada có hàng chữ " Je Me Souviens " mà nói : thành phố này có tình. Có đêm vào quán nhạc Jazz nổi tiếng vừa uống rượu vừa nghe đàn. Tôi vẫn mê tiếng đàn trầm contrebasse. Sơn thì saxophone. Sau đó về nhà ngồi uống rượu tiếp đến 2, 3 giờ sáng và vẽ. Sơn thích vẽ trong những lúc thấm rượu và khuya khoắt như thế. Lần đó Sơn hát cho tôi nghe " Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng " . Tôi thật sự xúc động, khi nghe câu : " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ". Tôi cứ thầm hát cùng Sơn câu này. Nét phóng bút của lời nhạc Sơn chép tặng tôi, vẫn treo trên cánh cửa từ ngày Montreal về cho đến nay, mới đó mà đã gần 10 năm.

HỘI HOẠ, GIẤC MỘNG KHÔNG BỜ BẾN CỦA SƠN


Đến với nhạc Sơn là đến bằng linh cảm, bởi vì tâm hồn Sơn là một tâm hồn nhạy bén không cùng, với hội họa cũng vậy. Sơn cũng vẽ dễ như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nói : " Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra ".

Không gian tranh của Sơn bao giờ cũng dở dang, nhưng lại đầy tinh khiết, sáng tạo : " Nghệ thuật dạy cho tôi biết biên giới của hữu hạn và sự vô cùng. Riêng trong hội họa tôi còn bắt gặp thêm cái không bờ bến của một giấc mộng tự do tinh thần. " Sơn phát biểu như một tuyên ngôn nghệ thuật. Tranh Sơn thanh thoát đến hư tưởng. Người xem thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng, khác với những " lời ca thơ " đầy nước mắt của Sơn " tôi không thể phân biệt được nước mắt với âm nhạc " (Nietzsche).

Những hình thể mảng màu trong tranh xếp đặt ngộ nghĩnh và đầy suy tính, lại rất đúng với nguyên lý của nghệ thuật mới. Những họa sĩ chuyên nghiệp đôi lúc cũng ngợ tay, khó bóp méo hình thể và sắp xếp không gian được như vậy.

Sơn rất giỏi về nắm bắt những nét đặc trưng khi vẽ chân dung, nhất là chân dung những người bạn thân thiết. Sơn vẽ nhiều chân dung Văn Cao rất đẹp. Lột tả được nét tinh tế trên từng khuôn mặt. Chân dung thiếu nữ như chân dung Linh Đan, chân dung M., là những bức tranh đẹp nhất của Sơn.

Nguyễn Trung đã viết " hôm nay chúng ta nói về Trịnh Công Sơn họa sĩ. Michel Ragon, nhà lý thuyết người binh vực nghệ thuật mới, nghệ thuật trừu tượng, có viết rằng trong thời đại chúng ta, không còn những họa sĩ vẽ chơi (peintre du dimanche) nữa. Rất đúng với Trịnh Công Sơn. Anh mới vẽ một vài năm nay và đã trở thành họa sĩ thực thụ " (phòng tranh ĐC, ĐQE, TCS, Sự Phối Hợp Thú Vị Của Ba Tính Chất Khác Nhau, Tuổi Trẻ CN, 5.1.1989).

Đó là lần bày tranh tại nhà hữu nghị Tiệp Khắc 1989. Tôi, Đỗ Quang Em và Sơn. Trước đó, năm 1988, một phòng tranh tại nhà Sơn của Tôn Thất Văn, Sơn và tôi, cũng rất thành công.

HÃY TRỞ LẠI, SƠN ƠI


Lần cuối cùng tôi và Sơn còn bên nhau là tháng 8, năm 2000. Mùa hè tôi từ Virginia về ở tại nhà Sơn một tháng, trưa chiều đều ngồi với nhau ở căn phòng đầy hơi hướm bạn bè tứ xứ của Sơn. Cái mặt bàn tròn là thân cây đại thụ chở từ Campuchia về, bốn chiếc ghế mây, và một dãy ghế để cạnh. Cái thùng ván thông lớn, trang trí đầy màu sắc, đựng những chai rượu chát. Chiếc đàn piano đen ám bụi, đống màu dầu và acrylic để trong góc. Tranh dựng, treo ngổn ngang. Sơn đã vẽ tại đây, hát tại đây. Xấp bản thảo nhạc là những tờ giấy rời luộm thuộm. Cuốn sổ ghi địa chỉ và số phone úa vàng, Sơn đã ghi chú chi chít trên đó. Mấy năm sau này, Sơn đã bỏ hẳn thuốc lá, chỉ còn uống ít rượu. Đang uống Black Label nhãn đen.

Cuộc bày tranh chung giữa ba người bạn : Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ và tôi tại gallery Tự Do (từ 20.8 - 3.9.2000) mà Sơn đã tự mình phát biểu : " Nghệ thuật đích thực là một thứ thông điệp còn lại sau cùng , khi mọi hình thức tồn tại khác đã mất đi . "

Là cuộc chơi cuối cùng sao Sơn ?

Tôi trở lại Mỹ, chỉ mới bảy tháng sau mà Sơn đã bỏ tôi ở lại bên đời.

Tôi thấy lòng đau và buồn bã. Lúc gần ba giờ sáng bên này, có tiếng điện thoại reo. Tôi biết là tin dữ.

Tháng 4. Mùa xuân bắt đầu, hoa rực nở , mà lòng tôi chùng xuống lạnh tăm. Như trở lại với màu xám chì của mùa đông dài tuyết phủ vừa qua.

Suốt hơn cả tháng nay, tôi còn như thảng thốt. Tình bạn có hồi sinh được cơn hôn mê không Sơn. Hãy trở lại và ra dấu, như Bửu Chỉ đã nhắn, để chúng ta lại nhận ra nhau, lại ôm choàng lấy nhau mà khóc.


Đinh Cường
Virginia, 16.4.2001


 
Chỉnh sửa lần cuối:

Cảm Nghĩ Về Ca Khúc Trịnh Công Sơn

Từ lâu lắm Trịnh Công Sơn được giới ái mộ trao tặng danh hiệu là kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận.

Anh lớn lên bằng tuổi chiến tranh đứt rồi lại nối, chiến tranh dai dẳng và cùng khắp đến nỗi đứng ở tọa độ nào trên đất nước cũng thấy và sống chiến tranh, từ đó người chiến sĩ dấn thân tự đề ra cách thế sống và hành động phù hợp với sở nguyện mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Thế đứng trước nay ở miền Nam của anh, tối thiểu, không hại cho uy tín và sự nghiệp của anh. Lịch sử đất nước lật hẳn sang một chương khác, trước sau anh vẫn an nhiên ("Ðôi khi một người dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi.", Tự tình khúc hay ít nhất anh giữ an nhiên cho nghệ thuật của mình. Anh đi vào nhạc, anh bước xuống đường, y như người ta hít thở. Và nói như thế, không có nghĩa anh phó mặc đời, mà có nghĩa là anh gieo trồng vào những luống đã tự đào sẵn, không phải ngoái lui, không cần xóa đi làm lại. Nay nhạc và lời của anh, nếu có chuyển đổi chẳng qua vì tâm hồn đến tuổi đổi mùa. Cần nói thêm rằng cái an nhiên là món quà lưu chủ của đời, sau khi khổ chủ đã hoàn trả cho người - người tình, người bạn, người đời - những hơn thua, ngộ nhận, thị phi.

Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là bài hát. Mỗi bài là một truyện ngắn, mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện dài không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết thương, một vết thương người, một vết thương thời đại, vết thương thiết thân, phải cưu mang và lưu truyền.

Nhưng không có đoạn truyện nào kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích, mà ngược lại đó là những loại Tình Sầu, Tình Xa, Tình Vơi. Không còn là cái đẹp của đối xứng, vuông tròn, thủy chung. Bởi cùng nhau tắm gội trong biển bấp bênh của thời đại, con người xót xa khám phá ra cái đẹp chông chênh, cái ma lực của chén đắng. Ðời dành riêng cho kẻ nào đã lên tới đỉnh buồn và xuống tới vực thẳm, một đôi mắt bên trong để nhìn ra những vẻ đẹp của mặt đất, của nghịch lý khiến cho y nhận chân cái tất yếu của cô đơn, cái hào quang của thất bại, cái quyến rũ của triền dốc. Con người sinh ra là đã thua cuộc, vấn đề còn lại của con người, vấn đề hoàn toàn nguyên vẹn, là khoác lên sự thua cuộc ấy một gương mặt người do từng cá nhân đắp dập lấy. Theo chiều hướng này, ta sẽ mục kích hàng hiên phô bày toàn chân dung lập thể: hoặc thiếu mắt thừa môi, hoặc mặt lật vào trong mà dạ để ra ngoài.

Nguồn cảm hứng khơi mạch từ đó, rất dễ rơi vào chỗ sướt mướt, ê chề, rất dễ đưa tới trạng thái buông thả, quy hàng... là những gì nhiều người từng quy nạp cho ca khúc Trịnh Công Sơn. Ðành rằng vài tình cảm ấy không hoàn toàn vắng bóng, và đậm nhạt khác nhau từng nơi, từng lúc, nhưng nghiễm nhiên được biến chế, vượt qua, đủ để ta nhận ra đó không còn là những tình cảm hoàn cảnh mà là những tình cảm bản chất cần được khẳng định và hóa kiếp thành đức tin, động lực phản kháng những giới hạn của con người. Không những thế mà thôi, ta phải nhặt nhạnh những tàn phai, tóc trắng, tan tành theo giọt mưa, hạt bụi, lăn lóc như hòn cuội, không ngạc nhiên trước những tráo trở, lật lọng, chấp nhận gươm giáo, nọc độc, gọt tỉa màu mun của đêm, vốc bùn sóng sánh, phải nâng niu những vết thương cùng nét xanh xao, hao gầy, cám ơn những mối tình tơi tả, phải thương yêu nỗi chết... dung nạp tất cả vào lòng và bện thành tấm áo giáp, thứ áo giáp mặc trong.

Trịnh Công Sơn là người khát sống. Anh muốn sống nhiều nơi cùng một lúc, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, muốn sống gấp đôi sợ không đủ thì giờ, lắm lúc không phân biệt ngày với đêm. Anh thích những chuyến tàu xuyên suốt, những chuyến xe đỗ rồi lại đi, anh thích rút ngắn không gian giữa rừng với biển, giữa đó anh tha hồ sống với ghềnh, bãi, lũng sâu và núi, tháp, cánh đồng, anh muốn rút ngắn thời gian giữa lạ với quen và xua tan những cánh dơi thù nghịch.

Hình ảnh phố phô mình phân rãi trong ca khúc anh: phố xưa (Khói trời mênh mông),phố hẹn (Khói trời mênh mông), phố xôn xao (Yêu dấu tan theo), phố rộng (Tưởng rằng đã quên), phố thênh thang (Quỳnh hương), phố cao nguyên (Lời thiên thu gọi), phố nọ (Ðêm thấy ta là thác đổ), phố xa lạ (Bên đời hiu quạnh)... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một nơi tập cư đủ mẫu người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thỏa lòng con người nào muốn sưu tập con người. Do những hình ảnh phố xá như thế này, có người bảo: Trịnh Công Sơn thích lui tới những nơi đô hội. Ðiều này đúng một phần, bởi lẽ: anh thích những nơi có bóng dáng con người, anh thèm tiếng người hơn là cõi vắng lặng, nhưng điều cần nói thêm, là: anh ước mơ hình ảnh xã hội được đô hội hóa chứ không phải là sa mạc hóa, và được đô hội hóa thường trực, sao cho ngày ngày hàng cây thắplễ lạc trên tầng lá xanh, lễ lạc trên từng nẻo đường, khắp mọi nhà và trong mỗi con tim.

Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp hơn là phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với anh là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến bên kia thành bên này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ bên này. Trong nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả hai phía mà có thể nhìn cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo dần dần trong tâm khảm cái dự cảm lìa xa, mất mát.

Tình yêu. Quê hương. Thân phận. Làm sao nói về những vấn đề này bằng lời hát và chuyên chở bằng nhạc, những ưu tư thường trực của mọi người và được mọi người ít nhiều nói đến ? Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và bằng nhạc. Lời tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự về giọt mưa, giọt nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt... Nhạc tách riêng có khi nhún nhảy như loại đồng dao hay thanh bình ca, có khi lại rất thích hợp với ánh đèn màu và khói thuốc của vũ trường, cũng có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn gần gũi với thánh ca thanh thoát...

Nhiều nhạc sĩ viết về tình yêu và quê hương.

Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ. Sẽ không có mối tình rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm ly, sẽ không có luôn cả đau khổ, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là một nỗi đau khổ đã đành, dành sẵn, và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình. Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm hẹn. Ðối tượng tình yêu trở thành ý niệm. Trịnh Công Sơn nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và luôn cả lộc xoang ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thành điểm ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như Ðức Giáo hoàng của "ái tình giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người "Hãy yêu nhau đi". Ðây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Ðây mới thật là tình yêu cứu rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp nhuộm mây nẩy trăng theo cách gọi của Thánh Thán (Vẽ mây đẹp để làm nổi trăng), Trịnh Công Sơn ca ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra áo xưa lồng lộng chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám của áo.

Ðó là những khối tình nở ra trong khói lửa, như những cánh hoa xương rồng giữa khô cằn gai góc. Bóng đen chiến tranh càng làm cho tình yêu thêm phần gấp gãy.

Quê hương nổi bật ở hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo của quê hương thì có lắm truyện để nói, để tả, để mủi lòng. Cái nghèo còn là hậu quả của chiến tranh. Dứt chiến tranh là cứu giải cái nghèo. Và chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do những người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh. Những bài hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam, cũng theo phép nhuộm mây nẩy trăng như có nói ở trên, nhưng ở đây được trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả hay tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ của chiến tranh. Do đó, đến khi chiến tranh kết liễu, nhạc anh vẫn tồn tại, vì nó vẫn còn công lực cảnh giác. Hình ảnh người nô lệ da vàng, vốn làm phật ý những người quốc gia chủ nghĩa, là một lối cưỡng từ đoạt ý rất kiến hiệu trong việc thiết lập đối thoại ban đầu. Ðây là một bước lùi giữa hai bước tiến, gần như phương sách tự chuốt nhục của con người muốn đối phó với tình hình đất nước nguy kịch đến độ chiến tranh không đủ để tiêu diệt chiến tranh, vũ lực không đủ để tiêu diệt vũ lực, mà trớ trêu thay phải có nghệ thuật hỗ trợ và nhất thiết là nghệ thuật trong nghệ thuật. Lập trường như thế này dễ hứng lấy búa rìu dư luận. Ngay giữa chiến tranh, anh đã vẽ ra thời buổi sau chiến tranh mà con người có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ tô bồi. Những dự phóng này nảy nở trên nền tảng làm bằng những ám ảnh mất mát, cái bấp bênh của những gì hiện có, nỗi bất lực không yêu được bội phần.

Giữa một nền trời như vậy, thân phận của con người là một vấn nạn. Ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý. Chủ đề được đề cập, phân tích, lý giải từ Ðông sang Tây, nhưng là do những nhà tư tưởng, triết gia và những nhà viết văn xuôi đề xướng.

Giữa cõi vô thường, bị thường trực kềm kẹp bằng một nỗi khó sống, người nghệ sĩ trong những phút xuất thần tự đồng hóa với các vật thể vạn thù trong đời sống: có khi ta là mục đồng, là lá cỏ, cơn gió, có khi là giọt mưa tan giữa trời, là hòn cuội, con sâu. Nhưng trong khi cỏ suốt đời là cỏ, cuội trọn kiếp là cuội, thì con người mỗi phút mỗi chực vong thân.

Trịnh Công Sơn chắp cánh cho tưởng tượng, và tưởng tượng len lỏi vào các hốc hẻm của đời sống, khiến cho anh sờ mó đến sự vật nào là sự vật ấy dường như bớt thật và trở nên lung linh bằng một quầng mộng ảo. Cho nên anh đi trước người khác một bước: ngạc nhiên trước người khác, mừng reo hay tư lự cũng trước người khác. Cái "có" đang nằm trong tay, anh đã sống với cái "mất" nó rồi. Ðóa hoa nào đi qua lòng anh cũng trở thành đẹp hơn vẻ đẹp thật và đóa hoa đương dộ lại nhuốm vẻ não lòng của héo úa.

Sự sống bước giật lùi mỗi phút giây như hình ảnh cuốn chiếu. Trịnh Công Sơn quả quyết Chỉ có ta trong một đời và dứt khoát chọn lựa: Sống. Sống hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền. Anh vâng theo cái mệnh lệnh "Hãy tận hưởng ngày hôm nay" của thi sĩ Horace mà cố cách vặn lùi thời gian, sống chong chóng, thu rút giấc ngủ, thót người trước cảnh Thành phố ngủ trưa (Ðêm thấy ta là thác đổ), xem giấc ngủ như là một cái dợm chết: Hôm nay thức dậy, ôi ngẩn ngơ tôi (Xa dấu mặt trời), tự ru mình bằng cách Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui và rêu rao cuộc đời đáng sống.

Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó thể phân ly: sống chết (chết từng ngày sống từng ngày, Buồn vui phút giây), buồn vui (Buồn vui kia là một, Nguyệt ca), hạnh phúc khổ đau (Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau, Hãy yêu nhau đi), tình yêu mật ngọt mật đắng (Lặng lẽ nơi này)... cái mặt phải trái của sự vật sao mà cận kề nhau đến thế, như đêm ngày, nhật nguyệt, như sum họp với chia phôi. Khổ cho kẻ nào chủ phân biệt !

Phải quên đi những ám ảnh của tuổi tác (Chập chờn lau trắng trong tay, Chiếc lá thu phai) và chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt của đời người:

... một trăm năm sau mãi ngủ yên (Sẽ còn ai)
... mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
... một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
... một lần nằm mơ thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên viết về thân phận con người. Ðể phục vụ mục tiêu ấy anh đã sai sử lời, nhạc và tư tưởng kết hợp thành một thể thống nhất và đã thành đạt trong công cuộc thể nghiệm một dòng nhạc vốn không dễ nhập cảnh vào lòng quần chúng trong buổi đầu. Có thể nói anh đã khẳng định thân phận bằng thơ và bằng nhạc: đây là sự đóng đinh màu hồng cho con người thời đại.

Cùng một trật, ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng.

Cuối những năm 50 và đầu những năm 60, xuất hiện một số ca khúc với nhan đề lạ tai, như Lời buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Vết lăn trầm, Biển nhớ, Dấu chân địa đàng... Ðó là những cửa ngõ vào khu vườn siêu thực đang rộ lên những sắc hoa tươi mới trong thời kỳ ấy: loài sâu ngủ quên trong tóc chiều... thương cho người rồi lạnh lùng riêng... tiếng hát ru mình trong giấc ngủ vừa... hôm nay thức dậy không còn thấy loài người... hãy nghe đời nghiêng... chiều đã đi vào vườn mắt em... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...

Người nhạc sĩ này đặc biệt sâu nặng với những tính từ: đời bồng bềnh, môi rồ dại, bóng lung linh, tiếng hát lênh đênh, một vòng tiều tụy, bờ cỏ non mộng mị, phố xá thênh thang, mắt xanh xao, hồn xanh buốt, đêm thần thoại, cành bão bùng... Những hình dung từ này cùng chung một thể thái, hay còn gọi là đồng vị (isotopie) và trở đi trở lại hơn một lần qua bài hát. Trong số này, có tần số xuất hiện cao nhất là: "mong manh" (tình mong manh, gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh, nụ cười mong manh...) như thể là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.

Lời trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công Sơn. Lời ở đây, như đã nói, là truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá, những hoa gấm cho sóng nhạc và có những giây lát cao độ, lời được đặc cách hóa kiếp thành kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh là tinh túy của lời được kinh qua sản xuất, lặp đi lặp lại để cuối cùng kết tinh dưới hình thức đơn khiết, cô đọng. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, ta nhận ra người mẹ cầu kinh gởi gắm cho một Ðấng Vô Hình, Siêu Nhiên nào chăng ? Không, đây là một loại kinh do chính mình phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm lại cầu nguyện cho con ở chiến trường có nghĩa là cầu nguyện cho mình có đủ sức mạnh đối phó với tình huống bất trắc, và sức mạnh ấy phát sinh từ ngọn đèn thắp thì mờ giữa đêm khuya, chẳng hạn; thiếu nữ cầu nguyện cho mối tình của mình ở bờ sông và lời kinh này sẽ làm bằng im lặng, gió trời và kỷ niệm.

Trên đây là một số cảm nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn, những cảm nghĩ vụn rời, thiếu thừa không rõ, vừa chắp nối vào những bài viết khác, vừa gợi mở những bài viết về sau chung quanh đề tài này. Một đề tài tát không cạn.

Bửu Ý
Huế 8.1990



 


Bi Kịch Trịnh Công Sơn

Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.

Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Ðặng Thế Phong trong "Giọt Mưa Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi" trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó.

Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.

Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba.

Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về NhuÐạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Ði".

Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản,

Sau đó - để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn.

Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu "Ngày mai nối bước Sơn Khê."

Sau đó Sơn lên B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn raÐà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài nhưÐàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Ðà Lạt.

Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai..."

Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhếch nhác ở Ðà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.

Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Ðà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Ðinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó.Ðôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.

Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Ðại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Ðỗ Ngọc Yến, TrầnÐại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.

Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó.

Phong trào du ca, của anh Nguyễn Ðức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam.

Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.

Trịnh Công Sơn - nối tiếp cao trào đo ù- đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này. .

Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì khái quát hơn.

Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Ðại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá.

Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ...Ðể làm gì? Ðể ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đã viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với bao nhiêu bi kịch sau đó .

Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Ðức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.

Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.

Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.

Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.

Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?

Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.

Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.

Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.

Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề - như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó - ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!

Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới ..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.

Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu - thì TCS đã viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..."

Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?

Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.

Tôi xin kết thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một nhân chng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài cánh én ... Rồi Ði Về.

Sơn thèm đi ra phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..."Ðó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đã chết vì cơn bịnh này.

Trịnh Cung



 

Rút từ Hồi Ký III : Thời Phân Chia Quốc Cộng

Ðầu thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm -- mệnh danh là nhạc vàng -- với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến. Rồi có phong trào du ca và tâm ca với những bài hát phi-thương-mại, đi kèm với tình ca quê hương và trường ca, nói lên được phần nào tâm thức của thời đại và được thanh niên sinh viên công nhận.

Trong phạm vi giải trí, phòng trà trở thành cái mốt của mọi người : thương gia, công chức, tư chức, quân nhân, thương phế binh và cả các bà nội trợ nữa... ai ai cũng thích đi nghe nhạc và giúp cho ca sĩ chuyên nghiệp, nhạc sĩ sáng tác, nhạc công đánh đàn thăng tiến trong nghề mình. Cánh tay nối dài của phòng trà là quán cà phê có nghe nhạc, thu hút đông đảo sinh viên, học sinh. Nhạc trẻ ra đời, đem lại cho nhạc Việt một số bài hát mới, sôi nổi, đậm sắc hơn trước. Một rừng nhân tài trẻ trung xuất hiện qua những ban nhạc bốn người (gọi là combo), sử dụng nhạc khí điện tử với âm thanh mới lạ.

Mười năm về trước, ở trong nước chỉ có ba nhà sản xuất đĩa hát. Bây giờ, rất nhiều người -- từ Ngọc Chánh (SHOTGUNS) qua Duy Khánh (TRƯỜNG SƠN) tới những người của các hãng khác (NHÃ CA, HOA MI, SƠN CA, SÓNG NHAC)... làm nghề sản xuất băng nhạc, mỗi tháng tung ra những chương trình nhạc rất hấp dẫn, kể cả cổ nhạc lẫn tân nhạc, nhạc trẻ lẫn nhạc già (nhạc tiền chiến). Hàng trăm, hàng ngàn (hàng vạn, nếu kể cả Saigon và các tỉnh) cửa hàng sang băng, càng làm cho băng nhạc phát triển dữ dội.

Trong bối cảnh sinh động như vậy, phần chính yếu là sáng tác phẩm phải rất phong phú. Vào lúc này, ngoài những người đi trước như Vũ Thành, Cung Tiến, Phạm Ðình Chương, Lâm Tuyền, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Văn Giảng, Ngọc Bích, Hoàng Thi Thơ, Trần Ngọc, Y Vân, Lê Dinh, Anh Bằng, Trúc Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường, Lam Phương, Ðỗ Lễ, Phạm Thế Mỹ... đã xuất hiện một số người mới như Thanh Trang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Lê Uyên Phương, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Nguyễn Ánh 9, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang... Tân Nhạc đã có tới bốn đời nhạc sĩ và có hàng trăm, hàng ngàn ca khúc được soạn ra và hát lên. Trong Hồi Ký này, tôi chỉ nhắc tới những người đánh dấu thời đại một cách sâu đậm bằng tác phẩm của mình.

Người nổi nhất là Trịnh Công Sơn. Trước tiên, người ta biết tới anh nhờ Quán VĂN. Quán do nhóm sinh viên mang tên KHAI HOÁ chủ trương. Nhóm này đã làm nhà xuất bản (QUẢNG HOÁ) rồi khi phong trào phòng trà thịnh hành, nhóm mở quán cà phê ở ngay trung tâm Saigon, trên nền Khám Lớn cũ trong khu Ðại Học Văn Khoa, sinh viên tới uống cà phê nghe băng nhạc và nghe Khánh Ly hát.

Bài hát của Trịnh Công Sơn đươc nghe tại quán VĂN lúc đầu là Lời Buồn Thánh. Cũng như nhạc Ðặng Thế Phong, bài hát tân lãng mạn (néo-romantique) này nói về nỗi buồn. Bài Lời Buồn Thánh thật là buồn, như bài hát buồn làm cho người Âu Châu phải tự tử là Chủ Nhật Buồn tôi đã nói tới trong một chương sách. Trong bài hát của mình, họ Trịnh cũng nói tới ngày chủ nhật buồn:

Chiều chủ nhật buồn
Nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa, trời mưa không dứt
Ô hay mình vẫn cô liêu...

Thoạt nghe đã thấy ngay là tiếng hát đau đớn, thấy mưa ảm đạm trong lòng (như thơ Verlaine), thấy sự cô đơn, hoang vắng. Sinh ra ở Ban Mê Thuột (hay Pleiku?), sống ở Huế, mưa ám ảnh Trịnh Công Sơn rất nhiều cho nên cũng vẫn là nỗi buồn của ngày chủ nhật mùa mưa trong bài Tuổi Ðá Buồn :

Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang
Từng ngón tay buồn em mang em mang
Ði về giáo đường, ngày chủ nhật buồn...


Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc nói về QUÊ HƯƠNG, TÌNH YÊU, và THÂN PHẬN CON NGƯỜI. Hãy nói về tình khúc Trịnh Công Sơn, nói về thân phận Người Tình trong giai đoạn quê hương đổ nát này.

Từ khi Tân Nhạc Việt Nam ra đời đầu thập niên 40, đã có những tình khúc của Lê Thương, Lê Yên, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn... Lúc đó là thời bình, khi tình còn xanh và yêu chưa lo sợ. Ngôn ngữ tình yêu thật là bình dị, đối tượng là cô hái mơ, cô láng giềng, cô lái đò, cô hái hoa hay anh Trương Chi. Từ khi nước Việt bị chia đôi, nhạc tình miền Nam đậm sắc hơn và trong mười năm đầu, vì cuộc đời chưa thực sự bị đe doạ, người ta vẫn có những bài hát hữu tình hay thất tình, xinh xinh, hiền lành, lúc đầu còn mới mẻ, dần dà ngôn ngữ tình yêu trở thành sáo ngữ. Tới lúc đời sống trở nên bấp bênh, thanh niên được gọi đi lính rất nhiều (chết trận cũng nhiều) biết bao nhiêu đôi lứa phải xa nhau (có khi vĩnh viễn xa nhau) tình khúc miền Nam thay đổi ngôn ngữ.

Nhạc tình không còn là nhạc lãng mạn, nhạc cảm tính với câu hát đắm đuối hay hờn dỗi nữa ! Bây giờ là những bài hát nhức nhối của những tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng. Nhạc trở thành não nề và đánh vào não tính. Nhạc tình bây giờ là tình ca của người mất trí.

Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán VĂN được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng cassette và chỉ trong một thời gian ngắn chinh phục được tất cả người nghe. So với tình khúc của ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới, chất chứa những hình ảnh lạ lùng, quyến rũ như cơn mưa hồng, thuở hồng hoang, dấu điạ đàng, cánh vạc bay...

Tình yêu trong nhạc của anh là những cảm xúc dữ dội như trái phá con tim mù loà, như nỗi chết cơn đau thật dài, như vết thương mở rộng... Cuộc đời là hư vô chủ nghĩa, con người sống trong cảnh Chúa, Phật bỏ loài người. Cuộc đời còn là đám đông nhưng cũng là quán không. Con người là cát bụi mệt nhoài, bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Tất cả nói lên sự muộn phiền, đau đớn... Buồn tủi cho thân phận con người nên nhánh cỏ cũng xót xa, phiến đá cũng ưu phiền, và chỉ còn những mưa và mưa để xoa dịu vết thương mở lớn! Hãy nghe thêm những câu hát về mưa trong Diễm Xưa :

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau ?
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...


Diễm Xưa cho thấy rõ tiếng hát đứt đoạn của nội tâm về nỗi đau con người trong tình yêu, thấy thêm sự hoang vắng của tâm hồn. Bị ám ảnh bởi mưa đến độ còn nhìn ra mầu sắc của mưa -- mưa hồng -- Trịnh Công Sơn nói lên nỗi bàng hoàng của con người khi thấy cái chết nằm ngay trong sự sống :

Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ ?


Nguyễn Ðình Toàn gọi nhạc Trịnh Công Sơn là những bản tình ca không có hạnh phúc, những bài hát cho quê hương đổ vỡ. Cũng là phản ứng của người đau đớn trước hoàn cảnh đất nước, nhưng nó là sự chịu đựng và chết lịm hơn là sự nổi sùng và chửi bới. Có lẽ vì tác giả là người lớn lên ở Huế, một thành phố nên thơ, hiền hoà, không chấp nhận bạo động. Tôi vẫn cho người Việt ở ba miền đất nước có những phản ứng khác nhau trước những hoàn cảnh khó khăn. Ví dụ người con gái miền Bắc thất tình thì phản ứng bằng sự điên giả -- CHÈO có vở Vân Dại Giả Ðiên -- hay điên thật rồi nguyền rủa, chửi bới cuộc đời (như ông giáo ở Phú Nhuận nói ở chương trên). Sự phản ứng của người gái Huế là buông xuôi (fatalisme), mất người tình là nàng có thể đâm đầu xuống sông tự tử. Còn ở miền Nam à ? Không oong đơ gì cả, người thất tình sẽ đốt chồng như cô Quờn.

Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại. Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này.

Từ nhạc tình yêu, thân phận con người, Trịnh Công Sơn chuyển qua nhạc thần thoại quê hương. Âm nhạc ở miền Nam trong thời gian này thật phong phú. Vẫn có những bài hát soạn cho tuổi choai choai : Em 16, Em Mới Biết Yêu Ðã Biết Sầu, Túp Lều Lý Tưởng, Người Tình Chung Vách, Người Tình Chung Thủy và cho người lính Cộng Hoà : Lính Mà Em, Lính Dù Lên Ðiểm, Lính Nghĩ Gì, Lính Xa Nhà, Lời Người Lính Xa, Lính Trận Miền Xa, Anh Là Lính Ða Tình, Người Lính Chung Tình, Ðám Cưới Nhà Binh... Và có thêm những bài hát phản ứng trước cảnh tang thương của đất nước. Như đã nói trong chương trước, nhạc tâm ca, du ca lúc này là sự phẫn nộ của thanh niên khi thấy mình bị đưa lên giàn hoả thiêu hoặc phải đi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai... rồi xuống vỉa hè và trở thành tục ca.

Bây giờ, ngoài những ca khúc đi vào tình nhớ, tình xa, tình sầu... với cơn chết lịm, với nỗi muộn phiền và niềm xót xa trong cảnh cô đơn mà ta đã biết, nhạc Trịnh Công Sơn phản đối nghịch cảnh bằng cách khác. Nhạc anh đi vào quê hương bằng bước chân của người con gái da vàng, của em bé loã lồ suốt đời lang thang...

Sống cùng thời với những người đi vào quê hương qua nhiều nẻo đường, Trịnh Công Sơn cũng nhận diện lại quê hương. Ði tìm quê hương, phải sống những ngày dài trên quê hương thì phảt hát bài quê hương, phải nhỏ giọt nước mắt cho quê hương khi thấy quê hương hình hài nát dấu bom với xác người chết hai lần... Phải gặp những người tình có người yêu chết trận Pleime hay chết ở chiến khu D, gặp thêm người già em bé, chị gái anh trai, người phu quét đường, đồng hoá họ là người nô lệ da vàng, ngủ im trong căn nhà nhỏ... chờ ngày quê hương sáng chói, đứng dậy hò reo, chờ Hoà Bình đến tiếng bom im, cho những bước đi trên những con đường không chông mìn, cho đường giao thông chắp nối chuyến xe qua ba miền, ngày Thống Nhất tới cho những tình thương vô bờ...

Nhạc thần thoại quê hương, nhạc tình yêu và thân phận con người của Trịnh Công Sơn có một tư tưởng chỉ đạo khá rõ, dù toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức hoạ trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác chữ lẫn hồn thơ, nghe bảng lảng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng nếu nghe kỹ cũng tìm ra ý chính : Trịnh Công Sơn muốn nói lên nỗi đau con người trong cuộc sống hiện đại, có tình yêu, có chiến tranh, có hận thù, có cái chết dễ dàng như chết trong mợ Anh ca tụng tình yêu và -- cũng như bất cứ nghệ sĩ nào ở trên đời này -- anh chống bạo lực và chống chiến tranh.

Một, hai năm trước biến cố 30-4-1975, nhạc Trịnh Công Sơn đi vào Thiền, có lẽ cũng giống như tôi đi vào Ðạo Ca, vì lũ chúng tôi, khi nhập cuộc khi xuất thế ... như thể sống lửng lơ giữa thiên đường và điạ ngục.

Phạm Duy
(trích Hồi Ký - Thời Phân Chia Quốc Cộng)


 

Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi

Từ1975 cho tới năm 2000, suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo rõi sinh hoạt của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy, nhạc Trịnh Công Sơn ra sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bẩy băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.

Nhưng vào năm 1980, ngẫu nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát Lặng Lẽ Nơi Này mà anh vừa mới viết ra :

Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về...với tôi !


... thì tôi thấy nghệ sĩ nào rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương, vào thời bình hay chinh chiến, giữa đám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng hay địa ngục... Chỉ còn có thể về với mình, về với tôi như Sơn đã nói.

Trời cao đất rộng, một mình tôi đi ... Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân ? Văn Cao khi mới chỉ là chàngTrương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn :

Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca, trái đất còn riêng ta !

Còn tôi ? Tôi còn phải sống, đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.

Hôm nay là ngày an táng Trịnh Công Sơn. Vào giờ phút anh đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một ngày vui...

Nhưng theo tôi, có lẽ sau đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với Trịnh Công Sơn :

Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế !
Tôi là ai, là ai... là ai
Mà yêu quá đời này !


Phạm Duy

Thị Trấn Giữa Ðàng-
(Ðọc trong đêm họp mặt của bạn bè, 3 April 2001 trong khi Saigon đang làm lễ an táng TCS)



 

Trịnh Công Sơn, Đóa Hoa Vô Thường

Để tưởng niệm một ngọn đuốc lớn đã soi sáng âm nhạc
cũng như đã góp phần lật trang sử giống Lạc Hồng

Cách đây ít năm, tôi cùng nhà tôi đến thăm Sơn trong một buổi chiều nhạt nắng ở miền Nam. Trong suốt buổi viếng thăm, Sơn nói nhiều, điếu thuốc không hở trên tay, miệng vừa nhắp đều cốc rượu mạnh đã được pha loãng với nước. Nhưng Sơn không say chút nào. Cũng như khi sáng tác, Sơn không hề có ý trau chuốt nhiều. Ý tưởng và ngôn từ Sơn hôm ấy cứ tuôn ra như nước chảy, như thể đang sáng tác nhạc vậy. Chúng tôi im lặng ngồi nghe Sơn nói. Cũng như phong cách hàng ngày, ít nữa là vào những năm cuối đời, cử chỉ lời nói Sơn khoan thai, vừa để tiếp bạn từ xa, vừa chia sẻ chút tâm sự. Vì không sắp đặt trước nên câu chuyện hôm đó rất đáng ghi lại vì nó đã cho hậu thế một trong những cái nhìn cuối cùng hồn nhiên, không uốn nắn hay thêu dệt về nhạc sĩ. May thay hôm ấy chúng tôi có đem theo một máy vidéo cầm tay. Chúng tôi đã được chứng kiến một Sơn rất " Thiền ". Một Sơn chín muồi hơn thời " Diễm Xưa ". Nhờ thế, một cuộc thăm viếng thường đã trở thành một cuộc viếng thăm định mệnh vì đây là lần chót tôi gặp Sơn và cũng vì Sơn đã gởi gắm cho thế gian một đôi điều. Beethoven, hồi ở Heiligenstadt, 1802, viết thơ cho cháu Karl và em Johann không có ý viết chúc thư cho đời, nhưng hậu thế vẫn xem đó như lời di chúc nồng nàn nhất (chúc thư Heiligen-stadt). Mãi đến một phần tư thế kỷ sau ngày viết tâm thư đó, Beethoven mới thành người thiên cổ. Không cố ý tự vẽ mình, mà nhờ bức thư đó, hậu thế có dịp thấy rõ hơn Beethoven con người và Beethoven nghệ sĩ. Qua câu chuyện thân hữu hôm đó với chúng tôi, Sơn đã tô đậm thêm nét chân dung mình, phản ảnh một số nhân sinh quan, thẩm mỹ quan, tình yêu, tôn giáo, âm nhạc, cũng như thế giới và vai trò của thi sĩ, nghệ sĩ, v.v.

Để nhớ Sơn, ta có thể nêu ra hai câu hỏi : thứ nhất, Sơn gần đây giống và khác với Sơn xưa ở những điểm nào ? và thứ nhì, họ Trịnh và Beethoven có những điểm giống và khác nhau ra saoấ? Vì sao nhắc đến nhà đại nhạc sĩ Đức ? đối chiếu ở đây không nhằm so sánh hơn thua, hay dở, nhưng chỉ có một mục đích là cho ta một nhận định rõ ràng hơn về người nhạc sĩ lỗi lạc yêu dấu của chúng ta. Cả hai đều là những " ngôi sao xuống từ trên trời ", một người xuống miền Tây, người kia xuống miền Đông, cách nhau hơn một thế kỷ rưỡi, nhưng có điều đặc biệt là họ một số điểm chung lớn. Mẫu số chung là hoài bão và tâm hồn lớn của họ, là đời sống tình cảm của họ, một số cảm nghĩ về đời sống và nghệ thuật, và nhất là cảm tình sâu xa của đồng bào đối với họ và vị thế tột đỉnh của mỗi người trong nền âm nhạc tại quê hương họ. Một điều nổi bật khác nữa là thời đại của hai nhạc sĩ là thời đại của giông ba bão táp, của cảnh thịt nát xương tan : một bên là chiến tranh giành giật phân chia đất đai (cho đến khi đại đế Napoléon bại trận năm 1814), bên kia là cuộc chiến giành độc lập thống nhất lãnh thổ. Nếu người thường ghi nhận niềm đau khổ một, mức nhạy cảm của nghệ sĩ cho họ ghi nhận mười. Cho đến nay tôi vẫn không chắc vì tất cả những lý do trên, hay có lý do nào khác, mà một khi nghĩ đến Trịnh Công Sơn, hình ảnh kinh cụ của con người nghệ sĩ đức có nhiều tâm huyết muốn quyết liệt chống trả định mệnh lại hiện ra trong trí tôi hầu như một ám ảnh.

Nắng buồn hơn mưa...

Trong câu chuyện, có lúc Sơn chỉ tay về phía cửa sổ, nói rằng nắng ở Canada, chỗ Sơn ở thăm gia đình một thời gian ngắn, vui hơn nắng ở Việt Nam. Sơn nói nắng ở Âu Mỹ trắng mà vui hơn nắng ở đất Việt. Theo Sơn, nắng ở xứ ta vàng và buồn hơn mưa. Sơn nói ai cũng nói mưa buồn, nhưng Sơn không thấy vậy. Sơn nói " nắng cũng có cuộc đời của riêng của nó ". Nghĩa là nắng sống ngày ba buổi, sáng, trưa, chiều, trong khi đó mưa không vậy. Mưa chỉ rào xuống một cái rồi hết. Phải chăng đây là nhìn của thi sĩ ở trong Sơn ?

Thế giới nghệ sĩ


Sơn nói người nghệ sĩ có một thế giới, một đời sống riêng của mình. Sơn phụ thêm chữ Pháp le monde à soi, pour soi. Sơn giải thích rằng nếu không có đời sống riêng nầy thì nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ hay nữa. Mà đời sống riêng tư đó là cái gì ? Không đợi chúng tôi hỏi, Sơn tự trả lời một mình : đời sống đó là một cái gì huyền ảo, đầy " mộng tưỏng ", nghĩa là nó vừa hư vừa thực. Nó gần giống thế giới bên ngoài nhưng "ấkhông hoàn toàn giốngấ". Sơn dùng chữ invraisemblable để nói rộng thêm về thế giới riêng nầy. Theo lời Sơn, đời sống riêng của nghệ sĩ cũng có cây cỏ có bông hoa, có chim chóc, có dáng dấp của con người đi qua, nhưng tất cả cái đó không hoàn toàn giống thế giới bên ngoài. Thế giới người thường là thế giới cụ thể, nhưng thế giới nghệ sĩ thì " mông lung... trừu tượng ". Sơn nói thế giới nghệ sĩ là thế giới ngoài đời " nhân lên mười lần ". Vì sao ? Sơn giải thích : sở dĩ như vậy là vì thế giới nghệ sĩ đầy " ước mơ... hy vọngấ". Sơn nhắc đi nhắc lại hai chữ " ước mơ ". Sơn nói nhờ có thế giới riêng nầy mà bài hát được tồn tại. Không có thế giới riêng nầy, vẫn theo Sơn, sẽ không có nhạc hay, sẽ nghèo nàn. Theo lời Sơn, lý do có nhạc không hay là vì tác giả không có cái thế giới riêng đó.

Vai trò nghệ sĩ

Nhân lúc câu chuyện đi đến chỗ bàn về nghệ sĩ, tôi có góp ý rằng nghệ sĩ tài ba chẳng qua là các thầy phù thuỷ (hiểu theo nghĩa tốt). Tôi nói các ông nhạc sĩ, họa sĩ lớn đã nhạy cảm đủ để nghe được trong khi kẻ khác không nghe được, thấy được trong khi kẻ khác không thấy được, cảm được trong kẻ khác không cảm được. Đó là của trời cho, là dấu hiệu thiên tài. Từ những cảm nhận nhạy bén nầy, các nghệ sĩ lớn biết cách tiêu hoá, nhào nặn, dùng phép thần thông, tạo cho đồng loại một thế giới mới, mở cửa cho đồng loại đi vào những chân trời huyền ảo nhớ nhung. Thiếu phép thần thông của thầy phù thuỷ thì đất sét trong tay thế gian vẫn là cục đất sét vô duyên. Người phàm có tai cũng như điếc, có mắt cũng như đui, có miệng cũng như câm. Vậy nghệ sĩ lớn trước hết là tai mắt của thế gian. Nhưng nghệ sĩ vừa là người ghi nhận, vừa là kẻ phát ngôn của đồng loại. Nghệ sĩ nói thay tiếng nói của đồng loại bất lực trong việc bày tỏ tâm trạng mình qua các tình huống đau khổ, hạnh phúc, nhớ nhung, khát vọng. Nhờ thế, qua tác phẩm văn nghệ, người đời tìm lại được bản thân của chính mình đã bị đánh mất. Thật một sự khám phá vô giá ! Cho nên đời vắng bóng nghệ sĩ là đời què quặt, nghèo nàn, mất mát không biết bao nhiêu mà kể ! Thấy tôi nói nghệ sĩ là thầy phù thuỷ, Sơn tỏ vẻ tán đồng. Song khi nghe tôi dùng chữ " phù thủy ", Sơn thoạt tiên dặm thêm chữ Pháp un magicien để dịch chữ phù thuỷ của tôi. Song khi cảm thấy tôi thắc mắc về chữ magicien (nhà ảo thuật) dùng để chỉ thầy phù thuỷ, thì Sơn đã nhanh nhẹn đổi ra chữ un sorcier. Tôi gật đầu để tán thành Sơn về sự sửa đổi ấy, vì thật ra sorcier là từ tôi nghĩ đến ngay từ đầu, nhưng vì thấy chữ phù thuỷ trong tiếng Việt quá hay nên tôi thấy không cần dùng ngoại ngữ làm gì.

Thi sĩ không phải là nhà tiên tri


Sơn nói sách báo thường cho thi sĩ là nhà tiên tri, nhưng thật sự không phải như vậy. Lý do ? Sơn giải thích rằng thi sĩ nhìn lá nhưng thấy đó không còn là lá nữa, nhìn cây, nhưng thấy đó không còn là cây nữa. Thi si thấy trước được những gì sẽ xảy ra cho những cây và lá ấy. Sơn khai triển thêm. Những câu chuyện ở đời nầy có những giai đoạn bắt buộc, nghĩa là lúc đến, phải đến, lúc đi phải đi. Thi sĩ cảm thấy được chu trình đó và đi trước người khác một " tí xíu " mà thôi, do đó, người ta cho thi sĩ là tiên tri, chứ thật ra thi sĩ không phải là nhà tiên tri. Thi sĩ chỉ khác không thi sĩ ở chỗ có thể cảm thông với cây cỏ, vạn vật mà người ta tưởng là vô tri, nhưng theo Sơn, thật sự không phải là vô tri. Sơn lấy ví dụ là nếu ta rời bỏ khu vườn của ta để đi một thời gian, khi trở về thì thoạt đầu ta thấy nó hoang vu, nhưng sự hoang vu buồn bã đó sẽ biến mất sau khi ta ngồi chơi với nó trong môt thời gian, ta sẽ đem lại " hơi ấm " cho nó và nó cũng phản lại, và như thế hai bên, người và vườn sẽ có " một sự giao hoà nào đó ".

Ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau

Sơn nói với chúng tôi rằng mọi vật, ngọn lá hay bông hoa cũng có đời sống riêng của chúng. Có nhiều người cho đây là một hình thức thi vị hoá âm nhạc. Thế nhưng công việc thi vị hoá lắm khi lại là công việc gắng gượng, giả tạo. Với Trịnh Công Sơn, không cần cố sức thi vị hoá. Vì trong lời nói tự nhiên của Sơn đã có sẵn chất thơ rồi. Sơn nói " ...anh nhìn ngọn lá, có tình yêu trong ngọn lá, anh nhìn bông hoa, có tình yêu trong bông hoa... tất cả mọi cái đều có đời sống riêng ". Rồi Sơn giải thích cho chúng tôi tại sao Sơn hát . . ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau. Vì theo lời Sơn, sỏi đá có linh hồn riêng của nó, có đời sống riêng của nó. Sơn nhấn mạnh rằng sỏi đá cũng biết nhớ nhung, cũng biết nghe, biết nói. Chỉ vì mình không biết nghe mà thôi . Nhưng Sơn nói có người nghe được sỏi đá, có người không nghe được. Sơn nói sỏi đá có linh hồn và nó cũng biết buồn, biết nhớ nhung, và khi viên đá buồn, nó làm cho mình buồn. Sơn tin thật như vậy. Sơn nói nếu để sỏi đá rời nhau, xa nhau, thì chúng buồn, mà nếu để lại gần nhau thì chúng vui. Sơn nói một vật mình tưởng là vô tri, nhưng thực sự là nó không vô tri, vì nó có một đời sống, một " giá trị tự tại ". Sơn nói theo nhà Phật, trong cái thế giới ta bà nầy, mọi đồ vật và sinh vật như loài vật, thiên nhiên, sỏi đá... thật sự đều là một. Chúng có những sự liên hệ, giao hoà với nhau. Chúng cần lẫn nhau và nhờ vậy đời sống được thoải mái, dễ dàng hơn.

Ông chủ hiền, con chó cũng hiền

Sơn đi xa hơn. Sơn nói không những thiên nhiên, vạn vật, ảnh hưởng đến người, mà người cũng ảnh hưởng đến vạn vật và thiên nhiên. Ngoài câu chuyện khu vườn biết buồn khi chủ đi vắng, Sơn còn tâm sự thêm là Sơn đem về nhà một con chó Tây vốn rất giữ. Trước khi về nhà Sơn, chó đó nhe răng gầm gừ với khách. Nhưng khi về ở với Sơn thì nó trở nên hiền khô, không còn gầm gừ nhe răng với ai nữa.

Hạnh bố thí


Sơn tiếp tục ý tưởng về sự liên đới chặt chẽ giữa người với người, giữa người với muôn loài, với vạn vật. Sơn nói nếu tôi (thực ra, Sơn dùng chữ moi và toi) kẹt quá, và tôi xin bạn một trăm nghìn (đồng) để tôi giải quyết vấn đề của tôi và bạn cho tôi số tiền đó, tức là bạn đã bố thí. Nhưng Sơn nói rằng bố thí bằng của cải vật chất, tiền bạc, là hạnh bố thí thấp nhất. Sơn nói theo nhà Phật, hạnh bố thí rất rộng. Có những hạnh bố thí cao hơn như khi bạn đang buồn, bạn đến với tôi, và tôi đã giúp bạn giải quyết nổi buồn đó. Sơn nói nhà Phật cho hạnh bố thí cao nhất là giúp đỡ người khác đang bị kẹt giải quyết vấn đề tâm linh hay tinh thần của họ.

Câu chuyện qua suối


Rõ ràng Sơn hôm ấy là cái Sơn muốn buông bỏ hơn vướng mắc. Sơn cho sự thảnh thơi tâm hồn là cần cho đời sống đáng sống. Nếu có lúc Sơn đã từng đam mê và ôm ấp thì hôm nay Sơn cho sự thanh thản, an lạc, hạnh phúc, tất cả đều nhất lý, là một. Sơn kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện Thiền. Đây là một trong những bài khai tâm của Thiền môn, cho nên dù cho nhiều người biết chăng nữa, cũng xin ghi lại ở đây cho đầy đủ buổi nói chuyện hôm đó. Giọng Sơn bình dị nhưng vẫn duyên dáng, như được phát ra từ một nguồn cảm hứng mộc mạc, tự nhiên. Chuyện rằng, có hai thầy tu đi từ chùa trên núi xuống làng để mua đồ ăn, trên đường đi, phải qua một con suối lúc đó nước cạn. Trên đường về, đến cạnh bờ suối, hai tu sĩ đó gặp một cô gái trẻ đẹp trạc độ mười sáu, cũng đang tìm cách qua suối, nhưng lúc đó nước đã lên cao. Trong khi đang bối rối chưa biết tính sao thì một trong hai tu sĩ giúp cõng cô ta qua suối . Khi đã bỏ cô ta bên bờ suối bên kia, hai vị sư tiếp tục lên đường. Đi được một cây số, vị sư đã cõng cô gái hỏi vị sư kia rằng... sao từ lúc rời suối đến nay đã được một cây số rồi mà mặt bạn vẫn có vẽ ưu tư như vậy ? Vị kia trả lời : chúng ta là người tu hành, không được tiếp xúc với nữ giới, mà lúc nãy tại sao bạn lại cõng một cô gái như thế ? Vị sư cõng nói : giờ đây tôi cõng cô nào đâu... tôi không nhớ gì cả... vậy trong cây số qua, bạn là người cõng cô ấy chứ tôi đã hết cõng rồi... như vậy là bạn mệt quá rồi, chứ tôi không còn cõng nữa.

Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau...

Sau câu chuyện qua suối, Sơn quay người lại để với các nút bấm của bộ máy stereo để đằng sau lưng. Tiếng hát Cẩm Vân dâng lên và bắt đầu bao phủ lấy căn phòng khách cùng phòng vẽ.

Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại, sóng về đâu ?
Sóng bạc đầu, và núi chìm sâu
Ta về đâu đó ?


Nhạc nghe đến đây, Sơn nói chêm vào : " bài này viết là từ [lời] cầu kinh của Phật : Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha " (Một số trong chúng ta, kể cả chúng tôi, đã lớn lên với câu kệ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha, song tụng như vẹt, phải đợi đến khi tóc ngả màu mới thấm được ý nghĩa sâu xa của nó). Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là " vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ ". Có phải Sơn là vừa là thi - nhạc sĩ, vừa là triết gia hay thiền gia ? Hôm đó Sơn cho chúng ta một tiết lộ. Sơn nói có người lầm cho đây là bài hát về tôn giáo. Theo chính lời Sơn, mặc dù bài hát nầy lấy cảm hứng từ đạo bụt, " nhưng mà mình viết về tình yêu ! ". Trong khi Sơn giải thích về xuất xứ và ý nghĩa bài hát, tiếng sóng Cẩm Vân vẫn dồn dập cho đến cuối bài.

Về chốn nào, mây phủ chiêm bao
Cạn suối nguồn, bốn bể nương dâu
Ta tìm em nơi đâu ?
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau

Đến đoạn nầy, Sơn cất tiếng hát đệm theo tiếng ca Cẩm Vân cho đến hết bài. Vầng tráng Sơn nhăn nheo, mắt Sơn nhắm lại như đang thả hồn theo tiếng sóng rạt rào. Bấy giờ Trịnh Công Sơn với biển sóng hoàn toàn là một.

Ta xô biển lại sóng nằm đau.
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngả dưới tim người.
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng cho tôi thấy hết tim người.
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau,
Ta xô biển lại sóng về đâu ?
Giấc ngũ nào, giường chiếu quạnh hiu
Trăng mờ quê cũ
Người đứng chờ,
Gió động vi vu,
Vạt nắng vàng, nhắc lời thiên thu,
Nhớ ngàn năm trôi qua...
Biển sóng, biển sóng đừng trôi xa
Ba năm chờ đợi sóng gần ta.
Biển sóng, biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù.
Biển sóng, biển sóng đừng... xô... nhau...


Grumbacher nầy rất tốt

Tiếng hát Cẩm Vân vừa mới dứt, nhà tôi rút trong xách ra một món quà để trao cho Sơn. Chàng nhìn ra ngay đó là một trong những món đồ thích chí : " Tôi dự định sẽ chia tay với âm nhạc để viết những tạp bút ngẫu hứng và vẽ " ("Trò Chuyện với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn," www.khanhly.com) (chữ viết hoa do tôi thêm). Phòng Sơn lúc đó có đầy tranh, một số có lẽ đã vẽ xong, một số hình như còn dang dở. Vì không được báo trước, nên khi thấy nhà tôi đưa quà biếu ra, Sơn có hơi ngạc nhiên một tí. Chàng hỏi : " Quà há ? ". Nhưng khi thấy quà là một hộp sơn dầu ngoại quốc ngoài có mang một nhãn hiệu quen thuộc, Sơn thốt lên ngay " Grumbacher nầy tốt lắm đó ... rất tốt. Cảm ơn nhiều lắm ". Nhà tôi hỏi mấy dạo sau này Sơn có vẽ nhiều không, Sơn trả lời : " Khi nào khoẻ thì làm... đêm ngồi buồn quá, lấy pinceau mà quẹt lên... thì cái màu nó gợi cái inspiration, vậy thôi, chứ còn nhạc thì nhiều khi âm thầm hơn... ". Ngoài ra, nhà tôi nói với Sơn là trong chuyến thăm nầy định đem biếu Sơn hai cuốn băng vidéo về âm nhạc, nhưng đã bị mất cả hai ở phi cảng. Một trong hai là phim về đời sống tình cảm của Beethoven (Immortal Beloved). đây là một câu chuyện tình thuộc loại " Diễm Xưa " của nhạc sĩ Đức, mà vì vậy chúng tôi nghĩ biết đâu khi xem, Sơn lại không tìm thấy một vài dư âm ?

Sơn và cố đô


Trong một bài phỏng vấn khá gần đây, Sơn thổ lộ : " Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi " (khanhly.com). Cho nên dù có trú ở đâu đi nữa, có thể nói Sơn luôn luôn nhớ nhà, nghĩa là nhớ Huế. Về mặt tình cảm, Sơn với Huế hình như không bao giời rời nhau được. Sự gắn bó đó vừa do những kỷ niệm sâu sắc của tuổi trẻ, vừa do hoàn cảnh lịch sử đấu tranh của đất nước, mà Sơn là người thực sự trong cuộc trong những ngày tháng sôi sục ở miền Trung, vừa do mối cảm tình lạ lùng với mảnh đất cằn cỗi nhưng linh thiêng của Phú Xuân. Trước thì như thế, nhưng thử hỏi vào những năm cuối đời mình, Sơn đã nghĩ gì về xứ Huế ? Trong buổi nói chuyện, có lúc Sơn nhắc rằng Huế vẫn buồn, vẫn nhỏ, vẫn " nghèo nàn dễ sợ " nhưng Sơn nói thêm rằng " tất cả mọi người phải đi qua Huế mới thành một con người... vì đó là thủ đô cũ ". Theo lời Sơn, Huế là nơi sản xuất nhiều nhân tài lịch sử và văn nghệ. Sơn nói " chỗ đó đã sinh đẻ ra " tất cả những nhân vật của lịch sử cận đại Việt Nam và họ " đều đi qua Huế cả ". Trong các nhân vật lịch sử, văn hoá Sơn nhắc đến, có tên nhà thơ trữ tình cổ điển Xuân Diệu mà Sơn nói là người Bình Định cũng đã từng học ở Huế.

Hai vì sao sáng

Trên bình diện kỹ thuật, nhạc lý, không thể đối chiếu họ Trịnh với Beethoven được, và bài tưởng niệm nầy không có dụng ý đó. Lại càng không thể và không nên so sánh sự nghiệp của họ trong nền âm nhạc thế giới. Tuy nhiên nếu nhìn rộng hơn về con người, về suy tư, thái độ trước cuộc đời, tình yêu, quan điểm nghệ thuật, tác dụng của âm nhạc đối với người nghe... ta thấy có một khuynh hướng hội tụ cũng như phân kỳ nổi bật giữa hai thiên tài. Một lần nữa, sự giống nhau không phải chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên vì có một số mẫu số chung lớn về đời sống tình cảm, về sự vật lộn với bệnh tật vào khoảng đời xế chiều, về thời đại nhiễu nhương, cũng như chí lớn của hai nhạc sĩ (mặc dù có sự phát biểu khiêm tốn của Trịnh Công Sơn về vai trò của mình : Tôi chỉ là một tên hát rong... và Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng...). Họ Trịnh và Beethoven đều là những tâm hồn đã vươn lên từ hố tuyệt vọng. Phải chăng những tâm hồn lớn thường hay gặp nhau ?

Trước nhất, về mặt âm hưởng, ta thấy chiều sâu của hai người đều thăm thẳm. Các bản tứ tấu đàn dây cuối cùng của Beethoven làm người nghe lên ruột, nạo sâu vào tâm can. Mặc dù không thể so sánh hai thể nhạc, tuy nhiên nếu mẫu số chung giữa các loại nhạc là ngôn ngữ, thì nếu nhạc của Beethoven là nhạc thuần tuý, nhạc Sơn là nhạc thơ, mà thơ là ngôn từ của chân thiện mỹ (Beethoven cũng có sáng tác một số nhạc bản đơn ca lớn, kể cả các bài bất hủ về tình yêu trong tác phẩm An Die Fern Geliebte). Vì có tính chất thơ nên nhạc Sơn phần nhiều nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn nhưng vẫn vô cùng mặn mà, tha thiết. Nhạc lớn của Beethoven (dương cầm, tứ tấu, giao hưởng v.v.) có thể xuyên thủng tim người, gan người như chơi, nhưng chắc gì đã thấm qua sỏi đá, vạn vật như Sơn vẫn tin tưởng ? Vả lại, Sơn đâu chỉ viết nhạc cho người ? Sơn muốn nói chuyện với tất cả muôn loài. Nhạc Sơn đi vào tâm khảm con người, tâm khảm của vạn vật. Sơn muốn thế. Âm thanh Sơn, ngôn ngữ Sơn đi xuyên qua tim đồng loại nơi nơi, thấm vào sỏi đá, lan vào cây cỏ. Giá nếu người đời nghe được tiếng nói của vạn vật, sẽ nghe vạn vật tâm sự... " tôi nghe Trịnh Công Sơn rồi, tôi hiểu Trịnh Công Sơn rồi... "

Đề tài Sơn rất lớn, rất bao la, rất thấm thía. Lồng qua các chủ đề rất gần gũi với nhạc sĩ như tình yêu, quê hương, và thân phận, trong nguồn cảm xúc và đối tượng sáng tác của họ Trịnh, người ta thấy một thế giới súc tích bao gồm cả đời, người, chân-thiện-mỹ, vũ trụ, cái chết, và hư vô. Và nhờ vậy, hậu thế mới có một di sản âm nhạc phong phú đồ sộ đến như thế ! (Về điểm nầy, Trịnh Công Sơn giống Friedrich Schiller, một thi hào ưa chuộng của Beethoven, hơn Beethoven. Đối tượng của thơ Schiller cũng rất to lớn : có người, có thiên nhiên, có vũ tru, có Thượng đế). Nhạc Beethoven, vì tự bản chất, có thể nói phần lớn không có chủ đề theo nghĩa thông thường. Vả lại, nhạc lớn như thế tự nó nói lấy, cần gì có chủ đề. Trong khi thính giả của Beethoven là người, là thiên thần, là chúa trời, thính giả của Sơn là đồng bào, là đồng loại, là vạn vật, là vũ trụ. Tầm thước của Trịnh Công Sơn, cũng như Beethoven, là ở chỗ họ đã dùng ngôn từ của chính chúng ta để nói thay chúng ta. Ngôn từ của Trịnh Công Sơn là tiếng nói của chúng ta tìm lại được. Tiếng nói đây cũng là tiếng nói của tự tình mình, của tự tình dân tộc, của tình người. Nếu An Die Freude (Ca Ngợi Niềm Vui, thơ của Schiller, Beethoven phổ nhạc trong giao hưởng số 9) đã làm rúng động năm châu, thì Nối Vòng Tay Lớn cũng vang dội như một địa chấn từ Bắc vô Nam, từ đông sang Tây.

Vượt qua tự tình dân tộc để đến với tình người có thể là một trong đỉnh cao nhất của Trịnh Công Sơn. Mấy ai đã không khỏi mủi lòng khi nghe Sơn chuyển từ tiếng khóc não nùng giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong... đến lời van lơn . . . ôi nhân loại . . . không ai thù ghét ai. . . Nếu trong vũ trụ quan của họ Trịnh, cũng như Beethoven, có bóng dáng của Thượng đế, thì cuối đời, Sơn thích làm nhà ở cõi vô vi. Trong khi nhạc sĩ Đức than thân, trách phận đã oái ăm dáng cho mình cái bệnh nan y (chúc thư Heiligenstadt) thì Sơn điềm nhiên đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng... với tôi là ai mà yêu quá đời nầy. Trong khi Beethoven trách móc đồng loại ôi nhân thế tôi ơi... các người xem tôi như kẻ ghét người... là oan ức cho tôi lắm..., họ Trịnh cũng có lúc hoài nghi một cách nên thơ đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng... Nhưng hoài nghi đó không giữ lâu vì thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận...

Không phải Sơn không có nhiều nỗi khổ riêng, kể cả đời sống tình cảm : và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Ai cũng biết hai thiên tài bên trời đông và trời Tây đều có đời sống tình cảm phức tạp. Về điểm nầy, không biết vì run rủi hay định mệnh mà hơn một thế kỷ rưỡi sau, họ Trịnh đã làm người phát ngôn tuyệt vời cho Beethoven khi chàng viết : Cuối cùng thì tình yêu không giữ được người mình yêu. Nhưng phương cách đối xử mỗi người một khác. Trong khi Beethoven viết An Die Fern Geliebte (Cho Người Tình Xa), Sơn cho ra đời Diễm Xưa.

Trong khi bị bệnh tai hành hạ từ năm 25 tuổi cho đến khi hoàn toàn điếc vào khoảng dưới 50, Beethoven còn phải khổ sở chống đỡ nhiều chứng bịnh kinh niên khác và cuối cùng đành bại trận trước bệnh ruột và gan vào năm 57 tuổi. Rượu là một trong những nguyên do chính. Trong thập niêm cuối đời, họ Trịnh cũng trải qua một số kinh nghiệm tương tự, kể cả rượu, và đã trở về cát bụi năm 62 tuổi. Đối với phàm nhân, đau khổ làm cho tâm hồn băng hoại. Cho nên hai thiên tài họ Trịnh và Beethoven có một điểm chung nữa rất lớn : đau khổ là thuốc bổ cho sáng tạo. Thay vì tàn lụi như cỏ sa mạc, với họ, đau khổ đã đơm hoa, khai quả cho nghệ thuật, những hoa quả tươi mát, dịu ngọt, làm cho đời nhẹ nỗi trần ai. Họ là bình minh của cuộc đời, của vũ trụ.

Về triết lý sáng tác, trong khi Beethoven trau chuốt từng nốt, từng câu, Sơn có lối viết nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã có nhận xét hay : Trịnh Công Sơn " viết dễ như lấy chữ trong túi ra ". Việc Beethoven xé bỏ bản thảo của mình không phải là chuyện hiếm. Nhạc sĩ Đức nổi tiếng là người có tánh hay bực bội, nóng nảy. Beethoven đã có lúc khâm phục ca ngợi người hùng đại đế Napoléon. Người ta kể rằng, sau khi nghe tin đại đế gây cảnh khói lửa tang tóc ở Âu Châu, chàng đã xé toang trang tựa bản thảo bản giao hưởng Anh hùng ca (giao hưởng số 3) có ghi lời đề tặng cho đại đế. Trái lại, Sơn tánh vốn thường đằm đẹ, trông có vẻ bình thản hơn trong mấy năm cuối đời mình. Beethoven luôn luôn là con người của đam mê tột độ. Sơn cũng đã từng có một thời rất Beethoven : Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận (TCS). Đều là máu nghệ sĩ thứ thật cả !

Nhất lý hay nhị nguyên


Với Trịnh Công Sơn, cũng như phần nào đối với Beethoven, ta còn thấy thể hiện một số " phản đề " khá thú vị trong tư tưởng Thiền và triết học, là ngành Sơn đã học và suốt đời rất thích. Các phản đề đó là : (1) giải thoát và vướng mắc, (2) đổi thay và chân lý, (3) đời buôn chôn và lòng vị tha. Là nguồn cảm hứng lớn, các phản đề nầy đã làm giàu kho tàng văn hóa nhân loại. Chúng bám chặt thiên tài nơi nơi, không bao giờ chịu nhả ra và cũng không phân biệt ranh giới quốc gia hay chủng tộc (tài/mệnh của Nguyễn Du; người gù/mỹ nhân của Victor Hugo ; Anna Karenina của Leo Tolstoy...). Có lẽ Trịnh Công Sơn đủ thông Thiền để thấy rằng hạnh phúc và đau khổ _ mới nghe qua có vẽ tương phản _ sự thật không phải là hai trạng thái đối kháng nhau ; với Thiền, chúng chỉ là một. Cũng có lẽ vì thế mà Sơn không thấy có gì mâu thuẫn trong các hình ảnh hay ý niệm đối nghịch nhau trong một số lời ca của mình.

Rất Beethoven mà cũng rất Sơn


Trong chúc thư Heiligenstadt, trong giây phút tuyệt vọng, Beethoven đã phơi bày tâm sự nảo nề với Karl và Johann : " Ôi nhân thế tôi ơi, các người đã từng xem tôi hay nói về tôi như kẻ bất nhân, không tình nghĩa, hay thậm chí còn xem tôi như kẻ thù ghét người, các người có biết như vậy là oan ức cho tôi lắm không... chỉ vì các người không biết lý do thầm kín nào đã làm tôi có bộ mặt như vậy... từ lúc nhỏ tim tôi, tâm hồn vẫn hướng về tình thương và thiện ý... nhưng sáu năm qua bệnh nan y của tôi đã làm tôi khổ và bầy y sĩ vô tài đã làm tôi khổ sở hơn. Năm nầy qua năm khác, hy vọng khỏi bệnh biến theo mây khói làm tôi phải chấp nhận viễn tượng bị tàn tật suốt đời... trời phú cho tính hăng say mãnh liệt... mà rồi tôi cũng phải rút lui sống trong cô đơn... Có lúc tôi muốn quên mình bị tàn tật, nhưng than ôi, bệnh nghiệt ngã của tôi vẫn hành tôi mà thậm chí tôi vẫn không đủ can đảm để nói lớn : "Các người hãy hét lên bởi vì tôi điếc". Làm sao tôi dám thú với người ta rằng tôi bị tật về một cơ năng đáng lẽ phải được toàn thiện ở tôi hơn ở người khác... Lạy Chúa linh thiêng, xin ngài nhìn xuống tâm hồn và tim con, ngài thấy tim con lúc nào cũng đầy tình thương người và ước mong làm điều thiện... Hãy dạy con cái [của Karl và Johann] biết làm điều lành, bởi vì theo kinh nghiệm bản thân tôi, chỉ có cái đức mới đem lại hạnh phúc chứ không phải tiền tài...chính cái đức đã nuôi dưỡng tôi trong lúc tuyệt vọng. Chính nhờ có lòng nhân ái và nghệ thuật mà tôi đã không chấm dứt đời mình bằng tự vận ".

Trong khi Beethoven phẫn nộ cay cú với định mệnh, Sơn nhẹ nhàng ca ru đời đi nhé. Cái Sơn thật là cái Sơn đã có lần thốt Sống mà giữ mãi trong lòng những hờn oán thì cũng nặng nề. Trong đoản văn" để bắt đầu một hồi ức ", Trịnh Công Sơn cũng tâm tình tương tự như Beethoven, nhưng thiếu cái vị mặn, vị chát của nhạc sĩ Đức : Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nầy. Vì thế lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn... Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống.

Trịnh Công Sơn chia tay với chúng ta để vào thế giới những người không bao giờ chết. Ở đó Sơn đã gặp mẹ và Beethoven. Nếu, theo Thiền, sự trở về đích thực là sự trở về với mình, là sự đi đến sau những năm tháng say sưa dấn thân cho nghệ thuật, cho quê hương, cho đồng loại, cho vạn vật, thì nay Sơn đã trở về.

Đời như vô tận, một mình tôi về. Với tôi.


Võ Xuân Hân



 

Cảm Nhận Trịnh Công Sơn

Vẫn nhớ mãi hình ảnh cuả người nhạc sĩ mong manh, gầy gò, nhắm mắt ôm đàn guitar hát về một chiếc lá thu phai . Về một thân phận , một cõi đời rồ dại và thiết tha . Xiêu vẹo quá đôi chân ông trên con hẻm say Duy Tân . Chiếc xe gắn máy màu cam đâu đó thoáng bóng dáng ông trên những con đường lá xanh Sài Gòn. "Ðường đến anh em, đường đến bạn bè".

Những ngày ông ngồi trên lầu cao nhìn xuống thấy phố mưa Sài Gòn như một dòng sông uốn quanh. Và làm sao không "nhớ vài lần những má môi xinh" ấy...

Cuộc sống thu nhỏ lại trong Trịnh công Sơn . Cuộc đời lớn rộng và mênh mông trong nhạc ông. Dù hôm nay ông đã thu mình bé lại, làm mưa tan giữa đất trời, hay làm một đốm lửa nhỏ nhoi nhóm trong vườn tược trần gian thoáng hiện thoáng mất này - nơi ông đã một lần xem như chốn "Trọ", nơi ông đã nhận chân ra được ý nghĩa của Vô Thường.

"Bước tới Hư Vô,
khoác áo Chân Như,
long lanh giọt lệ,
giọt lệ Thiên Thu."


Vô Thường đẹp như một đoá hoa .

Trần gian này chưa bao giờ là vô nghĩa với người nhạc sĩ du ca này cả.

Vì ở đó ông đã đập nhịp thở chung với Tình Yêu, Quê Hương, Hoà Bình, Chiến Tranh, Bè Bạn, Phố Phường, Cỏ Cây,... và những chữ viết hoa khác, cho đến khi nhịp thở đã tắt . Một tháng Tư năm Hai Ngàn Lẻ Một, trên quê hương Việt Nam.

Ðiệu kèn của người thổi saxo bên quan tài ông bây giờ thật sự đã nghe buốt trong tim bạn bè và người yêu mến Trịnh Công Sơn .

Khi ông ra đi, nhiều người dường như nhận ra ông thật lớn lao.

Tôi thì thấy ông như thu mình lại .

Giữa đám đông, cuộc chơi, môi xinh, tóc đẹp, tôi cảm thấy ông thật cô đơn . "Bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui" . Chữ "bỏ mặc" nghe thật bạc lòng !

Mà người nghệ sĩ nào lại không cô đơn với trần gian, cho dù vẫn thiết tha yêu lấy nó như yêu lấy một điều gì còn đẹp đẽ - Cái đẹp được nhìn thấy bằng cặp mắt của con người sống bao dung, vì nghệ thuật.

Hạnh phúc và khổ đau của kẻ hát rong đi qua miền đất này, bây giờ đã thành máu mủ của những người đã được nuôi sống bằng những tác phẩm tuyệt đẹp Trịnh Công Sơn.

Xong rồi một kiếp rong chơi . Trong thiên thu ông lại lãng du đi qua một miền khác . Biết đâu có một thế giới nào đó bình yên hơn trần gian này ?

Ðinh Trường Chinh
2.4.2001


 

40 năm hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn, Thái Hòa và tôi


Trần Tuyết Hoa, tháng 4 năm 2006


NHỮNG GIỌNG CA


Hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn trong tôi nói riêng và gia đình chúng tôi khởi đầu từ sự tâm giao của những người bạn thời sinh viên. Ở đó tấm lòng chân thành của bạn bè đã đưa chúng tôi lại gần với nhau tự lúc nào không biết. Cho đến khi nhân ra điều này thì âm nhạc Trịnh Công Sơn đã là một phần trong cuộc sống của chúng tôi rồi.

Đầu những năm 1960, tôi nghe một số tình ca là lạ Ướt mi, Thương một người... của Trịnh Công Sơn (TCS) - một nhạc sĩ trẻ chưa nổi tiếng lắm, qua giọng hát liêu trai của Thanh Thúy làm mê hoặc không ít người trẻ. Rồi Nhìn những mùa thu đi với giọng ca trong sáng rất dễ thương, mượt mà, có người cho là “sang trọng” kiểu Huế của Hà Thanh, nhất là khi song ca với giọng truyền cảm kiểu Bắc của Mai Hương, cũng một thời làm người ta khó quên. Đặc biệt khi nghe Chiều một mình qua phố, thì ở lứa tuổi học trò của chúng tôi thời ấy không ai mà không thuộc. Dân Huế lại “ghiền” hơn, có người thích đạp xe lang thang dưới những hàng me xanh Sài Gòn để tự ru dỗ mình cho đỡ nhớ nhà, tự thì thầm với mình: ”Chiều một mình qua phố / Âm thầm nhớ đến tên em / Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím... Ngày nào mình thôi có nhau xin người biết đau”. Có bạn kêu lên: ”Cha ni ‘ba lơn’ chi lạ, đau hay không thì kệ người ta, mắc chi mình phải ‘xin’?”

Tôi lại nghĩ khác, TCS đã linh cảm được thân phận của kẻ làm ‘người’, làm một ‘vết lăn trầm’ biết đau, cái nỗi đau trần thế trước uy lực cay nghiệt của tạo hóa. Ngay trong tình yêu mà TCS cũng đã bắt đầu trăn trở về thân phận con người từ đây chăng, rồi Diễm xưa, Hạ trắng, đến những Phôi pha, Mưa hồng, Tình nhớ, Tình xa... Rõ ràng tình có buồn thật nhưng không ’sến’, vì những lời ca quá thánh thiện và đầy triết lý: “Làm sao em biết bia đá không đau”... “Ngàn sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Đến loạt Ca khúc Da vàng sau này, TCS luôn xin con người ‘biết đau’ trước nỗi đau của người khác trong chiến tranh.

Niên khóa 1964-65, tôi ở trong Ban đại diện Sinh viên Đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn (đường Nguyễn Trung Trực, nay là Thư viện Quốc gia). Lần đầu tiên tôi gặp TCS đến trường tôi hát với ca sĩ Thái Thanh. TCS giới thiệu và nhờ cô hát 2 bài mới sáng tác là Lời buồn thánh và Tuổi đá buồn. Sơn người gầy, đeo kính cận rộng vành, dáng dấp thư sinh, nói giọng Huế hơi nhỏ nhẹ. Ôm chiếc ghi ta thùng đệm cho Thái Thanh hát giữa trời, trong sân cỏ của trường, không có sân khấu. Hai người đứng trước một bức tường rêu của ngôi nhà tiền chế bỏ hoang, nhìn ra đường Nguyễn Trung Trực. Khán giả hầu hết là những sinh viên trường chúng tôi và bạn bè ngồi xổm xuống đất, lót giấy báo hay guốc dép, không có ghế. Cứ như là mấy đêm hát lửa trại, vậy mà vui. Khi Thái Thanh và mọi người ra về, Sơn ngồi lại với nhóm sinh viên thân hữu của trường. Sơn hỏi ý kiến mọi người, ai cũng khen giọng ca Thái Thanh còn phong độ, còn khỏe quá... Tôi cũng công nhận giọng ca của cô còn tuyệt lắm và rất độc đáo, nhưng xin trả Thái Thanh về cho ‘Hội trùng dương’ và ‘Danube bleu’ (Dòng sông Danube xanh), vì bắt cô hát nhạc của TCS thì ‘hơi uổng’ cho cả hai... Mọi người gật gù và Sơn chú ý đến lời nhận xét hơi ‘lạ’ của tôi rồi bắt đầu làm quen.

Vài tuần sau, Sơn mời Lệ Thu đến hát một số tình ca, quê hương và thân phận của Sơn nữa. Cũng hát trước bức tường rêu phong đó. Khán giả vổ tay tán thưởng, góp ý này nọ. Sơn hỏi riêng tôi: ”Chị thấy sao?” Tôi nói thật: ”Giọng Lệ Thu hay, truyền cảm nhưng có vài bài như vẫn còn thiếu cái gì đó của chất nhạc TCS”. Sơn gật gật...

Rồi bạn bè tổ chức cho TCS tự hát một đêm bên trong căn nhà tiền chế sau này lấy làm phòng ấn loát cho sinh viên. Sơn đứng ôm đàn hát một mình, sinh viên chúng tôi lót giấy báo ngồi xuống đất vây quanh (như trong bức hình tôi còn lưu giữ và đã tặng cho TCS, sau này in vào mặt sau tập nhạc “Những bài ca không năm tháng”). Lần nào TCS cũng được sinh viên hoan nghênh nhiệt liệt và bắt đầu làm quen với sinh viên học sinh từ Đại học Văn khoa.

Tuy vậy, Sơn vẫn cứ muốn đi tìm một giọng ca thật thích hợp cho nhạc của mình để cùng hát thì hay hơn. Sau này Sơn đã gặp được Khánh Ly đang hát cho một phòng trà ở Đà Lạt. Sơn đã mời cô về hát thử những ca khúc mới của mình, cũng ở Đại học Văn khoa. Lần này thì ai cũng phải công nhận giọng hát Khánh Ly trầm khàn, mà hát nhạc của Sơn thì như là có chất ma túy, càng hát càng thu hút người nghe. Tôi chúc mừng Sơn đã tìm được tri kỷ rồi nhé.

GIỌT NƯỚC MẮT


Theo yêu cầu của bạn bè, anh tổng thư ký NNB ban đại diện Sinh viên đoàn Văn khoa đã ký tặng các bạn của TCS một căn nhà tiền chế bỏ hoang trong khuôn viên trường ở góc đường Lê Thánh Tôn - Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi nghĩa) để làm Hội Họa sĩ Trẻ. Ở đó các họa sĩ như Nguyễn Trung, Đinh Cường, Trịnh Cung, Nguyên Khai... và họa sĩ bạn đến sinh hoạt thường xuyên. Và Sơn có thêm một chỗ an trú trong những ngày trốn lính ở Sài Gòn, nếu cái gác xếp nhà xuất bản An Tiêm bị lộ. Trong tình trạng này, Sơn luôn di chuyển khi thì ở nhà bạn bè, như TVN, cứ mỗi chỗ vài hôm cho khỏi bị theo dõi. Và chỗ nào bị chú ý thì Sơn phải biến ngay.

Dạo ấy, tôi thường liên lạc với thầy Nhất Hạnh và các thầy ở nhà xuất bản Lá Bối rồi An tiêm để mang phổ biến những tác phẩm hòa bình, đạo pháp và dân tộc của thầy Nhất Hạnh: Tình người (Tâm Quán, bút hiệu đầu tiên của Thầy), Nói với tuổi 20, Phật giáo hiện đại hoá, Hoa sen trong biển lửa... và Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.

Đây là quyển thơ mang nội dung hòa bình bất bạo động của thầy Nhất Hạnh mà một hôm tôi mang vào bán cho sinh viên Văn khoa. Vừa vào lớp xin phép thầy CL (ở Pháp về), mới nhìn thấy tựa cuốn thơ là thầy đã la lên:” Ồ! Hòa bình hả? Hòa bình là có lợi cho Việt Cộng, không thể phổ biến ở đây được”. Thầy đuổi tôi ra khỏi lớp, cả bọn sinh viên phân ban Pháp như một lũ con Tây xua tay: ”Sortez, sortez!...” (đi ra, cút đi). Tôi ôm chồng thơ, chào thầy rồi chạy vội ra khỏi lớp với tràng cười cợt đuổi xua theo sau lưng. Có một giọng tiếng Việt còn ngọng nghịu: ”Ra ngoài Bắc mà kêu hòa bình đi!” Tôi nghẹn ngào, xấu hổ, nước mắt bỗng tuôn rơi vì đời tôi từ nhỏ tới giờ chưa bị ai xua đuổi nhục nhã như vậy. Đi ngang phòng thầy khoa trưởng Nguyễn Đăng Thục, thấy cửa mở, thầy ngoắc tôi vào:” Đi đâu, mang sách gì mà khệ nệ thế này?” Tôi vào, đóng vội cửa lại và kể hết cho thầy nghe. “Con xin lỗi thầy là đã không xin phép thầy trước”. Thầy Thục cầm một quyển thơ lên xem và khuyên tôi: ”Thôi cô mang về giả lại thầy Nhất Hạnh đi! Thưa với thầy là ở đây khó khăn lắm. Tôi ngồi đây cũng không yên thân nữa là. Vì cái vụ danh sách Hòa bình Tự quyết của các ông giáo sư TTDK đấy. Ối dào, mấy cái anh Tây con này mà biết gì tới hòa bình, đạo pháp và dân tộc kia chứ! Rõ khổ!”

Tôi mang chồng thơ về Đại học Vạn Hạnh (lúc đó còn ở chùa Pháp Hội) gặp thầy Nhất Hạnh, kể hết sự tình ở Văn khoa: ”...Họ bảo sách thầy có lợi cho Việt Cộng, thầy Thục cũng không can thiệp được...” Thầy Nhất Hạnh buồn bã khuyên tôi: ”Thầy khoa trưởng nói đúng đó, họ không còn là người Việt Nam nữa rồi, không hiểu gì hết hay không cần hiểu nữa. Họ đã vong thân chính trên quê hương của mình rồi! Thôi cô đem về An Tiêm giao lại cho thầy Thanh Tuệ, đừng buồn nữa!”

Tôi lại mang chồng thơ hòa bình về An Tiêm trong con hẻm đường Lý thái Tổ. Thầy Tuệ ngạc nhiên: ” Ủa, sao lại mang trở về?” Tôi lại kể lể bị xua đuổi ở Văn khoa. Vừa tức, vừa tủi thân, vừa thấm mệt, tôi bật khóc: ” Cuốn thơ dễ thương như vậy mà họ bảo là thân Cộng đó...Thầy”. Trên khung cửa nhỏ của cầu thang. TCS ló mặt xuống hỏi: ” Gì vậy?”, rồi ngoắc tôi lên. Thầy Tuệ bảo chị lên uống trà với anh Sơn cho ấm, hết mưa rồi về. Tôi leo lên thang gác gỗ nhỏ xíu. Cái gác xép vừa đủ cho một bộ xa lông nhỏ cũ kỹ và một tấm màn xanh đen lớn che chắn nửa phòng. Bên trong là giang sơn của các vị văn nghệ sĩ lang thang và trốn lính: Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Bửu Ý, Nguyễn Đức Sơn... thường xuyên ghé một hai ngày rồi đi. Nhà xuất bản An Tiêm của thầy như một bến sông nhỏ của những con thuyền độc mộc tài hoa một thời, cứ tấp vào rồi lại ra đi. Tôi ngồi uống trà nhìn ra cửa sổ, mưa rỉ rả buồn chi lạ. Sơn đã nghe hết chuyện, lên giọng kẻ cả la tôi:” Có chi mà khóc như con nít rứa?” Tôi ức quá kêu kên: ” Chớ tụi nó cũng là sinh viên mà đuổi mình như cùi hủi, không tức hả? Ngày mai tụi nó sẽ kháo ầm lên, cái con bé mặc áo tím đấy nay bày đặt đi bán sách hòa bình thân Cộng bị thầy đuổi. Làm sao mà còn ngồi học được!”...

Sơn buồn buồn nhìn ra cửa sổ bảo tôi: ”Bạn nhìn ra terrasse (sân thượng) xem, thấy gì không?” Tôi nói không thấy gì, mưa vừa tạnh. Sơn bảo, nhìn kỹ đi. Tôi đang tức mà hỏi chuyện vô duyên nên gắt lại: ”Nhìn kỹ rồi, chỉ có một sợi giây thép phơi áo quần mà mưa nên thầy không phơi. Hết.” Sơn cười chọc quê làm tôi tức thêm: ”Rứa mà cũng học Triết, uổng quá!” Rồi Sơn chỉ tay qua lại như người lên đồng và bảo: ”Bạn thấy không? Những giọt mưa đang chạy qua lại trên sợi dây kẻm ngoài kia, hễ gió thổi qua thì nó chạy qua, gió thổi lại thì nó chạy lại, chúng nó dìu dắt nhau đi tìm sự ‘an trú’ mà không có...Rồi gió thổi mạnh thì chúng run rẩy... và rơi xuống đất, tịch lặng...Tội nghiệp chưa? Mấy giọt mưa kia còn khổ hơn mình nhiều. Tui với bạn ngồi đây được ‘an trú’ dưới mái tôn che chở của An Tiêm, dù nhỏ bé và nghèo cũng còn hạnh phúc hơn những giọt mưa ngoài kia... Đừng có ‘con nít’ nữa. Quan tâm làm gì những lời lẽ vong thân mất gốc. Phải bỏ ngoài tai mới sống nỗi. Bạn mà cứ còn suy nghĩ kiểu ‘công nương’ đó thì còn buồn khổ dài dài. Nhìn những giọt mưa kia có giống những giọt nước mắt quê hương mình không? Mình ở trong thành phố, cực mấy cũng còn sướng chán. Dân ở nông thôn mới khổ dễ sợ. Đạn bom cày xới mỗi ngày, bạn bè đi lính thì cứ nghe tin ngả xuống liên tục. Thật là đau đớn, nhức nhối!...”

Trên đường về tôi suy nghĩ mãi về những liên tưởng, những cộng hưởng lương tri của TCS. Từ những giọt mưa đi tìm an trú trên giây kẻm đến những giọt nước mắt quê hương mình trong chiến tranh thì thật lạ và cũng thật tuyệt diệu. Sơn đã đưa triết học vào âm nhạc rồi đó. Có phải từ những liên tưởng này mà Sơn đã viết bài Giọt nước mắt quê hương chăng? Hôm sau tôi vào trường thì bị ngay một dàn chào hí hố:”Bồ câu xuất hiện rồi kìa... Ôi giời! Sao bồ câu không bay ra Bắc mà kêu gọi hòa bình nhĩ? vv,,, và vv... Nhớ lời Sơn, tôi cứ mặc kệ phớt tĩnh vào học. Và thỉnh thoảng vẫn lên Đại học Vạn Hạnh giúp thầy sửa chửa bản thảo sách báo hòa bình và qua An Tiêm gặp lại Sơn và các bạn bè nghệ sĩ lang thang. Họ bàn luận và bức xúc về chiến tranh cùng những hậu quả của nó, và nhất là sự có mặt nghênh ngang của lính Mỹ trên đường phố Sài Gòn...đến không chịu nỗi nữa. TCS luôn đốt thuốc lá ngồi nghe, trầm tư và tích lũy bao ý tưởng bạn bè. Sau này, nhìn thấy trong những ca khúc TCS, thỉnh thoảng có bóng dáng bạn bè, như “Còn hai con mắt, một con khóc người...” thì rõ là cái kiểu Bùi giáng rồi.

THỂ NGHIỆM CA KHÚC DA VÀNG

Sau vụ Phật giáo bị đàn áp năm 1966, tình hình chiến sự ngày càng tăng nhanh. Báo chí đưa tin người chết hai bên quá nhiều. Khoảng năm 1967, nhóm sinh viên Phật tử vận động hòa bình chúng tôi bàn với TCS nên viết nhạc phản chiến, kêu gọi ngưng tiếng súng để nói chuyện giữa người Việt với nhau. Sơn nói muốn viết phải về Huế vì ở đó là địa đầu của những trận chiến đẫm máu nhất. Nhưng sau một tuần Sơn viết cho tôi một lá thư bảo là ngày nào cũng úp mặt lên đàn mà ý nhạc vẫn chưa tới. Rồi sau đó nghe bạn bè ngả xuống. Huế đúng là địa đầu của tải thương và nhận xác. Không lâu sau, Sơn đem tập bản thảo “Ca khúc da vàng” vào Sài Gòn hát thử cho bạn bè nghe ở nhà anh TVN. Ai cũng thấm thía đến sửng sờ, nhất là các bài Người con gái Việt Nam da vàng, Tình ca người mất trí, Gia tài của mẹ...

Chị bác sĩ Đổ Thị Văn và tôi đem về thể nghiệm ở trụ sở Sinh viên Phật tử trong cư xá Thích Quảng Đức 294 Công lý (nay là Nam Kỳ Khởi nghĩa). Nhưng khi chúng tôi trương tấm biểu ngữ “Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da vàng” lên trước cổng thì ai cũng ngại. Chị Văn thì thấp, tôi thì cao nên cái biểu ngữ cứ xéo xẹo hoài. Sơn vừa đến, hỏi:”Chứ con trai đâu hết mà để cho con gái leo lên thang vậy?” Tôi cười: ”Con trai mà ló ra đây để cho cảnh sát hốt vô trại lính à!” Sơn kêu: ”Chị Văn nhích lên tí cho bằng bên kia”. Chị cười ngặt nghẽo: ”Ta ráng hết sức rồi, ráng nữa té sao?” Sơn quăng điếu thuốc, bảo: ”Chị xuống đi, để tôi”, rồi leo lên cùng tôi căng thẳng biểu ngữ không nghiên lệch nữa. Khi giới thiệu Sơn hát, anh đoàn trưởng nói: ”Chính tác giả đã cùng bạn bè leo lên thang treo biểu ngữ đó”. Khán giả vổ tay nồng nhiệt. Sơn ôm đàn hát Người già em bé, Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết lăn trầm... Khi đến loạt Ca khúc da vàng thì khán giả đứng lên vổ tay vang dội cả hội trường. Một số bạn phải chạy ra cổng canh chừng xe cảnh sát. Sau đợt thể nghiệm đó, TCS rất thành công, bạn bè đưa Sơn về hát ở Đại học Văn khoa.

“NỘI CHIẾN”


Một hôm, có một chị bạn của tôi và cũng là bạn TCS đã đến nhà tôi phê bình: ”Sao TCS viết nhạc như vậy mà chị cho là tiến bộ? Bài Gia tài của mẹ có câu ‘Hai mươi năm nội chiến từng ngày’. Chữ ‘nội chiến’ không đúng với chiến tranh Việt Nam. Đây là cuộc chiến chống Mỹ xâm lăng giành độc lập thống nhất chứ không phải nội chiến như Trịnh - Nguyễn ngày xưa”. Tôi nói nhưng rõ ràng là người Việt Nam hai miền Nam-Bắc đang cầm súng giết nhau kia mà. Chị bảo thì do Mỹ đổ quân lên miền Nam và chỉ đạo từ A đến Z. Rồi chị hạ nhỏ giọng như mệnh lệnh: ”Các anh ở trong không bằng lòng hai chữ ‘nội chiến’, chị nói Sơn sửa lại đi!”. Nói xong chị đi ngay.

Tôi nghe mà sợ quá vội chạy lên An Tiêm tìm gặp Sơn, cầm theo cả tâp Ca khúc da vàng Sơn vừa đưa tôi hôm 18/7/1967 có kèm chữ ký tặng. Tôi kể cho Sơn nghe và đề nghị sửa hai chữ ‘nội chiến’ cho rồi, chứ tôi ngán mấy chữ: “các anh ở trong không bằng lòng” quá! Sơn suy nghĩ một hồi rồi nói có vẻ bực mình: ”Mệt quá, nhạc viết ra rồi còn bắt sửa đi sửa lại...” Và Sơn thở dài: ”Thôi tùy bạn, muốn sửa gì cứ sửa!” Tôi đặt bút xuống gạch ngang chữ ‘nội chiến’ trong tập nhạc của tôi, viết lên trên đó chữ ‘giặc giã’. Rồi gạch bỏ luôn chữ đó, vì thấy: ”Dỡ quá phải không Sơn?. Hay là ‘chinh chiến’ vậy? ‘Chinh chiến’ nghe hơi nhẹ hơn tí, nhưng thôi, cũng được nghen Sơn?” Sơn ậm ừ: ”Tùy bạn... thôi cũng được!”

Tập nhạc tôi còn lưu giữ đến nay với mấy dấu gạch sửa đầy kỹ niệm đó. Cho dù Sơn đã đồng ý sửa lại bằng chữ ‘chinh chiến’, mà khi hát người ta vẫn cứ hát ‘nội chiến’, thế mới khổ. Khi tôi báo cho Sơn biết việc đó, Sơn cười: ”Bạn thấy chưa? Đó là quyền của người hát, làm sao mình cản nỗi!”

Giọng hát Khánh Ly đi vào Ca khúc da vàng của TCS như một “duyên kỳ ngộ” của Ca và Nhạc. Từ đó dân Sài Gòn chỉ nghe TCS qua giọng hát Khánh Ly mà thôi. Và Sơn về an trú ở Hội họa sĩ trẻ trong một góc vườn Văn khoa. Thường khi không có giờ học, tôi băng qua đồi cỏ, xuống căn nhà Họa sĩ trẻ nghe Sơn tập cho Khánh Ly hát. Một hôm, Mai (tên thật của Khánh Ly) nhìn thấy tôi bổng kêu lên: ”Chị ơi, từ sáng giờ có mỗi chữ ‘chết’ mà em ‘chết’ mãi không được, ảnh mắng em...kìa!”. Sơn đang ngồi hút thuốc, nhìn ra cửa sổ có vẻ khó chịu. Thì ra chữ ‘chết’ trong “chết trận Đồng Xoài...” trong bài Tình ca người mất trí mà Sơn cứ bắt Khánh Ly phải láy xuống cho hơi Huế một tí. Mà cô này cứ ‘chết’ lên theo giọng Bắc hoài nên Sơn bực. Khi tôi nghe và phát hiện ra như thế, Mai à lên một tiếng. Tôi giải hòa, bảo Sơn đừng có “khó chi mà ác rứa!” Rồi kéo Mai đi lên đồi cỏ chơi một vòng cho đỡ căng hãy tập tiếp.

Khi Quán Văn mọc lên ở Văn khoa thì ban đại diện cũ của chúng tôi hết nhiệm kỳ nên tôi ít lui tới quán sinh viên đó, Chỉ nghe sinh viên xầm xì là do một nhóm sinh viên Văn khoa và bạn bè ở bên ngoài vô gầy lên. Quán đơn sơ, nằm trước phòng ban đại diện cũ, để sinh viên có chỗ uống nước, tán dóc và để cho Khánh Ly, TCS hát với sinh viên. Sân khấu là các mặt bàn kê lại với nhau và đứng hát giữa trời.

Khoảng năm 1967, Ban Văn nghệ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn do anh Trương Thìn hướng dẫn có tổ chức một đêm hát cho sinh viên học sinh nghe ở trụ sở 4 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch). Sau phần trình bày sôi nổi của Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng và các bạn sinh viên trong phong trào tranh đấu Sài Gòn, Trịnh Công Sơn bước lên với chiếc ghi ta thùng, tự hát những bản nhạc sâu lắng nói lên thân phận con người và quê hương trong chiến tranh: Giọt nước mắt quê hương, Ca dao mẹ, Vết lăn trầm... Một dòng nhạc trăn trở, tra vấn lương tri con người mà một nhà báo đã viết lên một câu để đời về sự nghiệp âm nhạc TCS: ”...Và từ đó nhạc Việt Nam không còn như cũ nữa!”.

Vậy mà hôm ấy khi Sơn vừa hát xong thì có một người lên góp ý phê bình Phạm Duy xong lại mỉa mai TCS là giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến, ở nông thôn người dân đội bom, đói khổ hàng ngày mà ở đây người ta cứ ngồi “khóc” để than thân trách phận thì vận nước này có hết điêu linh không?

Sơn ngồi bên, lặng đi một lát rồi hỏi tôi: ”Sao bạn mời tôi đến đây cho người ta chửi vậy!” Tôi cũng ngạc nhiên và trả lời Sơn là mục này không có trong chương trình. Sao lạ vậy, tôi sẽ hỏi anh Thìn. Nhưng Sơn cũng bỏ ra về. Tôi phải hẹn Sơn và Thìn cùng đến Đại học Văn khoa chiều ngày hôm sau để thông cảm nhau. Từ đó, hai người lại trở thành bạn thân thiết cho đến bây giờ.

ANH SINH VIÊN NHẬT EGOCHI

Tôi không rõ nhạc của TCS có ma lực gì mà thu hút được người Nhật đến vậy. Trước Michico đã có Egochi sinh viên cao học Nhật đến Việt Nam làm luận án tiến sĩ về sử học và xã hội học năm 1966.

Anh đến Văn khoa gặp tôi, nhờ giới thiệu với TCS vì anh rất thích bài Vết lăn trầm có câu: ” Đá lăn vết lăn buồn...” Sao đá mà cũng biết buồn? Tôi cười: ”Sao đúng ý tôi quá vậy? Tôi cũng thích nhất bài này trong số nhạc Sơn, nhưng câu đó không phải đá buồn mà vết lăn của đá nó buồn vì đá lăn đi để lại trên đất một vết xước cô đơn, trầm buồn! Mà trên đất nước Việt Nam đang chiến tranh này, Egochi thử đếm xem có bao nhiêu vết xước cô đơn như thế trên đất, trong lòng người? Cho nên TCS mới tha thiết kêu lên ‘Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau’! Egochi thấy chưa?” Anh cười, nói đùa: ”Tư tưởng lớn gặp nhau!”

Khi nghe Sơn ôm đàn nhắm mắt hát bài đó xong, Egochi ngây ngất nói: ”Hình như tôi đã gặp anh Sơn trước đây, gặp ở đâu đó trong tiền kiếp!” Rồi anh nói thao thao về thuyết luân hồi của Phật giáo. Tôi nói: ”Có lẽ hai người gặp nhau trong cùng một nỗi đau dân tộc. Egochi thì mang vết thương của hai quả bom nguyên tử không bao giờ lành trong lòng người Nhật. Còn TCS thì đang bị vết thương chiến tranh này hành hạ từng ngày. Có đúng không?” Cả ba chúng tôi đều đồng ý.

Egochi nói muốn thử ra phố chợ xin ăn, thử sống một ngày lang thang của “kiếp ăn mày” ở Việt Nam, một đất nước đang chiến tranh để hiểu hết ý nghĩa của “nỗi đau cuộc sống”. Một tuần sau, Egochi đến nhà tôi, trông giống như một người ăn xin thật sự, áo quần xơ xác, mặt mày lem luốc bơ phờ... và đói thật. Egochi nói: ”Mệt nhưng mà thích vì cùng đói với các bạn ăn mày ở vỉa hè mà thương nhau lắm. Cùng chia xẻ nỗi đau và rất hạnh phúc!” Tôi đang chuẩn bị cho Egochi ăn, một người bạn tôi chơi ác, đi mua trứng vịt lộn về dấu, bảo nhắm mắt mới cho ăn. Mới ăn, anh nói: ”Ngon nhưng có cảm giác đang ăn một sinh vật!” Các bạn cười ầm lên, đưa ra con vịt con trong trứng lộn. Egochi òa lên khóc nức nở: ”Sao các bạn ác quá vậy! Tôi đã sát sanh rồi!”

Sau đó tôi bị bắt ba tháng vì vụ tranh đấu Phật giáo miền Trung. Egochi đến trước cổng nhà giam khóc và xin bảo lãnh tôi về, nhưng ai mà cho. Ra tù nghe tin anh bị trục xuất khỏi Việt Nam, nhận được thư anh nói mình đang đi châu Phi để cùng sống và nghiên cứu về vùng đất còn lạc hậu nhất thế giới... Tôi kể hết chuyện cho Sơn nghe, Sơn bảo: ”Tay ni lạ thật, thánh thiện quá rồi cũng khó sống!” Tôi chỉ tiếc là chưa giới thiệu Egochi nghiên cứu về nhạc hòa bình của TCS. Nhưng sau này có cô Yochoii Michiko đã đến Việt Nam gặp Sơn và làm luận văn cao học về dòng nhạc phản chiến TCS tại đại học Paris vào năm 1985, được công bố rộng rãi, nổi tiếng khắp thế giới.

HÃY SỐNG DÙM TÔI!

Tôi không thể nào quên được buổi sáng hôm ấy, vào 7.30g ngày 16/5/1967, bạn Phan Đạm Hiệp đạp xe đến gọi tôi thảng thốt: ”Chị Hoa ơi! Chị Mai tự thiêu trên chùa Từ Nghiêm rồi. Chị lên mau đi”. Tôi đạp xe vội lên Từ Nghiêm, vừa đi vừa khóc. Chị Nhất Chi Mai học Sử ở Văn khoa, tôi học Triết, và chị rất thương tôi, coi tôi như một người em tâm đắc, thường gọi đi làm công tác xã hội cùng chị vào các xóm nghèo vùng ngoại ô Sài Gòn. Một người chị nhu mì, hiền lành, một nữ tu Dòng Tiếp hiện mà thầy Nhất Hạnh rất quý nễ trong công tác với tâm bồ đề chân thành. Làm sao hiểu nỗi chị đã chuẩn bị cho cái hạnh Bồ tát này, từ khi đọc báo nghe tin Morrison một giáo sư đại học Mỹ tự thiêu cho hòa bình Việt Nam vào cuối năm 1965. Chị Mai đã khóc và kể lại cho tôi, Morrison bế đứa con gái thân yêu nhất đời Emily một tuổi ra trước tòa nhà Ngũ Giác Đài bộ quốc phòng Mỹ tự thiêu để thức tỉnh lương tri con người, mong chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Emily đứng nhìn ngọn lửa thiêu sống cha mình kêu khóc: ”Cha ơi!” Chị đã vô cùng xúc động và kính phục Morrison, rồi âm thầm tự nguyện đem thân làm đuốc để đáp lại tấm lòng Bồ tát bên kia bờ đại dương trên xứ sở đang gây chiến ở Việt Nam...

Tôi lên đến nơi thì ngọn lửa vừa tắt, Nhất Chi Mai của tôi ngồi xếp bằng như một pho tượng đồng đen bất động, mùi thịt da khét lẹt bốc khói. Tôi đặt tay lên đùi chị, phải rụt lại ngay, suýt bỏng tay mình. Tôi gục xuống nức nở đau đớn: ”Mai ơi! Sao phải như thế này? Không còn cách nào khác sao, hỡ Mai?” Nhìn hai pho tượng nhỏ Đức Mẹ Maria và Quan Âm Bồ tát đặt ngay ngắn trước mặt chị với 10 bức thư cho gia đình và cho những người có thẩm quyền gây chiến ở Việt Nam.

Trong đó có bài thơ "Chắp tay tôi quỳ xuống" :

Chắp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu
Sao thế giới biểu tình
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói hòa bình

Tôi thấy mình hèn yếu
Tôi nghe lòng đắng cay
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời

Hòa bình là có tội
Hòa bình là cộng sản
Tôi vì lòng nhân bản
Mà muốn nói hòa bình
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi!
Hai mươi năm nay rồi
Nhiều máu xương đã đổ
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống.
(Nhất Chi Mai, tự Nhất Chi, Kính cáo)


Tôi chép vội bài thơ và không dám ở lại với chị lâu hơn, cũng không thể tiễn đưa chị được vì chùa sợ cảnh sát tới gây khó dễ. Cô em nữ sinh Phật tử H. đã vừa khóc vừa kể hết nỗi niềm của chị Mai cho tôi nghe, bởi em đã gần gũi chị suốt những ngày cuối.

Tôi không về nhà mà đạp xe qua An Tiêm, gặp TCS ở đó kể hết sự tình cho Sơn nghe và tôi khóc nhiều vì thương chị Mai quá chừng. Sơn hốt hoảng rơi người xuống ghế, sửng sốt chết lặng một lúc rồi kêu lên: ”Trời ơi, con gái mà cũng tự thiêu à? Dễ sợ ghê quá, sao không ai can ngăn dùm?”

“Can ngăn gì nỗi Sơn ơi, chị ấy đã âm thầm chuẩn bị rất kỷ ngay từ khi nghe tin Morrison tự thiêu bên Mỹ kìa”. Tôi vừa khóc vừa đọc bài thơ Chắp tay tôi quỳ xuống của chị Mai cho Sơn nghe: ”Sơn thấy không, cái tâm Bồ đề của chị thanh cao vời vợi như vậy thì làm sao mà can ngăn cho được. Chị thành Bồ tát rồi Sơn ơi!”

Sơn ngồi bất động, vẫn chưa hoàn hồn, trầm ngâm buồn bả, ứa nước mắt: ” Ừ, đúng rồi chỉ có cái tâm Bồ tát mới làm được một hạnh nguyện lớn lao như vậy!”

Vài ngày sau, Sơn nhắn tôi lên An Tiêm và ôm đàn hát miên man ca khúc vừa mới viết: ”Hãy sống dùm tôi, Hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...” Sơn hát xong, tôi kêu lên: ”Tuyệt quá Sơn ơi”. Sơn nói: ”Hôm đó bạn về rồi, suốt ngày mình không làm gì được, suốt đêm cũng không ngủ được, cứ trằn trọc mãi với câu thơ của chị Mai ‘Sống mình không thể nói, Chết mới được ra lời!’ Tại sao vậy? Mình đã tự hỏi bao lần như vậy. Tối qua vùng dậy viết... Cuối cùng đã trả lời được cho chị Mai, cho bạn và cho chính mình bằng mấy nốt nhạc này đây. Được chưa? ” Sơn đưa tôi bản nhạc chép tay vừa ráo mực. Tôi mừng quá đến chảy nước mắt: ”Được quá sơn ơi, bây giờ làm sao in ra cho sinh viên đây? ” Sơn bảo: ”Khoan đã, để từ từ mình sẽ in chung trong tập Ca khúc da vàng với bài Ru con (nay đổi là Ngủ đi con).

Bạn bè sợ 2 bài này ý mạnh quá, kẹt cho Sơn nên chỉ chuyền tay nhau trong sinh viên thôi. Sau đó, Sơn âm thầm mang đi Nhật Bản và được một hãng đĩa Nhật vinh danh là tiếng kêu hòa bình thống thiết nhất từ Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng phổ biến khắp thế giới cùng tên tuổi của TCS và Khánh Ly. Từ đó đến nay giọng ca Khánh Ly đã đưa Ca khúc da vàng của TCS vào tận tim óc con người, nó lột trần được nguyên hình cái Ác của người với người trong chiến tranh. Giọng ca Khánh Ly đầy ma lực, đến nỗi khi hát cứ như nhập thần. Cho nên Ca khúc da vàng bị cấm hát trên quê hương mình như thân phận nhức nhối, đắng cay của nó...

SÚNG NỔ TRONG ĐÊM NHẠC TCS


Vào một đêm đầu năm 1968, sinh viên Văn khoa tổ chức một buổi nhạc TCS-Khánh Ly hát tại trường Văn khoa mới trên đường Cường Để. Lúc đó, tôi bận thi tốt nghiệp nhưng cũng ráng đến nghe. Sinh viên học sinh đông nghẹt giảng đường chính. Đến trễ, nên tôi được ngồi hàng ghế đầu, bên phải sân khấu là bục giảng. TCS và Khánh Ly ngồi gần ban nhạc bên cánh trái.

Chương trình sắp bắt đầu thì có hai anh chị lên micro, cô gái mặc áo dài hoa cà, chấm trắng, anh kia đứng ngay phía sau. Cô gái cất giọng miền Nam rõ ràng: ”Kính thưa quý vị và các bạn. Hôm nay là ngày 20 tháng 12, kỹ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam...” Khán giả sinh viên la ó lên: ”Cái gì vậy? giởn hay thiệt?...” Giáo sư Nguyễn Văn Trung ngồi cạnh tôi hỏi:” Ủa, tụi nó làm cái kịch gì vậy, Hoa? Sao bảo là Khánh Ly hát TCS mà?” Tôi cũng ngạc nhiên: ”Thưa thầy, con cũng không biết nữa vì hôm nay con không ở trong ban tổ chức”. Rầm! Một cái ghế quăng lên phía micro và tiếng sinh viên la ó: ”Vi xi! Vi xi cướp micro rồi!” Người trưởng ban tổ chức chạy vội lên để lấy lại micro thì nghe ‘đùng’ một tiếng nổ, anh ta quỵ xuống, sinh viên bắt đầu hổn loạn. Thầy Trung và tôi cũng chạy vội ra cửa. Ra đến hành lang, tôi kịp nhìn thấy thanh niên áo sơ mi trắng đứng sau cô gái vừa nói ở micro, lôi cô ta chạy vôi xuống bậc tam cấp và hai người biến vào đám đông. Tôi bị kẹt lại ở hành lang đông nghẹt người mà lan can cao quá không dám nhảy xuống. Một sinh viên Pháp xốc cánh tôi thảy qua lan can rơi bịch xuống đất, may mà không gảy chân. Anh ta cũng nhảy theo sau, tôi chỉ kịp nói vội “Merci” (cám ơn) rồi chạy ra lấy xe Honda phóng về An Tiêm mà Sơn và Khánh Ly vẫn chưa về, nhưng có báo tin về là không sao.

Hôm sau tôi lên gặp Sơn, cho biết người tổ chức chính là NVT bị bắn vào bụng, đang nằm bệnh viện. Anh ta không phải sinh viên Văn khoa, chỉ là bạn bè đến chơi, cùng sinh viên tổ chức Quán Văn ở trường cũ để Khánh Ly và TCS hát. Từ đó không ai còn dám tổ chức hát TCS ở các đại học nữa.

Sơn đang trốn lính nên cũng phải dời đổi chỗ ở liên tục, rồi bay ra Huế mai danh ẩn tích một thời gian. Lúc này tôi ít gặp Sơn vì tốt nghiệp xong cử nhân còn bận làm cao học. Chỉ nghe Sơn vào lại Sài Gòn thường ngồi ở phòng trà, bắt đầu uống rượu. Tôi trách Sơn sao lại cùng Khánh Ly ra phòng trà hát uổng quá, nhạc của Sơn không phải hát ở chỗ này. Trong khi trước đó Sơn đã trách Khánh Ly “Em theo đời cơm áo...”

Bùi Giáng phản đối tôi: ”Phải để hắn ra ngồi đó mới thấy hết cảnh ‘ta bà thế giới’ này, nhìn thấy hết mọi thứ người từ ‘thượng vàng tới hạ cám’, thì nhạc hắn mới sâu, mới thấm thía, chứ cứ đóng khung trong ‘cửa Khổng sân Trình’ thì chỉ có một giới nào đó nghe thôi sao. Hắn cũng phải ‘nghe’ thiên hạ nữa chứ...” Ban đầu, tôi nghĩ là Bùi Giáng điên rồi, nhưng sau đó nghe hàng loạt ca khúc mang tính triết học, từ Cát bụi, Một cõi đi về trước đó đến Đoá hoa vô thường... sau này, thì mới rõ là Bùi Giáng không điên tí nào.

Sau Tết Mậu thân Sơn ở Huế vào, đem theo nhiều ca khúc dữ dội hơn. Vào đầu những năm ’70, Sơn thường ra Huế hoạt động với Bửu Chỉ và nhóm sinh viên tranh đấu Huế, nhất là sau cái chết của Ngô Kha, người mà Sơn giới thiệu với tôi ở Hội họa sĩ trẻ, một nhà thơ nhiệt tình và tài năng. Vào giai đoạn đó, Sơn chịu nhiều ảnh hưởng của Ngô Kha nên chuyển hẳn sang nhạc tranh đấu đòi độc lập thống nhất với những tập Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời... với những bài Không mất niềm tin, Huế-Sài Gòn-Hà Nội, Nối vòng tay lớn...

NHÓM SÁNG TÁC MỚI

Đến năm 1975 thì bạn bè nghe TCS hát Nối vòng tay lớn, bài hát đầu tiên phát đi trên đài phát thanh Sài Gòn vào ngày giải phóng 30/4/75, cùng anh em sinh viên và anh Nguyễn Hữu Thái chồng tôi, bố của Thái Hòa, anh là bạn học với Sơn thời trung học trường Providence (Thiên Hựu) ở Huế.

Thời gian trước đó, tôi ít khi liên lạc với Sơn vì đã có gia đình và 2 con nay được 5-6 tuổi, vẫn thường ru con bằng những bài Ca dao mẹ, Gia tài của mẹ.... Nghe nói sau giải phóng Sơn về Huế một thời gian gặp khó khăn nên trở lại Sài Gòn khoảng năm 1979.

Tôi sinh hoạt ở Hội Trí thức Yêu nước, đa số là trí thức Sài Gòn cũ, nhiều người đi học tập cải tạo về. Thành phố đang nổi lên phong trào ‘Ca khúc chính trị’, Hội trí thức cũng tổ chức một đêm văn nghệ với các ca khúc mới. TCS có tham dự và nhờ Miên Đức Thắng hát 2 bài mình mới sáng tác ở Huế: Gánh rau ra chợ, Máy kéo nông trường.

Sau đêm diễn, nhóm văn nghệ sĩ và thân hữu ngồi lại giải lao, bàn bạc về tình hình văn nghệ sau 5 năm giải phóng. Nhận thấy khán thính giả, nhất là giới trẻ đã ngán ngẩm loại nhạc chiến đấu. Dù là chiến thắng anh dũng, nhưng hát hoài rồi cũng ngán, giờ muốn nghe những làn điệu tình cảm quê hương dân tộc nhẹ nhàng hơn trong xây dựng hòa bình. Đã có tình trạng nghe lén nhạc vàng trước kia ở nông thôn, vùng ngoại ô hay đây đó trong Thành phố. Thanh niên cũng bắt đầu ngán những bài ‘Đoàn ca’ rồi, họ đòi hỏi cái mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, văn nghệ sĩ phải có trách nhiệm đáp ứng. Tôi góp ý riêng với Sơn về hai bài vừa rồi: ”Nói thiệt Sơn đừng buồn nghen, mới nghe thấy lạ, tuy cũng hay nhưng không bằng mấy sáng tác cũ của Sơn đâu! Hãy để những chủ đề xây dựng lao động sản xuất và xã hội chủ nghĩa cho người khác viết, vì họ có kinh nghiệm về các vấn đề này lâu hơn Sơn...Bạn cứ viết tình ca đi”. Sơn cười gằn: ”Thời buổi ni mà bạn biểu tui viết tình ca à?” Tôi bàn: “Đâu phải hễ nói tới tình ca là chỉ có tình yêu trai gái thôi sao? Thiếu gì ‘tình’ mà xã hội, lớp trẻ hôm nay đang cần, đang đói. Tình yêu quê hương, đất nước đang hồi sinh sau chiến tranh, tình cỏ cây, hoa lá, núi rừng, biển sông, tình bạn, tình người... ‘Người với người’, sống sao cho tử tế. Chính vào thời buổi này, tâm lý con người, nhất là lớp trẻ trong một xã hội đang thay da đổi thịt rất cần ‘tình người’, cần đem hoa để làm đẹp cho đời. Cần lắm chứ, Sơn thấy không?” Sơn trầm ngâm một hồi rồi cười cười: ”Chà, bạn cho tôi cái ‘thème’ (đề tài) này khó đấy” - ”Khó mà làm được mới là TCS chứ! Thôi về suy nghĩ tiếp đi, đừng có lười!”

Vài tuần sau tôi được mời đến dự một buổi nghe thử trong nội bộ một số ‘sáng tác mới’ của các nhạc sĩ thân hữu. Anh tổng thư ký Hội trí thức Huỳnh Kim Báu nhờ tôi mời cả TCS nữa. Hôm ấy có người ở Mặt trận Tổ quốc Thành phố sang tham dự. Bác sĩ Trương Thìn giới thiệu các nhạc sĩ lần lượt tự trình bày sáng tác mới của mình: Hoàng Hiệp với Sao anh không kể; Phạm Trọng Cầu: Quê hương, phổ thơ Giang Nam, và Từng giọt yêu thương; Trần Long Ẩn: Những cơn mưa đầu mùa; Miên Đức Thắng cũng phổ nhạc bài thơ Quê hương và Một sớm con về; Trương Thìn: Một ngày của tôi và Tôi còn nợ, phổ thơ bác sĩ Đổ Hồng Ngọc. Rồi Trịnh Công Sơn với Như một hòn bi xanh, Ở trọ, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui... Sơn vừa hát xong, mọi người vổ tay tán thưởng tất cả các nhạc sĩ.

Bỗng ông bạn bên Mặt trận đứng lên phê bình bài Như một hòn bi xanh không có ‘lập trường’, kêu gọi con người thương yêu chung chung, không phân biệt bạn-thù: nếu trái đất bé nhỏ như hòn bi thì giữa người với người không còn biên giới, đứng ở đâu cũng là quê hương mình. Vậy nếu anh qua Mỹ, anh cũng nhận Mỹ là quê hương anh sao?... Sơn quay qua hỏi tôi: ”Cũng bạn nữa! Sao bạn mời tôi tới đây cho người ta chửi tui vậy?” Tôi chưa kịp hiểu sao thì Sơn đã đứng dậy: ”Thưa quý vị, Tôi nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Tôi muốn nói tới hòa bình cho nhân loại, giữa người với người trên hành tinh này và tấm lòng nhân bản, độ lượng của người Việt Nam. Không ngờ hôm nay lại được đến đây để học bài ‘morale élémentaire’ (đạo đức sơ đẳng) này! Tôi xin phép được về”. Anh Phạm Trọng Cầu đứng lên: ”Sơn bình tĩnh, đợi tao tí về luôn với mầy. Còn anh kia, có biết là thính giả bây giờ đã ngán những ‘bài ca chính trị’ thô thiển lắm rồi không? Các anh về viết xã luận chính trị rồi phổ nhạc rồi hát với nhau đi. Đừng kêu tụi tui nữa. Về mầy Sơn”. Sơn và anh Cầu dợm đứng lên thì anh Báu vội ngăn lại: ”Xin hai anh bình tĩnh, ngồi lại cho tôi nói tí đã. Tôi Huỳnh Kim Báu, đảng viên, là Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước xin chịu trách nhiệm trước Thành ủy về việc này. Anh bạn bên Mặt trận đừng lo. Xin tất cả các anh chị yên tâm tiếp tục...” Nhưng mọi người mất hứng đứng dậy ra về.

Khi tôi dắt xe ra cổng Hội thì bị hai ông bên Mặt trận chận lại hỏi: ”Chị có bảo đảm TCS không vượt biên không mà dám lăng xê anh ta lên vậy?” Tôi cười hỏi lại: ”Các anh đi rao giảng học thuyết Mác-Lê mà nói chuyện sao ‘phi Mác xít’ quá vậy? Mác nói: ‘Con người thay đổi theo sự bảo hòa của xã hội xung quanh’, đúng không? Thì tôi làm sao bảo đảm TCS không đi được? Ngay cả tôi, tôi còn không bảo đảm được tôi ngày mai sẽ ra sao. Và cả các anh nữa, bây giờ các anh nói vậy, chứ ngày mai tôi cũng không dám bảo đảm các anh có đi hay không. Vì Hoàng Văn Hoan ở Bộ chính trị còn vượt biên qua Trung Quốc; Trương Như Tảng, bộ trưởng tư pháp còn đi nữa là, thì làm sao tôi dám bảo đảm ai được?” Tôi nhận được ở họ những tia nhìn không vui vẻ tí nào. Tôi mặc kệ, bỏ về.

THÂN PHẬN NÀNG KIỀU TCS

Nhóm sáng tác mới vẫn cứ tiếp tục đến hát chơi với nhau ở Hội, chưa biểu diễn chính thức, theo yêu cầu của anh tổng thư ký đợi xin phép Thành ủy. TCS cũng đến hát với bạn bè, có nhờ các ca sĩ như HM, SC, TL đến hát thử. Sơn lắng nghe và hỏi riêng tôi thấy sao. Tôi cũng ậm ừ: ”Giọng HM, SC quá ‘trong và trẻ’. Hãy trả SC về cho sinh viên trường Luật, và trả TL về với mấy bài hát Tây nhí nhảnh. Các giọng ca trẻ này hát khá hay, dễ thương nhưng sợ khó hợp với nhạc của Sơn”. Sơn gật gù: ”Cái tai bạn ni khó quá!” Tôi cười: ”Ai biểu hỏi, thì người ta phải nói thiệt. Làm sao biểu ta nói láo cho được!”

Một đêm khác, chúng tôi trình diễn thể nghiệm cho một nhóm bạn trí thức Việt kiều về tham dự, không đông lắm nhưng cũng khá thành công, vì đa số họ đều là sinh viên học sinh Sài Gòn cũ, đã từng mê Ca khúc da vàng và tình ca của TCS trước kia. Hôm đó, tôi làm MC (người dẫn chương trình) giới thiệu TCS như một nàng Kiều vì sau 15 năm, kể từ năm 1965, nhạc TCS đã bị chế độ cũ cấm phổ biến do nội dung phản chiến, ru ngủ quân đội, nhất là loạt Ca khúc da vàng. Sinh viên học sinh phải chuyền tay nhau và trình diễn nội bộ ở các đại học. Cho đến bây giờ, từ 1975-80, một số nhạc của Sơn vẫn còn bị cấm... Sơn lao đao vào những năm đầu sau giải phóng, giống như nàng Kiều 15 năm ấy phong trần đa đoan. Từ đây, hy vọng TCS sẽ được thoải mái trãi lòng trên chiếc ghi ta thùng cũ kỹ thân thương của anh để ‘rút ruột tằm ra mà nhả tơ’ cho đời thưởng thức, mà ru dỗ những nỗi đau trần thế. Đêm ấy, mấy bạn Việt kiều ùa lên ôm Sơn rơm rớm mừng Sơn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, đứng vững bằng chính đôi chân mình trên quê hương thân yêu mà Sơn không thể bỏ đi đâu được.

TCS hôm đó rất vui, trước khi ra về còn ‘lườm’ tôi một cái đích đáng: ”Sao lại ví người ta với nàng Kiều?” Tôi gặng lại: ”Chứ còn gì nữa? Thì chính ông đã nói trong văn học Việt Nam không có chân ai đẹp như chân Thúy Kiều. Đúng không? Sướng rồi còn làm bộ hỏi! Đêm nay thành công quá rồi, đừng có trách tui nữa nghen”. Anh Phạm Trọng Cầu lại nói đùa: ”Còn cái thằng Ẩn này nữa. Sao lại ví những ngày đầu cách mạng như những cơn ‘mưa đầu mùa’ làm ướt áo quần em...Kỳ vậy mậy?” rồi anh cười ha hả.

Ở ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Sau đó, thừa thắng xông lên, nhóm sáng tác mới đi lưu diễn tại Đại học Cần Thơ và anh Báu bảo rằng chính bí thư Tỉnh ủy ông Vũ Đình Liệu (nguyên chủ tịch UBND Tp.HCM) muốn nghe. Thế là chúng tôi lên đường do giáo sư Lý Chánh Trung làm trưởng đoàn và bác sĩ Trương Thìn làm phó, lần này có thêm nhà thơ Lê Thị Kim đọc bài thơ rất độc đáo của chị Ra khỏi quán cà phê. Anh Thìn còn bắt tôi đọc bài thơ khá nổi tiếng của Đổ Trung Quân Những bông hoa trên tuyến lửa, nhằm cân bằng với nhạc TCS trên vùng đất cách mạng đó. Tôi phải ‘chộ’ Sơn một câu cho bỏ ghét: ”Thấy chưa, vì mấy bài tình ca mới này của ông mà tui phải ‘hy sinh’ lên sân khấu làm ‘bông hoa trên tuyến lửa’ đó nghen. Còn trách tui nữa thôi? Với tại cái ‘Cơn mưa đầu mùa’ của Trần Long Ẩn nữa đó, nên tui phải đem lửa sưởi ấm ‘áo quần em’ đấy”. Ẩn cười;”Tội nghiệp chị tui quá!”

Đêm trình diễn ở Đại học Cần Thơ, phòng chứa 500 chỗ mà không đủ cho tất cả người nghe, sinh viên la ó om sòm, phải bắt màn ảnh truyền hình ra ngoài sân cho cả ngàn người xem trực tiếp. Lại thành công ngoài sức tưởng tượng. Ông bí thư mời chúng tôi ăn sáng, rồi nhờ TCS và Trương Thìn hát lại những bài của họ trước 1975 cho ông nghe. Ông gật gù thích thú khen rất là nhân bản, rất con người – người Việt Nam... Rồi ông yêu cầu chúng tôi diễn thêm một đêm chủ nhật nữa vì nhiều người muốn nghe mà đêm qua không đủ chỗ. Chúng tôi phải ở lại diễn thêm để 3 giờ sáng thứ hai lên đường về. Ông bí thư cho một chiếc phà đặc biệt chở đoàn chúng tôi qua sông Cữu Long để kịp về Thành phố đi làm.

Khuya chủ nhật hát xong, mọi người kéo nhau đi vòng quanh Đại học Cần Thơ vừa hát nghêu ngao, vui sướng như điên. Trần Long Ẩn đấm thình thình lên lưng tôi: ” Đã quá, bạn ơi!” TCS và Trương Thìn say sưa hát. Miên Đức Thắng la toán lên:”...Gọi quê hương mà nhớ, gọi quê hương mà thương”. Tôi, Lê Thị Kim và chị Hà (vợ anh Thìn) lẻo đẻo đi sau. Tôi cười: ”Thắng này vô duyên thật. Đang đi trên quê hương mình mà còn gọi nhớ, gọi thương”. Sơn nghe, quay lại cà khịa tôi ngay: ”Bộ bạn tưởng dễ gì đi trên quê hương mình mà được gọi nhớ gọi thương, la lớn lên giữa trời giữa đường như đêm nay đâu?”

Tôi giật mình thấy đúng với tình hình hồi đó... Cho nên anh Thìn đã chẳng gào lên mà hát: ”Dễ gì tôi mời anh điếu thuốc...Anh phải hút... Anh TCS, anh phải hút... Cho dù sau này có ung thư phổi, anh cũng phải hút !”.

Sau các đợt trình diễn trên, một vài bài báo ở trung ương phê bình:

-Ca khúc Đi qua vùng cỏ non của Trần Long Ẩn có câu ’Buồn phiền quanh vách núi, như gương không người soi’ – TLA muốn nói gì? Muốn ám chỉ ai?

-TCS thì trong Em còn nhớ hay em đă quên có câu: ‘Em ra đi nơi này vẫn thế...’, có nghĩa là sau 5 năm giải phóng, Sài Gòn vẫn không tiến lên được, vẫn dậm chân tại chỗ à?...

Tôi đến Hội trí thức, mọi người đưa báo cho xem và tiu ngỉu. Ai đó thốt lên buồn bả: ”Thôi rồi, đứa con ‘sáng tác mới’ chưa được mấy tháng tuổi!”

Chúng tôi họp lại, bàn kỷ xem có gì sai sót không? Hoàn toàn không. Anh tổng thư ký ức quá, dẫn các nhạc sĩ vào hát lại cho ông bí thư Thành phố nghe, giống như đã hát ở Cần Thơ. Ông bí thư Võ Văn Kiệt nghe TCS hát xong liền bảo: Không có vấn đề gì, anh em cứ tiếp tục. Chúng tôi nghe kể lại như mở cờ trong bụng.

TIẾNG HÁT THANH HẢI

Rồi một chiều, tôi vừa bước vô Hội Trí thức thì Sơn chạy ra kêu: ”Bạn vô nghe tay ni hát ác lắm”. Và Sơn giới thiệu: Thanh Hải, chuyên viên IBM, ngoại đạo cầm ca, chỉ hát chơi thôi. Trong phòng ăn của Hội, Thanh Hải ôm đàn, cất lên tiếng hát bài Chiều trên quê hương tôi, thì tôi nói ngay: ” Sơn ơi, được rồi. Đây mới là giọng hát Sơn cần tìm”. Giọng Thanh Hải Đà Nẵng hơi lai Huế và rất hợp nhạc Trịnh.

Sơn lại rủ sáng mai đến câu lạc bộ Hội Văn nghệ nghe Thanh Hải hát nữa. Tôi rất thích giọng Thanh Hải hát bài Cánh chim cô đơn và Đời gọi em biết bao lần. Sơn nói: ”Hải nó ‘cảm’ và ‘diễn’ đúng ý mình nhất”. Tôi rất đồng ý, vì có lẽ cùng là nam giới, dễ cảm hơn phụ nữ. Bỗng tôi chợt nhớ đến Khánh Ly và hỏi thẳng thừng: ”Còn Khánh Ly thì sao, vì Sơn vừa nói ‘đúng ý mình nhất’?” Sơn hơi giật mình và đăm chiêu: ”Khánh Ly là của Ca khúc da vàng và một số tình ca thời đó...” Tôi cười khẩy: ”Và Thanh Hải là của bây giờ phải không? Đừng có mới nới cũ đó nghe! Mà tui cũng công nhận đúng là Thanh Hải hát nhạc của Sơn ‘tuyệt chiêu’ rồi. Thôi, đừng cất công đi tìm nữa hí!” Sơn lườm tôi một cái đích đáng: ”Cái tai bạn sao mà ác liệt thiệt!” Tôi cười lại: ”Rứa mới trị nỗi TCS!” Sơn cười ruồi:”Huề!”.

Sau đó không lâu, Hội Trí thức lại cho tổ chức một đêm văn nghệ trình diễn giới thiệu những sáng tác mới của các nghệ sĩ trên, lần này có sự đồng ý của cấp trên nên không còn ai cà khịa nữa. Vé bán giá tượng trưng lấy tiền giúp nạn nhân bảo lụt Đồng bằng sông Cữu Long. Sân khấu ngoài trời 500 chỗ mà khán giả tràn đến cả ngàn người. Mấy em gác cổng chạy vào kêu cứu tôi: ”Chị ơi, toàn sinh viên học sinh không hà, chỉ xin vô đứng sát bờ thành không gây mất trật tự đâu”. Tôi hỏi ý kiến ban tổ chức: cho vào. Cả ngàn người đứng ngồi đầy cứng sân Hội mà im lặng theo dõi như ‘đói khát’ lâu ngày nay được món ăn tinh thần. Trước khi Thanh Hải hát TCS trịnh trọng giới thiệu: giọng ca mới mà Sơn vừa bắt gặp được trong nhóm bạn làm khoa học kỹ thuật, giọng rất ‘ăn’ với nhạc của Sơn. Lần này, Thanh Hải hát cùng Sơn rất nhiều bài, làm mọi người ngạc nhiên theo dõi và luôn trầm trồ thích thú.

Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ kể lại: Hôm đó, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát (ở Hà Nội vào) ghé tai nói nhỏ với tôi: ”Mỹ ơi, bài Như một hòn bi xanh tuyệt quá! Sơn nó đặt vấn đề nhân loại chứ không còn trong vòng quốc gia nữa. Lớn quá! Tuyệt quá! Anh ta sáng tác dễ dàng như lấy từ trong túi ra vậy!”.

Trên sân khấu Sơn say sưa hát Như một hòn bi xanh, Ở trọ, và Thanh Hải với Chiều trên quê hương tôi, Cánh chim cô đơn, Đời gọi em biết bao lần... Khi Thanh Hải hát xong, mọi người đứng lên vổ tay nhiệt liệt. Thành công ngoài sức tưởng tượng. Có đại diện nhiều cơ quan cấp trên tham dự và thấy không có vấn đề gì đáng phê bình! Mọi người ra về, nhóm tổ chức chúng tôi ngồi lại. Anh Thìn khoái chí ôm lấy Sơn mà ‘sướng’! Anh Cầu khề khà cụng ly với Sơn: ”Đã quá mày ơi. Bây giờ cứ yên tâm mà sáng tác”. Và chúng tôi đặt tên cho nhóm là “Nhóm sáng tác mới” do bác sĩ Trương Thìn hướng dẫn.

Thấy khán giả còn thòm thèm, anh Báu và anh Thìn bàn nên làm một buổi ở trường Taberd cũ (nay là trường sư phạm) có cả ngàn chỗ mới đủ cho khán giả của mình. Đêm nay Thanh Hải xuất hiện gần như là cái đinh của chương trình. Hải hát một loạt ca khúc TCS, đặc biệt bài Em còn nhớ hay em đã quên kỳ này Hải hát rất đạt. Chương trình kết thúc rồi mà khán giả cứ đứng lên hoan nghênh đòi bis bis mãi.

Tôi ngồi bên bà cụ thân mẫu anh Thìn, nhìn thấy cụ cứ quẹt nước mắt: ”Chao ôi, tui già ri mà nghe anh nớ hát bắt chảy nước mắt đây nì. Chao! cái giọng chi mà dễ thương và tội rứa...không biết nữa!” Đúng, hôm nay Thanh Hải ra chiêu hết ý, tuyệt thật. Và điều rất bất ngờ đối với tôi là bắt đầu từ hôm đó, bé Thái Hòa của tôi vừa mười tuổi cũng xuýt xoa theo bà cụ: ”Chú đó hát hay quá há má, con cũng muốn khóc nữa!”

Từ ngày TCS về hát ở Hội Trí thức, lần nào tôi đi sinh hoạt cũng chở hai đứa con theo. Em gái Thái Hòa còn nhỏ chưa biết gì, nhưng Thái Hòa đã bắt đầu nghe và có ý kiến, những ý trẻ rất ngây ngô và dễ thương. Lạ một điều là Thái Hòa rất mê chú Thanh Hải, nhất là khi nghe chú Hải hát bài Chiều trên quê hương tôi và Cánh chim cô đơn. Khi nghe Thanh Hải khắc khoải trên sân khấu: ”Đêm từng đêm bay về, quê hương là nỗi nhớ... Giấu nỗi buồn trong cánh...Hẹn hò nơi chốn xa”. Thái Hòa hỏi tôi: ”Con chim làm sao giấu được nỗi buồn trong cánh hả má? Tội nghiệp nó quá!” Tôi giật mình: ”Trời ơi! Con trai tôi mới mười tuổi đã biết cảm TCS rồi!”. Tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu đây là con chim sắt, tức chiếc máy bay, mà người phi công khi lái máy bay xa nhà... muốn giấu nỗi buồn trong cánh máy bay. Thái Hòa thường đi theo nghe TCS với chúng tôi cho đến năm 1990.

THÁI HÒA

Gia đình tôi đi đoàn tụ, định cư tại Canađa năm 1990. Năm sau, Thái Hòa dự thi và đoạt giải nhất “Giọng ca Vàng’ của cộng đồng người Việt ở Montréal. Em gái là Thiên Nga đã có căn bản nhạc truyền thống Việt Nam và nay theo học nhạc phương Tây ở đây. Hai anh em thành lập Đoàn Văn nghệ Lạc Việt gần 80 người, hầu hết là sinh viên học sinh Việt Nam và Canađa, với Nga làm trưởng đoàn. Hòa đi học xa ở Toronto nhưng vẫn liên lạc sinh hoạt văn nghệ với nhóm và là giọng ca nam chính của đoàn. Lạc Việt đã từng gây tiếng vang lớn trong cộng đồng người Việt và người Canađa. Lạc Việt được chấm đậu 20/120 đoàn trong cuộc thi âm nhạc đa văn hóa của Canađa, là đoàn Việt Nam đầu tiên được chọn biểu diễn báo cáo trong Nhà hát lớn nhất Montréal và đài truyền hình Canađa tới nhà phỏng vấn. Đoàn thường đi lưu diễn ở đại học, chùa, nhà thờ và các ngày lễ Tết Việt Nam, Canađa. Cứ mỗi lần đến Canađa giảng dạy, giáo sư Trần Văn Khê đều ghé lại sinh hoạt, khich lệ và cố vấn cho Lạc Việt.

Ở Toronto, Thái Hòa thường gặp gỡ bạn bè Việt Nam và nhạc TCS là cái hồn quê hương đất nước ru dỗ Thái Hòa những năm tháng sống xa gia đình. Tuy còn đi học mà năm 1993 Hòa đã ra được CD đầu tay ‘Tiếng hát Thái Hòa’, phát hành cả ngàn bản ở Bắc Mỹ.

Đến 1992, TCS qua thăm gia đình ở Canađa có gặp Khánh Ly từ Mỹ sang, và kêu hai đứa con tôi lại nhà đàn hát chơi với Sơn. Sơn bắt hai đứa gọi bằng ‘Cậu’, không cho kêu chú như những người khác: ”Vì cậu với má con hồi ở Đại học Văn khoa ngày xưa thân nhau lắm, cả cậu Tịnh nữa”. Rồi Thiên Nga phối nhạc cho Sơn và Khánh Ly hát, vì Nga đang học nhạc cổ điển phương Tây tại Đại học McGill ở Montréal. Thái Hòa thì hát chơi với cậu Sơn, nghe cậu kể về sự tích các ca khúc. Hòa rất thích thú và mê cậu Sơn lắm. Từ đó, các đứa cháu của TCS theo học piano, đàn tranh với Thiên Nga và thường cùng đi lưu diễn với Lạc Việt.

Trước khi Thái Hòa về lại Tornto đi học lại, gia đình tôi có mời Sơn đến nhà chơi một bửa, nhưng Sơn không dám đến vì đang bị một số người Việt chống Cộng ở Montréal chống đối và hăm dọa. Cuối cùng Sơn đã đến họp mặt chung vui với bạn bè du học trước 1975 tại nhà anh chị LCP. Tôi gặp lại Sơn và chúng tôi cũng kể về những giai đoạn sinh hoạt nhạc Trịnh gian nan nhưng đầy kỹ niệm trước và sau 1975. Có bạn hỏi tại sao Sơn không qua Canađa định cư vì cả gia đình các em Sơn đã ổn định ở đây rồi? Sơn cười: “Qua đây thì tôi viết được gì bây giờ?...” Rồi quay sang hỏi tôi: “Bạn đã qua đây ở mấy năm rồi, thấy sao?” Tôi cười: “Mệt, buồn và nhớ nhà khôn nguôi”. Sơn nói tiếp: “Cảnh sống ở đây văn minh thật. Montréal đặc biệt có vẻ giống Paris mà mình rất thích nhưng sao vẫn không lay động được trái tim mình thì làm sao viết đây?” Tôi đáp: “ Có lẽ vì trái tim Sơn đã lỡ gắn chặt với Việt Nam rồi. Mà tụi tui cũng vậy. Qua đây vài năm cho con cái học hành xong rồi cũng quay về thôi. Chứ ở đây như tụi mình đến già làm sao sống nỗi! Cứ nhìn cảnh mấy người già Canađa ngồi trong nhà dưỡng lão nhìn lá thu phong đổi màu theo mùa, những sáu màu từ vàng tới đỏ, đẹp lắm, mà cũng buồn lắm Sơn ơi! Đến mùa tyuết rơi thì cũng đẹp chi lạ, mà buồn chết được. Làm sao bằng những hàng me xanh và phượng đỏ của quê nhà, phải không? Vì bọn mình đã lỡ gởi gắm tuổi thơ trên quê hương thân yêu sâu đậm quá rồi. Bây giờ dù quê mình chưa kịp bằng người thì cũng phải về thôi. Ở đây, ai giàu kệ họ!” Sơn cười: “ Chí lý!”

Năm 1995, Thái Hòa tốt nghiệp đại học cùng Nga về Việt Nam làm thực tập, lại có dịp đến cậu Sơn chơi và đàn hát. Hòa giới thiệu với cậu Sơn CD đầu tay ở Canađa trong đó có nhiều bài của cậu làm cho Sơn xúc động, vui thích. Sơn khoe với tôi: ”Cái giọng thằng Thái Hòa giống Thanh Hải chi lạ, chỉ hơi non một tí, nhưng mình rất thích. Để mình luyện dần cho cháu. Bạn cho hắn đến ở đây luôn với mình đi, mình còn một căn phòng bỏ trống trên lầu. Nói hắn đến đây mình tập thường xuyên cho”. Nhưng Thái Hòa còn bận nhiều công việc không đến ở với Sơn được.

Cuối năm 1996 hai đứa con tôi phải quay về Canađa. Mỗi lần gặp tôi, là Sơn tíu tít hỏi: ”Sao bạn ‘dú’ hai đứa nhỏ ở đâu mà không cho lại chơi với tui. Tụi nó có nhiều triển vọng và dễ thương quá”. Tôi bảo: ”Tụi nó phải về Canađa làm việc chứ rảnh đâu mà cứ ở đó tới chơi với ông hoài”.

Vào năm sau, Thái Hòa quay về lại Việt Nam làm việc với một công ty Pháp ở Bình Dương nên có nhiều dịp tới lui với cậu Sơn cho thỏa thích cả hai. Không ngờ đó là những năm cuối đời của Sơn. Lúc đó Hòa gặp cô bạn Mỹ Jennifer Thomas sang Việt Nam làm từ thiện và thích hát TCS. Thế là Sơn lại tập cho Thái Hòa và Jennifer hát loạt sáng tác mới họ tâm đắc. Chỉ những ngày cuối tuần Thái Hòa mới đến tập hát với Sơn và Jennifer. Có hôm cùng ra hát ở quán Những người bạn (sau này đổi là Câu lạc bộ Nhạc sĩ) được hoan nghênh nhiệt liệt. Sơn rất vui và khen giọng Jennifer thánh thiện lắm. Dù là dân thanh nhạc và ca đoàn nhà thờ, nhưng Sơn đã luyện cho hát chung với Thái Hòa rất ‘ăn’ với nhạc Trịnh.

Vài năm trước khi Sơn mất, Thái Hòa cùng các bạn giảng dạy ở nhạc viện Thành phố như Hoàng Công Luận (piano và hòa âm), Thanh Huy (ghi ta), Anh Tú (violon) thường đến đàn hát, đàm đạo với Sơn.

BẢY CÁI THẤT TCS


Ngày Sơn mất, Hòa, Luận và Huy đã ngồi đàn hát nghêu ngao suốt mấy ngày đêm bên quan tài TCS để tiễn đưa Sơn ‘về nơi cuối trời’. Sáng hôm đưa tang Sơn, tôi cùng bạn bè đến tiễn Sơn lần cuối. Thái Hòa gầy rạc, thút thít khóc Sơn như một người cậu ruột. Tôi thầm cám ơn Sơn đã gieo vào tâm hồn con tôi một dòng nhạc hiền hòa, nhân hậu, một dòng nước ngọt của quê hương làm dịu mát tâm hồn trẻ thơ, từ khi mới lớn lên mười cho đến tuổi ba mươi ngày hôm nay. Và sau đó, gia đình chúng tôi tham gia tổ chức suốt bảy cái Thất của TCS tại Hội quán Hội ngộ ở làng du lịch Bình Qưới do anh bạn Cao Lập làm giám đốc. Lập cũng là một người mê nhạc Trịnh từ thời sinh viên.

Hôm Thất đầu tiên của TCS nặng về tưởng niệm, và không kịp mời nhiều ca sĩ, ngoài chị Lan Ngọc, nên chỉ có bạn bè ‘cây nhà lá vườn’ lên đọc thơ, kể chuyện và hát tưởng niệm TCS. Các em Sơn đều có mặt, cả giọng ca Vĩnh Trinh. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng lên kể vài kỹ niệm sống với Sơn. Họa sĩ Trịnh Cung vừa ở Mỹ về đến, lên kể chuyện tưởng niệm TCS ở California do anh và bạn bè bên đó tổ chức. Đổ Trung Quân ngâm thơ và Thái Hòa hát. Tôi cũng kể câu chuyện tôi cùng chị bác sĩ Đổ Thị Văn lần đầu tiên tổ chức thể nghiệm Ca khúc da vàng tại trụ sở Sinh viên Phật tử Sài Gòn năm 1967. TCS đã rất xúc động cùng tôi leo lên thang giăng biểu ngữ giới thiệu ca khúc phản chiến vừa sáng tác đó.

Mọi người còn bắt tôi phải hát một bài TCS. Tôi có chuẩn bị trước gì đâu, đành phải hát đại bài Ru con (tức là Ngủ đi con) vừa run vừa xúc động đến chảy nước mắt. Vậy mà bà chị nhà thơ Hỷ Khương khi ra về ôm tôi nói nhỏ: ”Bị bắt cóc thình lình mà kể chuyện hay quá, hát cũng hay. Giứt (nhất) rồi đó!” làm tôi ‘hơi bị sướng’! Thiên hạ về hết, hai má con tôi còn phải ngồi lại với ban tổ chức chuẩn bị cho cái Thất thứ hai, chứ chơi kiểu ‘bắt cóc bỏ dĩa’ như vầy dễ bể lắm.

Cái Thất thứ hai đến ngay sau đó mấy ngày, tụi tôi kê vội một cái bàn trưng bày một số nhạc cũ của Sơn, nhà ai còn giữ xin mang tới cho mượn, ai muốn tặng luôn cho Hội quán càng tốt. Và dựng ngay cái bàn thờ Sơn ở dưới gốc đa, bên trái phía trước ngôi nhà. Với một cái tượng tạc nửa người TCS do anh Lánh (một nhà điêu khắc gốc Non Nước, Đà Nẵng hâm mộ Sơn) vừa khắc xong, và một bàn để hoa quả trà nước. Thế là Thất thứ hai đã có bàn thờ để bà con khán thính giả đến thắp hương nghi ngút tưởng niệm TCS. Có Kim Ngọc (nguyên là ca sĩ trong ban ‘Giây leo xanh’ của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu) đến mở đầu chương trình với Thái Hòa bài Cát bụi. Ca khúc này trở thành thông lệ mở đầu cho các buổi tưởng niệm về sau.

Hôm đó mời được vài người bạn hát ở các ca đoàn. Cây saxô Trần Mạnh Tuấn và nhạc sĩ Bảo Phúc thường xuyên có mặt. Chị Bích Ngà, giám đốc một công ty xây dựng mà giọng hát cũng khá hay thì luôn có mặt. Lần này tôi cũng bị ‘bắt cóc’ lên hát Ca dao mẹ với vài bạn khán giả... Lần nào mọi người cùng vổ tay hát chung bài Nối vòng tay lớn để kết thúc buổi sinh hoạt văn nghệ tưởng niệm TCS.

Sang cái Thất thứ ba, có thêm Kim Lan, chị em họ của Kim Ngọc có giọng ca đặc biệt giống Khánh Ly làm mọi người sửng sốt cứ tưởng Khánh Ly về Việt Nam hát cho Sơn. Và tôi có lên kể về sự tích ca khúc Hãy sống dùm tôi do Sơn đã lấy ý từ bài thơ ‘Chấp tay tôi quỳ xuống’ của chị Nhất Chi Mai tự thiêu cho hòa bình Việt Nam năm 1967. Tôi phải kể câu chuyện này để trả lời cho một bài báo phê bình TCS ‘yếu đuối’ đến độ phải nhờ người khác “sống dùm, nói dùm, thở dùm” cho mình. Họ không hiểu đó là ý câu thơ “Sống mình không thể nói, chết mới được ra lời” của Nhất Chi Mai.

Đến cái Thất thứ tư, nhân ngày kỹ niệm giải phóng Sài Gòn, đặc biệt có mặt những người bạn sinh viên đã cùng TCS hát bài Nối vòng tay lớn trên đài phát thanh Sài Gòn vào trưa 30/4/75. Như các anh Hà Thúc Huy (giảng viên đại học Tp.HCM), Huỳnh Ngọc Chênh (ban biên tập báo Thanh Niên), Nguyễn Tân (giám đốc công ty xây dựng Thành Đoàn)... và Nguyễn Hữu Thái (bạn học thời trung học với Sơn và là bố Thái Hòa). Anh Thái kể lại câu chuyện đó, cùng các bạn và khán giả vổ tay đồng ca, hát lại bài Nối vòng tay lớn trong niềm thương tiếc Sơn.

Cái Thất thứ năm, ngoài các ca sĩ thường xuyên có mặt ở Hội quán với Lan Ngọc, Kim Ngọc, Kim Lan, Thái Hòa... nay có thêm Phi Huệ và Tự, hai ca sĩ ‘nhí’ hâm mộ nhạc Trịnh từ thời học sinh trước ’75. Họ lên song ca Nhìn những mùa thu đi, rất gợi cảm, sưởi ấm lòng chúng tôi giới ‘sồn sồn’ bây giờ. Ai cũng ngậm ngùi nhớ lại cái thời đi học của Sơn và của chính mình...

Cái Thất thứ sáu, sau một số ca khúc do các ca sĩ bạn Hội quán trình bày xong thì trời bỗng đổ mưa như trút nước. Tuy vậy khán giả vẫn không chịu giải tán đi trú mưa hoặc ra về, mà vẫn nhất định đội áo mưa che dù ngồi lại chờ chương trình tiếp tục. Mưa quá, các ca sĩ đã mời báo không đến được. Ban tổ chức hoảng quá, ‘cây nhà lá vườn’ phải lên thôi. Thái Hòa gọi tôi kêu cứu: ”Má phải lên chửa cháy ‘temps mort’ (lấp khoảng trống) để bọn con nghỉ tí, còn gồng tiếp phần sau chương trình, mưa quá chắc ca sĩ không tới đâu!”

Tôi lại lên micro hát trong mưa bài Ngủ đi con. Dù bị ướt sủng khá lạnh cũng không đành lòng để người nghe ngồi trong mưa mà nhìn lên sân khấu trống vắng.

Đến Thất thứ bảy tức 49 ngày, rồi lễ 100 ngày, chương trình được chuẩn bị khá chu đáo, có mặt đầy đủ gia đình TCS và ca sĩ bạn bè nổi tiếng của Sơn như Lan Ngọc, Cẩm vân, Hồng Nhung, Bích Hồng..., các nhạc sĩ Bảo Phúc, Trần Mạnh Tuấn, đạo diễn Đoàn Khoa...

Các đêm trình diễn sau tổ chức theo chủ đề mà Cao Lập, Thái Hòa và các bạn đã dày công thực hiện, như Đêm Văn Cao và Trịnh Công Sơn, đêm Mãi mãi là tình yêu của Phan Huỳnh Điểu... Cũng may là trong thời gian này gia đình tôi, đặc biệt là Thái Hòa, còn về ở Việt Nam làm việc, nên đã thường xuyên góp tay với Hội quán lo chu đáo mấy cái Thất của Sơn. Chắc TCS cũng vui lòng ở cõi bên kia.

NIỀM TIN YÊU VÀ HY VỌNG CỦA RIÊNG TÔI


Thái Hòa từ năm 2002 đã chuyển công tác và gia đình sang Pháp, nhưng cũng ráng tìm dịp quay về Hội quán Hội ngộ hát cho cậu Sơn một hai buổi. Tuy ở nước ngoài Thái Hòa vẫn hoạt động tích cực đem nhạc TCS phổ biến cho Việt kiều và bạn bè nước ngoài ở Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Canađa...

Vào giữa năm 2003, vợ chồng tôi cũng đi Pháp với Thái Hòa. Chúng tôi thường đi Ý sinh hoạt ở Nhà Việt Nam của chị Sandra Scagliotti và chồng chị là nhạc sĩ Jazz Fulvio Albano tại thành phố Torino, nơi có đặt thư viện TCS do Hòa và bạn bè thành lập. Vào một dịp tổ chức trình diễn TCS tại Torino, tôi lên múa kiếm Taichi (Thái cực dưỡng sinh) cho Thái Hòa hát Bốn mùa thay lá, làm một số phụ nữ Ý đòi tôi ở lại lập hội dạy Taichi với nhạc nền TCS cho họ. Tiếc rằng sáng hôm sau, tôi và Thái Hòa phải trở về Pháp cùng gia đình. Một lần khác ở thành phố Verona tôi cũng đã lên hát cùng Thái Hòa bản Hãy sống dùm tôi sau khi kể câu chuyện về Nhất Chi Mai tự thiêu cho hòa bình Việt Nam là nguyên do thúc đẩy TCS viết lên bản nhạc, làm người nghe đa số là Việt kiều xúc động, ngậm ngùi.

Vào năm 2005, Thái Hòa được anh chị Việt kiều ở châu Âu mời qua Thụy Sĩ hát chung với Khánh Ly trong một chương trình TCS. Đây là một điều bất ngờ đối với chị, và chị đã tâm tình với khán giả rằng không ngờ có ngày hôm nay cùng đứng hát chung trên một sân khấu với con trai người bạn thân của TCS và chị từ 40 năm trước. Và Thái Hòa tuy là người ngoại đạo cầm ca, nhưng chị rất tin tưởng trao lại cái ‘nghiệp’ hát TCS cho cháu...

Tôi rất vui mừng và ấm lòng khi nghe Khánh Ly nói thế, vì trong lòng tôi đang có một bông hoa đẹp và mãi mãi dễ thương luôn nở ra với đời những nụ cười ru dỗ, mong xoa dịu phần nào những nỗi đau trần thế, như TCS hằng mong muốn.

Đó là bông hoa Nguyễn Hữu Thái Hòa, con trai và là niềm tin yêu, hy vọng của riêng tôi.

Trần Tuyết Hoa
Tháng 4 năm 2006





 

Trịnh Công Sơn : Giòng Nhạc Của Nhân Bản, Tiếng Nói Của Tình Thương

Anh đã có lần viết: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không?… Để gió cuốn đi. Và người nghệ sĩ ấy đã hết một lòng sống đúng như cái châm ngôn của mình đã đặt ra, bởi lẽ trong tất cả các bản nhạc của anh- từ những bản tình ca, đến những bài ca về thân phận quê hương cũng như về thân phận con người (Người Già Em Bé, Cát Bụi, Một Cõi Đi Về…) ta luôn luôn cảm nhận được lòng thiết tha yêu quê hương và yêu cuộc sống của anh. Thế nhưng Trịnh Công Sơn không chỉ yêu con người Việt Nam mà anh thương yêu thân phận con người nói chung. Anh chỉ yêu người Việt Nam vì, do sự sắp đặt của định mệnh, anh đã sinh ra làm người Việt Nam. Và hạnh phúc thay cho chúng ta, vì anh đã làm giầu hơn biết bao cho kho tàng văn hóa của quê hương, cho ngôn ngữ của thơ nhạc, của tình thương yêu con người.

Những kỷ niệm của tôi về Trịnh Công Sơn bắt đầu từ những năm mới lớn, ở trong tuổi 15, 16. Thuở ấy, chúng tôi là những người con trai thành thị, lớn lên trong quê hương lửa đạn. Nghe nhạc của anh là để thấy xót xa cho thân phận con người, cho số phận của những người sinh ra làm dân nhược tiểu, nhưng cũng để thấy còn một cái gì nhân bản trong cái phi nhân không cùng của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Hiển nhiên là có người sẽ không đồng ý với điều này nhưng ai cũng có thể nhận ra được là nói lên được tiếng kêu đau thương đó là một sự dũng cảm hiếm có của một người nghệ sĩ. Nói cho đúng hơn, của một kẻ sĩ thời đại, vì thử hỏi nếu như anh đã không lên tiếng nói ấy thì 200, 300 năm nữa khi các nhãn hiệu, các chế độ đã trở thành cát bụi của lịch sử, đã chìm vào lãng quên, ai là người sẽ biết đến cái tang thương bi đát, cái khốn đốn cùng cực của bao nhiêu triệu người Việt Nam trong cơn bão lửa ấy?

Trả lời một câu hỏi của nhà báo Lý Quý Chung vào khoảng giữa thập niên 90 là anh có bao giờ nghĩ đến chuyện viết di chúc, anh nói: “ Một cô ca sĩ đã hỏi mình câu đó. Mình có tài sản chi đâu? Với mình cái hiện tại là cái có thật, cùng sống với nó. Còn cái sau đó…” Câu trả lời thật hồn nhiên và khiêm nhường biết bao. Tất nhiên, những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn đều biết là cái kho tàng ca khúc của anh cũng như các đóng góp của anh trong việc thay đổi ngôn ngữ của âm nhạc Việt Nam trong các thập niên 60-70 không nhỏ chút nào bởi âm nhạc và cách nhìn của ta về nó đã hoàn toàn thay đổi sau khi giòng nhạc của anh đã trổi lên.

Trả lời một câu hỏi khác: “Người ta ví von rất hay về Tagore (văn hào Ấn Độ) ông là một người tình của cuộc đời, người lính canh của cuộc sống, có thể gọi anh là người tình của người tình không?” Anh cười và nói: “Nếu cần một cái tên gọi cho vui thì tôi nghĩ rằng mình có lẽ là người tình của cuộc sống.” Đúng như thế. Người tình của cuộc sống ấy đã quá khiêm nhường khi tự cho là mình không có tài sản gì. Ngay trong phút này, mỗi chúng ta đều mang trong mình một chút Trịnh Công Sơn: một câu nhạc bất hủ nào đó của Diễm Xưa, Hạ Trắng, Như Cánh Vạc Bay, Nối Vòng Tay Lớn… một chút ưu tư về cuộc sống nay còn mai mất khi nghe Một Cõi Đi Về. Ai trong chúng ta lại không thấy yêu quê hương hơn khi nghe anh hát

Huế, Sàigòn, Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế, Sàigòn, Hà Nội
Trong ta đau trái tim Việt Nam

Đạn bom ơi, lầm than ơi
Khí giới nào diệt nổi dân ta
Việt Nam ơi! Bừng cơn mơ
Cho mắt nhìn sạch tan căm thù.
(Huế, Sàigòn, Hà Nội)


Gan cùng mình! Trong khi guồng máy chiến tranh đang kêu gào thêm xương máu , người thanh niên mới ngoài hai mươi với dáng dấp thư sinh mảnh khảnh ấy đã có đủ can trường và đảm lược để nói lên điều mà mọi người đang mơ ước nhưng đã không thể nói. Anh kêu gọi chúng ta hãy Bừng cơn mơ. Cho mắt nhìn sạch tan căm thù và nhìn tới một viễn ảnh mà trong những năm chinh chiến ấy tưởng chừng như sẽ không bao giờ xẩy ra

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm
Đi thăm một con đường nhiều hố
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm cầu gẫy vì mìn
Đi thăm hầm chông và mã tấu

Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ.
(Tôi Sẽ Đi Thăm)


“Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ ” Tám chữ thật giản dị mà tóm gọn cái mất mát đau thương và xót xa của dân tộc. Anh cho chúng ta biết sự lựa chọn để ở lại với quê hương của anh là dễ hiểu, vì

Mỗi ngày, tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay

Mỗi ngày, tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim

Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi …
(Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)


“Vì đất nước cần một trái tim” Còn lời nào thiết tha và đầy thơ tính hơn! Từ tiếng ru con nhẹ bước vào đời đến nắng đầy hay lúa reo mừng tựa vẫy tay… tất cả nói lên một tấm lòng tha thiết yêu quê hương , yêu cuộc đời. Vẻ đẹp trong nhạc của anh nằm ở chỗ, nó bình dị, không chải chuốt mà lại đẹp tuyệt vời và đi ngay vào lòng người nghe. Bởi vì sao? Vì điều anh nói là những gì rất bình thường: một ước vọng hòa bình mà bất cứ người Việt nào dù ở đâu, ở thời nào vẫn hằng mơ ước. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã có lần nói: “Trịnh Công Sơn viết dễ như người ta lấy đồ trong túi.” Nếu ý nhạc và lời thơ có đến với anh dễ dàng cũng chỉ vì đó là những tình cảm chân thật xuất phát từ trái tim mẫn cảm của anh. Trái tim yêu thương ấy đã rung lên một nhịp điệu mà người nghe đã bắt được ngay tức khắc vì như anh bộc lộ: “… trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì hơn.” Trong Người Con Gái Việt Nam Da Vàng lời ca của anh ngọt ngào nhưng không kém phần chua xót và không cần cắt nghĩa gì hơn

Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng

Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
Em chỉ có con tim căm hờn. …


Còn gì đáng sợ hơn viễn ảnh của một xứ sở mà ở đó thế hệ những người trẻ lớn lên không biết gì đến cội nguồn yêu thương, vì “em chưa biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam, em chưa hát ca dao một lần” mà “em chỉ có con tim căm hờn.” May thay, kẻ sĩ Trịnh Công Sơn đã đánh thức chúng ta, những “người nô lệ da vàng, ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ ” của những năm chinh chiến ấy.

Không những anh đã thay đổi cách ta nói và nghĩ về tình yêu, Trịnh Công Sơn còn cho chúng ta thấy cái thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người qua những lời ca của anh rải rác trong nhiều ca khúc khác nhau. Khi Phạm Duy viết Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc, dù rằng đây là một bản nhạc rất hay, nó chỉ nói cho ta biết về người chiến sĩ phi công ấy. Trái lại, khi Trịnh Công Sơn viết Cho Một Người Vừa Nằm Xuống anh không chỉ xót xa cho một người bạn vừa ra đi mà nghe như anh đang nói với mỗi chúng ta về thân phận của chính mình.

Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn
Rồi từ đó trong trời rộng đã vắng anh
Như cánh chim bỏ rừng
Như trái tim bỏ tình...


Anh nằm xuống
Như một lần vào viễn du
Đứa con thơ đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò...


Trịnh Công Sơn viết nhạc cũng như làm thơ vì anh gần gũi với cả hai lãnh vực của nghệ thuật này. Với anh, không có sự phân chia ranh giới giữa hai bộ môn nghệ thuật ấy “có lẽ đã lâu lắm rồi tôi hoàn toàn quên lãng cái biên giới giữa các bộ môn nghệ thuật và văn học ” và bằng một sự pha trộn tuyệt vời của nhạc và thơ, Trịnh Công Sơn đang nhắc cho anh và cho mỗi chúng ta là, dù có muốn chối bỏ đến đâu, ta cũng sẽ có một lần là “đứa con thơ đã tìm về nhà ” đó.

Lớn lên trong một gia đình thấm nhuần đạo Phật, anh hiểu rõ cái vô thường của cuộc sống. Thân phụ của Trịnh Công Sơn mất năm anh mới 15 tuổi. Đó là một cái chết đột ngột và là một mất mát vô cùng lớn cho gia đình anh. Trịnh Công Sơn đã có ít nhất là vài năm gần gũi với kinh kệ ở cái tuổi rất trẻ ấy vì anh đã quy y và sống gần gũi với cửa thiền. Hiển nhiên là những năm đó đã để lại trong anh nhiều ảnh hưởng sâu đậm. Anh viết “Những ai đã đi đến với đời thì có lúc phải lìa xa nó. Một cõi đi về...Trong Phật giáo một trong những hạnh cao nhất là hạnh bố thí. Cho kẻ này nhưng sẽ nhận lại ở kẻ khác...Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người... Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ. Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nẩy sinh. Cái mất không bao giờ mất hẳn. Cái còn không hẳn là mãi còn...” Điều anh nói đến là những triết lý rất căn bản của đạo Phật là duyên khởi và vô sinh vô diệt. Những ý này được Trịnh Công Sơn diễn đạt rất tài tình trong nhiều ca khúc khác nhau

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đi mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về
...
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà
Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non, một bờ mộng mị
Ngày xưa...
Từng lời tà dương, là lời mộ địa
Từng lời bờ sông nghe ra từ độ
Suối khe...
(Một Cõi Đi Về)

...
Đời sống mỗi khi người đưa tiễn người
Là tôi lắng nghe, lòng tôi rã rời
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì thấy bóng trăm năm
...
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Sông bao lần sông đã ra đi
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về.
(Gần Như Niềm Tuyệt Vọng)

Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ...
(Ở Trọ)

Những ý tưởng bàng bạc thiền tính như “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, Rọi suốt trăm năm một cõi đi về” “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà ” “Trong xuân thì thấy bóng trăm năm” “Tôi nay ở trọ trần gian, Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” cho ta thấy anh nắm vững tư tưởng triết lý Phật giáo, y như là nó ở trong huyết mạch của anh để bộc lộ một cách hết sức tự nhiên qua lời thơ, ý nhạc. Anh giải thích “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một Thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hóa Đông Tây góp nhặt được còn có những lời kệ vô tình nằm ở đấy.”

Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du ta luôn gặp những hình ảnh của triết lý Phật giáo, những câu thơ về duyên và nghiệp, đề cao tình người mà điển hình là “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần.”. Ta không ngạc nhiên chút nào khi được biết rằng khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, Tố Như tiên sinh đã đọc và thấm nhuần kinh Kim Cương khi ông đi sứ bên Tầu trước đó. Thế nên, đây chẳng phải là một ngẫu nhiên khi văn hóa Việt Nam lại thêm một lần khởi sắc vì người nghệ sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã có cơ duyên đi qua cổng Phật để đem tiếng hát nhân bản đến với muôn người.

Ta hãy nghe anh nói tiếp “ Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng, nằm, ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách sống đích thực. Tôi vẫn tích cực thực tập cách sống như thế hằng ngàỵ Tôi đang cố gắng quên đi Phật giáo như một thứ tôn giáo. Tôi muốn đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi ...Cuối năm 1995, tôi có viết một bài hát mà tôi rất thích và bạn bè ai cũng thích. Đó là bài “Sóng Về Đâu”. Bài này lấy cảm hứng từ câu kệ Gaté, Gaté. Paragaté. Parasamgaté. Bodhisvaha”.

Nói về Trịnh Công Sơn mà không kể đến những mất mát và phấn đấu của anh để vượt qua những mất mát ấy thì quả là một thiếu xót lớn. Như đã kể trên, thân phụ anh qua đời sau một tai nạn lúc anh mới 15 tuổi. Người cha đã từ trần thuở anh còn thơ ấu tưởng chừng như đã không để lại gì, nhưng gương hy sinh của ông trong những năm kháng chiến chống Pháp và lao tù chắc chắn đã có động tác hun đúc tình yêu đồng bào, yêu quê hương của anh. Mất cha, anh may mắn có được một người mẹ hết sức đảm đang và thương con, như anh nói : “Mẹ tôi về lòng dũng cảm và thương con thì duy nhất trong cuộc đời này.” Anh học được ở mẹ nhiều đức tính, nhưng đáng kể nhất là lòng nhân từ và vị tha. Khi có người hỏi: “Nếu có một đóa hồng quý giá, nhạc sĩ sẽ tặng cho ai? Đức tính nào của con người khiến nhạc sĩ cúi đầu kính phục? ” Anh đáp “Tôi sẽ tặng cho mẹ tôi. Rất tiếc mẹ tôi không còn nữa. Đức tính của con người khiến tôi cúi đầu kính phục là lòng vị tha.”

Sống vị tha và sống với một tấm lòng, đó là phương châm của anh. Được hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” Đó có phải là quan niệm sống và sáng tác của nhạc sĩ không? Theo nhạc sĩ, quan niệm đó có còn đúng trong thời buổi có quá nhiều thay đổi như hiện nay? ” Anh đáp “Thời buổi nào cũng cần phải có một quan niệm sống như thế, con người và động vật chỉ có khác nhau từng ấy thôi. ” Anh yêu người thì nhiều song phần lớn đó là những cuộc tình không đoạn kết, nhưng Trịnh Công Sơn không hề oán trách, anh nói:

Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người
Tạ ơn ai đã cho tôi những ngày quên kiếp sống lẻ loi
(Tạ Ơn)


Hai mươi năm xin trả nợ đời
Trả nợ một đời em đã phụ tôi

Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi.


nhưng anh vẫn tha thứ và nói lời yêu thương

Bao nhiêu năm lại vẫn nhiệm mầu
Trả nợ một lần quên hết tình đau
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời nhau
(Xin Trả Nợ Người)


Anh không hề chua chát khi nói : “Nếu vì lý do nào đó mà tôi mất hẳn chức năng biết yêu thì có lẽ bây giờ tôi đã không trở thành người viết tình ca. Cái may ở đời là bị phụ tình. Với tôi, trong tình yêu không có sự bất tử. Người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó đó mà thôi…Tình yêu cho phép những khúc ca ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào thai nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là trong bản thân nó đó hàm chứa một cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm nhạc cũng không có cơ duyên ra đời. ”

Hiểu rõ như thế, anh không oán trách sự mất mát mà trái lại còn yêu đời tha thiết hơn, vì : “Cái Tôi đáng ghét (Le moi est haisable) nhưng cái Tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái Tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nàỵ. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời lớn rộng quá và mỗi chúng ta chỉ là hạt bụi nhỏ trong trần gian mà thôi. Giận hờn trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn. Ai cũng biết cuộc đời là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa”.

Như bất cứ một ai, Trịnh Công Sơn cũng có cái mâu thuẫn của anh. Hiểu rõ tư tưởng Phật giáo nhưng anh vẫn lo sợ phút chia lìa ấy. Anh tâm sự : “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ, cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và sự chết trở thành vấn đề lớn trong đi sống tinh thần của tôi. Có lẽ, suy cho cùng, từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình đã từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời tôi.” Nỗi ám ảnh và sự mất mát đôi lúc đẩy anh đến gần niềm tuyệt vọng, và lúc đó thì anh tự nhủ

Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này.

Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai, như một nỗi đời riêng
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh
Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên.
(Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng)


Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này. Hai câu này nói lên được hết cái sức sống của Trịnh Công Sơn. Anh sống trọn vẹn cho cuộc đời và gắn bó với quê hương Việt Nam vì như anh nói “Mỗi thế hệ đều mang đến cho tôi nguồn mạch cảm hứng. Tôi đã cố gắng sống hòa hợp và biểu hiện những suy nghĩ của mình bằng mạch nguồn cảm hứng ấỵ Người sáng tác thì không thể sống tách rời với thời đại mình đang sống...” Trả lời câu “ở xa đất nước, anh có nghĩ rằng anh sẽ viết khác không ?” anh nói “Không những sẽ viết khác đi mà thậm chí là không thể viết nữa. Tiếng Pháp có chữ “culture” vừa có ý nghĩa là văn hóa, vừa có ý nghĩa là trồng trọt. Một nền văn hóa này lại trồng trên một mảnh đất khác thì e rằng không thể phát triển bình thường được”.

Có một mối liên hệ rất thân thương và thiêng liêng giữa người sáng tạo và người thưởng thức vì Bá Nha đâu là gì nếu không có Chung Tử Kỳ. Người nghệ sĩ ở đâu và bất cứ thời nào cũng không thể tách rời ra khỏi môi trường xã hội của mình. Văn hào Nguyễn Du đã chẳng có lần hỏi Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như- không biết rồi ba trăm năm nữa, thiên hạ ai người khóc Tố Như, đó sao? Vậy thì, chúng ta hãy hãnh diện và vui sướng đi. Hãnh diện bởi vì bằng những sợi dây liên lạc vô hình mà cũng rất thật, mỗi người trong thời đại của chúng ta đã góp phần nào đó để tạo nên con người Trịnh Công Sơn. Vui sướng vì ta đã được sống cùng thời với một trái tim lớn nhất của thế kỷ và bởi vì qua giòng nhạc nhân bản và tiếng nói thương yêu ấy, cuộc sống của mỗi chúng ta, gia tài văn hóa của quê hương đã giầu có lên biết bao nhiêu.

Và trên hết tất cả, chúng ta hãy vui sướng vì dù không có mặt, anh vẫn luôn ở bên ta bởi lẽ ngọn đuốc yêu thương mà Trịnh Công Sơn đã thắp sáng trong mỗi chúng ta qua bốn thập niên ca hát của anh sẽ mãi mãi còn sưởi ấm cuộc đời này. Hôm nay, nhân ngày giỗ thứ ba của anh, người viết xin được dùng chữ của Trịnh Công Sơn góp lại như một lời chia tay với người tình của cuộc sống.

Cho Một Người Vừa Nằm Xuống

Như cánh vạc bay tận cuối trời
Ngàn thu cát bụi cũng đành thôi
Tình xa biết có ai còn nhớ
Một cõi đi về bỏ cuộc chơi

Nắng thủy tinh còn vương trong ta
Diễm xưa, tình cũ chẳng phôi pha
Quỳnh hương khoe sắc muôn đời thắm
Tuổi đá buồn thêm nỗi xót xa

Em đứng lên gọi tên bốn mùa
Bên đời hiu quạnh nắng bơ vơ
Lặng lẽ nơi này lời buồn thánh
Yêu dấu tan theo nỗi đợi chờ

Nhìn những mùa thu đi qua nhanh
Hoa vàng mấy độ héo trên cành
Nghe những tàn phai giăng khắp lối
Mưa hồng che lấp nắng mong manh

Ở trọ, cõi này vương vấn chi
Biển nhớ từ đây biết nói gì
Cỏ xót xa đưa về muôn kiếp
Thương tiếc ai mà lệ ướt mi.


Ann Arbor, Đầu Xuân 2004


Nghiêm Xuân Cường





 

Tạ ơn giai nhân, tạ ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và...

Không biết có ai đó đã nhắc tôi câu dịch từ thơ của Anvers: “Xem thơ nào biết có mình ở trong”. Mỗi lần nghe người yêu nhạc nói chuyện tình của Trịnh Công Sơn (giai đoạn đầu) tôi bổng thấy nhớ và tự bảo thầm “nào ai có biết chuyện tình trong nhạc của Sơn cũng chính là chuyện tình của tôi, của thế hệ tuổi tôi”. Nói như thế bạn đọc sẽ mím môi “thấy sang bắt quàng làm họ”. Nếu không có những giải bày sau đây thì nghĩ như thế không có gì sai cả.

Thành phố Huế xưa nay vốn rất nhỏ. Người đẹp của núi Ngự sông Hương phần lớn tập trung ở hai ngôi trường Đồng Khánh- Quốc Học, từ sau năm 1957 có thêm Đại học Huế. Thế hệ nào cũng có những giai nhân của riêng mình. Giai nhân có ít mà người mê thì nhiều. Một người đẹp nào đó có hàng chục người “bước theo gót hài”. Tiểu sử của các cô các chàng trai đều thuộc lòng. Nhưng như chính Xuân Diệu đã từng thú nhận “Yêu rất nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu”. Không “nhận” được vì nhiều lý do: Thời ấy, ít có cô gái Huế nào đẹp mà chịu lấy những chàng trai ngang trang ngang lứa. Các cô gái đẹp thường được cha mẹ gả cho những người đã có danh vọng, có sự nghiệp chắc chắn. Rất hiếm thấy các anh chàng lông bông học hành chưa tới mà có người yêu đẹp xuất thân trong các gia đình gia giáo. Tuy nhiên trong thế hệ tôi, chính vì các hố ngăn cách ấy đã nẩy sinh ra biết bao mối tình thầm lặng, yêu một chiều và khi nó xảy ra với những người về sau xuất chúng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì chúng trở thành những chuyện tình bất tử.

1.“Cuối cùng cho một tình yêu”


Tôi có một người bạn gốc Nha Trang, đang học vẽ nhưng anh lại tỏ ra có tài thơ. Anh yêu cô Đỗ Thị Lệ Th. – em gái của một hoạ sĩ Đỗ B. Cô Lệ Th. có mái tóc thề mượt mà, dáng đi nhẹ nhàng dễ thương giống như cái tên Lệ Th. của cô vậy. Những ai đã gặp Lệ Th. thì không thể không mất ngủ vì cô. Anh bạn tôi yêu Lệ Th. và làm thơ lấy biệt hiệu là Th. Nguyệt. Nhưng rất tiếc gia đình Th. Nguyệt rất nghèo, anh lại chưa có sự nghiệp, nên anh đã thua cuộc trước bạn anh là hoạ sĩ Tôn Thất V. Cùng thắng cuộc theo kiểu của V., có hoạ sĩ Đ.C. với cô T.Nh. Hồi T.Nh. học Đại học Văn khoa, nhiều người phải lòng T.Nh., nhưng trong số ấy không ai tài hoa và kiên trì bằng Đ.C. nên anh đã thắng. Đ.C đã vẽ nhiều tranh lấy cảm hứng từ T.Nh.Xem tranh thiếu nữ của Đ.C., Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường và kể cả người kể lại chuyện nầy, cũng đều thấy người đẹp của “mình ở trong”.

Ở Đại học Văn khoa Huế lúc ấy lại có cô Trần Thị Nh.H. Nh. H. không nằm trong danh sách người đẹp, nhưng cô hay mặc áo dài tím, với dáng đi “mềm mại như tơ”, hát hay nên H. được mến mộ không kém người đẹp. Hoạ sĩ Trịnh Cung lúc còn học Mỹ thuật Huế rất mê Nh.H. và tuyệt vọng, anh đã làm nên bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu. Bài thơ nầy đã được Trịnh Công Sơn phổ nhạc và nổi tiếng gần bốn mươi năm qua. Điều không ai hiểu nổi là: “Cho đến nay (2002) Nh.H. đã có gia đình, đã có cháu nội cháu ngoại mà cô vẫn chưa biết bài thơ phổ nhạc bất hủ ấy Trịnh Cung đã làm cho chính Nh.H.” (Lời thú nhận của Trịnh Cung với tôi).

Cùng một mẫu yêu như Trịnh Cung, Trịnh Công Sơn đã yêu Ph. Th. – em ruột của ca sĩ Hà Thanh. Bạn âm nhạc của Trịnh Công Sơn lúc ấy có Lê Gia Phàm, Hà Thanh và Thanh Hải (Hồ Quang Hải). Lê Gia Phàm yêu Hà Thanh. Trịnh Công Sơn, Thanh Hải (học Đệ nhất với tôi và bác sĩ Trương Thìn sau nầy) đều yêu Ph.Th. Và, không chỉ hai người ấy, nói chung những người quen biết gia đình Hà Thanh, hay học cùng một lứa (promotion) với Ph.Th. đều là “đệ tử” trước vẽ đẹp thánh thiện của Ph.Th.cả. Trong số “bái phục giai nhân Ph.Th.” ấy, Trịnh Công Sơn thuộc loại quán quân. Sau nầy có lần Trịnh Công Sơn kể lại là: “Hà Thanh có đến bốn năm người em gái, mình ngồi nói chuyện với Hà Thanh, mỗi lần Ph.Th. đến sau lưng mình là mình biết ngay. Khi nào cô ấy đến gần thì có một mùi hương đến trước. Nhờ cái mùi hương ấy mà mình không bao giờ nhầm Ph.Th. với các cô em gái khác của Hà Thanh”. Chưa bao giờ Trịnh Công Sơn dám tỏ tình với Ph.Th. và Ph.Th. cũng chưa bao giờ có một cử chỉ khiến cho người bạn âm nhạc của chị mình hiểu nhầm là cô có cảm tình riêng với bạn chị. Thế mà Trịnh Công Sơn đã si tình và nhờ cái vẻ đẹp thánh thiện “em đứng lên gọi mưa vào hạ” ấy của Ph.Th. mà anh đã viết nên mấy bài hát Nhìn Những Mùa Thu Đi, Nắng Thủy Tinh, và Gọi Tên Bốn Mùa. Ph.Th. lập gia đình với ông Tiến sĩ B. làm trưởng Khoa Luật rồi làm Bộ trưởng Giáo Dục, “tuổi tác không cân xứng nhưng danh vọng và sắc đẹp thì đẹp đôi”. Sau đó vì thời cuộc Tiến sĩ B. mất sớm, Ph.Th. vẫn giữ sự đoan trang, đức hạnh nuôi dạy các con ăn học đến nơi đến chốn tại Boston (Mỹ). Cuối năm 2000, gặp lại Hà Thanh và Ph.Th. tại Huế, tôi vẫn thấy hai chị em nầy “không sợ thời gian”, vẫn đẹp như “nắng thủy tinh” thuở nào. Nhớ lại chuyện xưa, các cô rất vui và xem đó là những kỷ niệm đẹp của giai đoạn đẹp nhất của đời mình. Tuy chỉ mới một chiều, nhưng bạn bè thuở ấy của Trịnh Công Sơn vẫn xem chuyện Trịnh Công Sơn si mê Ph.Th. là “mối tình đầu” của anh.

2. “Hai mươi năm xin trả nợ dài”

Khoảng năm 1962, gia đình Trịnh Công Sơn gặp khó khăn kinh tế, gian phố lớn ở đường Phan Bội Châu (Ngã Giữa) phải sang cho người khác và qua thuê một căn hộ ở tầng một dãy lầu mới xây ở đầu cầu Phủ Cam [1].Hằng ngày Trịnh Công Sơn đứng trên lầu ngắm các cô nữ sinh đi qua cầu Phủ Cam, đi dọc theo đường Nguyễn Trường Tộ đến trường Đồng Khánh. Trong đám xuân xanh ấy có cô Ngô thị Bích Diễm- con gái thầy Ngô Đốc Kh.- người Hà Nội, dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Bích Diễm giống bố, người dong dõng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng. Con người của Diễm rất hợp với cái tên Diễm và cũng thích hợp với tâm hồn bén nhạy của Trịnh Công Sơn. Anh yêu Diễm mê mệt.Những ngày không thấy Diễm đi qua anh đau khổ vô cùng. Anh trông thấy con đường trước nhà “dài hun hút cho mắt thêm sâu” (Diễm Xưa). Nhưng anh cũng biết gặp Diễm để nói lên nỗi đau ấy không phải là chuyện dễ. Thầy Ngô Đốc Kh.- thân sinh của Diễm, là một ông giáo rất nghiêm. Ông không thể chấp nhận một anh chàng chưa có bằng Đại học, tóc dài, cằm lún phún râu chuyện trò với các cô con gái đài các của ông. May sao lúc ấy hoạ sĩ Đinh Cường thuê nhà ở gần nhà Diễm để làm xưởng vẽ. Hai bạn canh chừng những khi thầy giáo có giờ dạy, mà Diễm đang ngồi ở nhà học bài thì hai bạn liền “liều” mình qua thăm. Những lần liều đầy mình ấy, có khi Diễm tiếp, có khi Diễm để cho người nhà tiếp và cũng có khi đang có bố ở nhà Diễm tránh để cho khách ngồi chơi xơi nước rồi tự ý ra về. Khác với Ph.Th., Diễm biết Trịnh Công Sơn yêu mình và trái tim cô nhiều khi cũng rung động. Nhưng lúc ấy Diễm không thể vượt qua được sự nghiêm khắc của gia đình để nói cho tác giả Ướt Mi biết điều đó. Trịnh Công Sơn trút hết nỗi lòng yêu Diễm vào bài Diễm Xưa như sau nầy Sơn đã kể lại nhiều lần. Có một điều lúc ấy Sơn không để ý: Những lúc Trịnh Công Sơn đến nhà Diễm, thì Dao A. - em gái của Diễm còn là một cô bé, nhỏ hơn Diễm đến bốn năm tuổi, chạy loăng quăng theo chị. Không ngờ chỉ mấy năm sau Dao A. trở thành một thiếu nữ xinh đẹp với khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương khác thường. Với cái cầu đã bắc từ hồi yêu Bích Diễm, nay Bích Diễm đã vào học Đại học ở Sài Gòn, tâm hồn của Sơn qua cây cầu cũ, nói như Đinh Cường “Sơn lại da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của Dao A. để rồi thất vọng, để rồi...”. Khác với những lần yêu trước, thất vọng về Dao A.,Trịnh Công Sơn không bắt nhạc của anh phải mang cái gánh thất tình của anh. Không ngờ hai mươi năm sau, trải qua bao nhiêu dâu bể, từ bên Mỹ, Dao A. trở về Việt Nam tìm Trịnh Công Sơn. Không rõ Dao A. nói gì với Sơn, và còn gì nữa không, mà anh đã rất hài lòng với thực tại “ Hai mươi năm xin trả nợ dài, Trả nợ một đời em đã phụ tôi” (Xin Trả Nợ Người). Trong hai mươi năm ấy, Dao A. đã có gia đình, đã hiểu rõ cuộc đời, nên “hết phụ” tình Trịnh Công Sơn. Như Đinh Cường đã viết:“Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao A. về thăm, suốt tuần sáng nào A. cũng đến ngồi trên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà.”Trịnh Công Sơn yêu Dao A. phải trải qua hai mươi năm mới “nhận” được lời đáp. Tuy đã quá muộn, nhưng trên cõi đời nầy có mấy ai được yêu và được nhận có một khoảng cách dài lâu đến thếđâu !

3.“Coi như phút đó tình cờ”

Gặp người đẹp Trịnh Công Sơn dễ yêu, mà không riêng gì Sơn, các bạn thân sơ của anh cũng đều như thế. Sơn không nề hà chuyện yêu một chiều, không sợ đau khổ vì tình phụ, đã yêu là yêu mãi, yêu hoài, yêu hết mình. Nhưng cũng có lúc anh “chán tình”, vì cho rằng mình yêu nhầm. Ngày ấy, ở bên kia sông Thọ Lộc, đối bờ với nhà tôi, thuộc phường Vỹ Dạ, có cô nàng tên Nguyệt, rất đẹp. Trịnh Công Sơn đã yêu say đắm. Vô tình, trong lúc nói chuyện với Sơn, cô buột miệng khen một anh chàng nào đó đẹp trai “vì anh ấy lai Tây”. Chỉ một chuyện vô tình rất nhỏ, thế mà Trịnh Công Sơn cảm thấy bị xúc phạm, anh không thể hiểu nổi một người mình yêu mà lại có một quan niệm thẩm mỹ “lệch lạc” đến như thế. Tất cả những yêu thương Nguyệt trong lòng anh bổng nhạt nhoà hết. Anh viết bài Nguyệt Ca. Anh ca ngợi cô nàng Nguyệt hết lời khi “trăng là Nguyệt”. Nhưng khi anh phát hiện ra:“từ trăng thôi là Nguyệt”, Nguyệt không phải là người anh mơ uớc, anh xem chuyện anh yêu Nguyệt “coi như phút đó tình cờ” và về sau anh không nhắc đến Nguyệt nữa. Tuy nhiên đối với tôi và nhiều bạn bè của anh, mong sao Sơn có nhiều dịp yêu “tình cờ” như thế để anh có thêm nhiều Nguyệt Ca nữa.

Trịnh Công Sơn yêu rất nhiều, về sau có thêm Bich Kh. (như tôi đã viết nhiều lần), có Chu Nguyệt Ng., có Michiko, có Hồng Nhung...nhưng định mệnh vẫn cứ bắt anh phải đứng trước cái ngưỡng của tình yêu. Nếu anh còn sống thêm vài mươi năm nữa, sẽ “còn ai nữa”...và cũng thế thôi. Nếu anh bước qua khỏi cái ngưỡng ấy thì chưa chắc anh đã có được cái địa vị “người sáng tác nhiều nhạc tình hay nhất thế kỷ”. Tôi viết điều ấy với kinh nghiệm thực tế. Có một người làm thơ, bạn của Trịnh Công Sơn, cưới được một cô nàng hồi đi học ngồi cạnh Dao A. của Sơn, về sau “người ấy” không còn thơ nữa (Đó không phải là một trường hợp cá biệt). Trịnh Công Sơn bị “tình phụ”, còn người ấy lại bị “thơ phụ”.

Hơn sáu mươi năm nhìn lại cuộc đời, tôi xin tạ ơn những giai nhân đã làm “sáng giá” cho tuổi trẻ của chúng tôi. Vẻ đẹp của các cô là hành trang đẹp cho suốt cuộc đời theo đuổi chân thiện mỹ của lứa tuổi tôi. Chúng tôi không những giữ hình ảnh các cô trong tâm hồn mà còn giữ được hình ảnh thực của người đẹp trong các tập Album. Cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, cám ơn Trịnh Cung, cám ơn Đinh Cường...nhờ tài năng của các bạn mà những người đẹp trong tâm hồn, trong các tập Album của thế hệ chúng ta trở thành vĩnh cửu.
Kỷ niệm một năm sau ngày Trịnh Công Sơn rời cõi tạm, 1.4.2002

Nguyễn Đắc Xuân


[1]. Nhà số 11/3 Nguyễn Trường Tộ, hiện nay là nhà của anh chị Hoàng Phủ Ngọc Tường- Lâm Thị Mỹ Dạ. Có thời gia đình anh Tường chị Dạ đi Hà Nội và TP HCM, gia đình Nguyễn Đắc Xuân ở tại đó trong một năm (1978-1979).
 

Trịnh Công Sơn Tiếng Hát Hòa Bình

Báo Văn Học số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề :

"Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định : "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào: "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).


Trong văn chương, ngoài đề có khi là lời tâm huyết. Nhật Tiến nổi danh về lòng ngay thẳng và nghĩa khí. Hoàng Khởi Phong là cựu đại úy quân cảnh, một binh chủng mà Trịnh Công Sơn thường phải dè chừng ...

Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...

Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.

Vì vậy, gọi là nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.

Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào. Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,

"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói".(1)


Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.

Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.

Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.

Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây(2) .

Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơnđưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau :

Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn ...Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu phiền


Về thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới".(Bài viết tháng 10.1995, và tháng 8.2001).

Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.

Vết Lăn Trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí :

Vết lăn trầm vết lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê hương ...


Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:

"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn" (3)

Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.

Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.

Cuối năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ...Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài : Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.

Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.

Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris ; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.

Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như : Việt Nam ơi Hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.

Năm 1972, sau Mùa Hè đỏ lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài : Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...

Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi: "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế" (bài đã dẫn).

Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.

Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.

Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại" (b.đ.d) tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.

Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.

Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng:

Trịnh Công Sơn hát: Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

Khánh Ly hát: Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca: Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.

Chúng ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến", không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.

Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa xuân không về, mùa thu cũng ra đi ...


Những câu hát, trích từ tiếng hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai gái ?

Gọn hơn nữa : tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá?

Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích : Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát:

"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi tay trơn trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng Nhìn Những Mùa Thu Đi .."

Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.

"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế(...)

Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ Nhìn Những Mùa Thu Đi chứ không phải Ướt mi dù Ướt Mi đã làm cho người ta biết đến Sơn" (4)

Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật : Nhìn Những Mùa Thu Đicó thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.

Về nội dung bài hát, không phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi :

Gió heo may đã về
Chiều tím loang vỉa hè
...
Thương cho người rồi lạnh lùng riêng


Nó không tình lụy như Chiều tím chiều nhớ thương aicủa thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc, mà là vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh Ly :

Chuyện chúng mình ngày xưa
Anh ghi bằng nhiều thu vắng
Đến thu này thì mộng nhạt phai


Tình và Mộng ở đây, không nhất thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.

Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966 :

"Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài ỏTình Nhớõ, gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc , vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.

Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" .(5)

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến? Bài hát đại khái :

Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...


Nói về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?

Một ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng là những đôi môi rất hồng


Là một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này :

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Riêng đây là chốn chưa nguôi máu đào

Tác phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước.

Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng ; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập ; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.

Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.

Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyền sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !

Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc : "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe..So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới" (6) .

Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.

Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang" một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người : mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.

Lối sống đơn giản : cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.

Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất - nữ hoàng chân đất, la comtesse aux pieds nus - của một thời - giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nước, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).

Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường"(7) . Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam . Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.

Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".

Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác - càng về sau càng già giặn thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến"(8) , như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.

Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".

Trong một dư luận - và hoàn cảnh xã hội - thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.

*

Tâm lý thời đó, chủ yếu là chống chiến tranh.Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?

Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược: tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.

ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965 ; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".

Sinh trưởng từ một gia đình Phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh Công Sơn"(bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ "hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn:

Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá
Đợi xoá sân si dưới bóng bồ đề
(Đợi có một ngày),


trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972

Không theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc, mà nói thực tình, nghe qua đã ớn.

Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các "phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn, một tổ chức của Đảng Cộng Sản, chỉ đạo, triển khai điều khiển" (9). Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở (10).

Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Công Tác Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.

Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v.Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông Kỳ lại muốn dựa vào khối Phật giáo ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại (11) .

Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !

Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc : gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.

Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.

Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.

Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.

Ví dụ bài Tình Ca Của Người Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc :

Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù
Nằm chết như mơ ...


Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ ?

Người ta thường nói: đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ .

Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược :

Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ


Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.

Cũng như bài sau này: Hát Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968 :

Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn ...

Không biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.

Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe


Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí: đại bác như kinh không mang lời nguyện.

Đại bác như kinh ?

Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy :

Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em


Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ,ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu ý. Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967) :

Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ ...

Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa: đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim : đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?

Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng :

Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?


Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ.Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống.

Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...

Năm 1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể có những lý do riêng chung.

Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.

Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi "Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu". Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác : Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.

*

Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).

Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng: Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề : Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.

Cho đến ngày hoà hội Paris, nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động, tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than vãn : ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).

Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy đi cùng nhau, và cụ thể hơn nữa Nối Vòng Tay Lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn Quê Hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay ? Sao mắt Mẹ chưa vui ? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:

Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da vàng ...
Nối cho liền, nối hai miền ...

Nói là "quốc ca hụt"là đùa vui, nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ: nếu đám tranh đấu Miền Trung thành công trong dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được chính quyền Miền Nam, thì chúng ta e phải đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào cờ. Chuyện đã không xảy ra, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra trong tuyệt đối).

Thời điểm 1968, hội nghị Paris thật sự đã tạo nên niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết lời tựa Kinh Việt Nam :

Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương ... Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...

Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)

Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông(...)

Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)

Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)

Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào hoang tưởng ịmột ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm (Cánh Đồng Hoà Bình).

Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng :

Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu Trời, ta yêu ta, ta yêu em
Ta yêu nắng hòa bình vừa đến ...
Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm nay tiếng Hòa Bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta, trên môi em
Trên môi những người Việt nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu ...
(Đồng Dao Hòa Bình)


Hai mươi năm là tính từ 1948, hay trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến, nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa, không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.

Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn :

Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu ?
(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969


Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính cách nội chiến :

Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người : bao năm thắng những ai ?
(Những Ai còn là Việt Nam) 1969


Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát ; anh chỉ nói lên cảm xúc :

Ôi bom đạn cày trên những xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967

Bây giờ lý luận rằng nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam không phải là nội chiến là việc của người làm chính trị, phân tích "bản chất" theo chính kiến, "chính nghĩa" của mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên hiện tượng.

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến ; quần chúng có hai con đường đến với anh : một là đến với người nhạc sĩ, hai là đến với người phản chiến ; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài ; họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.

Cả hai chính quyền Nam Bắc đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay" ?

*

Từ 1968, trong những gào gọi hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.

Hoà bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi : thống nhất bằng cách nào ; và ai chủ động thống nhất ? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác : Phạm Đình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.

Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó :

Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng Dương
Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong
(Lại Gần Với Nhau) (1966
)

Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác :

Chờ ngày Việt Nam thống nhất
(Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói)

Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba Miền
(Những Ai Còn Là Việt Nam)

Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
(Chính Chúng Ta Phải Nói)


Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền
(Huế, Sài Gòn, Hà Nội)

Thậm chí anh đã hát rất quyền uy: Hỡi Ba Miền vùng lên Cách Mạng.

Nói Một Miền Rưỡi, thì không sao; nói Ba Miền là đã có vấn đề ; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng" sẽ còn nặng tội hơn nữa!ôi ! Sơn ơi là Sơn ơi !

Những bài hát rền vang khí thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.

Mưu cầu hoà bình đi đôi với ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng: "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" (12 )như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố trên báo Chuyển Luân.

Khi tại Paris hoà hội bốn bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập: muốn có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.

Cách nào đi nữa thì cũng dưới một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát: Ta thấy gì trong đêm nay ? Cờ bay trăm ngọn cờ bay ... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà : tình ta bay theo sóng ngọn cờ ...

Không thể tránh được câu hỏi: ngọn cờ gì ? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.

Nhạc sĩ rất bén nhạy, từ 1968 đã linh cảm :

Đêm nay hoà bình, sao mắt mẹ chưa vui
Nhìn quanh anh em không ai còn lại
Anh thầm gọi tên ai. Gọi tên ai ...
Anh đi trận về nghe lại chuyện kể
Ngỡ giấc mơ ...
(Sao mắt Mẹ Chưa vui)

Năm ấy, bài hát thành công nhất là Nối Vòng Tay Lớn:

Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà

(...)
Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng vào đời ...

Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ, một bộ đội "phía bên kia", kể lại rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày 30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay súng :

"Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng


Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học". (13)

Nhưng đây là chuyện về sau - nói ra đây -để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.

*

Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hoà bình cho Việt Nam, rồi tại tắt ngấm...Phong trào đấu tranh hoà bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt"(Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới : chính chúng ta phải nói : chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hoà bình-thống nhất :

Khi tim người rực lửa cầu mong
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Quyết chối từ chém giết anh em
Chính chúng ta phải nói hoà bình
Đất nước này chỉ còn lại người điên


Tháng 8/1969, anh viết: "Hai mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu được thấm thía rằng không còn một nhân danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng để còn một chỗ đứng trên cái điêu tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa" (14)

Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta Đi Dựng Cờ, Đừng Mong Ai Đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta Quyết Phải Sống :

Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí ...

Quyết làm cách mạng và phải xếp vũ khí: nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của một nghệ sĩ giữa những thế lực vô minh, với hằng triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài bay, xe tăng, hoả tiễn. Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, tự bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hoà bình "một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam"(14).

Trong Những Giọt Máu Trổ Bông, sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã chảy thành suối thành sông hay đã khô cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời, nhạc sĩ quyết định :

Những giọt máu đến ngày trổ bông
Nở hoà bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hoà bình
Ta phải thấy mặt trời

Và Mặt Trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc: "Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông". "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông".Sơn có lần giải thích : người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà bình, hoà giải và hoá giải.

Anh và bạn bè anh ở Huế, trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh: "Họ xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo (...)càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập"(15).

Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá, trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông á nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh ; rồi ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa vô thường trong nhiều ca khúc.

Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.

*

Phụ Khúc Da Vàng,xuất bản 1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế ; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên, theo lời Phan Nhật Nam : Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su, Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê hương: một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng xấu số" (16)

Khi các phe phái hoà đàm tại Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến 17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.

Bề ngoài Trịnh Công Sơn vẫn hô hào "Chưa mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày hoà bình (...),trong lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung". Nhưng ở thâm tâm anh đã bi quan lắm khi "đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ":

Bao nhiêu năm chờ đợi
Oán thù là khí giới
Trong con tim lời nói yêu thương
Đã mất rồi
(Đợi Có Một Ngày)

Trịnh Công Sơn gói ghém nỗi hoang mang chán chường một thế hệ :

Mười lăm năm em có buồn không ?
...Đường anh em đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mang hoài bóng tối
... Hãy nhìn lại anh em trên chiến trường
Tìm đâu ra những nét mặt thù
Được hay thua những thắng bại kia
Mặt quê hương tan nát từng giờ
(Hãy Nhìn Lại)


Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ, được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.

*

Đã nhiều người nói Trịnh Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời cho ; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.

Và chính khối đau thương - qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị ; và sau này nữa, bên ngoài những mê chấp sân si.

Song song với ca khúc hoà bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu rọi về tình người, nổi bật trong khổ nạn.

*

Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972. Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.

Và cũng lưu ý dè dặt: bài nào chính xác là phản chiến ? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.

Với nhiều người, toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó. Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực : bài nào mà ngày nay không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc ... phản chiến !

Đây lại là một cách gián tiếp minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70 bài hát được gọi là phản chiến.

Và ca khúc duy nhất của Trịnh Công Sơn mà chúng tôi có thể xác định thời điểm sáng tác là Ra Đồng Giữa Ngọ làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những ngày năm cùng tháng tận của một chế độ, chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát tiên tri về nhiều mặt :

Thằng bé xinh xinh chơi diều giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không

Sơn qua đời ngày 1 tháng Tư, vào giờ Chính Ngọ, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ...

Đối với một số bạn bè, Sơn bao giờ cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa bé. Và họ, ngày nay, còn hát theo Sơn :

Thằng bé xinh xinh bay vờn giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không
...Tan trong trời hồng làm giọt mưa trong
Tan trên cuộc đời làm lời ru êm
...Tan trong nụ cười gọi mời yêu thương
Tan trong cội nguồn.

Vậy thôi, thôi nhé, vậy nhé, Sơn nhé. Khi khác gặp lại Toa.

Đặng Tiến
Orléans, 15/09/2001

Bài này đăng trên tạp chí Văn Học Số Đặc biệt về Trịnh Công Sơn (11.2001).


 

Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù


Lân đầu tiên những người yêu thích âm nhạc Việt Nam chúng ta đón mùa Xuân về mà không có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đây là một sự hụt hẫng mà có người bảo rằng "phải tập làm quen trong nhiều mùa xuân nữa mới quen được". Nhưng đối với tôi - một người bạn chưa bao giờ ở với Sơn ngày nào nên tôi vẫn cảm thấy Sơn đang sống ở đâu đó. Tôi không gặp Sơn như lúc tôi đến nhà 47C Phạm Ngọc Thạch mà Sơn ngủ chưa dậy. Tôi đành quay xe và tự hẹn với mình lần sau vào Thành phố Hồ Chí Minh sẽ lại đến.

Cho đến nay, Trịnh Công Sơn vẫn chưa - như gia đình tôi hay dùng- exit (thoát) khỏi đời sống của tôi. Bởi vì, tôi là một người luôn luôn thích khám phá bí ẩn nhưng có nhiều giai đoạn trong cuộc đời của bạn tôi, tôi chưa công bố. Tôi vẫn còn nợ giai đoạn Trịnh Công Sơn dạy học và bắt đầu làm nhạc phản chiến ở Blao-Lâm Đồng. Đây là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời Sơn nhưng Sơn rất ít viết, ít đề cập đến và tất nhiên bạn be ẵ-những người yêu thích âm nhạc Sơn, cũng ít biết. Để chuẩn bị cho việc "trả nợ nầy", tôi đã làm một cuộc hành hương trở lại vùng cao nguyên bụi đỏ sương mù Blao để làm sống dậy những điều mà Trịnh Công Sơn đã chôn chặt nơi đây.

Người cung cấp những thông tin đầu tiên về những năm tháng Trịnh Công Sơn dạy học và sáng tác ở Blao cho tôi là chị Lê Thị Ngọc Trinh - bạn học Sư phạm khóa I (1962-1964) với Sơn ở Qui Nhơn và đồng nghiệp của Sơn ở Blao. Người dẫn đường là thầy giáo Lê Quang Kết ở Blao. Những người hiểu rõ những năm tháng Trịnh Công Sơn ờ Blao là cụ Lê Cao Lợi - nguyên trưởng ty Tiểu học, lãnh đạo của thầy giáo Trịnh Công Sơn lúc ấy và cụ Phạm Trung Thành, nhân viên cũ của Ty Tiểu học (từ năm 1964) - người chơi đàn violon, hay trao đổi về âm nhạc với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Blao. Tư liệu bổ sung do hai ông bạn họa sĩ Đinh Cường và Trịnh Cung giúp.

Trịnh Công Sơn - trưởng giáo trường sơ học Bảo An

Như chúng ta đã biết, Trịnh Công Sơn học khóa I thường xuyên trường Sư phạm Qui Nhơn (1962-1964). Năm 1964 mãn khóa được bổ lên Blao cùng một số bạn cùng quê, cùng khóa, trong đó có Lê Thị Ngọc Trinh - người trong ban đồng ca của trường Sư phạm Qui Nhơn đã từng lĩnh xướng trường ca Dã Tràng của Sơn. Lê Thị Ngọc Trinh được bổ về trường Nữ Bảo Lộc ở ngay trung tâm Thị xã, Trịnh Công Sơn bổ đi xa hơn một chút là trường sơ học Bảo An cách Tỉnh đường và Ty Tiểu học Lâm Đồng gần một cây số. Trường Bảo An có ba lớp 1,2,3, sĩ số mỗi lớp chừng vài mươi em, đa số học sinh là người dân tộc ít người, chỉ có dăm ba em là người Kinh. Cơ sở của trường có hai phòng đứng cho vơ trên một bãi đất trơ trụi, mái lợp tranh, vách nứa; học sinh mặt mày lem luốt, mũi dãi lò thò, áo quần rách rưới, nhuộm bụi đỏ trông rất thê thảm. Bảo An thuộc loại trường sơ cấp, không có chức Hiệu trưởng. Người phụ trách trường có cái tên cổ cổ là trưởng giáo giống như ông Ngô Đình Khả lúc mới được bổ nhiệm làm trưởng giáo trường Quốc Học hồi cuối thế kỷ XIX vậy (1896). Trịnh Công Sơn được "đào tạo chính qui" nên làm trưởng giáo và đứng dạy lớp ba vào buổi sáng, ông giáo Tạ Văn Thống sắp về hưu dạy hai lớp 1 và 2 vào buổi chiều. Hằng ngày ông trưởng giáo họ Trịnh đi về dạy học phải cuốc bộ trên con đường dốc mà vào mùa nắng thì bụi đó mịt mù, vào mùa mưa bùn lầy nhoe nhoét rất khó bước. Tuy đi về hơi vất vả một chút nhưng chuyện soạn bài và đứng lớp rất thoải mái. Học trò miền núi dễ bảo. Vào mùa hái chè các em ở nhà giúp cha mẹ, đến lớp chỉ có mươi mười lăm em. Phòng học không có cửa, nhiều hôm mây mù bay tràn vào lớp làm cho thầy giáo và học trò cũng lảng đảng theo mây. Nhiều ý nhạc khởi dậy trong lòng ông trưởng giáo Trịnh:

"Bụi về với mây. Người còn đó gieo hạt lúa trên ruộng đất nầy" (Phúc Âm Buồn, 1965).

"Qua khoảng trời trống trơn của lớp học Sơn đã vẽ nhiều ký họa đẹp và sinh động những người dân tộc trên nương rẫy, dưới bóng suối mát". (Đinh Cường kể).


Dạy học ở vùng thượng du thế ấy. Không vui. Nhưng dù sao với chỉ số lương (indique) 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao, mỗi tháng Trịnh Công Sơn cũng lĩnh được 5.200$. So với vật giá lúc ấy: Cà-phê loại ngon 1$/ly, phở 3$/tô, cơm 600$/ tháng, vàng 2.000$/ lượng. . . lương như thế là cao, có của ăn, của để.

Nhà trọ của Trịnh Công Sơn tại Blao là một ngôi nhà kiểu biệt thự mới xây trên khu đất khoáng đạt ở gần Ty Công chính Lâm Đồng. Chủ ngôi nhà là cô Phi - trưởng phòng kế toán Ty Công chính. Trịnh Công Sơn thuê nhà cùng với ba đồng nghiệp họ Nguyễn là Thanh Ty (Nha Trang), Hảo Tâm và Văn Ba (Sư phạm Sài Gòn). Mỗi người phải trả tiền nhà 300$/tháng. Bà chủ nhà có dáng người mảnh dẻ, hơn ba mươi tuổi, cùng với đứa con gái ở chung trong nhà. Nhờ thế các thầy giáo trẻ sống xa nhà đỡ bớt khô khan.

Những khi lễ lược, Blao có tổ chức văn nghệ, Trịnh Công Sơn được mời sinh hoạt với các đồng nghiệp. Ngoài Trịnh Công Sơn, những cây văn nghệ lúc đó mà đến nay dân Blao còn nhớ là Hoàng Thị Ni Na, Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiễm. Lúc ấy dân địa phương Blao ít có người chơi nhạc. Mỗi khi muốn nói chuyện âm nhạc Trịnh Công Sơn hay đến 24 đường Tiên Dung gặp ông Nguyễn Trung Thành làm việc ở Ty Tiểu học. Ông Thành được đào tạo đễ chơi đàn violon trong ban nhạc lễ của nhà thờ Bảo Lộc. Ông không thích nhạc của Sơn nhưng ông phải công nhận với Sơn rằng :" Ca từ (parole) của Trịnh Công Sơn rất tuyệt vời. Sau nầy anh có được người đời biết tiếng chính là nhờ cái phần ca từ". Đến nay thì ông Thành xin nói lại với tôi :" Ca khúc của Trịnh Công Sơn, ca từ hay mà nhạc cũng rất hay !".

Sinh hoạt văn nghệ thường xuyên của Trịnh Công Sơn lúc nầy là hát cho học sinh nghe và dạy cho học sinh hát. Từ hồi còn học Sư phạm, Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều bài hát cho thiếu nhi. Lúc lên dạy học ở Blao, anh lại sáng tác thêm nhiều bài nữa. Ngày nay nhiều người còn thuộc bài Ông Tiên Vui. Cô giáo Lê Thị Ngọc Trinh vừa kể chuyện cũ ở Blao vừa hát cho tôi nghe:

Ông Tiên vui ông có cái râu dài
Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây
Ông tiên vui ông thường hay nhắc đến
Chốn Thiên đình chẳng còn tháng ngày trôi
Ông tiên vui ông có cái căn nhà
Trên ngọn đồi hằng đêm ông ghé qua
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ"


Từ "Tuổi đá buồn" đến "Ca khúc da vàng"

Buổi chiều nghỉ dạy, sau giấc ngủ trưa, Trịnh Công Sơn sửa lại chiếc áo ka-ki vàng, bỏ vô quần tẹc-gan nghiêm chỉnh rồi xỏ chân vào đôi giày Batar rảo bước ra quán Cà-phê bi-Da Ngọc Trang. Anh chơi ở đó cho đến tối. Cũng có hôm, anh cùng với vài người bạn dạo quanh hồ Bảo Lộc hoặc đi dọc theo quốc lộ Sài Gòn Đà Lạt chạy qua Thị xã nói chuyện phiếm. Nhiều hôm thiếu bạn, anh dạo phố một mình với nỗi buồn da diết mà anh đã thể hiện trong bài Chiều Một Mình Qua Phố hồi còn học ở Sư phạm Qui Nhơn (1963). Lúc đầu thanh niên Blao nhìn mái tóc thưa mềm, chạy dài xuống gảy và hàng râu mép hung hung nâu của Sơn, họ lấy làm lạ. Về sau có dịp đến gần và biết Trịnh Công Sơn vừa là thầy giáo vừa là nhạc sĩ hiền hậu hồn nhiên họ đâm ra cảm mến và rất hân hạnh được gần anh. Những chiều không thấy anh dạo phố hay khom mình trên bàn bi-da Ngọc Trang họ cảm thấy vằng vẽ và có ý chờ trông.

Vào dịp nghỉ lễ hay nghỉ cuối tuần, Sơn hay lên xe đò về Sài Gòn chơi với Đinh Cường hoặc Trịnh Cung, chiều Chủ nhật trở lại Blao để sáng thứ hai lên lớp. Anh về Sài Gòn còn có mục đích xuất bản tập nhạc đầu tay của anh. Nhiều lần Trịnh Công Sơn không lên kịp vào đầu tuần, ông giáo Thống đã giúp dạy hộ cho anh. Sự vắng mặt không xin phép của một giáo viên là phạm kỷ luật, may mắn sao ông Lê Cao Lợi - trưởng ty Tiểu học, là người biết mến mộ nghệ sĩ nên dù Trịnh Công Sơn vắng mặt nhiều lần (có lần đến ba tuần) ông vẫn không khiển trách. Từ sau ngày Nguyễn Văn Ba - người bạn đồng nghiệp và cùng thuê chung nhà, chết vì trúng mìn trên đường Blao-Sài Gòn, Trịnh Công Sơn phải tiêu phí những ngày nghỉ ở Blao. Một mình "nằm trong căn gác điều hiu", nghe gió lướt thước kéo qua rừng lau dưới những cơn mưa không dứt, Sơn nghĩ về đời mình, nghĩ về cái chết của Nguyễn Văn Ba, nghĩ về tiếng chuông nhà thờ Bảo Lộc ở phía bên kia đường sáng sáng chiều chiều dội vào sự cô đơn của anh. Và, chính trong những ngày bó gồi ở nhà ấy, anh phát hiện có một người đẹp hằng ngày đi Nhà thờ bằng con đường qua trước cửa phòng anh. Trịnh Công Sơn hơi ân hận. Lâu nay anh bù khú với bọn bạn trai nên không để ý đến người hàng xóm gái ấy. Người có tên là Ngà. Ngà không sắc sảo, không quý phái như các cô gái Huế đã "hờp hồn" anh như Ph. Th., Bích Diễm, nhưng với cái dáng mảnh mai, tóc thề chấm vai, khuôn mặt thánh thiện như mặt Đức Mẹ Đồng Trinh của cô cũng đã làm cho Trịnh Công Sơn mất ngủ. Sự phát hiện trong cõi cô đơn ở Blao có Ngà như một cái nhấn làm bật dậy những dồn nén cô đơn mang tính tâm linh trong Sơn lâu nay. Anh viết bài Tuổi đá buồn.

"Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang. Từng ngón tay buồn em mang em mang, đi vào giáo đường, ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai. Đóa hoa hồng cài trên tóc mây, ôi đường phố dài, lời ru miệt mài ngàn năm ngàn năm, ru em nồng nàn, ru em nồng nàn
"

Bản in lần đầu Ca khúc Trịnh Công Sơn (Nxb An Tiêm, SG 1967), bài Tuổi Đá Buồn được soạn với nhịp 4/4, đoạn mở đầu với 30 nhịp rưỡi mới có một dấu lặng, phần ca từ suốt 55 từ không hề có một cái chấm phẩy nào. Hình ảnh cô Ngà mang ngày chủ nhật buồn (Sombre dimanche) đến nhà thờ, con đường quốc lộ Sài Gòn - Đà Lạt dài hun hút đi qua Thị xã. . . . nối tiếp nhau. Đoạn nhạc dài lê thế ấy diễn tả những cơn mưa không dứt của Bõ lao trong tâm hồn Sơn. Sự cô đơn của Trịnh Công Sơn không phải của người trần thế, của con người với con người, của xác thịt với xác thịt mà chính là của thân phận làm người. Sự cô đơn hư vô nhuốm một chút siêu hình:

" Trời còn làm mưa rơi mưa rơi, từng phiến băng dài trên hai tay xuôi. Tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ".

Sự cô đơn "hư vô" của thân phận làm người nên bao giờ còn "làm kiếp con người" thì còn cô đơn. Vì thế những ý tưởng ấy cứ ẩn hiện không ngừng trong cảm xúc của Sơn.

. . ." Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang. Từng gót chân trần em quên em quên. Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai"

(Ca khúc Trịnh Công Sơn, Nxb An Tiêm, SG 1967)

Nếu không có những ngày chủ nhật buồn ở Blao có lẽ Trịnh Công Sơn không có những ca khúc buồn đến thế. "Người nằm co" trong Phúc Âm Buồn chính là hình ảnh Trịnh Công Sơn trong những ngày ấy.

" Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình"


Muốn tránh xa mọi người, một người nằm yên nhưng không thể nằm yên được.

"Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm"


Trịnh Công Sơn viết bài Phúc Âm Buồn vào năm 1965 - Đấy là năm quân Mỹ đổ bộ ồ ạt lên bến phá Toà Khâm Huế, nhiều bạn bè của anh xuống đường đấu tranh chống chiến tranh, chống lại việc dùng tuổi trẻ như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Cũng có một số bạn của Trịnh Công Sơn bị động viên, bị bắt đi quân trường (nhà thơ Ngô Kha), hay đang trốn lính. Ngày 20.7.1965, Uỷ ban Thanh niên Sinh viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Sài Gòn hội thảo "chuẩn bị giải phóng miền Bắc". Trong hội thảo nầy bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Ở Huế Thái Luân cho ra đời tập thơ phản chiến Vùng Tủi Nhục lên án chiến tranh do Mỹ đạo diễn được sinh viên học sinh chuyền tay nhau đọc. Tận bên Mỹ Bob Dylan, Joan Baez ôm đàn du ca hát phản chiến. . . . Qua thư từ, Trịnh Công Sơn hiểu rõ hết tính hình chiến tranh và đấu tranh kêu gọi hòa bình ấy. Những người bị mời dự hội thảo của Nguyễn Cao Kỳ chống chiến tranh vì tinh thần dân tộc. Trịnh Công Sơn là một người hiền hòa nhân hậu, rất sợ chuyện chém giết. Năm 1963, lúc còn theo học Sư phạm ở Qui Nhơn, đọc Mythe de Sysiphe của Albert Camus (1942) Trịnh Công Sơn đã thấy sự hiện hữu của con người là phi lý (absurde) giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho đá lăn xuống núi không tạo ra một tác dụng nào cả :

" Người chợt nhớ mình như đá . Đá lăn vết lăn buồn".
(Vết Lăn Trầm, 1963)

Đến năm 1965, chiến tranh làm bi thảm hơn sự phi lý của thân phận con người. Đúng như tình hình anh đã thấy trước đó một năm:

"Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"

(Xin Mặt Trời Ngủ Yên, 1964)

Với một ý thức dân tộc chung chung, Trịnh Công Sơn không còn thụ động được nữa, anh phải dấn thân. Suốt cả mùa hè năm 1965, Trịnh Công Sơn nằm lại Bõ lao, đóng cửa soạn những ca khúc chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình như các bài Gia Tài Của Mẹ, Ca Dao Mẹ, Người hát Bài Quê Hương, Du Mục, Lại gần Với Nhau, Người Già Em bé, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng . . . . Lúc ấy hai chữ "hòa bình" bị cấm kỵ. Nói hòa bình là "Cộng sản". Cho nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn soạn xong phải giữ kín và chỉ hát trong giới bạn bè thân thiết thôi. Những bạn bè thân thiết đó ở Đơn Dương, Sài Gòn, Huế, và đặc biệt là Đa Lạt. Bạn bè nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn rất thích, tác giả cất lên tiếng nói bất lực trước cuộc chiến tranh và thể hiện khát vọng hòa bình hộ cho nhiều người thế hệ anh. Nhưng cũng có nhiều người không thích. Những ca khúc phản chiến "nguy hiểm" đến như thế thì có ca sĩ nào dám hát ? May sao, trong những chuyến lên về Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã gặp được một cô "bé quê" trong một phòng trà và cô bé đã lột xác hóa thân thành ca sĩ Khánh Ly hát nhạc phản chiến bắt đầu từ Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1966). Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gắn liền với giọng ca Khánh Ly. Gặp gỡ Khánh Ly là một bước ngoặt mang tính định mệnh của Trịnh Công Sơn. Không có những tháng năm dạy ở Blao để tiện đường lên về Đa Lạt thì làm sao Sơn có thể gặp được Khánh Ly ?

Đến năm 1967, không chỉ có bạn bè anh mới bị "chinh chiến mang đi", mà các đồng nghiệp của anh ở Blao và chính anh bị gọi nhập ngũ . Trịnh Công Sơn không chấp nhận cuộc chiến tranh của Mỹ nên anh trốn lính. Trốn lính từ Blao. Trốn lính và chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp, điều đó có nghĩa là anh phải giả từ cuộc đời làm thầy giáo ngắn ngủi của anh. Trịnh Công Sơn không tự ý bỏ nghề thầy mà vì chính quyền miền Nam lúc ấy đã buột anh phải nghỉ dạy học để đi lính. Anh trốn lính để có thể đi đến cùng sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, cho quyền tự quyết dân tộc.

Trịnh Công Sơn ăn lương dạy học tại Blao chỉ có ba năm (1964 đến 1967). Thời gian ấy ngắn so với cuộc đời sáu mươi ba tuổi của anh (1939-2001). Nhưng không ai có thể viết tiểu sử nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một cách trung thực khi chưa rõ giai đoạn "bụi đỏ sương mù" của anh ở Blao. Bởi vì chính trong giai đoạn nầy anh đi làm thầy giáo rồi buột phải thôi dạy, anh cho xuất bản những tập nhạc đầu tiên của anh, anh soạn loạt bài phản chiến mang tên Ca Khúc Da Vàng, anh gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly và khẳng định sự nghiệp làm nhạc sĩ cho đến cuối đời anh.

Gác Thọ Lộc, một ngày Đông, 2001.


Nguyễn Đắc Xuân



 

Trịnh Công Sơn - Một Nhà Thơ Lớn

Thế là trên bầu trời nghệ thuật Việt Nam một vì sao sáng đã tắt. Khoảng trống này không có gì lấp được.

Tôi ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của nhà cầm quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam. Ở Sài Gòn người đầu tiên tôi tới thăm là Trịnh Công Sơn. Nhà thơ Dương Tường vào trước đã kể về tôi cho Sơn nghe, Sơn đã biết tôi là thế nào nên anh đón tôi không chút e dè. Chúng tôi nói chuyện với nhau cả một buổi sáng. Bên bàn trà, như một cuộc hàn huyên giữa hai người bạn sau thời gian dài xa cách, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện, nhiều nhất là về sáng tác, về thiên chức của nghệ sĩ, chỗ đứng của anh ta trong lòng dân tộc... Giữa câu chuyện tôi hỏi Sơn tại sao anh không đi ra nước ngoài, mà ở lại để sống trong kìm kẹp? Sơn trầm ngâm:

- Mình có nghĩ tới chuyện đó chứ. Nhưng mình không thể đi. Người nghệ sĩ không thể sống xa quê hương. Xa nó, anh ta sẽ cạn nguồn cảm hứng, mà cái đó thì chẳng khác gì cái chết.

Sơn nghĩ đúng. Mặc dầu ở lại Sơn phải sống trong một thế giới xa lạ, ở đó không còn cách nào khác là hoặc tự nguyện nhập vào nó, hoặc tự tạo ra một thế giới tự do cho mình. Mà tạo ra cái thế giới đó, ai cũng biết, chẳng dễ gì. Cần phải có cái tâm của đạo sĩ mới có thể thiền giữa chợ.

Cũng trong lần gặp ấy, Sơn đọc cho tôi nghe một số bài thơ anh mới viết, mở băng cho tôi nghe một số ca khúc mới làm xong. Nhiều bài tôi được nghe hôm ấy, có bài rất hay, có bài khng đặc sắc cho lắm, về sau tôi không thấy Sơn cho chúng ra đời. Ở Văn Cao cũng vậy. Số lượng những gì mà các nghệ sĩ mà chúng ta yêu mến đã sáng tác thường lớn hơn rất nhiều so với những gì mà chúng ta được biết. Có trời biết số phận chúng ra sao? Rất có thể chúng đã làm mồi cho lửa trong một cơn buồn cô quạnh, khi nghệ sĩ lấy rượu để dập tắt nó, và chán chường tất cả, không trừ chính mình. Người ta dễ biết con số người bị giết hơn là số những sáng tác bị bách hại, bị bức tử. Ở đâu tội ác vẫn cứ là tội ác.

Cũng hôm đó Sơn nói với tôi:

- Mình nhiều lúc ngã lòng, nhất là khi mình thấy người ta chẳng hiểu gì về mình, chửi bới mình, hành hạ mình. Ðến nỗi muốn thoả hiệp cho xong. Nhưng nghĩ lại thấy không được. Nghệ sĩ không thể thoả hiệp với cái Xấu, cái Ác. Có thể tạm lui bước, nhưng thoả hiệp thì không bao giờ.

Và Sơn đã không thoả hiệp. Anh sáng tác ít hơn. Những ca khúc mất dần tính triết lý. Sơn sợ những hiểu lầm. Rồi anh quay sang vẽ tranh. Những bức tranh siêu thực, tặng nhiều hơn bán. Và vùi nỗi buồn trong rượu. Bè bạn khuyên can, Sơn bỏ rượu, nhưng không ngừng uống bia. Rồi quay lại rượu lúc nào không biết.

Tôi yêu Trịnh Công Sơn - con người có dễ nhiều hơn Trịnh Công Sơn - nhạc sĩ. Nhưng là nói thế thôi, chứ ở anh ranh giới này gần như không có. Trường hợp tương tự không nhiều, khi con người nhân thế và con người nghệ sĩ nhập làm một.

Cha tôi cũng rất yêu Sơn. Một lần ra Hà Nội, nghe tin cha tôi lâm bệnh, Sơn đã vác đàn đến bên giường hát cho ông nghe. Cha tôi nói rằng ông cảm thấy hạnh phúc khi được nghe Sơn hát. Những ca khúc của Sơn hoá ra còn có tác dụng chữa bệnh. Bởi vì chúng là những lời chân thành của con người nói với con người, những lời tâm tình, những lời an ủi, những lời chia sẻ...

Có một sự nhất trí hình như không được đúng lắm, rằng nhạc Trịnh Công Sơn chỉ là nhạc phản chiến. Tôi nghĩ nhạc của anh là một cái gì hơn thế. Nó là lời chia sẻ những suy ngẫm về ý nghĩa nhân sinh, về tình thương yêu giữa con người và con người. Anh nói với mọi người những lời này vào mọi lúc, mọi nơi, chứ không phải chỉ trong chiến tranh để trở thành phản chiến.

Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta.

Khi tôi viết những dòng này thì Sơn đã an nhiên trở về với cát bụi, như anh đã nói trước. Mộ anh phủ đầy hoa của những người hiểu anh và yêu mến anh. Khi anh qua đời, có những kẻ đã coi thường anh, đã hành hạ anh khi anh còn sống, đến nghiêng mình trước linh cữu anh, và có cả những kẻ vẫn hát lời anh viết, bây giờ nhai nhải chửi anh là nhạc tặc, là tên phản quốc trên những bài báo không ai muốn đọc. Nhưng nếu Sơn còn biết những chuyện đó, anh cũng sẽ an nhiên mỉm cười. Và không nói gì hết.

Warszawa 4.

Vũ Thư Hiên


 
Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù


Lân đầu tiên những người yêu thích âm nhạc Việt Nam chúng ta đón mùa Xuân về mà không có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đây là một sự hụt hẫng mà có người bảo rằng "phải tập làm quen trong nhiều mùa xuân nữa mới quen được". Nhưng đối với tôi - một người bạn chưa bao giờ ở với Sơn ngày nào nên tôi vẫn cảm thấy Sơn đang sống ở đâu đó. Tôi không gặp Sơn như lúc tôi đến nhà 47C Phạm Ngọc Thạch mà Sơn ngủ chưa dậy. Tôi đành quay xe và tự hẹn với mình lần sau vào Thành phố Hồ Chí Minh sẽ lại đến.

Cho đến nay, Trịnh Công Sơn vẫn chưa - như gia đình tôi hay dùng- exit (thoát) khỏi đời sống của tôi. Bởi vì, tôi là một người luôn luôn thích khám phá bí ẩn nhưng có nhiều giai đoạn trong cuộc đời của bạn tôi, tôi chưa công bố. Tôi vẫn còn nợ giai đoạn Trịnh Công Sơn dạy học và bắt đầu làm nhạc phản chiến ở Blao-Lâm Đồng. Đây là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời Sơn nhưng Sơn rất ít viết, ít đề cập đến và tất nhiên bạn be ẵ-những người yêu thích âm nhạc Sơn, cũng ít biết. Để chuẩn bị cho việc "trả nợ nầy", tôi đã làm một cuộc hành hương trở lại vùng cao nguyên bụi đỏ sương mù Blao để làm sống dậy những điều mà Trịnh Công Sơn đã chôn chặt nơi đây.

Người cung cấp những thông tin đầu tiên về những năm tháng Trịnh Công Sơn dạy học và sáng tác ở Blao cho tôi là chị Lê Thị Ngọc Trinh - bạn học Sư phạm khóa I (1962-1964) với Sơn ở Qui Nhơn và đồng nghiệp của Sơn ở Blao. Người dẫn đường là thầy giáo Lê Quang Kết ở Blao. Những người hiểu rõ những năm tháng Trịnh Công Sơn ờ Blao là cụ Lê Cao Lợi - nguyên trưởng ty Tiểu học, lãnh đạo của thầy giáo Trịnh Công Sơn lúc ấy và cụ Phạm Trung Thành, nhân viên cũ của Ty Tiểu học (từ năm 1964) - người chơi đàn violon, hay trao đổi về âm nhạc với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Blao. Tư liệu bổ sung do hai ông bạn họa sĩ Đinh Cường và Trịnh Cung giúp.

Trịnh Công Sơn - trưởng giáo trường sơ học Bảo An

Như chúng ta đã biết, Trịnh Công Sơn học khóa I thường xuyên trường Sư phạm Qui Nhơn (1962-1964). Năm 1964 mãn khóa được bổ lên Blao cùng một số bạn cùng quê, cùng khóa, trong đó có Lê Thị Ngọc Trinh - người trong ban đồng ca của trường Sư phạm Qui Nhơn đã từng lĩnh xướng trường ca Dã Tràng của Sơn. Lê Thị Ngọc Trinh được bổ về trường Nữ Bảo Lộc ở ngay trung tâm Thị xã, Trịnh Công Sơn bổ đi xa hơn một chút là trường sơ học Bảo An cách Tỉnh đường và Ty Tiểu học Lâm Đồng gần một cây số. Trường Bảo An có ba lớp 1,2,3, sĩ số mỗi lớp chừng vài mươi em, đa số học sinh là người dân tộc ít người, chỉ có dăm ba em là người Kinh. Cơ sở của trường có hai phòng đứng cho vơ trên một bãi đất trơ trụi, mái lợp tranh, vách nứa; học sinh mặt mày lem luốt, mũi dãi lò thò, áo quần rách rưới, nhuộm bụi đỏ trông rất thê thảm. Bảo An thuộc loại trường sơ cấp, không có chức Hiệu trưởng. Người phụ trách trường có cái tên cổ cổ là trưởng giáo giống như ông Ngô Đình Khả lúc mới được bổ nhiệm làm trưởng giáo trường Quốc Học hồi cuối thế kỷ XIX vậy (1896). Trịnh Công Sơn được "đào tạo chính qui" nên làm trưởng giáo và đứng dạy lớp ba vào buổi sáng, ông giáo Tạ Văn Thống sắp về hưu dạy hai lớp 1 và 2 vào buổi chiều. Hằng ngày ông trưởng giáo họ Trịnh đi về dạy học phải cuốc bộ trên con đường dốc mà vào mùa nắng thì bụi đó mịt mù, vào mùa mưa bùn lầy nhoe nhoét rất khó bước. Tuy đi về hơi vất vả một chút nhưng chuyện soạn bài và đứng lớp rất thoải mái. Học trò miền núi dễ bảo. Vào mùa hái chè các em ở nhà giúp cha mẹ, đến lớp chỉ có mươi mười lăm em. Phòng học không có cửa, nhiều hôm mây mù bay tràn vào lớp làm cho thầy giáo và học trò cũng lảng đảng theo mây. Nhiều ý nhạc khởi dậy trong lòng ông trưởng giáo Trịnh:

"Bụi về với mây. Người còn đó gieo hạt lúa trên ruộng đất nầy" (Phúc Âm Buồn, 1965).

"Qua khoảng trời trống trơn của lớp học Sơn đã vẽ nhiều ký họa đẹp và sinh động những người dân tộc trên nương rẫy, dưới bóng suối mát". (Đinh Cường kể).


Dạy học ở vùng thượng du thế ấy. Không vui. Nhưng dù sao với chỉ số lương (indique) 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao, mỗi tháng Trịnh Công Sơn cũng lĩnh được 5.200$. So với vật giá lúc ấy: Cà-phê loại ngon 1$/ly, phở 3$/tô, cơm 600$/ tháng, vàng 2.000$/ lượng. . . lương như thế là cao, có của ăn, của để.

Nhà trọ của Trịnh Công Sơn tại Blao là một ngôi nhà kiểu biệt thự mới xây trên khu đất khoáng đạt ở gần Ty Công chính Lâm Đồng. Chủ ngôi nhà là cô Phi - trưởng phòng kế toán Ty Công chính. Trịnh Công Sơn thuê nhà cùng với ba đồng nghiệp họ Nguyễn là Thanh Ty (Nha Trang), Hảo Tâm và Văn Ba (Sư phạm Sài Gòn). Mỗi người phải trả tiền nhà 300$/tháng. Bà chủ nhà có dáng người mảnh dẻ, hơn ba mươi tuổi, cùng với đứa con gái ở chung trong nhà. Nhờ thế các thầy giáo trẻ sống xa nhà đỡ bớt khô khan.

Những khi lễ lược, Blao có tổ chức văn nghệ, Trịnh Công Sơn được mời sinh hoạt với các đồng nghiệp. Ngoài Trịnh Công Sơn, những cây văn nghệ lúc đó mà đến nay dân Blao còn nhớ là Hoàng Thị Ni Na, Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiễm. Lúc ấy dân địa phương Blao ít có người chơi nhạc. Mỗi khi muốn nói chuyện âm nhạc Trịnh Công Sơn hay đến 24 đường Tiên Dung gặp ông Nguyễn Trung Thành làm việc ở Ty Tiểu học. Ông Thành được đào tạo đễ chơi đàn violon trong ban nhạc lễ của nhà thờ Bảo Lộc. Ông không thích nhạc của Sơn nhưng ông phải công nhận với Sơn rằng :" Ca từ (parole) của Trịnh Công Sơn rất tuyệt vời. Sau nầy anh có được người đời biết tiếng chính là nhờ cái phần ca từ". Đến nay thì ông Thành xin nói lại với tôi :" Ca khúc của Trịnh Công Sơn, ca từ hay mà nhạc cũng rất hay !".

Sinh hoạt văn nghệ thường xuyên của Trịnh Công Sơn lúc nầy là hát cho học sinh nghe và dạy cho học sinh hát. Từ hồi còn học Sư phạm, Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều bài hát cho thiếu nhi. Lúc lên dạy học ở Blao, anh lại sáng tác thêm nhiều bài nữa. Ngày nay nhiều người còn thuộc bài Ông Tiên Vui. Cô giáo Lê Thị Ngọc Trinh vừa kể chuyện cũ ở Blao vừa hát cho tôi nghe:

Ông Tiên vui ông có cái râu dài
Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây
Ông tiên vui ông thường hay nhắc đến
Chốn Thiên đình chẳng còn tháng ngày trôi
Ông tiên vui ông có cái căn nhà
Trên ngọn đồi hằng đêm ông ghé qua
Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ"


Từ "Tuổi đá buồn" đến "Ca khúc da vàng"


Buổi chiều nghỉ dạy, sau giấc ngủ trưa, Trịnh Công Sơn sửa lại chiếc áo ka-ki vàng, bỏ vô quần tẹc-gan nghiêm chỉnh rồi xỏ chân vào đôi giày Batar rảo bước ra quán Cà-phê bi-Da Ngọc Trang. Anh chơi ở đó cho đến tối. Cũng có hôm, anh cùng với vài người bạn dạo quanh hồ Bảo Lộc hoặc đi dọc theo quốc lộ Sài Gòn Đà Lạt chạy qua Thị xã nói chuyện phiếm. Nhiều hôm thiếu bạn, anh dạo phố một mình với nỗi buồn da diết mà anh đã thể hiện trong bài Chiều Một Mình Qua Phố hồi còn học ở Sư phạm Qui Nhơn (1963). Lúc đầu thanh niên Blao nhìn mái tóc thưa mềm, chạy dài xuống gảy và hàng râu mép hung hung nâu của Sơn, họ lấy làm lạ. Về sau có dịp đến gần và biết Trịnh Công Sơn vừa là thầy giáo vừa là nhạc sĩ hiền hậu hồn nhiên họ đâm ra cảm mến và rất hân hạnh được gần anh. Những chiều không thấy anh dạo phố hay khom mình trên bàn bi-da Ngọc Trang họ cảm thấy vằng vẽ và có ý chờ trông.

Vào dịp nghỉ lễ hay nghỉ cuối tuần, Sơn hay lên xe đò về Sài Gòn chơi với Đinh Cường hoặc Trịnh Cung, chiều Chủ nhật trở lại Blao để sáng thứ hai lên lớp. Anh về Sài Gòn còn có mục đích xuất bản tập nhạc đầu tay của anh. Nhiều lần Trịnh Công Sơn không lên kịp vào đầu tuần, ông giáo Thống đã giúp dạy hộ cho anh. Sự vắng mặt không xin phép của một giáo viên là phạm kỷ luật, may mắn sao ông Lê Cao Lợi - trưởng ty Tiểu học, là người biết mến mộ nghệ sĩ nên dù Trịnh Công Sơn vắng mặt nhiều lần (có lần đến ba tuần) ông vẫn không khiển trách. Từ sau ngày Nguyễn Văn Ba - người bạn đồng nghiệp và cùng thuê chung nhà, chết vì trúng mìn trên đường Blao-Sài Gòn, Trịnh Công Sơn phải tiêu phí những ngày nghỉ ở Blao. Một mình "nằm trong căn gác điều hiu", nghe gió lướt thước kéo qua rừng lau dưới những cơn mưa không dứt, Sơn nghĩ về đời mình, nghĩ về cái chết của Nguyễn Văn Ba, nghĩ về tiếng chuông nhà thờ Bảo Lộc ở phía bên kia đường sáng sáng chiều chiều dội vào sự cô đơn của anh. Và, chính trong những ngày bó gồi ở nhà ấy, anh phát hiện có một người đẹp hằng ngày đi Nhà thờ bằng con đường qua trước cửa phòng anh. Trịnh Công Sơn hơi ân hận. Lâu nay anh bù khú với bọn bạn trai nên không để ý đến người hàng xóm gái ấy. Người có tên là Ngà. Ngà không sắc sảo, không quý phái như các cô gái Huế đã "hờp hồn" anh như Ph. Th., Bích Diễm, nhưng với cái dáng mảnh mai, tóc thề chấm vai, khuôn mặt thánh thiện như mặt Đức Mẹ Đồng Trinh của cô cũng đã làm cho Trịnh Công Sơn mất ngủ. Sự phát hiện trong cõi cô đơn ở Blao có Ngà như một cái nhấn làm bật dậy những dồn nén cô đơn mang tính tâm linh trong Sơn lâu nay. Anh viết bài Tuổi đá buồn.

"Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang. Từng ngón tay buồn em mang em mang, đi vào giáo đường, ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai. Đóa hoa hồng cài trên tóc mây, ôi đường phố dài, lời ru miệt mài ngàn năm ngàn năm, ru em nồng nàn, ru em nồng nàn"

Bản in lần đầu Ca khúc Trịnh Công Sơn (Nxb An Tiêm, SG 1967), bài Tuổi Đá Buồn được soạn với nhịp 4/4, đoạn mở đầu với 30 nhịp rưỡi mới có một dấu lặng, phần ca từ suốt 55 từ không hề có một cái chấm phẩy nào. Hình ảnh cô Ngà mang ngày chủ nhật buồn (Sombre dimanche) đến nhà thờ, con đường quốc lộ Sài Gòn - Đà Lạt dài hun hút đi qua Thị xã. . . . nối tiếp nhau. Đoạn nhạc dài lê thế ấy diễn tả những cơn mưa không dứt của Bõ lao trong tâm hồn Sơn. Sự cô đơn của Trịnh Công Sơn không phải của người trần thế, của con người với con người, của xác thịt với xác thịt mà chính là của thân phận làm người. Sự cô đơn hư vô nhuốm một chút siêu hình:

" Trời còn làm mưa rơi mưa rơi, từng phiến băng dài trên hai tay xuôi. Tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ".


Sự cô đơn "hư vô" của thân phận làm người nên bao giờ còn "làm kiếp con người" thì còn cô đơn. Vì thế những ý tưởng ấy cứ ẩn hiện không ngừng trong cảm xúc của Sơn.

. . ." Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang. Từng gót chân trần em quên em quên. Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai"

(Ca khúc Trịnh Công Sơn, Nxb An Tiêm, SG 1967)


Nếu không có những ngày chủ nhật buồn ở Blao có lẽ Trịnh Công Sơn không có những ca khúc buồn đến thế. "Người nằm co" trong Phúc Âm Buồn chính là hình ảnh Trịnh Công Sơn trong những ngày ấy.

" Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình"


Muốn tránh xa mọi người, một người nằm yên nhưng không thể nằm yên được.

"Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm"


Trịnh Công Sơn viết bài Phúc Âm Buồn vào năm 1965 - Đấy là năm quân Mỹ đổ bộ ồ ạt lên bến phá Toà Khâm Huế, nhiều bạn bè của anh xuống đường đấu tranh chống chiến tranh, chống lại việc dùng tuổi trẻ như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Cũng có một số bạn của Trịnh Công Sơn bị động viên, bị bắt đi quân trường (nhà thơ Ngô Kha), hay đang trốn lính. Ngày 20.7.1965, Uỷ ban Thanh niên Sinh viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Sài Gòn hội thảo "chuẩn bị giải phóng miền Bắc". Trong hội thảo nầy bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Ở Huế Thái Luân cho ra đời tập thơ phản chiến Vùng Tủi Nhục lên án chiến tranh do Mỹ đạo diễn được sinh viên học sinh chuyền tay nhau đọc. Tận bên Mỹ Bob Dylan, Joan Baez ôm đàn du ca hát phản chiến. . . . Qua thư từ, Trịnh Công Sơn hiểu rõ hết tính hình chiến tranh và đấu tranh kêu gọi hòa bình ấy. Những người bị mời dự hội thảo của Nguyễn Cao Kỳ chống chiến tranh vì tinh thần dân tộc. Trịnh Công Sơn là một người hiền hòa nhân hậu, rất sợ chuyện chém giết. Năm 1963, lúc còn theo học Sư phạm ở Qui Nhơn, đọc Mythe de Sysiphe của Albert Camus (1942) Trịnh Công Sơn đã thấy sự hiện hữu của con người là phi lý (absurde) giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho đá lăn xuống núi không tạo ra một tác dụng nào cả :

" Người chợt nhớ mình như đá . Đá lăn vết lăn buồn".
(Vết Lăn Trầm, 1963)


Đến năm 1965, chiến tranh làm bi thảm hơn sự phi lý của thân phận con người. Đúng như tình hình anh đã thấy trước đó một năm:

"Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"

(Xin Mặt Trời Ngủ Yên, 1964)

Với một ý thức dân tộc chung chung, Trịnh Công Sơn không còn thụ động được nữa, anh phải dấn thân. Suốt cả mùa hè năm 1965, Trịnh Công Sơn nằm lại Bõ lao, đóng cửa soạn những ca khúc chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình như các bài Gia Tài Của Mẹ, Ca Dao Mẹ, Người hát Bài Quê Hương, Du Mục, Lại gần Với Nhau, Người Già Em bé, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng . . . . Lúc ấy hai chữ "hòa bình" bị cấm kỵ. Nói hòa bình là "Cộng sản". Cho nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn soạn xong phải giữ kín và chỉ hát trong giới bạn bè thân thiết thôi. Những bạn bè thân thiết đó ở Đơn Dương, Sài Gòn, Huế, và đặc biệt là Đa Lạt. Bạn bè nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn rất thích, tác giả cất lên tiếng nói bất lực trước cuộc chiến tranh và thể hiện khát vọng hòa bình hộ cho nhiều người thế hệ anh. Nhưng cũng có nhiều người không thích. Những ca khúc phản chiến "nguy hiểm" đến như thế thì có ca sĩ nào dám hát ? May sao, trong những chuyến lên về Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã gặp được một cô "bé quê" trong một phòng trà và cô bé đã lột xác hóa thân thành ca sĩ Khánh Ly hát nhạc phản chiến bắt đầu từ Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1966). Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gắn liền với giọng ca Khánh Ly. Gặp gỡ Khánh Ly là một bước ngoặt mang tính định mệnh của Trịnh Công Sơn. Không có những tháng năm dạy ở Blao để tiện đường lên về Đa Lạt thì làm sao Sơn có thể gặp được Khánh Ly ?

Đến năm 1967, không chỉ có bạn bè anh mới bị "chinh chiến mang đi", mà các đồng nghiệp của anh ở Blao và chính anh bị gọi nhập ngũ . Trịnh Công Sơn không chấp nhận cuộc chiến tranh của Mỹ nên anh trốn lính. Trốn lính từ Blao. Trốn lính và chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp, điều đó có nghĩa là anh phải giả từ cuộc đời làm thầy giáo ngắn ngủi của anh. Trịnh Công Sơn không tự ý bỏ nghề thầy mà vì chính quyền miền Nam lúc ấy đã buột anh phải nghỉ dạy học để đi lính. Anh trốn lính để có thể đi đến cùng sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, cho quyền tự quyết dân tộc.

Trịnh Công Sơn ăn lương dạy học tại Blao chỉ có ba năm (1964 đến 1967). Thời gian ấy ngắn so với cuộc đời sáu mươi ba tuổi của anh (1939-2001). Nhưng không ai có thể viết tiểu sử nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một cách trung thực khi chưa rõ giai đoạn "bụi đỏ sương mù" của anh ở Blao. Bởi vì chính trong giai đoạn nầy anh đi làm thầy giáo rồi buột phải thôi dạy, anh cho xuất bản những tập nhạc đầu tiên của anh, anh soạn loạt bài phản chiến mang tên Ca Khúc Da Vàng, anh gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly và khẳng định sự nghiệp làm nhạc sĩ cho đến cuối đời anh.

Gác Thọ Lộc, một ngày Đông, 2001.

Nguyễn Đắc Xuân
 
Một cõi đi về

* Triết học Ấn Độ nới rằng: nếu nơi này vừa có một kẻ bỗng dưng giàu lên thì lập tức ở một nơi khác sẽ có một kẻ mất hết sản nghiệp.

Chiều nay ở sân bay vừa đưa tiễn những người thân đi xa. Về nhà, ngừơi bạn tôi nói: ở nơi này vừa thiếu đi bốn người thì lập tức ở nơi xa xôi kia nhận thêm đuợc bốn người...
Có một nỗi buồn ở nơi này thì sẽ có một niềm vui ở chốn khác.
Có một trái tim khổ nạn của người này thì tất nhiên sẽ có một trái tim hân hoan ở kẻ khác.

* Những ai đã đến và đi với đời thì có lúc phải lìa xa nó. Một cõi đi về..
Trong Phật giáo, một trong những "hạnh" cao nhất của kẻ bố thí.
Cho kẻ này những sẽ nhận lại ở kẻ khác.

Thanh Tùng nới với tôi: " Tôi muốn làm một điều gì đó thật tốt đẹp cho người đã khuất, người vợ một đời lo âu tận tuỵ vì tôi"

Vợ Tùng đã một đời cho Tùng nhiều quá thì sẽ nhận được quà tặng ở một nơi khác. Tùng biết cách cho thì vợ Tùng sẽ nhận được. Những đứa con của vợ Tùng sẽ nhận được. Những thân quyến, bạn hữu của vợ Tùng sẽ nhận được.

* Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhở của nhiều người.
Trước khi mất vợ Tùng nói với tôi:" Nếu khỏe, em về lại nhà và sẽ chỉ làm hai điều này thôi. Mang quà mỗi ngày cho những người nghèo đau ốm trong bệnh viện và chiều chiều làm đồ nhậu cho các anh với anh Tùng để nghe các anh nói chuyện đời, chuyện nghệ thuật"

Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ. Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nảy sinh.

Cái mất không bao giờ mất hẳn.
Cái hẳn không hẳn mãi là còn..

Sóng nhạc - 1990
 
Viết và thở

Trịnh Công Sơn

Có mộy thời tôi cần viết nhạc như cần thở vậy. Thời trẻ trung, vọng động, thở nhiều, viết khoẻ. Càng lớn công việc hô hấp càng để huề, bớt cănng thẳng, nhịp viết lách có bề lả lơi lai rai hơn.

Có một bầu không khí dành cho sự hít thở. Vì hô hấp quá cần cho sự sống nên không ai lười thở. Người ở đồng bằng thở theo kiểu sông rạch trôi đi miên man lở bồi phù sa, nước phèn, mặn, ngọt. Người thung lũng thở kiểu ẩm đục sương giăng. Ngừơi ở trên non thở hồn nhiên lãng đãng.

Tôi đi qua những bè thế ấy, viết và thở. Có khi viết thở kiểu hào hoa phong nhã công tử Bạc Liêu. Có khi hồn xiêu phách lạc viết thở theo phong thái ngỡ ngàng rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Lại có lúc thơ thới hồn nhiền viết thở tựa như những bước chân hân hoan của "Hoàng tử bé" rong chơi qua mọi vùng sinh thái tinh cầu.

Thời đại chúng ta đang sống, con người xô đẩy nhau la ó về chuyện cần làm sạch sẽ môi sinh. Càng văn minh càng ô nhiễm khở. Không khí vốn là một món ăn thiên nhiên tạo hoá đã dành sẵn cho lá phổi. Bỗng một hôm, hai bữa, ba bốn ngày nọ tiếp nối đổ xô về hàng loạt những thứ bụi bặm kệch cỡm múa mau rối răm trên trời dưới đất, trên nguồn dưới lũng, không dung tha, không khoan nhượng. Thứ bụi rác độc hại đã xé toang buồn phổi sự sống của chúng ta. Mọi thứ sinh linh khác cũng khó bề tồn tại.

Không khí vốn vô tư.Ai muốn thở cũng được.
Tôi vốn viết nhạc cũng như thở vậy.
Có điều khi thở tôi chọn cái không khí trong lành để cho lá phổi không than phiền và cái sự hô hấp cũng bớt đi phần gian nan.
Có điều khi thở tôi chọn cái không khí trong lành để cho lá phổi không thanh phiền và cái sự hô hấp cũng bớt đi phần gian nan.

Một bài hát cũng vậy. Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi. Sản phẩm văn nghệ chỉ đẹp khi có khả năng xoá đi những nỗi giận hờn. Nó có bao giờ, muốn đèo bòng một thứ khác để tự huỷ diệt nó.
 
Bạn nào không đọc được bài của Vân Trang, xin chuyển Font chữ mà Trang đang dùng: Georgia. Sang Font chữ: Times New Roman.

Chào Thân ái!
 
Back
Bên trên