Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ

Bắt được 'hồn' Trịnh Công Sơn qua giọng ca Khánh Ly

Nhạc Trịnh Công Sơn quả là có ảnh hưởng rộng lớn tới âm nhạc Việt Nam. Điều này chứng tỏ khi các ca sĩ hàng đầu (tự phong) đều cố gắng hát nhạc Trịnh (Hồng Nhung, Thanh Lam và Đàm Vinh Hưng nữa). Nhưng mà hỡi ôi, lực bất tòng tâm!
Xin thưa là cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc sinh thời cũng đã công nhận người hát nhạc của ông hay nhất là Khánh Ly. Giọng ca vượt thời gian này sở dĩ lột tả được nhạc Trịnh vì là người cùng thời, sống trong cùng thời đoạn lịch sử. Hơn nữa hai tâm hồn nghệ sĩ chân chính này thực sự là tri kỷ của nhau, hiểu và cảm thông những day dứt về thân phận con người, vận mệnh của một dân tộc, những nỗi niềm thời cuộc. Mặt khác, Khánh Ly quả là một giọng ca đặc sắc có một không hai. Trịnh Công Sơn - Khánh Ly là hai cái tên đã được công nhận - đi kèm với nhau - cả trong ngoài nước, đơn giản là vì Khánh Ly là người duy nhất thể hiện cái hồn trong nhạc Trịnh. Khán thính giả Nhật, Mỹ, Canada và nhiều nước khác chắc chắn không thể hiểu được cái thâm thúy trong ca từ Trịnh Công Sơn. Nhưng họ đã bắt được cái hồn nhạc Trịnh qua sự thể hiện của ca sĩ Khánh Ly.

Nhạc sĩ họ Trịnh đã qua đời. Không còn ai phán xét cách thể hiện nhạc của các ca sĩ có lột tả được tư duy của ông không. Tác phẩm của ông bây giờ là di sản văn hóa, nói gần gũi hơn là thuộc về quần chúng. Ai muốn hát thì cứ hát. Đánh giá đã có thời gian và công chúng. Công luận và thời gian là các giám khảo công bằng nhất. Không ai cần phải tự thổi phồng, vuối đuôi cho mình.

Cuối cùng, xin những người của công chúng: ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên điện ảnh, hoa hậu, người mẫu thời trang... ngôi sao các loại, nên biết "uốn lưỡi bảy lần" trước khi phát biểu. Quý vị đã tự ý chọn để làm người của công chúng, của dư luận. Việc này không có ai ép, nếu không muốn nữa thì chỉ việc nghỉ hát hò, trình diễn ở nhà là xong chuyện.
 
Trịnh Công Sơn



1.

Đừng tuyệt vọng vì cuộc đời hồn nhiên vì cuộc đời hồn nhiên đôn hậu vẫn luôn cho ta những thú vui khác. Những ngày vui của đời thì thênh thang vô tận. Hết cuộc tuyệt vọng này đến một cuộc tuyệt vọng khác biết đâu cũng là một niềm vui. Một niềm vui dù không có thật thì cũng đủ an ủi trong phút chốc.



2.

Từ buổi con người sống quá rẻ rúng, tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của nỗi tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa.



3.

Vết thương tỉnh thức là một con mắt sáng ngời. Nó nhìn ngược về qúa khứ và ngó thẳng đến tương lai.



4.

Đừng than thân trách phận. Đời không có lỗi với ai, chỉ có ta có lỗi với đời.



5

Con người ta sinh ra vốn bát toàn và để làm những điều lầm lỗi. Nó đẹp vì bất toàn. Nó đáng yêu vì nó luôn luôn lầm lỗi.Vậy thì cứ yêu mà đừng tuyệt vọng.



6

Đời sống có những nhầm lẫn trẻ thơ, không nên giận dỗi.



7

Đừng mơ ước quá xa xôi vì giấc mộng của chúng ta là có thật hoặc sẽ có thật trong bờ cõi nhỏ nhắn những đôn hậu và tình tứ này.



8

Có những kẻ thấy được thiên đường. Có những kẻ thấy được địa ngục. Và có không ít những kẻ bị chọc mù đôi mắt khi đi qua tình yêu



9

Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức.



10

Con ngưòi chỉ là một loài thiêu thân vô tội bay mãi vào ảo tuởng tình yêu.



11

Bởi cái chết đã dựng hình tượng trong cõi sống…Chỉ có trong tình yêu ta mới bắt gặp được cái chết của chính mình. Tình yêu cũng mở ngõ cho những lần hóa kiếp. Hãy thử bước vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết thật vô cùng yêu dấu.



12

Tôi yêu và tôi tồn tại.Yêu và tha thứ. Tha thứ và yêu.



13

Tình yêu cứu vãn hư không



14

Có lẽ trong các trò chơi chung thì trò chơi tình bạn là ít gây phiền não nhất.Nó chỉ có thể vui nhiều hoặc vui ít chứ không thể làm nên những đoạn trường.



15

Hạnh phúc là một điều không bao gìờ có thật. Nếu có thật thì những nhà tiên tri vĩ đại đã không nhọc lòng bịă đặt thêm Thiên Đuờng và Niết Bàn để làm gì nữa. Cái hạnh phúc ở trần gian chính là ý thức đựơc khổ đau. Đau khổ nên phải biết rộng lòng với nhau hơn, tử tế hơn, độ lượng hơn, biết tha thứ nhân hâu hơn. Bài học ấy không dễ gì bởi Cuộc Sống cho đến này điều Thiện vẫn còn vắng bóng.



16

Khi ta cho mà tâm ta vô cầu thì mầm bi ai đã đâm chồi và quả hân hoan đã kết trái. Lòng ta vui sướng tràn trề hạnh phúc mà không hiểu vì đâu. Không hiểu vì đâu ta đã được trả lại gấp nhiều lần hơn và làm ta mất phương hướng.



17

Đừng để hồn mình mòn đi vì những tổn thương tưởng có thật mà không có thật.



18

Thần tượng của mọi người đôi khi là một tai nạn. Đừng bao gìơ đồng hóa thần tượng với một nô lệ. Đừng nhốt nó vào cái lồng của riêng mình.



19

Nếu đủ sức giương cung, hãy chọn mũi tên định mệnh.



20

Nỗi bất hạnh nhất của chúng ta là luôn luôn có một kẻ thù để chống lại. Trong suốt hành trình của lịch sử, những kẻ thù mang tên khác nhau. Bất hạnh lớn dần để trở thành hiểm họa khi hai kẻ thù nghịch mang cùng một tên chung.



21

Mỗi dự phòng về hạnh phúc con người . Đến lúc đạt được đỉnh cao thì chính là lúc kề cận nhất với vực sâu. Và có thực đó là một đỉnh cao?

22

Tôi gọi những kẻ muốn lấp biển và trời là những con người đam mê tuyệt vọng. “Mọi đam mê đều vô ích” Đam mê tuyệt vọng dẫn ta về hư vô. Bao nhiêu cánh cửa hư vô đã mở toang cuối những chặng đường đẫm máu của lich sử nhân loại.



23

Quên và biết quên cũng là một lẽ sống ở đời. Biết quên nên đời sống bỗng nhiên biết cất tiếng hát



24

Hãy biết yêu như thế nào đó để cái chết chỉ còn là một tồn tại viển vông, chẳng cần thiết.



25

Sống làm thế nào cho tròn đầy sự có mặt và chết cho sự ngập tràn cõi hư không.



26

Tôi không quan niệm tìm đến với Phật tính trong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật. Tôi ngồi. Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi tràn ngập Phật.



27

Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở cuối bình minh nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc trở hoàng hôn về núi mỗi chiều.

 
Diễm của những ngày xưa

Trịnh Công Sơn

Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường đại học văn khoa ở Huế.

Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa mưa Huế người còn gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt.

Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường.

Từ balcon nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ.

Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một giòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực.

Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm theo hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình. Đó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa.

Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực tỉnh và bổng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh.

Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoan lạc của giấc mơ.

Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn. Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi.

Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa.

...





Diễm xưa

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu

Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa

Chiều này còn mưa sao em không lại
Nhỡ mai trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em nhớ những vết chim di
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Giây phút sáng tạo: trước tiên là sự ám ảnh...

TTCN - 10/11/196 Phỏng vấn Trịnh Công Sơn, Tuấn Anh ghi. (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số đề ngày 10/11/1996)
Cám ơn anh Bùi Quan Thuận đã scan gửi bài này cho chúng tôi, một bài quan trọng mà trong đó TCS nói về quá trình sáng tạo của mỗi ca khúc; tuy là bài báo có nói rõ do “Tuấn Anh ghi”, nhưng đây rõ ràng là lời lẽ gần như chính tay TCS viết, hay ít ra TCS cũng đã xem và sửa lại cho sát ý của mình. Chúng tôi cũng đã từng nghe TCS kể cái thích thú của mình khi đọc Camus, từng đoạn, rồi nhắm mắt lại, với bao nhiêu hình tượng và âm thanh tràn ngập, “đã” lắm ! (PvĐ, 31/08/2006)





Với một nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 ca khúc – mà phần lớn được yêu thích ngay từ khi ra mắt lần đầu - lắm lúc người ta phải tự hỏi sức mạnh nào đã đưa ông đi đến những bờ cõi tuyệt vời của sáng tạo không ngừng ấy ?

Trong triết học Mật tông có nói đến khái niệm về sự bùng nổ ý thức; tương tự, sáng tạo của con người cũng có những giây phút bùng nổ như vậy. Tất nhiên trước đó ta phải mang nặng trong tâm trí những ý tưởng, hình ảnh, triết lý... liên quan đến đề tài cần sáng tạo.

Trong sáng tác ca khúc chẳng hạn, trước khi viết ra một bài hát, tôi cũng phải suy nghĩ về nó rất dài lâu. Khoảng thời gian đó là vô hạn định, có thể là một ngày, một năm hay lâu hơn nữa. Đến khi tác phẩm hoàn toàn rõ ràng trong đầu thì việc chép ra có thể chỉ trong phút giây. Đó chính là giây phút bùng nổ quan trọng nhất của sáng tạo, nó vỡ ra tất cả những gì chưa giải quyết được còn dồn lại trong đầu bấy lâu. Nếu chỉ nhìn vào thời gian tác phẩm được ghi lại – có thể là một giờ, một ngày - người ta có thể cho rằng việc sáng tạo thật ngắn ngủi và dễ dàng, nhưng có ai tưởng được rằng tất cả những điều đó đã được tích lũy qua năm tháng. Bất cứ tác phẩm nào cũng phải như thế cả. Sáng tác nào không được phát thảo trước trong ý thức như vậy, thì khi nó ra đời cũng chẳng có giá trị gì.

Đôi khi ai đó thấy tôi lang thang trên phố, đứng ngắm một bức tranh hay che tay đứng nhìn một ngọn nắng; cứ tưởng là chơi, nhưng đó là những lúc trí óc tôi đang loay hoay với đề tài mà mình đang suy tưởng. Trên 600 ca khúc tôi viết – ví dụ như bài Hoa Xuân Ca hay Quỳnh Hương - đều ra đời như vậy, từ một hội ngộ kín đáo giữa tôi và cuộc đời trong một dịp ngẫu nhiên nào đó. Nhìn thấy một ánh nắng, một giọt mưa hay một người con gái trên đường, trong tôi có thể bỗng vỡ vạc những cảm giác cuối cùng ập đến, khơi mở, hoàn thiện cho một cái mới. Muốn được như vậy tôi phải làm một chứng nhân của nắng mưa, của sáng chiều, sớm tối. Những cái tưởng chừng lặng lẽ đó đầy sức sống và ban tặng cho mình vô vàn những điều sâu sắc. Tôi cũng làm chứng nhân về những người già, em bé, những người thiếu nữ, sự hạnh phúc, cái chết, sự sống. Mỗi khi ghi nhận những hình ảnh đó vào trí nhớ, tôi bao giờ cũng bị giam, bị vây nhiều giờ phút nghĩ về con người và soi rọi lại mình để hình thành một ca khúc.

Cũng có những tác động tưởng chừng là bất ngờ ập đến, tạo ra một niềm cảm hứng. Nhưng hãy ngẫm nghĩ mà xem, nếu như không có sự tư duy, nuôi dưỡng từ trước thì cảm hứng chẳng thể nào trào dâng lên được. Ngược lại, sự ngỡ ngàng do cái mới bất ngờ ập đến chỉ có thể tạo nên sự trống rỗng, vô hồn, hoặc chỉ đơn thuần ghi chép lại chứ không là sáng tạo.

“Một hôm thấy ta là lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...”, tôi còn nhớ ca khúc này và sự chiêm nghiệm của mình như là một tổng kết những gì mà tôi cảm nhận được từ cuộc đời của tôi, của mọi người. Thực lòng mà nói, tôi chịu ảnh hưởng của Albert Camus trong bài hát này. Trong tác phẩm « Ghi chép ở Angiêri » (« Notes d’Algérie »), ông ghi lại những tiếng chó sủa ban đêm, những bước chân đi mà ai cũng có thể một lần nghe thấy trong đời mình nhưng không mấy người nhìn ra được điều đó từ chúng. Ngẫm lại đời mình, tôi thấy tôi nhiều muộn phiền. Không hiểu vì sao tôi đã ray rứt về sự ra đi, ở lại của cuộc đời từ rất sớm. Tôi đã chọn hình tượng lá cỏ để ví với mình. Vì sao lại là lá cỏ? Có thể cuộc đời rộn ràng có quá nhiều điều để ta phải lưu ý, nhưng trong đó không thể không có sự góp mặt của những điều nhỏ nhoi. Ngọn cỏ, lá cây hay cây đa đều có bổn phận của nó với cuộc đời. Cỏ có bổn phận cỏ, lá có bổn phận lá. Tôi không mơ ước gì to lớn, mà nghĩ mình như một phận cỏ hèn. Vì hèn mọn nên nó không phải to lớn và có bổn phận nặng nề như cây đa, vì vậy nó tự do lắm. Và vì sao lá cỏ lại hát? Bài hát là phương tiện để bày tỏ lòng mình với cuộc đời, có gì đẹp hơn chiếc lá cỏ nhỏ nhoi nhưng tự do ca hát với đời mình? Rũ bỏ những muộn phiền và thảnh thơi đời mình , điều này đã ám ảnh tôi từ lâu, lâu lắm rồi, nhưng chỉ đến khi viết được những câu hát như vậy tôi mới thấy nhẹ lòng. Ý tưởng này quanh quẩn trong tôi nhiều năm và chỉ được giải tỏa khi sáng tạo vụt đến và bật được thành những giai điệu như vậy.

Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ sáng tác sau này, ngoài sự tư duy về tác phẩm, về đề tài, còn phải tạo cho mình một nền tảng về triết học. Chính từ đây mà trong tác phẩm của mình mới có được sự sâu sắc. Nếu như ít đọc sách thì mình chẳng thể nhận thêm những chiêm nghiệm sâu sắc của người khác. Một mình mình suy nghĩ thôi thì không đủ vốn liếng với cuộc đời. Chính tôi cũng không thể đứng ngoài con đường ấy được...

Phỏng vấn Trịnh Công Sơn,
Tuấn Anh ghi.

Tuổi Trẻ Chủ Nhật
số đề ngày 10/11/1996)
 
HƯ VÔ

Có một thứ tuổi đời mà cứ mỗi mùa Xuân đến, lòng cứ nhẹ đi những niềm vui mong manh mà lại nặng thêm những nỗi buồn vu vơ không nắm bắt được. Thời trẻ cũng thường có những lúc buồn buồn như vậy. Một thứ buồn vô cớ mélancolic. Có người cho rằng đó là nỗi nhớ nhung vô hình về một thứ thiên đường đã bị thất lạc. Một thứ quê quán không có chân dung rõ rệt, không có một địa lý rõ ràng, không biết được mùa màng thời tiết ra sao. Không biết mà vẫn nhớ nhung buồn buồn . Tôi thì lại có lúc thơ thẩn nghĩ rằng nỗi buồn vô thường vô cớ kia là bắt nguồn từ nỗi nhớ về cái quê hương đầu tiên từ cái bào thai trong bụng mẹ. Nhớ về cái cõi ở đó thành hình dần dần trong nỗi vui cùng những lo âu của người phụ nữ.
Cái sự buồn buồn kia không giống chút nào với nỗi buồn bây giờ khi một năm vừa cạn, vừa tàn, vừa tắt. Một mùa xuân bắt đầu cho tuổi này nhưng lại mang đến âu lo phiền muộn cho tuổi khác. Cái thứ tuổi đời khác này cứ mãi giật mình nhìn lại một năm qua đi mà vốn liếng gom góp cho đời chẳng có gì cả, chẳng được bao nhiêu. Hoá ra nỗi buồn này chẳng vu vơ chút nào. Có thể nắm bắt được. Nắm bắt nhưng rồi lại buông ra vì muốn lãng quên, muốn tự tha thứ cho mình.
Khi một người biết tự tha thứ cho mình thì đồng thời cũng phải biết tha thứ cho kẻ khác. Đừng bao giờ để lại những ân oán trong lòng. Ân oán là những tảng đá nặng nề ngăn chặn, giết chết lòng yêu thương. Sống mà không còn khả năng yêu thương được nữa thì cũng xem như đã chết rồi. Tôi yêu và tôi tồn tại. Yêu và tha thứ . Tha thứ và yêu. Sự phản bội đôi khi cũng cần thiết để cho tình yêu đẹp hơn, đậm đà hơn, buồn bã một thứ nhan sắc lạ lùng hơn. Từ đó câu thơ ra đời. Tiếng hát ra đời.

Ba mươi năm ca hát mộng mị giữa đời, ngoái nhìn lại nhiều khi cứ tưởng chỉ là giấc mộng của người khác. Người khác hay mình thì cũng thế thôi. Lãng đãng một điều gì vừa thật vừa không thật. Ngày xưa ca hát với người ca sĩ này, hôm nay ca hát với cô ca sĩ khác. Mộng mị quá rồi (... ) Đêm cuối năm một giọng hát khàn khàn, một giọng hát trẻ thơ nghe bùi ngùi nhớ đời quá. Thì yeu đời mà hát và khi cất lên tiếng hát thì càng thấy yêu đời hơn . Đời cứ mãi lạ, cứ mãi mới một cách hồn nhiên lộng lẫy. Lộng lẫy như nụ cười, như sự thông minh của em, như thân thể của em ấm áp một mùa nắng của miền nhiệt đới.
Có những giấc mộng ngày cũ và có những giấc mộng bây giờ. Giấc mộng nào cũng có một nụ cười an ủi. Nằm sống bên nhau hoặc nằm chết bên nhau điều đó khác xa một lời nguyền rủa. Đừng nguyền rủa và cố quên đi những ai đã mang đến phiền muộn cho ta. Quên và biết quên cũng là một lẽ sống ở đời. Biết quên nên đời bỗng nhiên biết cất tiếng hát. Tiếng hát có thể mang đi trong gió một nỗi ưu phiền nhưng có lúc cũng gửi gắm đâu đây, trong những góc hồn lặng lẽ, những niềm an ủi về một cõi đời, về một cuộc tình chưa trọn . Không trọn là dấu hiệu của một thứ nghệ thuật tròn vẹn của thiên tài.



Hãy đau đớn đi . Biết đau nỗi đau của người khác và của chính mình là dấu hiệu của lòng nhân ái. Cái tín hiệu ấy phát đi và mọi người nhận được. Nhận được và bỗng cảm thấy cuộc đời đáng yêu hơn, bỗng đáng sống hơn và bỗng nhiên thấy rằng chiến tranh giết chóc là điều không có thật. Kẻ làm ra chiến tranh buộc lòng phải gọi là kẻ ngu dốt. Cuộc đời vốn không có thật mà còn rắp tâm huỷ hoại nó. Huỷ hoại một điều không có thật có nghĩa là huỷ hoại hư vô. Hư vô là một tiếng cười bất hoại ném trả lại cho hư không.
Tình yêu cứu vãn hư không. Chỉ có tình yêu mới cứu được cái thứ tuổi đời nặng nề một nỗi buồn không cứu chuộc nổi. Mùa xuân sẽ được phục sinh cho tấm lòng trinh bạch lẫn những đớn đau. Thôi cũng đành, đừng ân hận nữa. Có điều ta làm được và có điều thuộc về hư không. Tôi đã làm mà không làm được gì cả. Cám ơn cuộc đời đã ưu ái quá nhiều về những điều tôi chưa làm được.

TRỊNH CÔNG SƠN.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nhớ có lần khi nói về Trịnh thấy giáo đã bảo"Tất cả những bản tình ca của Trịnh đều để dành riêng cho Khánh Ly hát"
Nghe Diễm xưa bị ám ảnh bởi câu cuối cùng của nó. Tự dưng nghe xong cảm thấy lành lạnh "Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau"
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Em Van Trang co ve me man TCS quy nhi, nguy hiem qua. Anh cung kham phuc tai nang ngon ngu cua TCS lam, va co le ca cach song cua ong ay, cung lam nhieu nguoi yeu qui.

Nhung nguoi co ve yeu van chuong mot chut, lang man mot chut thi thuong hay de y den nhac tcs, it hay nhieu. Song anh thay am nhac cua tcs khong phu hop voi lua tuoi thanh nien.

Cuoc doi qua con mat tcs, ca tinh yeu nua, deu buon ca. Nghe nhieu se hay nghi ngoi lung tung, mo mang suot.
 


Trịnh Công Sơn, Nơi Vùng Ưu Tư Thành Tiếng Du Ca


Như một sợi chỉ luồn theo cây kim, tin Trịnh Công Sơn mất đến với chúng tôi trong buổi tưởng niệm ngày giỗ thứ 40 năm của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị tại nhà văn học nghệ thuật ở đường Lê Lợi Huế. Tối ấy anh em nghệ sĩ đến nghe bình thơ khá đông, chúng tôi, chị Hỷ Khương, Bửu Ý, Gia Phàm, Như Ngân, Xuân, Xuân Quế, tôi và một số anh chị em nghệ sĩ khác đứng xúm vào nhau, nghe sợi chỉ theo cây kim níu mình xích lại gần hơn một tí với người bạn bên mình trong nỗi nhói đau một chút nơi tim.

Bỗng nhiên ít lời, một chút cay nơi mắt, một chút rã rời nơi vai, chúng tôi đứng như thế quây quần chôn chân, hình như có ai nói như một lời vĩnh biệt nửa buồn nửa vui : "Thôi rứa là từ nay hắn bỏ mình đi rong chơi chỗ khác... hắn bỏ đi thiệt rồi!"

Cái tên lãng tử nhu mì này! Tiếng hát lênh đênh, "chén rượu say uống hoài", rong chơi cả một kiếp người, bây giờ dứt áo ra đi "lìa bầy, chim bỏ đường bay", thõng tay viễn du nơi chốn nghìn trùng...

Sơn ra đi ! Cái vòng quây quần - như chúng tôi đang đứng với nhau chiều hôm ấy, nhiều đứa tóc đã rối bời sương muối - cái vòng bạn bè hay cái vòng tử sinh của thế hệ thập niên 40-60 chúng tôi, như chúng tôi đã thường đứng hay ngồi như thế mỗi khi gặp nhau ở lứa tuổi 20, như sút đi chốt mộng, chùng giây, tuột phím... cái vòng lỏng lẻo, rã rời!

Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nới rộng ra, như những làn sóng, khởi đầu từ một điểm xoáy nơi nào đó ở Huế, có thể nơi khúc sông Bến Ngự, hay nơi hồ Tịnh Tâm, hay ở bến Bao Vinh, hay ở đồi Vạn Niên, ở đó Sơn ném một viên sỏi là tiếng hát của mình vào đấy và làn sóng lan ra, từ thế hệ chúng tôi cho đến thế hệ trẻ ngày hôm nay, từ Huế đến Sài Gòn, Hà Nội, Cà Mâu hay Lạng Sơn, vượt qua mấy lần đại dương và cái vòng quây quần quả đất bao la, hôm qua, ngày nay và có lẽ mai sau...

Sơn là Tiếng Hát Trịnh Công Sơn của Mọi Người.

Nhưng chiều hôm ấy tôi vẫn thấy - hay bởi mình muốn thấy như vậy - Sơn như vừa mới đứng dậy ra ngoài châm điếu thuốc, rồi sẽ trở lại ngồi giữa chúng tôi, trong vòng bạn bè, có thể chỉ là ba, hay bốn, hay mười, hay hai mươi đứa, ở Huế, tại nhà một người bạn nào đó, Chỉ, Ý, Tường, Tôn, Hùng, MLan, KLan, Điền, Hạnh, Thọ, Kỳ, Lý... ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương, là vùng tâm tư của những người bạn đang tuổi thanh xuân, ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh, lắng nghe những nổi sôi, những phiền muộn quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình... trong vùng tôi xin gọi là vùng ưu tư của Huế những năm 60.

Vòng Bạn Bè

Chính trong những năm tháng ấy lần đầu tiên tôi gặp bộ ba - chữ của HPNTường - Tường - Cường - Sơn. Nguyên do thật là rất Huế, có thể tìm thấy rải rác đâu đó trong các bài hát của Sơn.

Một buổi chiều nắng vàng chiếu nghiêng trên nón lá, đường phố chính vắng người, không gian yên tĩnh có thể nghe thấy cả tiếng thời gian, chỉ có rộn rã tiếng guốc của mấy cô nữ sinh viên - đã có thể là BDiễm, TMai, Han, KLan hay MH, NB, DL, KL - đi dạo phố mua sách vở, tà áo lụa lướt bay trong nắng, bụi mờ đàng xa, và có một chàng trai xa lạ nào, có lẽ từ xứ Quảng ra, "chiều một mình qua phố ", đang đứng ngơ ngác nhìn đường phố, bỗng tà áo lụa như có sức hút nam châm, chàng trai thấy mình thơ thẩn bước theo.

Chiều hôm sau nghe báo có anh Tường đến thăm mượn sách, lúc ấy anh Tường tuy đã đi dạy văn nhưng học thêm môn cử nhân triết cùng khóa với tôi, anh đến với hai người bạn nữa, cái người hôm qua đi theo tà áo lụa và người kia là Sơn, "đi theo cho vui" như Sơn bảo. Chiều hôm sau nữa thì tôi cũng biết thêm là trong nhóm bạn của mình, có đứa là bạn của Sơn.

Huế nhỏ bé là như thế ấy, người này là bạn của bạn của bạn của bạn... và bạn bè thành ra những vòng tròn quây quần với nhau. Chỉ cần một tiếng "Ới!" của thằng bạn ở trước ngõ là đứa trong nhà đã vội vàng với cái mũ bê-rê dắt xe đạp ra mà đi rong suốt ngày làm cho cả nhà chới với chờ cơm... HPNTường hôm ấy thao thao, vì lấy cớ đi mượn sách nên phải nói về sách. Chúng tôi trao đổi với nhau một vài đoạn về chủ nghĩa hiện sinh trong cuốn Hữu Thể và Hư Vô của J. P. Sartre, một chút về ý niệm thời gian của Heidegger, mà chúng tôi đang đọc ở trường.

Sơn ngồi nghe chúng tôi bàn cãi, phân tích, hình như Sơn không bao giờ thay đổi dáng ngồi của mình, khi nào cũng như thế, tham dự nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái như khi ở giữa đám bạn thân, lắng nghe, chú ý mà không chút chi cố gắng, ít tranh cãi, dễ thân thiện tự nhiên, một chút phù phiếm và mỏi mệt nơi dáng người, và ánh mắt xa xôi với những chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình cũng như với mục đích khoa danh mà mỗi người sinh viên Huế thời ấy thường đặt ra cho mình.

Gió Phương Tây

Chủ nghĩa Hiện Sinh với Heidegger, Sartre, A. Camus, phong trào điện ảnh với Jean-Luc Godard, thể điệu chanson với Juliette Greco, Françoise Hardy ở phương Tây đã đến với lớp trẻ chúng tôi trong những năm của thập niên 60 như một làn gió chướng thổi qua cái thành phố Huế, nhỏ bé, đóng khung, còn rất cổ kính trong cách nghĩ, cách làm ấy.

Những danh từ như hiện sinh buồn chán, xao xuyến, hư vô, thời gian, hữu hạn và vô hạn, buồn nôn, thân phận con người, sự vô nghĩa của cuộc đời, nỗi hoài công phi lý của Sisyphus(1), ý niệm về siêu hình, bản thể học đã như những tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng tôi thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của tri thức. Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có chi là mới so với triết lý Phật giáo cả - thế nhưng lúc ấy chúng có một sức thu hút quyến rũ kỳ lạ trong cái khung cảnh đều đều êm đềm của xứ Huế, thành trì của thủ cựu và khuôn sáo, là những hàng rào ước lệ mà lớp trẻ thường hay muốn vuợt qua.

Chúng tôi thường gặp nhau để kể cho nhau nghe về một quyển sách đã đọc, soạn bài, tranh luận. Và có lần với cây đàn ghi-ta, Sơn bắt đầu hát cho chúng tôi nghe.

Ưu Tư và Du Ca


Khi nghe Sơn hát tôi giật mình. Vì Sơn hát... môn siêu hình học về cuộc đời, về tình yêu đó ! cái môn mà những con sâu gạo triết - như Đinh Cường vừa nhắc lại, là chúng tôi đang còn điên đầu vật lộn với nó, nhưng ngược lại, chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, Sơn đã hát triết học như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể câu chuyện cổ tích Tấm Cám.

Như một con ve vừa mới thoát xác lần thứ mấy mươi nghìn năm từ lòng đất của Huế, đã đi về thường xuyên trong tâm thức Huế, đã rung động và cảm ứng với trời đất Huế, với một âm điệu giản đơn thoát từ gam trầm của giọng Huế, Sơn đã trả lời trong cảm ứng vô thức những tiếng gõ cửa từ phương xa và giải thể chúng tôi ra khỏi ngõ bí của tư duy.

Trong cái không khí sôi nổi của tuổi trẻ đô thị ham mê siêu hình, Sơn đã bắt đầu hát thay vì cãi nhau, thay vì lý luận dông dài với đám bạn bè, với cả thiên hạ, Sơn hát cho vui với anh em như Sơn thường nói, Sơn hát như một sự tham dự vào những đàm luận của bạn bè thuở đó và về sau của cả thiên hạ, mà đúng thật, Sơn hát với những ưu tư thâm kín nhất của tuổi hai mươi chúng tôi, với những tư duy của thế hệ trẻ chúng tôi và với một cách đặt vấn đề - biệt ngữ của phong trào học triết học siêu hình thời ấy, khác với những người nhạc sĩ đi trước.

Sơn hát như cách thế cổi dép đội lên đầu đi ra khỏi giảng đường của Thiền sư Triệu Châu(2) không phải là để bỏ đi, từ chối, mà là một cách thế mở ngỏ cho sự sống như Triệu Châu.

Hãy xem : Sơn hát đề tài có cái gì là khởi đầu, có gì là cái cuối cùng - ngõ bí của triết học đấy, nhưng với chất keo của một điệu ca bông đùa diễu cợt, và một chút ranh mãnh hiền triết của một thiền sư thõng tay vào chợ, Sơn hát "không có chi đâu này, là có cái chết đầu tiên, không có chi đâu này, là có cái chết cuối cùng...", hát như con bê điên cứ đánh lưỡi tùy theo cảm hứng của nó lúc chạy theo chế diễu mọi người ở trên một đường phố nhỏ của Huế. Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau.

Sơn hát đề tài bản thể và hư vô và nhắc chúng tôi tìm về dòng sông Hương nhìn nước chảy, để thấy hay nghe "tay hư vô thắp nến, chiều chơi vơi lên cao, rồi dòng sông cũng qua mau, đưa người gợi mối sầu... " trong một giai điệu tiếng nước chảy ngược về nội tâm, để thấy sông không chảy mà tâm mình đang chảy. Ai định nghĩa được hư vô ? Khổng tử cũng đã đến dòng sông để thể nghiệm với tiếng thở dài : Nước trôi mãi như thế ư ? Phạm Duy hát "im nghe nước chảy về đâu" trong một cảm giác buồn bã trôi xuôi. Với ý niệm hư vô, Sơn đặt lại vấn đề và giải mã sự biến đổi, sự trôi chảy của giòng sông với cảm tính triết học của mình trong âm giai sâu lắng, giữa tỉnh và mê, giữa buồn bã và giác ngộ.

Sơn hát đề tài nỗi hoài công của Sisyphus bằng tiếng vang của vết lăng trầm... phiến đá... ưu phiền... của một cuộc đời phiêu lãng quên tuổi xanh... quê nhà xa vời vợi... cô liêu vây quanh, của mùa thu bay đi với vòng tay buồn ôm nuối tiếc và đưa ta về với khung cảnh Huế - không phải Huế thơ mộng mà là một Huế như chốn lưu đày đồng thời là quê nhà trong nỗi nhớ, bằng một tiếng than dài như xâu chuỗi âm hưởng quấn quýt luân hồi.

Cũng phải nói thêm rằng thuở ấy, việc đi hát đối với các vị cha mẹ người Huế là một chuyện đáng nghi ngờ, nền nếp gia phong được rào lại kín cổng cao tường, không ai muốn cho con mình đi hát... hỏng đàn đúm rong chơi với những kẻ lãng tử giang hồ. Những bài hát mới do đó đối với chúng tôi thường như những trái cấm.

Cho nên bài hát đầu tiên của Sơn mà chúng tôi hát là một bài hát chuyền tay nhau : Nhìn Những Mùa Thu Đi.

Nhìn Những Mùa Thu Đi và Huế 1963


Bài ca có lẽ đã bỏ trong túi lâu ngày, chưa được phổ biến, đến tay chúng tôi thì mực đã nhạt nhoè. Để tập hát, chúng tôi xúm nhau lại trên thềm xi măng của một gian phòng rộng lớn gọi là hội trường của Nha Cảnh Sát Trung Nguyên Trung Phần (bây giờ là Đại Học Sư Phạm Huế) lúc ấy tạm sử dụng làm phòng giam những thành phần trí thức Phật tử trong phong trào đòi bình đẳng tôn giáo do việc cấm treo cờ Phật giáo vào ngày Phật Đản 1963 và việc xe tăng cán chết 14 em Gia Đình Phật Tử vào đêm Phật đản tại thành phố Huế. Chúng tôi, sinh viên Phật tử, Gia Đình Phật Tử, các giáo viên và giáo sư đều đồng thời bị bắt một loạt trong đêm 20.08.63, đêm các chùa bị tổng tấn công trên khắp miền Nam Việt Nam. Có người đang ngủ ở nhà cũng bị mời vào, như trường hợp của HPNTường, hồi ấy HPNT không nằm trong Đoàn SVPT. Mảnh giấy ghi bài Nhìn Những Mùa Thu Đi trong túi áo của HPNTường đã trở thành bài hát cho đỡ buồn (cũng như Sơn đã nói hát cho vui) trong suốt những ngày tháng bị giam cầm của chúng tôi.

Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái nhà, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi... "tay trơn" trên nền nhà - trẻ măng là mớ tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những đợi chờ của tuổi hai mươi, và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng Nhìn Những Mùa Thu Đi...

Hội trường là nơi tạm giam chung nam nữ những thành phần trí thức và sinh viên, học sinh Phật tử đã biểu tình, tuyệt thực chưa được định tội rõ ràng. Vì tội trạng chưa được rõ ràng và được xem là những thành phần không đáng để ý nên chúng tôi có thể di chuyển thoải mái trong phòng và được đối xử tương đối tử tế. Ban đầu có đến hơn 500 người, sau đó được thả ra dần hoặc chuyển đi nơi khác, còn lại khoảng năm mươi, sáu mươi người, được chúng tôi lấy ghế ngăn lại làm hai trạm nghỉ : phần trên sân khấu dành cho phụ nữ cắm lều mùng mền, phần dưới sân khấu dành cho nam giới cắm trại. Buổi sáng sớm, khi mưa vẫn còn rỉ rả ngoài sân, nhóm phụ nữ còn nằm trên... sân khấu của hội trường thì chúng tôi thường đã được điểm tâm bằng tiếng huýt sáo của ai đó đứng ngoài hiên nhìn mưa. "Nhìn những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng, và lá rụng ngoài song...", buổi xế trưa bỗng nghe có ai cao giọng lê thê : "gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè, và gió hôn tóc thề, rồi mùa thu bay đi..." và buổi tối có giọng ai âm thầm ở trong một góc phòng của hội trường : "và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng... thương cho người... lạnh lùng riêng". Chưa bao giờ trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài hát nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp ba tháng như thế.

Bài nhạc thật là đơn giản về âm giai thể điệu, đề tài mùa thu, một đề tài quen thuộc trong thi ca rất dễ bị rơi vào sáo ngữ, đã có Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư không tiền khoáng hậu, đã có Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong khó quên trong lòng người, Thu Vàng của Cung Tiến âm vang, nhưng Nhìn Những Mùa Thu Đi đã là bước đầu thành công của cuộc hành trình ca khúc TCS. Có thể nói hành trình ca khúc TCS thực sự bắt đầu từ Nhìn Những Mùa Thu Đi chứ không phải Ướt Mi, dù Ướt Mi đã làm cho người ta biết đến Sơn.

Bởi vì với Nhìn Những Mùa Thu Đi, Sơn đã đưa chúng ta đến một cảm nhận mới, một thể cách tân thanh đến từ chính ý thức của người nghe : chúng ta hát Nhìn Những Mùa Thu Đi bằng mỗi cái nhìn mùa thu như một thể cách mình biết riêng cho mình, một thể nghiệm riêng cho mỗi cảm nhận lời ca của mỗi một cá nhân. Chúng ta hát cái nhìn của chúng ta, vào một buổi sáng mai thức dậy bỗng nghe gió heo may lùa vào khe cửa hay vào một buổi trưa nắng le lói trên vỉa hè của đường phố thưa thớt người qua lại hay vào buổi chiều tím bên song. Nỗi nhìn mùa thu trở thành sự rung động mùa thu.

Tôi nhớ đến chữ kiến tính của Huệ Năng khi ngài xây dựng quan điểm thiền học mới mẻ của mình, thay vì "Thân thị bồ đề thụ, tâm như minh cảnh đài" của Thần Tú, Huệ Năng đã đổi cách nhìn cuộc đời một cách vật lý so sánh thụ động bằng cái nhìn sinh động vào bản chất thực sự của sự vật trong tính chuyển đổi sáng tạo của nó "Bồ đề bổn vô thụ, minh cảnh diệt phi đài". Với cái nhìn vô niệm vào diệu dụng của vô và phi Huệ Năng đã đưa Thiền học vào một con đường dẫn đến giác ngộ đầy sinh động và sáng tạo.

Cũng thế, trong hành trình ca khúc của Sơn, với Nhìn Những Mùa Thu Đi, theo tôi nghĩ Sơn đã mở ra bằng cái nhìn của mình một thế giới âm thanh mới và khác lạ, thể cách và âm điệu sinh động vượt ra khỏi những cảm nghĩ khuôn sáo cũ, đi thẳng vào tâm thức người nghe, làm tiền đề cho tiếng hát TCS, và có lẽ đã là không phải một trùng hợp ngẫu nhiên mà trong tiếng hát TCS chữ vô (hư vô, vô thường) đã được ngâm nga một cách tân kỳ so với lời ca của những người đi trước và người đồng thời, ngoại trừ âm nhạc Phật giáo.

Chỉ khác nhau ở một cách đặt vấn đề, với bài hát mùa thu bằng cái nhìn mùa thu, có thể nói hành trình ca khúc TCS đã từ giã khuôn khổ của âm nhạc Việt Nam trước đó để cảm ứng được những trầm tư, thao thức và khát vọng của thế hệ của chính mình và thế hệ kế tiếp mà khởi sắc giai điệu riêng tư của mình.

Mỗi khi nghe giai điệu ca khúc TCS, âm hưởng của tiếng ca đi vào lòng người một cách tự nhiên như dòng nước chảy, ta có thể nghe và hát mấy mươi lần một bài mà không chán, tôi cứ nghĩ rằng Sơn đã nắm được yếu tố cốt tủy của âm thanh trong lòng đất Huế, đã triển khai được âm giai trầm của tiếng Huế làm thành thể chất căn bản cho ca khúc, như có lần tôi đã nghe được một công án của Phật : "Có vị Sa môn ban đêm tụng kinh tiếng nghe rất buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì đã làm gì ? Thưa thường đánh đàn. Dây đàn dùi thì thế nào? Thưa không kêu. Dây đàn cao thì thế nào? Thưa mất tiếng. Cao dùi vừa phải thì thế nào ? Thưa âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ tâm trí chừng mực thì đạo phải được." (Bài kinh số 33 trong Kinh 42 Chương, Trí Quang dịch)

Âm điệu trong nhạc TCS cũng thế, đã tùy tâm để thể hiện âm thanh, cho nên nốt nhạc không bao giờ bức xé cũng như không bao giờ quá thấp để không có thể hát được, âm thanh chậm rãi, lưu luyến chảy vào tâm thức như một ý tưởng, một suy tư đang được ánh trăng thanh lọc khỏi những nứt rạn khô khan, cằn cỗi, gượng ép của tư tưởng mà trở thành dòng suối tâm thức tuôn chảy không ngừng.

Nhiều đêm nằm thao thức, nghe bài ca đi về xuôi ngược dội vào tim, tôi như trực cảm rằng trong bước đầu sáng tạo, Sơn đang từ trong giảng đường đi ra, vừa đi vừa làm một tiểu luận về - nghe buồn cười nếu tôi nói tiếp, Hữu Thể và Thời Gian của Heidegger và Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bài tiểu luận về ý niệm thời gian mà TCS đã điểm nhãn bằng giai điệu rung cảm của Huế và của tất cả những gì đã diễn biến và lưu lại trong lòng của mảnh đất đã biến thành vùng khổ nạn kể từ năm 1963.

Tình Huế


Ở Huế có lẽ có một mối tình thủy chung duy nhất không bao giờ tàn phai, đó là tình yêu cảnh Huế của người Huế, như núi Kim Phụng mãi mãi đứng đó mà yêu hoài sông Hương bạc tình chảy xuôi, sông núi đã un đúc mối tình keo sơn của ngưới Huế với cảnh vật quanh mình ngay từ khi nằm trong nôi nghe mẹ hát "ru con cho tới làng Hồ..." "thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long...", hay "ru em cho thoét cho muồi, để mẹ đi chợ... mua vôi chợ Quán chợ Cầu, mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh".

Huế có lẽ là thành phố duy nhất trên quả địa cầu có cả núi và sông nằm ngay trong lòng, để cho người Huế dù cho đi xa mấy mươi năm, mấy mươi nghìn vạn dặm vẫn cứ mỏi mòn mong ngày trở lại dòng sông, trở về với núi.

Và tình nhớ Huế hầu như trở thành một cơn "mê chiều" của cảnh thức Huế lan khắp năm châu bốn bể từ Cali cho đến Sidney cho đến Paris cho đến Muenchen, Saigon, Hanoi, và ở nơi đâu khác nữa trên địa cầu có mặt người Huế, hiện tượng Nhớ Huế như một khủng hoảng căn niên của Huế hôm nay, và trong giờ phút đứng ngay trong lòng đất Huế chính tôi cũng thấy như mình đang đứng trong một bức tranh vẽ một người đang nhớ Huế...

Vườn cây, hoa lá, nắng mưa, mây gió, cảnh chùa đã ôm ru thời thơ ấu và tuổi niên thiếu của mỗi con người Huế, đã uốn nắn trong tâm thức sức nhạy cảm của người Huế trước thiên nhiên, đã trở thành những âm vang gợi cảm trong suốt cả đời người mỗi khi nghe mưa rơi, nghe lá đổ, nhìn nắng lên hàng cau, nghe hoa bưởi bắt đầu lên hương trong khu vườn buổi sáng...

Huế bốn mùa đã đưa chúng tôi quanh quẩn đi những con đường Thành Nội, Đông Ba, Ngự Viên, Lê Lợi, Bến Ngự, Nam Giao, An Cựu, Vĩ Dạ, Kim Long, Linh Mụ, Tịnh Tâm, Đại Nội... Những cuộc đi dạo thơ thẩn trên những con đường nhỏ, thường là đi bộ hay đi xe đạp chậm rãi - cuộc sống ở Huế dạo ấy không có cách chi khác hơn là chậm rãi, từ từ, thong thả, hình như song song với đi học, đi dạo là một thứ giải trí không thể thiếu trong thời khóa biểu của mỗi một người Huế ở thị thành.

Đi dạo, đi bộ, đi lang thang vì thế đối với chúng tôi đã là những cuộc hành thiền ngẫu nhiên, ở đó mỗi viên sỏi trên đường đi, một dòng nước nhỏ sau cơn mưa, mỗi chiếc lá rơi tan tác trên đường, mây chiều lãng đãng trên sông, nắng le lói trên vỉa hè, sự yên tĩnh của vườn cây, một đóa hoa vừa mới nở, một tiếng chim kêu, đã là những tín hiệu về cõi đời, về ý nghĩa của thân phận làm người, về sự phù du của thời gian và về ý nghĩa của sự đợi chờ, về tình yêu... Và mỗi cuộc đi, bên cạnh những sôi nổi ồn ào của tuổi trẻ, thường có những bước lắng nghe, chìm đắm trong cảnh vật, đã có những chiêm nghiệm trước núi và sông, "con chim nó đậu cành tre, mưa nắng ở trọ bên trong mắt người".

Ca khúc của Sơn, nhất là ca khúc tình yêu, thường đã mang nặng cảnh thức Huế như một nguồn sống cho ý thơ và âm điệu.

Cho nên khi nghe nhạc của Sơn, người nghe nhất là người Huế thường có cảm giác mình đang đi trên một con đường nào đó ở quê hương, hay đang ở trên đường đi trong cơn mưa "thì thầm dưới chân ngà", trong "mùa hạ khói mây" hay "mùa đông vời vợi", để đến thăm người yêu, chỉ đến một thoáng rồi đi, chỉ để nhìn mặt hay không nhìn mặt người yêu rồi quay trở về trên đường sỏi đá bên khúc sông Bến Ngự, để vùi trong cơn sốt thương yêu "gọi thân hao gầy, gọi hồn ngất ngây".

"Diễm xưa" là mối tình đầu của Diễm Xưa - sau Ướt Mi một thời mê say giang hồ, Diễm Xưa đã trở thành ca khúc tình đầu của Sơn và "Diễm" đã trở nên một huyền thoại "Xưa" như chuyện Từ Thức gặp tiên, như một câu chuyện tình cổ lụy cho đời và cho cả chính Sơn.

Tình yêu đã đến với Sơn như một huyền thoại bất ngờ, như một cơn mưa đến từ cõi hoang sơ rơi trên tháp cổ, nên thật bàng hoàng. Có lần Sơn bảo, con gái Huế yêu thật lạ lùng, trong cơn đau vẫn trốn mẹ, tung mền mặc áo mưa băng qua cầu chạy như bay đến để chỉ đặt một trái cây hoặc một bông hoa trước cửa, không cần gặp người yêu, rồi ra về. Để cho người con trai sững sờ, ngạc nhiên và lặng người trong nỗi nhớ nhung "buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, trên bước chân em âm thầm lá đổ, chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa"... nỗi nhớ vết chim gi, bay qua vùng đất rộng, ước sao bờ sông Bến Ngự nối liền. "Chiều này còn mưa sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau... hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau". Diễm ơi, Sơn ơi, những mối tình ở Huế !

Tôi nghĩ rằng không ai cả ngoài "Diễm xưa" vẫn luôn luôn là bóng dáng người tình trong những tình khúc TCS. Trong Như Cánh Vạc Bay, Quỳnh Hương, Tình Nhớ, Hạ Trắng, Mưa Hồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Tình Sầu v.v... vẫn thấp thoáng những nét đan thanh, chấm phá của Diễm : mảnh khảnh đến gió thổi bay, vai gầy guộc như đôi cánh cò (chúng tôi thường chế diễu nhau như thế), tay gầy lêu khêu, nét xanh xao, mái tóc rối quăn ôm gương mặt trái xoan nhỏ nhắn, bóng dáng chợt đến chợt đi chợt ẩn chợt hiện như trong Liêu Trai, dáng điệu thì yếu đuối như lúc nào cũng có thể ngất đi, nhưng trong lòng thì đầy cả đam mê bão táp.

Cái hình ảnh mảnh mai ẻo lả, lãng đãng như gần như xa, như có thực mà như không có thực ấy, khác hẳn với các khuôn mặt tình và khuôn mặt đẹp theo ước lệ trong những ca khúc tình yêu thường nghe, vẻ đẹp hao gầy mong manh trở nên nguồn cảm hứng không ngừng trong ca khúc tình yêu của TCS, xúc cảm từ một cuộc tình đam mê, trong trắng, mối tình học trò ngây thơ đầy hương sắc và ánh sáng mà Sơn chưa kịp nhận được thì đã thoáng bay.

Nếu tình yêu cảnh Huế keo sơn bao nhiêu thì tình yêu của người con gái Huế lại càng phù du như đám mây trời, như cơn mưa mùa hạ bấy nhiêu. Hình như là một thông lệ cho những người yêu nhau ở Huế : yêu ai thì rất mực yêu ai, nhưng khi tính cuộc trăm năm với người nào thì cha mẹ hay tiếng nói của mẹ cha đã nằm sẵn trong tiềm thức của mỗi người quyết định, và thường khi quyết định một cách thực tế là không lựa chọn người mình yêu, dù "nỗi lòng anh đầy" nhưng "lời ca anh nhỏ" bé đơn sơ quá cho nên ước mơ "ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu" đã phôi pha để chỉ còn "Này em em hãy phụ người, này em xin cứ phụ tôi" "em cứ phụ đời" bởi vì trời đã sinh ra con gái Huế là để "yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Ai bảo Sơn không khổ vì yêu, thứ tình "mật ngọt trên môi" trở thành "mật đắng trong đời" ? Cho cả cuộc đời, suốt cả bốn mùa mưa nắng "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói, đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi". Có khổ tận trong tình yêu, có đạt đạo trong nỗi khổ mới thể nghiệm được nghĩa vô thường của "yêu là chết" và có thể đồng cảm với niềm vui và nỗi khổ của những ngưòi đang yêu. Trong tất cả ca khúc tình yêu của Sơn luôn luôn có tấm tình riêng chia với tấm tình chung, như đã "yêu em" thì "yêu thêm tình phụ", như "trên lá khô" chảy ra "dòng suối" tình yêu không tuyệt vọng...

Và đền bù lại cho những mối tình mây nổi, đã có tình bạn hữu thật chí thiết, đưa vai hứng đỡ những cơn tuyệt vọng chết người "đừng tuyệt vọng, ai ơi đừng tuyệt vọng!" "Bạn bè ở Huế thương nhau lắm, một đứa vợ la chín đứa kinh", có một nhà thơ nhận xét như vậy sau này. Cô đơn vì người tình hờn dỗi lắm khi không cô liêu bằng khi "bạn bè rời xa chăn chiếu". Và khi bạn yêu người nào thì hình như mình cũng yêu người ấy, khi bạn thất tình thì mình cũng đau khổ không kém gì nỗi đau của bạn. Trong những lúc Sơn lụy vì tình, đã nhiều lần thay bạn đi thuyết khách, giải thích, hóa ra ai yêu nhau ai giận nhau thì bạn bè đều mau mau đứng ra chịu trận như chính mình là người trong cuộc. Và chính Sơn cũng đã tâm sự với tôi như thể tôi cũng là người trong cuộc của hai người. Sơn ơi, người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai bỏ đi ai ở lại với tình, ai buồn hơn ai ?

Trong rất nhiều tình huống của những năm sáu mươi ở Huế, Sơn thường đứng ngoài cuộc, trong lúc chúng tôi dấn thân trong vòng khổ nạn của Huế 1963, nhưng mãi đến hôm nay mới biết được - dù hãy còn mơ hồ - người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm hơn ai, và tình bạn hữu đã khắn khít như thế nào giữa người đứng trong và người đứng ngoài hàng rào dây kẽm gai.

Mái Chùa


Đối với người Huế, và đối với chúng tôi, yêu cảnh Huế hầu như cũng đồng nghĩa với yêu cảnh chùa ở Huế. Hình như trong tất cả những lần đi ngoạn cảnh hay đi lang thang ở Huế, vô tình hay hữu ý nơi đến cuối cùng thường là bước vào cổng chùa, đứng nghỉ nắng hay chờ tạnh mưa dưới mái tam quan hay vào xin một chén nước chè tươi đỡ khát hoặc một chén trà ướp sen cho ấm lòng, tiện thể vào chiêm ngưỡng tượng Phật, thắp hương cho vị tổ sáng lập chùa, thăm thầy trụ trì, nghe một câu chuyện thiền trong một không khí ít lời, thong thả, mát dịu.

Thế rồi bóng nắng mời gọi, hoa trái trong vườn mời gọi, cỏ cây trong sân mời gọi là chân bước theo chân, là mắt đưa theo mắt, là tai chìu theo tai, ngẩn ngơ trong vườn sắn, vườn chè, rừng cây cổ thụ, nơi hồ sen, nơi tiếng ve kêu, nơi chùm khế sây trái, dừng lại nơi lá xanh reo, nơi suối róc rách, nơi hoa sen nở, nơi hoa mộc thơm hương - dù chỉ một vài giây vô niệm, không chủ ý - nhưng cũng đủ để thể nghiệm sự tĩnh lặng thường còn trong vạn vật, ở đó thong dong đi về không còn ngăn cách là thấy và nghe, cảm và nghĩ, xúc giác và khứu giác trong một toàn thể bao hàm tất cả những mâu thuẫn của sự trôi đi và dừng lại..

Buổi dừng chân có thể chỉ đủ để bóng nắng nghiêng trên triền đồi hay cơn mưa vừa tạnh hạt, nhưng cũng có thể để ngả lưng đợi giờ tắt cơn nắng gắt hay cơn mưa dai dẳng chưa dứt, để thấy hơn một lần hư không là nắng và vô thường là mưa.

Hay nhiều khi có thể lưu lại chùa vào một đêm trăng sáng, nghe tiếng hòa điệu rộn ràng của trăm thức hương lồng bóng nguyệt hay cảm được tiếng kinh Phổ Môn cầu an tẩm ướt ánh trăng thấm đượm thân thể như giọt nước cành dương, rồi bỗng chiêm nghiệm được trong khoảnh khắc tiếng yêu đương và tiếng yêu người cũng chỉ là một, "yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ".

Có lẽ trong tất cả những người thanh niên trẻ của thế hệ chúng tôi, Sơn là người đã bắt gặp được sự đốn ngộ bất ngờ ấy sớm hơn ai cả, không phải nghĩa "sớm" của "trước sau" mà là đã "từ bao giờ" không ai hay - trong vòng tay của người mẹ mộ đạo Phật ru đứa con đầu lòng, của gia đình thành tâm thương Phật anh em có nhau khắn khít, của cả mấy đời người Huế thương chùa, của cả mảnh đất thần kinh thâm u miệt mài hai chữ tu tâm - nên đến bây giờ, chỉ cần một chút "run rẩy" của lá là đã chuyển động "Phật tâm viên tròn thể tánh" trong ý nghĩa đơn giản nhất : chứng ngộ, thấy được chữ "thương ai" (ta và người= từ bi) viết đậm nét trên chiếc lá "hư không".

Mỗi ca khúc của Sơn vì thế - như ít có nơi những kẻ đi trước và những người đồng thời với Sơn trên lãnh vực âm nhạc - có thể nghe và cảm nhận như những công án thiền về cuộc đời, mà mỗi câu hỏi siêu hình về nó đều bị trả đũa bằng một hay hai điều tầm thường, vớ vẩn trong chính cuộc đời ; ở đó chữ nghĩa mất hết tính cách ước lệ, qui luật văn phạm, sự vô nghĩa nằm sát bên có nghĩa. Có ai không bất ngờ khi nghe câu hỏi đạo đức "Sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm chi em có biết không?" được Sơn phổ thành bài ca với câu trả lời: "Để cho nước cuốn đi", cũng chẳng khác chi công án thiền: "Ý nghĩa thật sự của Bồ Đề Đạt Ma đi về phương Đông là gì?" Trả lời: "Cây trắc bá trong sân!" Trong bài ca, vô nghĩa đứng cạnh có nghĩa mà vẫn không nghịch lý, người nghe không thấy chõi tai mà ngược lại cảm thấy cảm xúc lăn tròn theo tiếng hát, và trong chuỗi âm thanh theo đuổi nhau, mọi nghịch lý, phi lý làm cho con người nghẹt thở của một Sisyphus hì hục lăn tảng đá cuộc đời đều được giải tỏa bằng một hơi thở dài trút hết ưu phiền của tiếng hát lênh đênh.

Mỗi tiếng mỗi chữ trong các ca khúc trở thành những đơn thể của tâm thức trong tính cách hiện sinh duy nhất, tràn đầy sinh động của chúng đã được Sơn xử dụng một cách sáng tạo như những phương tiện "tiếng vỗ của một bàn tay"(3) nhằm đánh thức âm hưởng nội tâm của mỗi người nghe, từ đó người nghe có thể đưa thêm vào bàn tay của mình để gây âm thanh cho chính cảm xúc của mình. Và tiếng ca, từ những cọng lá khô không lời, những viên sỏi vô tri im tiếng, bỗng xôn xao "cây lá vào mùa", bỗng lao xao sóng vỗ bờ xa...

Những ý niệm, những ngôn từ trong đạo Phật - hư vô, hư không, cõi tạm, vô thường, cõi đi về, tiền kiếp, từ bi... thường được xem như những món "cơm chay" khắc khổ, đã được Sơn hóa giải rất tài tình trong lời ca theo nguyên tắc suốt cả 49 năm Phật không thuyết một lời nào, bỏ hết tất cả những chất khô cứng đóng khung của ngôn ngữ dù đó là lời kinh, chúng được lắng nghe và linh cảm trong bản chất âm giai nội tâm đối đãi nguyên sơ nhất của chúng. "Tôi đã lắng nghe im lặng dòng sông... tôi đã lắng nghe im lặng ngọn đồi... tôi đang lắng nghe im lặng của tôi... tôi đã lắng nghe im lặng thở dài". Bài hát sâu lắng như một buổi toạ Thiền quán sát hơi thở.

Hư vô, cõi tạm do đấy được xử dụng như tiếng thô "đục" của mõ và "thanh" bổng của chuông, hai phương tiện của nghe kinh ngộ đạo đơn sơ nhất, căn cứ vào tầng rung cảm âm thanh bẩm sinh của mỗi con người, nói nôm na là tiếng lòng của mỗi người mà âm vang của tiếng mõ và tiếng chuông có thể làm nở "đoá hoa vô thường", có thể chở ta ra đi viễn xứ và mang chúng ta trở lại quê nhà.

Có thể nói tính cách tân kỳ của ca khúc TCS nằm ở chỗ trong khi Sơn chuyển ý niệm sắc không vào âm nhạc, Sơn đã làm mềm chúng bằng cách dựa vào giai từng cơ bản đối đãi giữa giải thoát và cõi trần cát bụi, trong tương quan chuyền qua đối lại giữa đục - thanh, trầm - bổng của mõ và chuông, từ đó tùy tâm mà chuyển đổi và ứng dụng tất cả những phương tiện khác của âm nhạc - tứ đại cảnh, ru em, hò hay điệu blue buồn hoặc điệu soul của phong trào tân nhạc Âu châu chẳng hạn, để sáng tạo nên thể cách riêng tư của mình. Trong tất cả dòng chảy của âm nhạc TCS, sự tĩnh lặng thoát ra từ âm thanh "chuông mõ" luôn luôn làm nền tảng cho sự cảm nhận nét nhạc của mỗi bài ca, dù cho bài ấy có dồn dập đến đâu.

Chính nhờ nguyên tắc đối đãi, mà lời và nhạc của Sơn luôn luôn biến chuyển không ngừng, trong nắng hư vô đã thấy tóc em dài, đường xa áo bay, và lời ru của mẹ lời ru cho em thường dẫn ta đi vào cõi đời thường như một cõi đời mộng, để cho mộng thực luân lưu trong nội tâm quyện tròn thành một lời êm dịu như tiếng kinh dỗ dành giấc ngủ.

Có thể so sánh sức mạnh sáng tạo trong thơ nhạc của TCS với một công án của Hakuin, thiền sư và họa sĩ ngộ đạo nhất của Nhật Bản:

Tay không mà có cầm cán mai;
Đi bộ mà ngồi lưng trâu;
Người đi qua trên cầu,
Cầu trôi, nước chẳng trôi !

Cái cầu cố định hóa mềm dưới chân, nỗi ưu tư hóa mềm trong tiếng du ca. Trong cái nhìn của người nghệ sĩ, năm căn hay lục căn được cởi bỏ mọi giới hạn, để chỉ còn tự do sáng tạo, ở đó nghe là nhìn "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói", ngửi là nghe, vị giác cũng là nghe, "tôi đã lắng nghe im lặng mặt người", mà Hakuin (Thiền sư Bạch Ẩn) gọi là phạm trù "kikan" của mỗi công án, phạm trù của cơ cấu mềm dẻo và tự do. Trong cái nghe sáng tạo, tiếng rơi thô kệch của hòn đá rớt xuống cành mai bỗng hóa thành tiếng chim ca thánh thót hát khúc qua đời ! Đứng dưới mái chùa, TCS đã trả lời Sisyphus bằng một công án như thế !

Một Niềm Vui, Một Giọt Nước Mắt


Trong tất cả các bài hát của Sơn, có một bài duy nhất mà tôi ít thích nghe cũng như ít thích hát, đó là bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui sáng tác sau 1975. Không phải vì âm điệu buồn tẻ hay lời ca không hay, nhưng vì mỗi khi nghe hát bài này tôi lại nhớ đến Sơn của lần gặp lại năm 1977, khi tôi trở về Huế thăm nhà sau 12 năm du học.

Trở về Huế sau mười mấy năm xa cách, tôi đã gặp lại một Huế thật là - người Huế thường chỉ tình trạng này bằng bốn chữ tả chân..."xanh xương mét máu", một Huế đang giật mình, một Huế đang run sợ kinh hãi cho ngày mai, bên cạnh một Huế rất nghèo, rất khổ. Đi trên đường phố ít ai ngẩng đầu lên, có trao đổi một nụ cười với ai thì nỗi gượng gạo nơi người ấy đã ngăn vành môi bên kia không cho cười hết miệng.

Khác hẳn với một Huế ngày trước mà mỗi nụ cười là ánh sáng thân hữu hiếu khách, mà mỗi cái nhìn có phản chiếu sự trong trẻo của nước sông Hương trên khúc sông Linh Mụ mời gọi tha nhân đi sâu vào một câu chuyện mới làm quen, Huế 1977 mà tôi gặp lại là một Huế lơ đãng, sầu hận và nghi ngờ, một Huế bị phá sản hết mọi thiết tha.

Hãi kinh và ngơ ngác đọng trong mắt, trên nét mặt của mỗi người những vòng sâu thâm quầng. Lần trở về Huế năm ấy cho tôi một nỗi bơ vơ còn hơn những nỗi bơ vơ ở xứ người, vì đâu đâu hình như ai chẳng tin ai, ai cũng nghi ngờ lẫn ai, ai cũng oán hờn với ai, ai cũng sợ ai.

Chỉ có một niềm vui duy nhất : gặp lại gia đình và gặp lại bạn cũ. Trong khoảng thời gian mấy mươi ngày ở Huế, Sơn là người bạn đến thăm tôi nhiều lần nhất. Khác với ngày trước thường đi bộ ba, bộ bốn, lần này Sơn đến một mình. Vẫn dáng người gầy, mũ caskette nâu như năm nào, gọng kính trên mũi thanh, ánh mắt thân thiện như chưa bao giờ có một khoảng trống vắng trong tình bạn. Chúng tôi kể cho nhau nghe những điều đã làm đã học trong mười mấy năm không gặp.

Tuy xa nhau rất lâu, nhưng hình như lúc nào Sơn cũng có mặt không những chỉ cho riêng tôi mà cho thế hệ chúng tôi, ở những nơi xa xôi nhất như cái thành phố Âu châu mà tôi đang ở. Nhạc tình, nhạc về chiến tranh và hòa bình của Sơn trong những năm trước 1977 đã nở rộ và âm vang đến cộng đồng người Việt khắp năm châu. Ở nơi quê người chúng tôi đã hát nhạc của Sơn như nỗi ưu tư của mình về số phận của đất nước và con người Việt Nam, về nỗi khổ chiến tranh, về khát vọng hoà bình.

Khác với những ca khúc khích động xuống đường thời ấy như "dậy mà đi", "cỏ cú", ca khúc về cuộc chiến của Sơn thường gây ý thức, đặt vấn đề hay trình bày vấn đề, hoàn cảnh, số phận để mỗi một người chúng ta lấy quyết định mà hành động. Và khi đã lấy quyết định rồi thì tự mình gánh lấy trách nhiệm của mình, chứ không thể đổ tội cho bài ca. Bởi thế tôi nghĩ rằng những trách cứ về Sơn, buộc tội Sơn có hơi vội vàng do sự ngộ nhận bản chất thật sự của những ca khúc TCS mà có lẽ trong một dịp khác phải được phân tích và đánh giá lại một cách trung thực.

Trở lại 1977. Cả một công trình sáng tác nhạc mười mấy năm đang bị đe dọa phải chối bỏ, kiểm soát, tự phê bình, Sơn đã tâm sự với tôi nỗi khó khăn cho một người nghệ sĩ trong hoàn cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa đang được thực hành trong tính cách tuyệt đối, khai trừ mọi ý kiến khác biệt. Đã kể cho tôi nghe những buổi "đi thực tế", những lần phải viết bài tự phê bình về tác phẩm của mình, và Sơn bảo, họ không đồng ý với mình nhưng họ bảo mình viết rất hay. (Không biết những tài liệu ấy ngày nay có còn không?) Tôi đã ngạc nhiên trước những nhận xét sắc bén của Sơn, mà hồi trước vì thấy Sơn ít nói, tôi cứ đinh ninh là Sơn đơn giản.

Sơn đã chạm mặt với hai vấn đề : ý thức con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa và lý thuyết Mác-xít. Vấn nạn thứ nhất làm cho một người nghệ sĩ chân chính phải kinh hoảng là sự không thành thực với chính mình - thành thật với chính mình là điều kiện tiên quyết cho sự đạt đạo trong sáng tác nghệ thuật. Trong hai năm trường Sơn đã chạm mặt với một hiện tượng mà Sơn gọi là nhị trùng bản ngã - danh từ lần đầu nghe ở Sơn, bên ngoài nói một đằng mà bên trong nghĩ khác, mà cả hai, bên trong và bên ngoài đều được chủ nhân của chúng tưởng là đúng một cách giáo điều như nhau, chứ không phải một mặt đúng thì mặt kia phải sai, không, giáo điều là sự tin tưởng cả hai thứ sai đều đúng !

Vấn nạn thứ hai là sự tò mò siêu hình cố hữu, Sơn hỏi tôi ở Âu châu đã có triết gia nào dùng lý luận để bác bỏ lý thuyết Mác-xít một cách toàn diện, tương tự như Marx đã phê bình Hegel. Câu hỏi thắc mắc triết học này đã biểu lộ nỗi lo âu trí thức của một người nghệ sĩ thức tỉnh. Không băn khoăn lo âu sao được khi ở đâu cũng bị vây quanh bởi những bích chương giáo điều quá vĩ đại và hằng ngày phải điểm tâm bằng những buổi phát thanh ca ngợi chủ nghĩa như kinh nhật tụng và những buổi học tập lý thuyết Mác-Lê loại trừ mọi phê phán ? Lo âu cho sức sáng tạo của mình bị tắt nghẽn khi phải đánh đổi sự yên tâm trí thức về chân lý bằng quyết đoán giáo điều nông cạn và hời hợt.

Một lần khác trong một cuộc đi xem triển lãm tranh tại Huế, Sơn chỉ cho tôi một bức tranh hiện thực được giải nhất, vẽ cảnh công nhân cùng với mọi tầng lớp nhân dân đang lao động, người nào cũng vai u thịt bắp mặt mày hồng hào, em bé thì bụ bẫm. Nỗi khổ của nghệ sĩ miền Nam nằm ở nơi "người người hồng hào, em bé bụ bẫm" ấy! Vì nếu vẽ hiện thực thực sự thì chỉ tìm thấy thực tế "đói dơ xương" đầy rẫy. Phải sống trong một ảo tưởng lạc quan nào đó mới có thể vẽ hay hát hiện thực "mơ mộng ngây thơ" trong hoàn cảnh Việt Nam thời ấy. Cho nên không vẽ được, không sáng tác được. Cho nên khổ !

Không có bài hát nào của Sơn trong quá khứ được ban giam khảo văn học nghệ thuật thời ấy cho lọt sổ. Nhạc Sơn bị cấm phổ biến.

Sáng tác theo chiều hướng qui định đó như một cực hình, mà không sáng tác - lẽ sống của người nghệ sĩ, thì như cây giữa mùa xuân rụng lá. Trong một hoàn cảnh như thế Sơn đã chọn lựa sáng tác và bắt đầu lượm từng chiếc lá xanh vừa rụng xuống chắp lại lên cành với bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui.

Trong đêm họp mặt bạn bè cũ nhân cuộc trở về Huế của tôi (hôm ấy có mặt bộ ba của thời trước - Sơn, HPNTường, Đinh Cường) và những bạn cũ, cùng một vài khách mới, Sơn đã hát cho chúng tôi nghe ngoài những bài hát cũ, bài hát vừa mới sáng tác nói trên. Về âm điệu và lời ca, thoạt nghe, thì cảm thấy bài hát thật là bỡ ngỡ nếu được nhìn trong toàn thể ca khúc TCS.

Đến 1977 ca khúc TCS đã lớn mạnh và đạt đến trình độ tinh luyện, xuất thần về âm giai cũng như về ý nhạc, cho nên khi nghe Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui tôi có cảm tưởng đau đớn là Sơn đang tập đi lại những bước nhạc ấu trĩ trong sự nghiệp ca nhạc của mình, như "kìa đàn vịt ngoi dưới ao hồ" hát hồi lớp Năm, đang phải quên tình sầu, tình nhớ, mưa hồng, cõi tạm để hiện thực trong những niềm vui không có thực, đang phải tập đi những bước đoạn trường để qua cái cầu Xã Hội Chủ Nghĩa.

Và không những chỉ Sơn, tất cả những nghệ sĩ miền Nam đều đã phải trải qua cay đắng ấy, trong khi họ gần nửa đời người sáng tác, họ phải bắt đầu lại từ đầu với một cảm giác đang bị cặp mắt của ban kiểm duyệt văn hoá quan sát ở sau lưng.

Ai nói Sơn ca ngợi niềm vui (trong lúc mọi người đang buồn đang đói) trong bài hát này? Người ấy đã nghe quá vội, chỉ nghe chữ "vui" mà không nghe chữ "chọn" đi trước. Ai vui thì nói tôi vui như bài "vui ca lên nào anh em ơi" còn một người đang ngồi "chọn" niềm vui thì người ấy chưa vui, bởi vì trong lúc chọn, "cái vui" còn là một đối tượng bên ngoài chứ chưa phải là niềm vui bên trong, cái vui nghẹn ngào, mới chỉ là một nửa, mới chỉ là "vui gượng kẻo mà" đó thôi. Âm hưởng của chữ "vui" sau chữ "chọn" nghe như có vết lăn của giọt nước mắt không nức nở của nàng Kiều !

Trong hoàn cảnh bấy giờ có người bảo không thể tìm ra một niềm vui nào cả và trách Sơn tại sao có thể xa thực tế, đi nói chuyện vui trong lúc cả nước khổ, ngược lại đài phát thanh Huế ngày nào cũng kể ra hàng vạn tin vui, và người ta trách Sơn sao chỉ chọn một niềm vui, và chọn một con đường để đi, trong lúc vui đã có và đường đã sẵn ?

Trả lời chất vấn thứ hai, Sơn hát "tôi chọn một niềm vui" ấy là thái độ tích cực đó chứ, tích cực nhưng không giáo điều vì sự chọn lựa là của tôi và như thế tôi trung thành với tôi, trả lời chất vấn thứ nhất, Sơn cho thấy sự bất bình thường của việc đi chọn một niềm vui như đi lựa một chiếc áo chưa mặc, như đi mua vé xem hát mà chưa đi. Trong Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui vẫn có chữ vui, nhưng là nỗi vui được chọn lựa trong cảnh ngộ "dùi mài một thân" của người nghệ sĩ phải tìm một niềm vui để sống, phải chọn một con đường để đi giữa "gió trúc mưa mai", chọn và tìm cho được mỗi ngày một niềm vui thật sự giữa những niềm vui nhị trùng bản ngã không phải là dễ.

Và niềm vui mà Sơn kể ra lại không dính líu chi với những niềm vui loan ra của các đài phát thanh của cả nước thời bấy giờ cả, mà là những niềm vui tìm được trong cảnh thức Huế đã ghi đậm một thời : những bông hoa, những nụ cười, "tôi chọn gió trời mời em giữ lấy", chọn tiếng ru con để chờ nắng đầy, chờ cơn mưa tới và "nhìn gió quê hương ngồi nghĩ đời mình".

Tôi nhớ nàng Kiều trong "Nỗi lòng đòi đoạn xa gần, chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau" đã nhớ về quê cũ với những kỷ niệm đầm ấm khó quên như một niềm vui an ủi cho hiện tại và cảm được tâm trạng của Sơn trong những năm sau 1975 một phần nào : Chọn ở lại trên mảnh đất quê hương như là một nhu cầu tất yếu của người nghệ sĩ - có con ve nào hát được tiếng hát trung thực của nó khi bay khỏi vùng đất mà nó vừa thoát xác ? - Chọn cho được một con đường riêng cho mình để sáng tác mà không phản bội với chính mình. Chỉ với những niềm vui trong "giấc hương quan" mà đó là "gió quê hương" của tâm thức Huế, tác giả của Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui khi "nghĩ lại đời mình" đã tạo cho cuộc đời mới của mình một mảnh đất sáng tạo dù cho hạn hẹp, ở đó anh có thể chọn một niềm vui như một thứ tự do dù cho chỉ là khoảnh khắc phù du như gió, như mưa, như nắng nhưng lại trung thực với con tim, bởi lẽ "đất nước đang cần một trái tim" trung thực như thế.

Ngày rời Huế lúc chia tay Sơn đã đem đến tặng ba bài hát viết tay trên trang giấy học trò - hồi ấy giấy viết tốt hầu như không có, bài hát nói trên, và hai bài Con Chim Nó Đậu Cành Tre, Em Đi Qua Chuyến Đò hai sáng tác mới phối hợp điệu dân ca và nhạc soul mà Sơn rất đắc ý. Hành lý mang theo hôm ấy là tình bạn hữu và một nỗi xao xuyến lo âu cho người ở lại. Ở nơi xa mỗi khi nghe ai hát những bài hát ấy tôi lại thấy xót xa với niềm vui như một giọt nước mắt khô không chảy ấy.

Trong những năm kế tiếp, sau một khoảng thời gian bặt tiếng, nhạc của Sơn như một luồng nước ngầm chảy đến miền Bắc và chinh phục mọi tầng lớp thính giả, mặc dù bị cấm phổ biến, trong những chuyến xe đò từ Nam ra Huế, ra Bắc, du khách bỗng nghe ấm lòng khi nghe Tình Nhớ, Quỳnh Hương như cuộc trùng phùng bằng hữu bất ngờ, thấp thoáng, quấn quýt bên tai.

Tiếng hát TCS đã trở thành tiếng hát của mọi người. (Sự thành công của Sơn sau 1977 là việc nghiên cứu trong tương lai). Sơn thường bảo "đời đã đãi ngộ" Sơn đó, tôi thì nghĩ, không chỉ do thế, chính trái tim chân thật đầy đạo vị của Sơn đã gặp gỡ trái tim của mọi người dù Bắc hay Nam, hữu hay tả, đó là nguồn suối thành công của Sơn.

Trái Tim Trung Thực Từ Bi - Lẽ Sống Văn Hóa

Lần cuối gặp Sơn tại Sài-Gòn vào tháng 9 năm 2000, tôi đến thăm Sơn với ý định nhờ Sơn phổ nhạc cho vở kịch của B. Brecht do tôi dịch và Minh Ngọc làm đạo diễn. Một sự tình cờ, hôm ấy Thầy Tuệ Sĩ cũng đến chơi, lại nghe có Đinh Cường ở Mỹ về cũng sắp đến. Chúng tôi ba người ngồi nói chuyện với nhau đợi Cường, và một đề tài cố hữu lại được đề cập - một cách thoải mái, chuyện làm văn hoá tại Việt Nam.

Sơn nói với Thầy Tuệ Sĩ - hôm nay mới thấy là một ngẫu nhiên lạ lùng, như một kết luận cho hành trình ca khúc của mình : nên làm văn hóa và có thể làm văn hóa trên đất nước này, có thể sống văn hóa trên đất nước này miễn là mình vẫn trung thành với chính mình, với con tim của mình, với cảm xúc sáng tạo của mình, và với tình thương, thì sẽ thuyết phục được thiên hạ và có niềm vui. Rồi chỉ vào mình Sơn bảo : "Như Sơn!", không một chút tự cao mà nhân hậu như một thiền sư đã chứng ngộ mọi sự khổ của cuộc đời, mọi nỗi vui của cuộc đời, với ly rượu cố hữu (khổ nạn và đam mê của Sơn) trong tay.

Tôi nghĩ đến cách thế cởi dép đội lên đầu mà đi của Thiền sư Triệu Châu(4), câu trả lời duy nhất có thể cứu sự sống qua bao nhiêu tranh luận ý thức hệ, bao nhiêu giáo điều chủ nghĩa, bao nhiêu sự chém giết đày đọa hận thù lẫn nhau mà Việt nam đã trải qua và thế hệ của chúng tôi đã trầm luân trong ấy.

Ngoảnh mặt lại nhìn thì đến bây giờ chúng tôi chỉ có TIẾNG HÁT TRỊNH CÔNG SƠN như tiếng của cõi lòng thế hệ 40 - 60.

Vĩnh Biệt

Ngày đưa đám Sơn, anh em ở Huế, một số vào Sài-Gòn, một số người ở lại Huế, trong đó có tôi. Nghe báo tin ra hàng ngày là đám tang sẽ rất lớn, người ái mộ đem hoa đến không kể xiết, bỗng chùn chân không muốn đi.

Ở lại Huế, hội văn nghệ tổ chức lễ truy điệu, bạn hữu, người ái mộ đến rất đông, nhưng cũng có người không đến. Hỏi tại sao. Trả lời, tui không tới, không đi mô hết, tui đã từng thao thức nhiều đêm với hắn ở trên chùa, thời nhỏ đã từng lăn lóc với hắn trong vườn dâu trong bụi sắn, chừ tui ở nhà tui khóc với hắn, tui nói với hắn là đủ rồi - một chiêu bằng hữu kiểu Huế kỳ quái! không phải khóc cho Sơn mà với Sơn, không phải điếu văn cho Sơn mà nói với Sơn trong nỗi "bạn bè rời xa chăn chiếu". Ô hay, sao nỗi cô liêu bỗng vô tận thế này?

Ngày đưa đám Sơn, tôi đã đi lại những con đường ở Huế, đường qua Trường Tiền đường lên Bến Ngự, vòng xuống Ngự Viên, những con đường chúng tôi đã đi thời thanh xuân, bỗng vấp chân trên đường, hòn đá lăn rơi khô khan như tiếng đất rơi tiễn biệt trên một quan tài, những viên sỏi đá! một thời tuổi xuân! đã muốn nhìn vô tri đồng nghĩa với chữ TÂM, với chữ THƯƠNG!

Sơn ơi, nơi cõi "đêm chưa qua mà ngày chưa tới" trong kinh Bát Nhã có phải "ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau"!


Thái Kim Lan



GHI CHÚ

(1)Sisyphus: nhân vật trong huyền thoại Hy Lạp, con của Aiolos và nữ hoàng Korinth, nổi tiếng là tinh ranh quỉ quyệt đã dám bắt thần chết trói lại để cho con người khỏi phải chết, sau đó bị trừng phạt vì tội ấy suốt đời phải lăn một tảng đá lên núi, nhưng khi đến nơi thì tảng đá lại rớt xuống, và Sisyphus lại phải bắt đầu lại công việc lăn đá lên núi.
(2) và (4) Công án Triệu Châu: "Một hôm trong tự viện của Hoà Thượng Nam Tuyền, tăng chúng ở đông và tây đường tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền cầm con mèo giơ lên nói: "Đại chúng nếu có ai nói được (đắc đạo) thì cứu mạng cho mèo, bằng nói không được (đạo bất đắc) thì ta sẽ chém mèo vậy!" Chúng chẳng ai nói được, Nam Tuyền bèn chém mèo. Chiều đến, Triệu Châu về, Nam Tuyền đem chuyện kể lại cho Triệu Châu. Triệu Châu bèn cởi giầy đội lên đầu rồi đi ra. Nam Tuyền nói: "Nếu như có ông ở đó, hẳn đã cứu được mạng cho mèo rồi."
(3) Một công án Thiền học nổi tiếng của Hakuin: "Khi ta vỗ hai tay vào nhau, ta nghe tiếng vỗ tay. Hãy lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay !"
 
Diễm xưa
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thu mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho minh xót xa
Chiều nay còn mưa sao em ko lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em nhớ những vết chim ri
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du

Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cúng cần có nhau
 
Trịnh Công Sơn nói về người bạn tri kỉ Khánh Ly
Mối tình có một không hai trong nghệ thuật



Chắc không ai phủ nhận rằng trong suốt chặng đường dài của nền tân nhạc Việt Nam, không có mối tình trong âm nhạc nào có sức ám ảnh, lan tỏa và nhiều giai thoại như mối tình Trịnh Công Sơn - Khánh Ly.


Một người đã từ bỏ kiếp trọ trần gian để trở về với cát bụi và làm kẻ du ca muôn đời cùng Nhật Nguyệt. Một người bước sang nửa bên kia của "một cõi đi về". Nhưng "Dấu chân địa đàng" của họ vẫn đang dạo bước đâu đây, giữa những yêu thương tuyệt cùng như thuở ban đầu của công chúng yêu nhạc.
Hãy nghe lại những lời họ nói về nhau trên báo chí, để hiểu thêm một phần những bí ẩn của "mối tình âm nhạc" tuyệt vời này
.



Trịnh Công Sơn - Một thứ tình yêu không giống những tình yêu khác
Trong nước, chưa có ca sĩ hát hay nhất nhạc của tôi


Theo nhạc sĩ, ca sĩ nào thể hiện thành công nhất tác phẩm của mình? Nhạc sĩ có thể cho một nhận định công bằng giữa Khánh Ly và cô Bống trong mối quan hệ với nhạc sĩ về nghệ thuật không?


Cách diễn đạt của Hồng Nhung và Khánh Ly hoàn toàn khác nhau. Mỗi người đều có thính giả riêng của mình. Tuy nhiên, cái giới nghe và thích Khánh Ly vẫn đông đảo hơn nhiều. Trong nghệ thuật, Khánh Ly là một người làm việc rất nghiêm túc và luôn giữ mối quan hệ mật thiết với tác giả để tìm hiểu cặn kẽ những điều tác giả muốn nói trong tác phẩm.

Khi nhắc đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người ta đều nghĩ đến Khánh Ly và ngược lại. Theo nhạc sĩ, hiện nay ca sĩ nào trong nước có thể diễn đạt hay nhất những ca khúc của nhạc sĩ?


Có một thời, Khánh Ly cùng tôi đi hát với nhau ở các trường đại học thuộc các đô thị miền Nam. Ngoài ra, còn hát ở sân khấu trình diễn và phòng trà. Có thể nói dạo ấy, tôi chỉ viết cho Khánh Ly hát. Có một vài ca sĩ hát ca khúc của tôi hiện nay nhưng hay nhất thì chưa có.
Gặp Khánh Ly là một may mắn tình cờ

Âm nhạc của anh, nếu tách từng trường đoạn thì rất giản dị giống với những khúc dân ca nhưng nếu xâu chuỗi lại thì nó mang âm hưởng của những bản Thiền ca. Để có không khí thiền ca đó phải chăng là do Huế và Khánh Ly làm nên?

Có thể là đúng là do chỗ địa lý theo tôi rất quan trọng. Tâm hồn mình ít nhiều nhờ một vùng đất đặc biệt nào đó nuôi dưỡng, nó phả vào tâm hồn một điều kỳ lạ và độc đáo. Ấy nên có những giọng nói khác nhau ở mỗi vùng, thực sự trong âm nhạc và nghệ thuật cũng vậy. Có nhiều người than phiền và trách tôi là tại sao tôi ở Huế mà không viết gì về Huế cả.

Tôi nói tất cả những bài hát của tôi đều viết về Huế. Thường như bài hát Nhớ mùa thu Hà Nội, mình không phải là người Hà Nội nên phải dùng từ "Hà Nội" để người ta biết mình viết về vùng đất đó. Như những người không phải là đứa con của Huế thì hay dùng từ "Huế" rất nhiều trong ca khúc của họ. Tôi không nói "Huế" nhưng tất cả các bài hát của mình đều "Huế" cả...

Còn gặp Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly.

Tôi đã mời Khánh Ly và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó, Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly.
Đó là một thứ tình bạn đặc biệt...

Đến nay, có lẽ chưa có ca sĩ nào hát nhạc Trịnh Công Sơn giàu sức truyền cảm như Khánh Ly. Có phải đó là tình yêu?

Không hề có chuyện tình yêu ở đây. Đó là một thứ tình bạn đặc biệt kết tụ lại những đam mê chung về cuộc sống, tính lãng mạn, sự hồn nhiên. Trong cuộc hạnh ngộ này, người sáng tác và người hát làm thành một thể thống nhất bất khả phân ly. Từ đó, sự hát và ký hiệu trên trang giấy mất đi, nhường chỗ cho một lời tâm sự về đời, về người tưởng như của hai người nhưng thật ra chỉ là một mà thôi.

Cho dù sau này nhiều ca sĩ đã cố gắng thể hiện khá tốt những phong cách khác nhau về các nhạc phẩm của anh nhưng người nghe đều có chung một nhận xét, Khánh Ly mới đúng là một cặp "đối ngẫu" lý tưởng với âm điệu của anh. Là tác giả, anh nghĩ sao?


Đúng là chỉ có Khánh Ly mới thể hiện đúng tâm trạng của tôi nhất, nhưng không phải tất cả các bài nào của tôi Khánh Ly cũng đều hát hay nhất. Tôi muốn nhắc đến Lệ Thu, người hát hay nhất Hạ trắng và Xin mặt trời ngủ yên. Bạch Yến thì hát hay hơn hẳn Khánh Ly bài Lời buồn Thánh.

Có một nghịch lý tôi muốn đưa ra đây để thấy sự cảm nhận rất vô chừng ở mỗi người. Chẳng hạn, có một cô sinh viên Hà Nội cho biết cô chỉ thích nghe nhạc tôi do Khánh Ly hát nhưng cũng có một phụ nữ lớn tuổi, hiện sống ở nước ngoài, từng mê Khánh Ly hát nhạc tôi, khi có dịp về nước và nghe các ca sĩ sau này hát nhạc tôi thì tỏ ra rất thích thú và cho rằng họ có một cách hát nhạc Trịnh Công Sơn mới, hiện đại và rất hay.

Khánh Ly đã thức trọn đêm, vật lộn với "Một cõi đi về"


Hiện tại, ông nghĩ gì trước hiện tượng có khá nhiều ca sĩ đến tập bài mới ngay tại phòng thu rồi một, hai tiếng sau... ghi âm luôn mà không quan tâm tới việc "nhập" và hiểu tình cảm, nội dung của bài hát?


Tôi đưa ra đây một tấm gương lao động nghệ thuật của Khánh Ly để thấy rằng trước khi muốn hát một bài thành công thì người ca sĩ phải trải qua một quá trình hóa thân vào tác phẩm đó như thế nào. Nhớ dạo tôi mới viết bài Một cõi đi về mấy tháng trước khi Giải phóng miền Nam (30/4/1975). Sau này, có dịp đi Mỹ, tôi gặp Khánh Ly và đưa cho cô bài hát này.

Tôi nhớ Khánh Ly cầm và lẩm nhẩm bài hát này từ 7 giờ tới... 7 giờ sáng hôm sau. Cô đã thức trọn đêm, "vật lộn" với bài hát nhờ sự giúp đỡ của thuốc lá, cà phê đen. Vậy mà cô cho rằng vẫn chưa "thấm" bài mấy. Người ca sĩ phải làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm như vậy mới tạo ra những nét sáng tạo riêng trong từng bài hát đồng thời thể hiện chính xác những tâm trạng bài hát của nhạc sĩ.

Trong lòng Khánh Ly ngày trước có nhiều điều chưa nói được
"Sống ở đời, lúc nào cũng cần có một tấm lòng". Bài viết của Khánh Ly trong Tuần tin Thanh niên và được báo Tiền Phong in lại vào số Tết năm 1989 đã gây ngạc nhiên và xúc động nhiều đối với bạn đọc. Riêng anh, đối tượng mà Khánh Ly nhắc đến trong bài viết, anh nghĩ như thế nào khi đọc bài đó?


Trước tiên, đó là một bài viết hay, những câu nói âu yếm trong bài là dành cho một người khác đã chết rồi. Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô cùng, trên tình bạn. Những gì tôi đã làm được cho Khánh Ly thì cũng là phù phiếm thôi. Trong lòng Khánh Ly ngày trước có nhiều điều chưa nói được. Không nói được thì đành thôi vậy. Đời sống không đơn giản. Nếu cần một phút nói rất thật thì tôi nói rằng: "Khánh Ly và tôi là hai người bạn lãng đãng trong cuộc đời mà rất yêu thương nhau".

Tôi có những người em gái cũng vậy. Yêu thương tôi hơn yêu chồng. Bởi lẽ tôi đã cố gắng mang đến trong cuộc sống ngắn ngủi của mình một tình cảm chân thật và nhân hậu. Mỗi người có đời sống riêng. Khánh Ly cũng vậy. Nhưng nhớ thương nhau vì sự đùm bọc lẫn nhau nâng nhau lên với một tình cảm phúc hậu mà không mưu toan thì hiếm.

Chúng tôi đã có một thời chia sẻ cho nhau từng miếng ăn, thức uống. Từ đó, này sinh ra một thứ tình yêu không giống những tình yêu khác. Chúng tôi như hai đứa bạn trai. Nếu có điều gì chưa nói hết thì điều đó thuộc đời riêng của Khánh Ly. Có ai đủ can đảm phủ nhận một thời hạnh phúc mà trong đó Khánh Ly và tôi đã tận hưởng từ những tình cảm nhân loại nhất của mọi người.

Với người yêu nhạc Trịnh, Khánh Ly là giọng ca khó thay thế. 20 năm qua, có lúc nào anh đi tìm người thay thế Khánh Ly?

Ai cũng thừa nhận Khánh Ly là giọng ca khó lặp lại trong đời. Mình biết khó có thể tìm được một giọng ca khác như cô. Mình cũng cố đi tìm một người hát nhạc mình hay như Lan Ngọc, Cẩm Vân, Hồng Hạnh, Thu Hà. Trong số đó, mình tìm ra Hồng Nhung. Với tác phẩm của mình, Hồng Nhung có sự đồng cảm.


Theo Đàn Ông

 
Khánh Ly - Trịnh Công Sơn: Sự gắn bó của định mệnh

"Trịnh Công Sơn và tôi có một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường. Có thể có những giây phút anh Sơn không nhớ đến tôi, nhưng riêng tôi lúc nào cũng nhớ đến anh. Bởi anh là một nửa đời sống của tôi", ca sĩ Khánh Ly tâm sự.

Chị là một trong số những người ở hải ngoại biết được tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời sớm nhất. Cảm giác của chị khi được tin ấy ra sao?



Tôi không biết là trong trường hợp những người khác, cảm giác của họ khi nhận được tin một người thân vừa đi xa như thế nào. Nhưng lúc đó thì tôi như một người bị đông đá. Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng và ngồi sững trên ghế cho đến khi nghe tiếng chồng tôi khóc. Lúc đó tôi mới tỉnh lại, tôi nói với nhà tôi: "Anh Sơn đi rồi!".



Sau đó, tôi được nói chuyện với anh Thích, em rể của anh Sơn, cũng ở thành phố này, để xác nhận tin đó là đúng hay chỉ là tin đồn. Tôi được xác nhận là đúng và chính anh Thích lúc đó cũng gần như rơi vào tình trạng như tôi. Có lẽ tôi là người đầu tiên liên lạc với anh Thích.



Chị đã phải vào bệnh viện cấp cứu sau khi nghe tin đó. Vì sao vậy?



Tôi ngã từ trên ghế xuống. Tôi cảm thấy tôi không thở được nữa, đó là sau khi đã liên lạc về Sài Gòn. Nhà tôi đưa tôi đi cấp cứu, nhưng nằm đến chiều thì tôi đòi về vì muốn ở nhà chờ tin ở quê nhà báo sang.



Lâu lắm rồi tôi mới có thể tin rằng, sự ra đi của anh Sơn là chuyện có thật. Cái mất mát, đau buồn thường thâm nhập vào tôi rất chậm, nhưng càng ngày tôi càng nhận thức được nỗi đau, nỗi khổ của mình là sự thật. Nó không phải là giấc mơ nữa.



Cảm giác sau đó của chị thế nào?



Tôi nghĩ là Trịnh Công Sơn đi xa đâu đó một vài giờ đồng hồ, một vài ngày như anh thường đi ra quán nghệ sĩ mỗi buổi sáng để gặp bạn bè. Dẫu rằng anh chỉ ra đó ngồi uống một ly trà rồi đi bộ về nhà.



Bây giờ tôi vẫn còn cái cảm giác là một lát nữa đây có thể anh sẽ trở về. Tại thành phố này, năm 1992 tôi được gặp anh. Cũng trong căn phòng này, chúng tôi đã quây quần với các em, các cháu, các bạn của anh.



Chúng tôi đã ngồi đây rất hạnh phúc trong khoảng mấy tháng trời. Và cũng có lúc anh đi ra ngoài quán cà phê ngồi để nhìn những người khách lạ đi qua lại. Bây giờ tôi cũng nghĩ rằng không có mặt anh ở đây chắc là anh đang còn ở một quán cà phê nào đó và sẽ trở về kịp bữa cơm tối nay.



Chị đã gặp anh Sơn lần nào sau năm 1975?



Lần đầu tiên tôi gặp Trịnh Công Sơn sau năm 1975 là vào năm 1988 tại Paris. Đến năm 1992 thì tại đây - Canada. Đến năm 1997, tôi về nước và tháng 5/2000, tôi về với phái đoàn Nhật để hát trong cuốn phim nói về một ký giả Nhật đã chết ở Việt Nam. Đoàn Nhật nói, khi tìm được xác người ký giả, trong túi anh ta vẫn còn một cuốn cassette nhạc Trịnh Công Sơn do tôi hát.



Trong suốt thời gian đó, sau những giờ làm việc với phái đoàn Nhật, tôi dành hết thì giờ nói chuyện với anh Sơn, ngồi với anh và một số bạn bè như Lan Ngọc, Hồng Vân, anh Nguyễn Ánh 9, anh Nguyễn Ngọc Thạch, thoáng gặp Cẩm Vân một lần. Đồng thời tôi cũng được gặp Bảo Phúc, chính Bảo Phúc tập nhạc cho tôi tại nhà của anh Sơn. Khi ấy, anh Sơn đã chỉ cho tôi hát bài Đồng dao 2000 và Tiến thoái lưỡng nan.



Vậy lần cuối cùng chị gặp Trịnh Công Sơn là khi nào?



Lần gặp đó cũng là lần cuối. Thật ra sau Tết nghe tin anh nhập viện, tôi có dự định về thăm anh. Nhưng rồi chính tôi không được khỏe nên đành hoãn lại. Đến khi tôi nghe anh Thích và chị Tâm từ Việt Nam về cho biết tình hình sức khoẻ anh Sơn đã khá, tôi cũng mừng và nghĩ rằng mình có thể thu xếp từ giờ đến cuối năm về thăm anh. Nhưng không ngờ chỉ mấy ngày sau, tôi được tin anh nhập viện.



Có lần chị nói giữa chị và anh Sơn có một sự liên hệ lạ lùng. Sự liên hệ ấy là gì?



Mối quan hệ giữa Trịnh Công Sơn với tôi kéo dài thời gian quá lâu, một sự gắn bó như định mệnh. Trịnh Công Sơn có thể có những giây phút không nhớ đến tôi, nhưng riêng tôi lúc nào cũng nhớ đến anh. Bởi như tôi đã nói, anh là một nửa đời sống của tôi.



Và ngay khi nói những lời này, thực sự tôi không biết mình còn hát nổi nữa hay không. Điều mà tôi mơ ước nhất bây giờ là có thể tan biến khỏi cuộc đời này, hoặc tôi sẽ không thức dậy nữa sau một giấc ngủ. Như thế có lẽ tốt cho tôi hơn. Còn kỷ niệm, tôi xin phép được giữ riêng.



Trịnh Công Sơn và Khánh Ly



Như chị nói Trịnh Công Sơn là nửa đời sống của chị, vậy đó là sự liên hệ về mặt tình cảm hay văn nghệ thuần tuý hoặc một liên hệ nào khác?




Trịnh Công Sơn và tôi có một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường. Và vì tôi được gần anh Sơn nhiều nên tôi được anh cắt nghĩa rõ ràng những nhạc phẩm của anh. Tôi thấy rõ, hiểu rõ được con người anh cũng giống như tác phẩm của anh vậy. Vì thế theo cảm nhận của tôi, mối liên hệ tình cảm đó phải vượt lên trên tất cả những tình cảm đời thường. Bởi ở Trịnh Công Sơn, điều vĩ đại nhất, hơn cả những tác phẩm của anh, là nhân cách, nhân phẩm.



Anh là nhạc sĩ duy nhất sống trong đời sống này có tấm lòng không thù hận. Và phải hiểu những tác phẩm của anh mới có thể nói và yêu thương anh. Nếu không hiểu tác phẩm, thì tất cả điều nói về anh có thể sai, không đúng sự thật. Tôi không dám nói nhiều, nhưng tôi hy vọng trong cuốn sách sắp in tới đây của tôi sẽ kể lại rất thật thà tất cả mọi chuyện từ khởi đầu cho tới kết thúc về quan hệ tình cảm giữa anh Sơn và tôi. Còn hiện tại, tôi muốn được giữ riêng một số kỷ niệm rất riêng tư giữa hai người.



Là người hiểu rõ những tác phẩm Trịnh Công Sơn, cũng là người đã trình bày rất nhiều nhạc phẩm của Trịnh. Vậy chị yêu thích nhạc phẩm nào nhất?



Có nhiều người yêu những bản tình ca Trịnh Công Sơn. Tình ca ai viết cũng được, mỗi người viết theo cái cảm xúc của trái tim mình, nhưng trong những bản tình ca của Trịnh, ai cũng nhìn thấy mình ở trong đó, nhất là tôi. Tôi luôn luôn nhìn thấy tôi trong tất cả các bản tình ca của anh.



Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã sáng tác những nhạc phẩm nào dành riêng cho chị?



Anh Sơn nói với tôi cùng tất cả anh em, đó là bài Rơi lệ ru người. Còn những ca khúc khác thì bằng cách này hay cách khác, chúng tôi có cách nói với nhau không ai biết, đó là nói không thành tiếng mà chỉ bằng mắt thôi.



Riêng về con người Trịnh Công Sơn, chị có nhận xét gì?



Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ duy nhất chỉ sống cho người mà không sống cho mình. Cái anh quan tâm đến là gia đình, bạn bè, anh em, và trên hết là dân tộc, quê hương. Có nghĩa anh là người Việt Nam và anh yêu quê hương, yêu Tổ quốc.



Tôi nói với anh ấy rằng anh ở lại Việt Nam là điều đúng. Và anh đã ở lại, đã sống những tháng ngày sau năm 1975 bằng cả tấm lòng. Chính những điều đó khiến hình ảnh của anh lại càng trở nên vĩ đại, lớn lao hơn trong trái tim, suy nghĩ của tôi.



Sau khi gặp Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ đã giúp chị những gì để có được thành công, tên tuổi hôm nay?



Nhờ anh, mọi người mới biết đến tôi, tôi mới được sự thương yêu, mới thành nhân và thành danh. Do đó, chẳng bao giờ tôi quên được lời anh dặn tôi phải ráng sống bằng tấm lòng, sống với mọi người bằng sự tử tế và làm những điều gì tốt đẹp nhất cho Việt Nam, quê hương mình.



Chị đã luôn thực hành lời dặn này như thế nào?




Dĩ nhiên là tôi luôn cố gắng trong khả năng. Tôi chưa bao giờ làm cho ai phải đau lòng và cũng chưa bao giờ phụ lòng tin của anh Sơn, cũng như anh Sơn không phụ lòng những người đã thương yêu anh ấy trong suốt mấy chục năm qua.



Mọi người hay nói nếu không có Trịnh Công Sơn sẽ không có Khánh Ly. Chị nghĩ sao về nhận xét này?



Tôi luôn luôn nói nếu không có Trịnh Công Sơn thì sẽ không có tôi. Không có anh ấy, có thể bây giờ tôi vẫn chỉ là cái bóng mờ nào đó, hoặc tôi sẽ có một đường đi chật hẹp hơn. Tôi luôn nghĩ mình may mắn đã có được sự giúp đỡ, an ủi, dạy bảo nâng đỡ của anh Sơn. Và tôi không bao giờ quên ơn nghĩa này.




Theo Gia Đình Xã Hội
 
từng người tình đã bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
lời hẹn thề chỉ là những cơn mưa








ngày cuối tháng 2
của một năm nào đó
đã rất xưa
năm cũ
và tháng ngày cũ
người tình cũ
và nỗi buồn rơi rớt bên đời


nỗi buồn rơi nghiêng
màn đêm đổ dọc

vạt nắng mỏng qua khung trời hẹp
ngày mưa lả tả
những thanh âm cũng viên mình trong nỗi buồn, lặng lẽ xuyên qua cánh chuồn chuồn
khi nỗi buồn lặng trôi trên phím đàn trầm
thanh âm tịch qua khẽ thở thời gian
ngày và đêm
trong khúc dạo đầu muôn kiếp
tiếng truông ngàn vẫn cất nẻo muôn xa



khất thực cho một mùa rất cũ đang qua
28 tháng 2
mùa về rất thật
ngày của năm cũ
đã qua
xin giữ nguyên một mùa mưa rất cũ nơi đây
?
!
.







 


Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi

Từ1975 cho tới năm 2000, suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo rõi sinh hoạt của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy, nhạc Trịnh Công Sơn ra sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bẩy băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.

Nhưng vào năm 1980, ngẫu nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát Lặng Lẽ Nơi Này mà anh vừa mới viết ra :
Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về...với tôi !

... thì tôi thấy nghệ sĩ nào rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương, vào thời bình hay chinh chiến, giữa đám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng hay địa ngục... Chỉ còn có thể về với mình, về với tôi như Sơn đã nói.

Trời cao đất rộng, một mình tôi đi ... Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân ? Văn Cao khi mới chỉ là chàngTrương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn :
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca, trái đất còn riêng ta !

Còn tôi ? Tôi còn phải sống, đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.

Hôm nay là ngày an táng Trịnh Công Sơn. Vào giờ phút anh đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một ngày vui...

Nhưng theo tôi, có lẽ sau đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với Trịnh Công Sơn :
Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế !
Tôi là ai, là ai... là ai
Mà yêu quá đời này !



Phạm Duy
Thị Trấn Giữa Ðàng-

(Ðọc trong đêm họp mặt của bạn bè, 3 April 2001 trong khi Saigon đang làm lễ an táng TCS)
 
Rút từ Hồi Ký III : Thời Phân Chia Quốc Cộng

Ðầu thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm -- mệnh danh là nhạc vàng -- với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến. Rồi có phong trào du ca và tâm ca với những bài hát phi-thương-mại, đi kèm với tình ca quê hương và trường ca, nói lên được phần nào tâm thức của thời đại và được thanh niên sinh viên công nhận.

Trong phạm vi giải trí, phòng trà trở thành cái mốt của mọi người : thương gia, công chức, tư chức, quân nhân, thương phế binh và cả các bà nội trợ nữa... ai ai cũng thích đi nghe nhạc và giúp cho ca sĩ chuyên nghiệp, nhạc sĩ sáng tác, nhạc công đánh đàn thăng tiến trong nghề mình. Cánh tay nối dài của phòng trà là quán cà phê có nghe nhạc, thu hút đông đảo sinh viên, học sinh. Nhạc trẻ ra đời, đem lại cho nhạc Việt một số bài hát mới, sôi nổi, đậm sắc hơn trước. Một rừng nhân tài trẻ trung xuất hiện qua những ban nhạc bốn người (gọi là combo), sử dụng nhạc khí điện tử với âm thanh mới lạ.

Mười năm về trước, ở trong nước chỉ có ba nhà sản xuất đĩa hát. Bây giờ, rất nhiều người -- từ Ngọc Chánh (SHOTGUNS) qua Duy Khánh (TRƯỜNG SƠN) tới những người của các hãng khác (NHÃ CA, HOA MI, SƠN CA, SÓNG NHAC)... làm nghề sản xuất băng nhạc, mỗi tháng tung ra những chương trình nhạc rất hấp dẫn, kể cả cổ nhạc lẫn tân nhạc, nhạc trẻ lẫn nhạc già (nhạc tiền chiến). Hàng trăm, hàng ngàn (hàng vạn, nếu kể cả Saigon và các tỉnh) cửa hàng sang băng, càng làm cho băng nhạc phát triển dữ dội.

Trong bối cảnh sinh động như vậy, phần chính yếu là sáng tác phẩm phải rất phong phú. Vào lúc này, ngoài những người đi trước như Vũ Thành, Cung Tiến, Phạm Ðình Chương, Lâm Tuyền, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Văn Giảng, Ngọc Bích, Hoàng Thi Thơ, Trần Ngọc, Y Vân, Lê Dinh, Anh Bằng, Trúc Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường, Lam Phương, Ðỗ Lễ, Phạm Thế Mỹ... đã xuất hiện một số người mới như Thanh Trang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Lê Uyên Phương, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Nguyễn Ánh 9, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang... Tân Nhạc đã có tới bốn đời nhạc sĩ và có hàng trăm, hàng ngàn ca khúc được soạn ra và hát lên. Trong Hồi Ký này, tôi chỉ nhắc tới những người đánh dấu thời đại một cách sâu đậm bằng tác phẩm của mình.

Người nổi nhất là Trịnh Công Sơn. Trước tiên, người ta biết tới anh nhờ Quán VĂN. Quán do nhóm sinh viên mang tên KHAI HOÁ chủ trương. Nhóm này đã làm nhà xuất bản (QUẢNG HOÁ) rồi khi phong trào phòng trà thịnh hành, nhóm mở quán cà phê ở ngay trung tâm Saigon, trên nền Khám Lớn cũ trong khu Ðại Học Văn Khoa, sinh viên tới uống cà phê nghe băng nhạc và nghe Khánh Ly hát.

Bài hát của Trịnh Công Sơn đươc nghe tại quán VĂN lúc đầu là Lời Buồn Thánh. Cũng như nhạc Ðặng Thế Phong, bài hát tân lãng mạn (néo-romantique) này nói về nỗi buồn. Bài Lời Buồn Thánh thật là buồn, như bài hát buồn làm cho người Âu Châu phải tự tử là Chủ Nhật Buồn tôi đã nói tới trong một chương sách. Trong bài hát của mình, họ Trịnh cũng nói tới ngày chủ nhật buồn:
Chiều chủ nhật buồn
Nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưa, trời mưa không dứt
Ô hay mình vẫn cô liêu...

Thoạt nghe đã thấy ngay là tiếng hát đau đớn, thấy mưa ảm đạm trong lòng (như thơ Verlaine), thấy sự cô đơn, hoang vắng. Sinh ra ở Ban Mê Thuột (hay Pleiku?), sống ở Huế, mưa ám ảnh Trịnh Công Sơn rất nhiều cho nên cũng vẫn là nỗi buồn của ngày chủ nhật mùa mưa trong bài Tuổi Ðá Buồn :
Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang
Từng ngón tay buồn em mang em mang
Ði về giáo đường, ngày chủ nhật buồn...

Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc nói về QUÊ HƯƠNG, TÌNH YÊU, và THÂN PHẬN CON NGƯỜI. Hãy nói về tình khúc Trịnh Công Sơn, nói về thân phận Người Tình trong giai đoạn quê hương đổ nát này.

Từ khi Tân Nhạc Việt Nam ra đời đầu thập niên 40, đã có những tình khúc của Lê Thương, Lê Yên, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn... Lúc đó là thời bình, khi tình còn xanh và yêu chưa lo sợ. Ngôn ngữ tình yêu thật là bình dị, đối tượng là cô hái mơ, cô láng giềng, cô lái đò, cô hái hoa hay anh Trương Chi. Từ khi nước Việt bị chia đôi, nhạc tình miền Nam đậm sắc hơn và trong mười năm đầu, vì cuộc đời chưa thực sự bị đe doạ, người ta vẫn có những bài hát hữu tình hay thất tình, xinh xinh, hiền lành, lúc đầu còn mới mẻ, dần dà ngôn ngữ tình yêu trở thành sáo ngữ. Tới lúc đời sống trở nên bấp bênh, thanh niên được gọi đi lính rất nhiều (chết trận cũng nhiều) biết bao nhiêu đôi lứa phải xa nhau (có khi vĩnh viễn xa nhau) tình khúc miền Nam thay đổi ngôn ngữ.

Nhạc tình không còn là nhạc lãng mạn, nhạc cảm tính với câu hát đắm đuối hay hờn dỗi nữa ! Bây giờ là những bài hát nhức nhối của những tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng. Nhạc trở thành não nề và đánh vào não tính. Nhạc tình bây giờ là tình ca của người mất trí.

Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán VĂN được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng cassette và chỉ trong một thời gian ngắn chinh phục được tất cả người nghe. So với tình khúc của ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới, chất chứa những hình ảnh lạ lùng, quyến rũ như cơn mưa hồng, thuở hồng hoang, dấu điạ đàng, cánh vạc bay...

Tình yêu trong nhạc của anh là những cảm xúc dữ dội như trái phá con tim mù loà, như nỗi chết cơn đau thật dài, như vết thương mở rộng... Cuộc đời là hư vô chủ nghĩa, con người sống trong cảnh Chúa, Phật bỏ loài người. Cuộc đời còn là đám đông nhưng cũng là quán không. Con người là cát bụi mệt nhoài, bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Tất cả nói lên sự muộn phiền, đau đớn... Buồn tủi cho thân phận con người nên nhánh cỏ cũng xót xa, phiến đá cũng ưu phiền, và chỉ còn những mưa và mưa để xoa dịu vết thương mở lớn! Hãy nghe thêm những câu hát về mưa trong Diễm Xưa :
Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau ?
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...

Diễm Xưa cho thấy rõ tiếng hát đứt đoạn của nội tâm về nỗi đau con người trong tình yêu, thấy thêm sự hoang vắng của tâm hồn. Bị ám ảnh bởi mưa đến độ còn nhìn ra mầu sắc của mưa -- mưa hồng -- Trịnh Công Sơn nói lên nỗi bàng hoàng của con người khi thấy cái chết nằm ngay trong sự sống :
Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ ?

Nguyễn Ðình Toàn gọi nhạc Trịnh Công Sơn là những bản tình ca không có hạnh phúc, những bài hát cho quê hương đổ vỡ. Cũng là phản ứng của người đau đớn trước hoàn cảnh đất nước, nhưng nó là sự chịu đựng và chết lịm hơn là sự nổi sùng và chửi bới. Có lẽ vì tác giả là người lớn lên ở Huế, một thành phố nên thơ, hiền hoà, không chấp nhận bạo động. Tôi vẫn cho người Việt ở ba miền đất nước có những phản ứng khác nhau trước những hoàn cảnh khó khăn. Ví dụ người con gái miền Bắc thất tình thì phản ứng bằng sự điên giả -- CHÈO có vở Vân Dại Giả Ðiên -- hay điên thật rồi nguyền rủa, chửi bới cuộc đời (như ông giáo ở Phú Nhuận nói ở chương trên). Sự phản ứng của người gái Huế là buông xuôi (fatalisme), mất người tình là nàng có thể đâm đầu xuống sông tự tử. Còn ở miền Nam à ? Không oong đơ gì cả, người thất tình sẽ đốt chồng như cô Quờn.

Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại. Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này.

Từ nhạc tình yêu, thân phận con người, Trịnh Công Sơn chuyển qua nhạc thần thoại quê hương. Âm nhạc ở miền Nam trong thời gian này thật phong phú. Vẫn có những bài hát soạn cho tuổi choai choai : Em 16, Em Mới Biết Yêu Ðã Biết Sầu, Túp Lều Lý Tưởng, Người Tình Chung Vách, Người Tình Chung Thủy và cho người lính Cộng Hoà : Lính Mà Em, Lính Dù Lên Ðiểm, Lính Nghĩ Gì, Lính Xa Nhà, Lời Người Lính Xa, Lính Trận Miền Xa, Anh Là Lính Ða Tình, Người Lính Chung Tình, Ðám Cưới Nhà Binh... Và có thêm những bài hát phản ứng trước cảnh tang thương của đất nước. Như đã nói trong chương trước, nhạc tâm ca, du ca lúc này là sự phẫn nộ của thanh niên khi thấy mình bị đưa lên giàn hoả thiêu hoặc phải đi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai... rồi xuống vỉa hè và trở thành tục ca.

Bây giờ, ngoài những ca khúc đi vào tình nhớ, tình xa, tình sầu... với cơn chết lịm, với nỗi muộn phiền và niềm xót xa trong cảnh cô đơn mà ta đã biết, nhạc Trịnh Công Sơn phản đối nghịch cảnh bằng cách khác. Nhạc anh đi vào quê hương bằng bước chân của người con gái da vàng, của em bé loã lồ suốt đời lang thang...

Sống cùng thời với những người đi vào quê hương qua nhiều nẻo đường, Trịnh Công Sơn cũng nhận diện lại quê hương. Ði tìm quê hương, phải sống những ngày dài trên quê hương thì phảt hát bài quê hương, phải nhỏ giọt nước mắt cho quê hương khi thấy quê hương hình hài nát dấu bom với xác người chết hai lần... Phải gặp những người tình có người yêu chết trận Pleime hay chết ở chiến khu D, gặp thêm người già em bé, chị gái anh trai, người phu quét đường, đồng hoá họ là người nô lệ da vàng, ngủ im trong căn nhà nhỏ... chờ ngày quê hương sáng chói, đứng dậy hò reo, chờ Hoà Bình đến tiếng bom im, cho những bước đi trên những con đường không chông mìn, cho đường giao thông chắp nối chuyến xe qua ba miền, ngày Thống Nhất tới cho những tình thương vô bờ...

Nhạc thần thoại quê hương, nhạc tình yêu và thân phận con người của Trịnh Công Sơn có một tư tưởng chỉ đạo khá rõ, dù toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức hoạ trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác chữ lẫn hồn thơ, nghe bảng lảng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng nếu nghe kỹ cũng tìm ra ý chính : Trịnh Công Sơn muốn nói lên nỗi đau con người trong cuộc sống hiện đại, có tình yêu, có chiến tranh, có hận thù, có cái chết dễ dàng như chết trong mợ Anh ca tụng tình yêu và -- cũng như bất cứ nghệ sĩ nào ở trên đời này -- anh chống bạo lực và chống chiến tranh.

Một, hai năm trước biến cố 30-4-1975, nhạc Trịnh Công Sơn đi vào Thiền, có lẽ cũng giống như tôi đi vào Ðạo Ca, vì lũ chúng tôi, khi nhập cuộc khi xuất thế ... như thể sống lửng lơ giữa thiên đường và điạ ngục.




Phạm Duy
(trích Hồi Ký - Thời Phân Chia Quốc Cộng)
 
Như Cánh Vạc Bay


1
9.45 ngày 31-03-2001


Ðến Hiển, viết cho Sơn trên trang đầu cuốn sách mới in "...kéo thời gian về phía mình". Linh tính sục dậy. Viết thêm "...kéo thời gian về phía đời sống". Ngần ngừ, tái bút "...đợi mình sang năm về...". Tối hôm 30, cả bốn cô em Sơn vội vã bay về. Máy bay ngừng lại Alaska để sửa. Quái ! Hãng nào. Air Canada. Chợt nhớ cách đây trên mười lăm năm, Sơn viết "Về với nhau đi. Mình hết thời gian rồi !". Tự nhủ cho vững bụng " ...có sao đâu. Mụ già định mệnh chưa gọi đâu".

Nhớ Trần Dần, anh bảo không có gì chống nổi cái kim đồng hồ. Rồi lỡ hẹn với Dần, ông " cọp" ngày, gầm gừ suốt nửa thế kỷ những lạc quan đen, những hạt bụi xổ ra trong mưa phùn.

Bấy giờ, tôi ở góc Mentana và Duluth thành phố Montreal. Ðêm qua trời lại đổ tuyết, thứ tuyết trắng đến đầu Xuân không ai mong đợi. Nó thừa thãi. Nhưng vẫn trinh bạch. Như một tà áo trắng. Như một cánh vạc bay.

2
9.30 ngày 01-04-2001.


Anh đấy à ? Anh Sơn đi rồi. Hồi 1.30 sáng. Hả ? Bốn cô em ở kẹt ở Hồng Kông chưa về kịp. Tim Sơn ngừng ba lần. Rồi lại đập. Lần thứ tư thì thôi. Nó mệt. Yêu quá cũng mệt. Thương quá cũng mệt. Yêu thương quả là mệt. Yêu thương rồi hát, dĩ nhiên mệt. Trong cô đơn, hát rồi uống. Lại càng mệt. Mệt đến độ không còn co thắt theo nhịp vũ trụ. Thôi nhé, bung ra. The big bang. Cho toang. Cho tan vào chất hư vô, thành tố cấu tạo yêu thương. Ôi cuộc đời ơi !

11.30h.

Gọi Vũ. Vũ ơi, anh Sơn đi rồi. Bây giờ em qua đường nhìn xe cẩn thận. Trờiđất hỡi ! Hiển cứ mang sách anh tặng Sơn, viếng mộ rồiđốt. Ðó cũng là một cách hóa vàng. Gọi Trịnh Cung : mình biết rồi ! Thôi, Cung về. Nhớ nhé, sang năm moi sẽ gặp. Ờ, ờ... biết thế nàođược. Thìđợi. Ðừng ai vội hóa vàng cho ai.

3
13h.

Hôm nay sinh nhật con tôi. Bạn bè cháu đến mừng. Tiếng đàn trẻ thơ. Bài folklore của người Pháp " dưới ánh trăng", hỡi bạn Perrault. Hỡi Sơn ! Cho tôi mượn cây bút. Tôi xin viết thêm một chữ. Ngọn nến tôi cầm đã tắt. Lửa nhóm cũng tàn. Hãy mở cửa, bằng tình nhân ái của mọi đấng thần linh. Hãy mở cửa, hãy mở cửa. Có phải cửa thiên đường ? Lại văng vẳng lời Cung : Sơn nó sống có nhiều nỗi khổ. Thôi, mong nó đi an nhiên. Ừ thì thế vậy. Gọi Ðinh Cường. Vẫn không có ai đầu dây nói. A, những lúc cần an ủi lẫn nhau !

4
13h30.


Ðóng cửa phòng. Tiếng động đời sống xa dần, mất hút. Bỗng thèm nghe Khánh Ly hát Người con gái da vàng. Băng nhạc cũ rè rè tiếng xưa về một thời xa xưa, thời hát yêu quê hương những yêu đồng lúa chín. Nhớ về một đêm mưa, trú với Sơn, nhìn con đường Phạm Ngũ Lão góc chợ Thái Bình ( xưa ). Dưới hàng hiên độ lượng, mưa trên trút rào rào. Con đường sủi tăm dưới tầm mắt. Nước dâng lên, rồi tràn ứ, xuôi vào đục ngầu những lỗ cống không đủ lưu lượng rút nước đi. Sơn hồn nhiên " ...đấy, phố bỗng nhiên thành dòng sông uốn quanh".

Anh hồn nhiên như thế. Phải nói được như thế vì sự hồn nhiên đó đồng thời tồn tại với độ sâu những nỗi nghĩ suy lắng đọng về kiếp người và cuộc sống. Nhưng luôn thấp thoáng trong hôm nay là bóng ngày mai. Và anh nhắc " em hồn nhiên, rồi em sẽ bình minh". Vì thế, không phải chỉ có Sơn - hát rong. Sơn - thi sĩ, Sơn - cầm cọ. Còn một Sơn khác, Sơn - hiền giả. Nhưng chẳng bao giờ có một hiền triết nào nguyên vẹn. Họ đầy thương tích, trên thân thể, trong hồn. Sơn viết "... Những vết thương khi đã được đánh thức... là một vết thương tỉnh thức. Vết thương tỉnh thức là một con mắt sáng ngời. Nó nhìn ngược về quá khứ và ngó thẳng tương lai. Nó mách bảo cho chủ nhân của nó là không có một vết thương nào vô tư mà được sinh thành cả. Nó là một nỗi đớn đau như khi trời đất trở dạ làm thành một cơn giông bão".

Sơn ơi, còn vết thương cuối cùng. Nó ra sao, hở ?

5
15h45
.

Cách đây đâu trên hai mươi năm, tôi gặp nhưng tránh, cứ có Sơn là tôi lảng, vì loáng thoáng nghe kiểu tin " đồn" không rượu mời thì khỏi có " dính" được vào cái tiếng tăm một tài danh thứ " xịn". Một bữa, Sơn vào nhà Nguyễn Duy và tôi đứng dậy. Sơn nói thẳng " moi làm gì mà toa không thích moi ? Thôi, để moa hát tặng, rồi toa hãy đi ! ". Ðó là bài Ở trọ, thú nhất là hai câu " trăm năm ở đậu nghìn năm, đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn". Hai hôm sau là giao thừa năm Nhâm Tuất, Sơn rượu vào, nửa đêm đến réo tôi nhà Duy, leo cổng sắt ngã trặc chân. Tôi nghe chuyện, đến thăm Sơn lần đầu. Tết năm đó, mang cho Sơn quà của cụ Nguyễn Tuân, đâu hai trăm gam đường trắng vừa nhờ người chuyển đến tay. Sơn cảm động, nói " làm sao nói ông ấy, moa đâu có thiếu đường. Chỉ Hà Nội thiếu mới quí, giữ lại mà dùng...".

Thế rồi chúng tôi có dăm bảy dịp lãng đãng với nhau. Sài Gòn, Paris. Rồi Montréal, Québec.

Sài Gòn - Studio của Ðinh Cường, gần chợ Tân Ðịnh : 30 độ C, nóng và nắng. Có cái gì uống không ? Mở cửa cho đỡ ngộp. Vách và bài thơ của Tô Thùy Yên viết chữ đại tự. Ðọc thơ toi cho anh em nghe.

"Tôi chịu !

Tôi không thể an tâm hô khẩu hiệu

Khi áo cơm không đủ, ai đành ?"

Không, Sơn nói. Tội chịu chứ không tôi chịu. Bài thơ Ung thư Me của tôi nợ Sơn một dấu nặng. Rất nặng.

Paris - Lang thang. Cứ thấy hiệu giày là Sơn đứng lại. Thôi, mê giày như mê gái, đi đi. Cười, xuất khẩu thành " giang hồ phố đã nghìn chân", lại nhắc Bùi Giáng, và... Marilyn monroe.

Montréal - Trầm trồ khoe ( không có mặt Khánh Ly ), nàng là Edith Piaf của moa. Vào công viên. Này, tượng là tượng ai? Một văn sĩ. Thành phố này không công viên đường phố mang tên anh hùng, may thật. Nước mình có nhiều anh hùng quá, thế mới mệt... Cười buồn.

Québec - Trồng cái cây trước nhà toa, khi thấy cây là phải nhớ tới moa. Ngẫm nghĩ, Sơn bảo tìm cái loài chống được mùa đông. Sơn ạ, cây vẫn đấy. Cứ tháng năm nó lại ra lá. Loại táo Nhật lá đỏ, xuân về là hoa táo màu hồng rừng rực một góc vườn...

Bây giờ, tới mùa hoa ta sẽ nhắc ai ?

6
20h15.


Ðộc ẩm. Nào mời. Bạn cứ nâng ly, bây giờ kiêng khem chi nữa. Rượu ngon không có bạn hiền. Thế thì đợi gì. Bạn đây. Ta đây. Uống đến xơ gan ra với tuế nguyệt. Chẳng phải để quên mà để nhớ. Nhớ hết. Từ người yêu thuở học trò tóc xanh, rồi người bỏ ta đi thuở trường đời mắt trắng. Cho đến khi chập chờn lau trắng trong tay, lại tự mình thủ thỉ cho mình nghe " tôi ơi, đừng tuyệt vọng !".

Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi !

Này, biển sóng đừng xô ta. " Ta xô biển lại sóng về đâu".

Có phải về hư vô. Không chắc. Nhưng mà đau, bởi cái bám víu vào như mảnh ván mỏng bập bềnh giữa vô bờ sương khói.

Tôi ơi hỡi, tôi ơi ! Bạn đâu rồi ?

Có phải bạn vẫn đấy, nhìn vào vạt nắng mái tường bên, ngậm ngùi " ...bây giờ mình chỉ viết về nắng...". Nghe tâm sự, khung rêu tươi lên vàng óng một nụ cười thơ. Có phải bạn nhẹ nhàng " ... hạnh phúc là lúc chờ, êm ắng như buổi trưa, lặng đi rửa mình để rước vào phần hồn những nụ hôn của cuộc đời sửa soạn bước chân vào lễ hội". Nghe tâm sự, văng vẳng đâu đây tiếng chuông nhà thờ bay từ đầu dốc Phú Cam xuống bến Ngự, mang theo tiếng thì thầm của những thiên thần cứ còn quyến luyến chốn trần ai.

Ðừng, đừng tuyệt vọng ! Vạt nắng vẫn đó. Khung rêu vẫn óng ả. Và tiếng chuông nhà thờ sẽ còn ngân nga ít ra là vài trăm năm nữa.

7
22h55.


Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy Biệt ý dữ chi thùy đoạn trường...

Này, thêm một bôi. Hỏi bạn về đâu dòng nước chảy. Xứ của Thái Bạch ? Lý quân đang khề khà, quay nhắn, ngắn dài này nỗi biệt ly ơi !

8
8h40 ngày 02-04-2001


Chịu. Giấc ngủ đêm qua chập chờ. Thức dậy, thấy hững đi. Tự nhủ, mơ, phải mơ. Những giấc mơ mắt mở khó dần với tháng năm. Thôi thì nhắm lại.

16h40

Nhớ những buổi " ngồi đồng" với Sơn. Mỗi người một góc, loay hoay với mình. Hứng thì ngưng, đọc cho nhau một đôi câu :

Nhan sắc = vẽ vời
Lý tưởng = viển vông
Chợt rụng rời giữa có và không
Mày xanh
Mi biếc
Môi hồng
Tỉnh ra sóngđã bềnh bồng cuộn trôi
Tôi ơi hỡi,
tôi ơi !

Sơn kêu, tôi ơi là " tới". Ta thì muôn đời "đáng ghét". Rồi thì có " tôi ơi đừng tuyệt vọng !". Sơn lại dụ, moi dậy toa viết nhạc, đánh đàn. Có thế mới chở thơ đi được. Tôi chịu (lần này không phải tội chịu).

Dịch xong hai trăm bài thơ Ðường, tôi có dịp bảo " thơ Sơn có những hình ảnh Ðường thi không có...". Bạn vui mồm hỏi, thí dụ đi. Này nhé " Tóc em, từng sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh". Rồi, " Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều". Còn nữa, muốn biết không ? Thôi. Uống. Chuyện xong rồi, uống đã. Con chữ đã ở đấy. Nó là cỏ mỏng manh, lá mong manh, sống mong manh, tay gối mong manh, chết mong manh, tình mong manh. Nó là đời bềnh bồng, môi rồ dại, là một vòng tiều tụy, là phố xá thênh thang, là hạ trắng, nắng thủy tinh. Là nhiều đêm thấy ta là thác đổ . Là phôi pha.

Sơn ngậm ngùi, moa qua Canada kiếm một chỗ vắng người, ngồi viết về cuộc đời chính mình, nghệ thuật của mình. Sẽ có những chương sách chỉ một dòng chữ. Thậm chí, những chương sách bỏ cho giấy trắng tinh thì mới truyền đạt được ý thật của mình... Lần cuối gặp nhau, tôi hỏi, viết chưa ? Anh lắc đầu. Tôi gặng, bao giờ ? Sơn mím môi không đáp. Tôi nghĩ anh chưa viết. Bởi vì , ôi hệ lụy của tài danh, nó cướp của anh những phút anh cần chỉ có một mình anh. Ðêm tân niên 1999, khi những người kiều nữ môi hồng má đỏ đã thôi í a hát ca khúc Trịnh Công Sơn, khi những nhà tư sản mới vừa kiếm ra tiền đang co tay quệt miệng sau lúc cạn ly XO và chúc anh vạn sự như ý, anh ngồi với tôi, cau có "... moa khổ quá ! Thôi, thây kệ...".

Thây kệ, thây kệ.

Phải chăng bạn tôi đang kiệt sức trong vòng vây bủa phù hoa. Anh biết nó quá rõ, đã từng viết " Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá" .

9
18h10


Bờ cỏ xuyên tuyết nhú ra mầm xanh báo Xuân đang về, chậm nhưng chắc, và không thể khác đi được. Mở điện thư, từ khắp nơi bạn bè anh báo cái tin anh đã khép lại những hẹn hò. Mai mốt, anh sẽ lên Gò Dừa nằm cạnh mạ anh, như đứa con ngoan quay về ngủ yên trong vòng tay mẹ.

Sơn ơi, hãy yên nghỉ. Thực sự yên nghỉ. Sống thế là trọn vẹn với mình với người lắm rồi. Thây kệ, những kẻ còn lại nếu chỉ thấy có thiếu vắng khi bạn ra đi thì thây kệ. Họ chẳng muốn hiểu vì...." không ai muốn làm một tên tuyệt vọng. Nhưng tôi (Sơn) nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều sớm mai khi tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người...Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường. Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng vẽ lại chân dung của nhân loại. Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy tinh khôi chúng tôi không bao giờ thấy bóng dáng những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ lại những đất đai, trên một đời sống không còn bạo lực..."

Sơn viết thêm..." Tin vào niềm tuyệt vọng có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác. Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.".

Tôi đã đến vơi Sơn lần cuối như một tên nòi tình tuyệt vọng đi tìm một kẻ tuyệt vọng khác. Thời gian đó, tôi đang thai nghén vở kịch Treo đầu dây Quan Họ, lời hạ màn viết dành cho Sơn. Cuối cùng, rồi một lúc cũng sẽ phải hạ màn, cho rằng hài hay bi kịch.

Anh ghi dăm chữ, có lẽ chẳng phải cho riêng tôi mà là cho tất cả những người bạn anh. Tôi xin phép chép lại, lời cuối gửi đến những tên tuyệt vọng nhưng cứ còn yêu thương cuộc sống : "... May thay trong đời người vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều.

Tôi thấy tình bạn quí hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa."

Cuối cùng, không có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hư không. Phải đi đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến tất cả những giấc mộng đời không thực".

Cám ơn Sơn, bạn quí. Ngày mai này bạn lên đường vào cõi thênh thang không hẹn hò trói buộc. Ơ kìa, cỏ sáng mới nhú ra khỏi tuyết đã xanh mơn mởn. Còn cây táo bạn trồng cách dây mười năm, chỉ ba tuần nữa sẽ cũng đâm hoa. Bạn ơi, may thay, như không thể khác được.


Nam Dao
2-04-2001
 


Trịnh Công Sơn, Đóa Hoa Vô Thường



Để tưởng niệm một ngọn đuốc lớn đã soi sáng âm nhạc
cũng như đã góp phần lật trang sử giống Lạc Hồng



Cách đây ít năm, tôi cùng nhà tôi đến thăm Sơn trong một buổi chiều nhạt nắng ở miền Nam. Trong suốt buổi viếng thăm, Sơn nói nhiều, điếu thuốc không hở trên tay, miệng vừa nhắp đều cốc rượu mạnh đã được pha loãng với nước. Nhưng Sơn không say chút nào. Cũng như khi sáng tác, Sơn không hề có ý trau chuốt nhiều. Ý tưởng và ngôn từ Sơn hôm ấy cứ tuôn ra như nước chảy, như thể đang sáng tác nhạc vậy. Chúng tôi im lặng ngồi nghe Sơn nói. Cũng như phong cách hàng ngày, ít nữa là vào những năm cuối đời, cử chỉ lời nói Sơn khoan thai, vừa để tiếp bạn từ xa, vừa chia sẻ chút tâm sự. Vì không sắp đặt trước nên câu chuyện hôm đó rất đáng ghi lại vì nó đã cho hậu thế một trong những cái nhìn cuối cùng hồn nhiên, không uốn nắn hay thêu dệt về nhạc sĩ. May thay hôm ấy chúng tôi có đem theo một máy vidéo cầm tay. Chúng tôi đã được chứng kiến một Sơn rất " Thiền ". Một Sơn chín muồi hơn thời " Diễm Xưa ". Nhờ thế, một cuộc thăm viếng thường đã trở thành một cuộc viếng thăm định mệnh vì đây là lần chót tôi gặp Sơn và cũng vì Sơn đã gởi gắm cho thế gian một đôi điều. Beethoven, hồi ở Heiligenstadt, 1802, viết thơ cho cháu Karl và em Johann không có ý viết chúc thư cho đời, nhưng hậu thế vẫn xem đó như lời di chúc nồng nàn nhất (chúc thư Heiligen-stadt). Mãi đến một phần tư thế kỷ sau ngày viết tâm thư đó, Beethoven mới thành người thiên cổ. Không cố ý tự vẽ mình, mà nhờ bức thư đó, hậu thế có dịp thấy rõ hơn Beethoven con người và Beethoven nghệ sĩ. Qua câu chuyện thân hữu hôm đó với chúng tôi, Sơn đã tô đậm thêm nét chân dung mình, phản ảnh một số nhân sinh quan, thẩm mỹ quan, tình yêu, tôn giáo, âm nhạc, cũng như thế giới và vai trò của thi sĩ, nghệ sĩ, v.v.

Để nhớ Sơn, ta có thể nêu ra hai câu hỏi : thứ nhất, Sơn gần đây giống và khác với Sơn xưa ở những điểm nào ? và thứ nhì, họ Trịnh và Beethoven có những điểm giống và khác nhau ra saoấ? Vì sao nhắc đến nhà đại nhạc sĩ Đức ? đối chiếu ở đây không nhằm so sánh hơn thua, hay dở, nhưng chỉ có một mục đích là cho ta một nhận định rõ ràng hơn về người nhạc sĩ lỗi lạc yêu dấu của chúng ta. Cả hai đều là những " ngôi sao xuống từ trên trời ", một người xuống miền Tây, người kia xuống miền Đông, cách nhau hơn một thế kỷ rưỡi, nhưng có điều đặc biệt là họ một số điểm chung lớn. Mẫu số chung là hoài bão và tâm hồn lớn của họ, là đời sống tình cảm của họ, một số cảm nghĩ về đời sống và nghệ thuật, và nhất là cảm tình sâu xa của đồng bào đối với họ và vị thế tột đỉnh của mỗi người trong nền âm nhạc tại quê hương họ. Một điều nổi bật khác nữa là thời đại của hai nhạc sĩ là thời đại của giông ba bão táp, của cảnh thịt nát xương tan : một bên là chiến tranh giành giật phân chia đất đai (cho đến khi đại đế Napoléon bại trận năm 1814), bên kia là cuộc chiến giành độc lập thống nhất lãnh thổ. Nếu người thường ghi nhận niềm đau khổ một, mức nhạy cảm của nghệ sĩ cho họ ghi nhận mười. Cho đến nay tôi vẫn không chắc vì tất cả những lý do trên, hay có lý do nào khác, mà một khi nghĩ đến Trịnh Công Sơn, hình ảnh kinh cụ của con người nghệ sĩ đức có nhiều tâm huyết muốn quyết liệt chống trả định mệnh lại hiện ra trong trí tôi hầu như một ám ảnh.

Nắng buồn hơn mưa...

Trong câu chuyện, có lúc Sơn chỉ tay về phía cửa sổ, nói rằng nắng ở Canada, chỗ Sơn ở thăm gia đình một thời gian ngắn, vui hơn nắng ở Việt Nam. Sơn nói nắng ở Âu Mỹ trắng mà vui hơn nắng ở đất Việt. Theo Sơn, nắng ở xứ ta vàng và buồn hơn mưa. Sơn nói ai cũng nói mưa buồn, nhưng Sơn không thấy vậy. Sơn nói " nắng cũng có cuộc đời của riêng của nó ". Nghĩa là nắng sống ngày ba buổi, sáng, trưa, chiều, trong khi đó mưa không vậy. Mưa chỉ rào xuống một cái rồi hết. Phải chăng đây là nhìn của thi sĩ ở trong Sơn ?

Thế giới nghệ sĩ

Sơn nói người nghệ sĩ có một thế giới, một đời sống riêng của mình. Sơn phụ thêm chữ Pháp le monde à soi, pour soi. Sơn giải thích rằng nếu không có đời sống riêng nầy thì nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ hay nữa. Mà đời sống riêng tư đó là cái gì ? Không đợi chúng tôi hỏi, Sơn tự trả lời một mình : đời sống đó là một cái gì huyền ảo, đầy " mộng tưỏng ", nghĩa là nó vừa hư vừa thực. Nó gần giống thế giới bên ngoài nhưng "ấkhông hoàn toàn giốngấ". Sơn dùng chữ invraisemblable để nói rộng thêm về thế giới riêng nầy. Theo lời Sơn, đời sống riêng của nghệ sĩ cũng có cây cỏ có bông hoa, có chim chóc, có dáng dấp của con người đi qua, nhưng tất cả cái đó không hoàn toàn giống thế giới bên ngoài. Thế giới người thường là thế giới cụ thể, nhưng thế giới nghệ sĩ thì " mông lung... trừu tượng ". Sơn nói thế giới nghệ sĩ là thế giới ngoài đời " nhân lên mười lần ". Vì sao ? Sơn giải thích : sở dĩ như vậy là vì thế giới nghệ sĩ đầy " ước mơ... hy vọngấ". Sơn nhắc đi nhắc lại hai chữ " ước mơ ". Sơn nói nhờ có thế giới riêng nầy mà bài hát được tồn tại. Không có thế giới riêng nầy, vẫn theo Sơn, sẽ không có nhạc hay, sẽ nghèo nàn. Theo lời Sơn, lý do có nhạc không hay là vì tác giả không có cái thế giới riêng đó.

Vai trò nghệ sĩ

Nhân lúc câu chuyện đi đến chỗ bàn về nghệ sĩ, tôi có góp ý rằng nghệ sĩ tài ba chẳng qua là các thầy phù thuỷ (hiểu theo nghĩa tốt). Tôi nói các ông nhạc sĩ, họa sĩ lớn đã nhạy cảm đủ để nghe được trong khi kẻ khác không nghe được, thấy được trong khi kẻ khác không thấy được, cảm được trong kẻ khác không cảm được. Đó là của trời cho, là dấu hiệu thiên tài. Từ những cảm nhận nhạy bén nầy, các nghệ sĩ lớn biết cách tiêu hoá, nhào nặn, dùng phép thần thông, tạo cho đồng loại một thế giới mới, mở cửa cho đồng loại đi vào những chân trời huyền ảo nhớ nhung. Thiếu phép thần thông của thầy phù thuỷ thì đất sét trong tay thế gian vẫn là cục đất sét vô duyên. Người phàm có tai cũng như điếc, có mắt cũng như đui, có miệng cũng như câm. Vậy nghệ sĩ lớn trước hết là tai mắt của thế gian. Nhưng nghệ sĩ vừa là người ghi nhận, vừa là kẻ phát ngôn của đồng loại. Nghệ sĩ nói thay tiếng nói của đồng loại bất lực trong việc bày tỏ tâm trạng mình qua các tình huống đau khổ, hạnh phúc, nhớ nhung, khát vọng. Nhờ thế, qua tác phẩm văn nghệ, người đời tìm lại được bản thân của chính mình đã bị đánh mất. Thật một sự khám phá vô giá ! Cho nên đời vắng bóng nghệ sĩ là đời què quặt, nghèo nàn, mất mát không biết bao nhiêu mà kể ! Thấy tôi nói nghệ sĩ là thầy phù thuỷ, Sơn tỏ vẻ tán đồng. Song khi nghe tôi dùng chữ " phù thủy ", Sơn thoạt tiên dặm thêm chữ Pháp un magicien để dịch chữ phù thuỷ của tôi. Song khi cảm thấy tôi thắc mắc về chữ magicien (nhà ảo thuật) dùng để chỉ thầy phù thuỷ, thì Sơn đã nhanh nhẹn đổi ra chữ un sorcier. Tôi gật đầu để tán thành Sơn về sự sửa đổi ấy, vì thật ra sorcier là từ tôi nghĩ đến ngay từ đầu, nhưng vì thấy chữ phù thuỷ trong tiếng Việt quá hay nên tôi thấy không cần dùng ngoại ngữ làm gì.

Thi sĩ không phải là nhà tiên tri

Sơn nói sách báo thường cho thi sĩ là nhà tiên tri, nhưng thật sự không phải như vậy. Lý do ? Sơn giải thích rằng thi sĩ nhìn lá nhưng thấy đó không còn là lá nữa, nhìn cây, nhưng thấy đó không còn là cây nữa. Thi si thấy trước được những gì sẽ xảy ra cho những cây và lá ấy. Sơn khai triển thêm. Những câu chuyện ở đời nầy có những giai đoạn bắt buộc, nghĩa là lúc đến, phải đến, lúc đi phải đi. Thi sĩ cảm thấy được chu trình đó và đi trước người khác một " tí xíu " mà thôi, do đó, người ta cho thi sĩ là tiên tri, chứ thật ra thi sĩ không phải là nhà tiên tri. Thi sĩ chỉ khác không thi sĩ ở chỗ có thể cảm thông với cây cỏ, vạn vật mà người ta tưởng là vô tri, nhưng theo Sơn, thật sự không phải là vô tri. Sơn lấy ví dụ là nếu ta rời bỏ khu vườn của ta để đi một thời gian, khi trở về thì thoạt đầu ta thấy nó hoang vu, nhưng sự hoang vu buồn bã đó sẽ biến mất sau khi ta ngồi chơi với nó trong môt thời gian, ta sẽ đem lại " hơi ấm " cho nó và nó cũng phản lại, và như thế hai bên, người và vườn sẽ có " một sự giao hoà nào đó ".

Ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau

Sơn nói với chúng tôi rằng mọi vật, ngọn lá hay bông hoa cũng có đời sống riêng của chúng. Có nhiều người cho đây là một hình thức thi vị hoá âm nhạc. Thế nhưng công việc thi vị hoá lắm khi lại là công việc gắng gượng, giả tạo. Với Trịnh Công Sơn, không cần cố sức thi vị hoá. Vì trong lời nói tự nhiên của Sơn đã có sẵn chất thơ rồi. Sơn nói " ...anh nhìn ngọn lá, có tình yêu trong ngọn lá, anh nhìn bông hoa, có tình yêu trong bông hoa... tất cả mọi cái đều có đời sống riêng ". Rồi Sơn giải thích cho chúng tôi tại sao Sơn hát . . ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau. Vì theo lời Sơn, sỏi đá có linh hồn riêng của nó, có đời sống riêng của nó. Sơn nhấn mạnh rằng sỏi đá cũng biết nhớ nhung, cũng biết nghe, biết nói. Chỉ vì mình không biết nghe mà thôi . Nhưng Sơn nói có người nghe được sỏi đá, có người không nghe được. Sơn nói sỏi đá có linh hồn và nó cũng biết buồn, biết nhớ nhung, và khi viên đá buồn, nó làm cho mình buồn. Sơn tin thật như vậy. Sơn nói nếu để sỏi đá rời nhau, xa nhau, thì chúng buồn, mà nếu để lại gần nhau thì chúng vui. Sơn nói một vật mình tưởng là vô tri, nhưng thực sự là nó không vô tri, vì nó có một đời sống, một " giá trị tự tại ". Sơn nói theo nhà Phật, trong cái thế giới ta bà nầy, mọi đồ vật và sinh vật như loài vật, thiên nhiên, sỏi đá... thật sự đều là một. Chúng có những sự liên hệ, giao hoà với nhau. Chúng cần lẫn nhau và nhờ vậy đời sống được thoải mái, dễ dàng hơn.

Ông chủ hiền, con chó cũng hiền

Sơn đi xa hơn. Sơn nói không những thiên nhiên, vạn vật, ảnh hưởng đến người, mà người cũng ảnh hưởng đến vạn vật và thiên nhiên. Ngoài câu chuyện khu vườn biết buồn khi chủ đi vắng, Sơn còn tâm sự thêm là Sơn đem về nhà một con chó Tây vốn rất giữ. Trước khi về nhà Sơn, chó đó nhe răng gầm gừ với khách. Nhưng khi về ở với Sơn thì nó trở nên hiền khô, không còn gầm gừ nhe răng với ai nữa.

Hạnh bố thí

Sơn tiếp tục ý tưởng về sự liên đới chặt chẽ giữa người với người, giữa người với muôn loài, với vạn vật. Sơn nói nếu tôi (thực ra, Sơn dùng chữ moi và toi) kẹt quá, và tôi xin bạn một trăm nghìn (đồng) để tôi giải quyết vấn đề của tôi và bạn cho tôi số tiền đó, tức là bạn đã bố thí. Nhưng Sơn nói rằng bố thí bằng của cải vật chất, tiền bạc, là hạnh bố thí thấp nhất. Sơn nói theo nhà Phật, hạnh bố thí rất rộng. Có những hạnh bố thí cao hơn như khi bạn đang buồn, bạn đến với tôi, và tôi đã giúp bạn giải quyết nổi buồn đó. Sơn nói nhà Phật cho hạnh bố thí cao nhất là giúp đỡ người khác đang bị kẹt giải quyết vấn đề tâm linh hay tinh thần của họ.

Câu chuyện qua suối

Rõ ràng Sơn hôm ấy là cái Sơn muốn buông bỏ hơn vướng mắc. Sơn cho sự thảnh thơi tâm hồn là cần cho đời sống đáng sống. Nếu có lúc Sơn đã từng đam mê và ôm ấp thì hôm nay Sơn cho sự thanh thản, an lạc, hạnh phúc, tất cả đều nhất lý, là một. Sơn kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện Thiền. Đây là một trong những bài khai tâm của Thiền môn, cho nên dù cho nhiều người biết chăng nữa, cũng xin ghi lại ở đây cho đầy đủ buổi nói chuyện hôm đó. Giọng Sơn bình dị nhưng vẫn duyên dáng, như được phát ra từ một nguồn cảm hứng mộc mạc, tự nhiên. Chuyện rằng, có hai thầy tu đi từ chùa trên núi xuống làng để mua đồ ăn, trên đường đi, phải qua một con suối lúc đó nước cạn. Trên đường về, đến cạnh bờ suối, hai tu sĩ đó gặp một cô gái trẻ đẹp trạc độ mười sáu, cũng đang tìm cách qua suối, nhưng lúc đó nước đã lên cao. Trong khi đang bối rối chưa biết tính sao thì một trong hai tu sĩ giúp cõng cô ta qua suối . Khi đã bỏ cô ta bên bờ suối bên kia, hai vị sư tiếp tục lên đường. Đi được một cây số, vị sư đã cõng cô gái hỏi vị sư kia rằng... sao từ lúc rời suối đến nay đã được một cây số rồi mà mặt bạn vẫn có vẽ ưu tư như vậy ? Vị kia trả lời : chúng ta là người tu hành, không được tiếp xúc với nữ giới, mà lúc nãy tại sao bạn lại cõng một cô gái như thế ? Vị sư cõng nói : giờ đây tôi cõng cô nào đâu... tôi không nhớ gì cả... vậy trong cây số qua, bạn là người cõng cô ấy chứ tôi đã hết cõng rồi... như vậy là bạn mệt quá rồi, chứ tôi không còn cõng nữa.

Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau...

Sau câu chuyện qua suối, Sơn quay người lại để với các nút bấm của bộ máy stereo để đằng sau lưng. Tiếng hát Cẩm Vân dâng lên và bắt đầu bao phủ lấy căn phòng khách cùng phòng vẽ.

Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại, sóng về đâu ?
Sóng bạc đầu, và núi chìm sâu
Ta về đâu đó ?

Nhạc nghe đến đây, Sơn nói chêm vào : " bài này viết là từ [lời] cầu kinh của Phật : Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha " (Một số trong chúng ta, kể cả chúng tôi, đã lớn lên với câu kệ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha, song tụng như vẹt, phải đợi đến khi tóc ngả màu mới thấm được ý nghĩa sâu xa của nó). Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là " vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ ". Có phải Sơn là vừa là thi - nhạc sĩ, vừa là triết gia hay thiền gia ? Hôm đó Sơn cho chúng ta một tiết lộ. Sơn nói có người lầm cho đây là bài hát về tôn giáo. Theo chính lời Sơn, mặc dù bài hát nầy lấy cảm hứng từ đạo bụt, " nhưng mà mình viết về tình yêu ! ". Trong khi Sơn giải thích về xuất xứ và ý nghĩa bài hát, tiếng sóng Cẩm Vân vẫn dồn dập cho đến cuối bài.

Về chốn nào, mây phủ chiêm bao
Cạn suối nguồn, bốn bể nương dâu
Ta tìm em nơi đâu ?
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau

Đến đoạn nầy, Sơn cất tiếng hát đệm theo tiếng ca Cẩm Vân cho đến hết bài. Vầng tráng Sơn nhăn nheo, mắt Sơn nhắm lại như đang thả hồn theo tiếng sóng rạt rào. Bấy giờ Trịnh Công Sơn với biển sóng hoàn toàn là một.

Ta xô biển lại sóng nằm đau.
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngả dưới tim người.
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng cho tôi thấy hết tim người.
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau,
Ta xô biển lại sóng về đâu ?
Giấc ngũ nào, giường chiếu quạnh hiu
Trăng mờ quê cũ
Người đứng chờ,
Gió động vi vu,
Vạt nắng vàng, nhắc lời thiên thu,
Nhớ ngàn năm trôi qua...
Biển sóng, biển sóng đừng trôi xa
Ba năm chờ đợi sóng gần ta.
Biển sóng, biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù.
Biển sóng, biển sóng đừng... xô... nhau...

Grumbacher nầy rất tốt

Tiếng hát Cẩm Vân vừa mới dứt, nhà tôi rút trong xách ra một món quà để trao cho Sơn. Chàng nhìn ra ngay đó là một trong những món đồ thích chí : " Tôi dự định sẽ chia tay với âm nhạc để viết những tạp bút ngẫu hứng và vẽ " ("Trò Chuyện với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn," www.khanhly.com) (chữ viết hoa do tôi thêm). Phòng Sơn lúc đó có đầy tranh, một số có lẽ đã vẽ xong, một số hình như còn dang dở. Vì không được báo trước, nên khi thấy nhà tôi đưa quà biếu ra, Sơn có hơi ngạc nhiên một tí. Chàng hỏi : " Quà há ? ". Nhưng khi thấy quà là một hộp sơn dầu ngoại quốc ngoài có mang một nhãn hiệu quen thuộc, Sơn thốt lên ngay " Grumbacher nầy tốt lắm đó ... rất tốt. Cảm ơn nhiều lắm ". Nhà tôi hỏi mấy dạo sau này Sơn có vẽ nhiều không, Sơn trả lời : " Khi nào khoẻ thì làm... đêm ngồi buồn quá, lấy pinceau mà quẹt lên... thì cái màu nó gợi cái inspiration, vậy thôi, chứ còn nhạc thì nhiều khi âm thầm hơn... ". Ngoài ra, nhà tôi nói với Sơn là trong chuyến thăm nầy định đem biếu Sơn hai cuốn băng vidéo về âm nhạc, nhưng đã bị mất cả hai ở phi cảng. Một trong hai là phim về đời sống tình cảm của Beethoven (Immortal Beloved). đây là một câu chuyện tình thuộc loại " Diễm Xưa " của nhạc sĩ Đức, mà vì vậy chúng tôi nghĩ biết đâu khi xem, Sơn lại không tìm thấy một vài dư âm ?

Sơn và cố đô

Trong một bài phỏng vấn khá gần đây, Sơn thổ lộ : " Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi " (khanhly.com). Cho nên dù có trú ở đâu đi nữa, có thể nói Sơn luôn luôn nhớ nhà, nghĩa là nhớ Huế. Về mặt tình cảm, Sơn với Huế hình như không bao giời rời nhau được. Sự gắn bó đó vừa do những kỷ niệm sâu sắc của tuổi trẻ, vừa do hoàn cảnh lịch sử đấu tranh của đất nước, mà Sơn là người thực sự trong cuộc trong những ngày tháng sôi sục ở miền Trung, vừa do mối cảm tình lạ lùng với mảnh đất cằn cỗi nhưng linh thiêng của Phú Xuân. Trước thì như thế, nhưng thử hỏi vào những năm cuối đời mình, Sơn đã nghĩ gì về xứ Huế ? Trong buổi nói chuyện, có lúc Sơn nhắc rằng Huế vẫn buồn, vẫn nhỏ, vẫn " nghèo nàn dễ sợ " nhưng Sơn nói thêm rằng " tất cả mọi người phải đi qua Huế mới thành một con người... vì đó là thủ đô cũ ". Theo lời Sơn, Huế là nơi sản xuất nhiều nhân tài lịch sử và văn nghệ. Sơn nói " chỗ đó đã sinh đẻ ra " tất cả những nhân vật của lịch sử cận đại Việt Nam và họ " đều đi qua Huế cả ". Trong các nhân vật lịch sử, văn hoá Sơn nhắc đến, có tên nhà thơ trữ tình cổ điển Xuân Diệu mà Sơn nói là người Bình Định cũng đã từng học ở Huế.

Hai vì sao sáng

Trên bình diện kỹ thuật, nhạc lý, không thể đối chiếu họ Trịnh với Beethoven được, và bài tưởng niệm nầy không có dụng ý đó. Lại càng không thể và không nên so sánh sự nghiệp của họ trong nền âm nhạc thế giới. Tuy nhiên nếu nhìn rộng hơn về con người, về suy tư, thái độ trước cuộc đời, tình yêu, quan điểm nghệ thuật, tác dụng của âm nhạc đối với người nghe... ta thấy có một khuynh hướng hội tụ cũng như phân kỳ nổi bật giữa hai thiên tài. Một lần nữa, sự giống nhau không phải chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên vì có một số mẫu số chung lớn về đời sống tình cảm, về sự vật lộn với bệnh tật vào khoảng đời xế chiều, về thời đại nhiễu nhương, cũng như chí lớn của hai nhạc sĩ (mặc dù có sự phát biểu khiêm tốn của Trịnh Công Sơn về vai trò của mình : Tôi chỉ là một tên hát rong... và Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng...). Họ Trịnh và Beethoven đều là những tâm hồn đã vươn lên từ hố tuyệt vọng. Phải chăng những tâm hồn lớn thường hay gặp nhau ?

Trước nhất, về mặt âm hưởng, ta thấy chiều sâu của hai người đều thăm thẳm. Các bản tứ tấu đàn dây cuối cùng của Beethoven làm người nghe lên ruột, nạo sâu vào tâm can. Mặc dù không thể so sánh hai thể nhạc, tuy nhiên nếu mẫu số chung giữa các loại nhạc là ngôn ngữ, thì nếu nhạc của Beethoven là nhạc thuần tuý, nhạc Sơn là nhạc thơ, mà thơ là ngôn từ của chân thiện mỹ (Beethoven cũng có sáng tác một số nhạc bản đơn ca lớn, kể cả các bài bất hủ về tình yêu trong tác phẩm An Die Fern Geliebte). Vì có tính chất thơ nên nhạc Sơn phần nhiều nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn nhưng vẫn vô cùng mặn mà, tha thiết. Nhạc lớn của Beethoven (dương cầm, tứ tấu, giao hưởng v.v.) có thể xuyên thủng tim người, gan người như chơi, nhưng chắc gì đã thấm qua sỏi đá, vạn vật như Sơn vẫn tin tưởng ? Vả lại, Sơn đâu chỉ viết nhạc cho người ? Sơn muốn nói chuyện với tất cả muôn loài. Nhạc Sơn đi vào tâm khảm con người, tâm khảm của vạn vật. Sơn muốn thế. Âm thanh Sơn, ngôn ngữ Sơn đi xuyên qua tim đồng loại nơi nơi, thấm vào sỏi đá, lan vào cây cỏ. Giá nếu người đời nghe được tiếng nói của vạn vật, sẽ nghe vạn vật tâm sự... " tôi nghe Trịnh Công Sơn rồi, tôi hiểu Trịnh Công Sơn rồi... "

Đề tài Sơn rất lớn, rất bao la, rất thấm thía. Lồng qua các chủ đề rất gần gũi với nhạc sĩ như tình yêu, quê hương, và thân phận, trong nguồn cảm xúc và đối tượng sáng tác của họ Trịnh, người ta thấy một thế giới súc tích bao gồm cả đời, người, chân-thiện-mỹ, vũ trụ, cái chết, và hư vô. Và nhờ vậy, hậu thế mới có một di sản âm nhạc phong phú đồ sộ đến như thế ! (Về điểm nầy, Trịnh Công Sơn giống Friedrich Schiller, một thi hào ưa chuộng của Beethoven, hơn Beethoven. Đối tượng của thơ Schiller cũng rất to lớn : có người, có thiên nhiên, có vũ tru, có Thượng đế). Nhạc Beethoven, vì tự bản chất, có thể nói phần lớn không có chủ đề theo nghĩa thông thường. Vả lại, nhạc lớn như thế tự nó nói lấy, cần gì có chủ đề. Trong khi thính giả của Beethoven là người, là thiên thần, là chúa trời, thính giả của Sơn là đồng bào, là đồng loại, là vạn vật, là vũ trụ. Tầm thước của Trịnh Công Sơn, cũng như Beethoven, là ở chỗ họ đã dùng ngôn từ của chính chúng ta để nói thay chúng ta. Ngôn từ của Trịnh Công Sơn là tiếng nói của chúng ta tìm lại được. Tiếng nói đây cũng là tiếng nói của tự tình mình, của tự tình dân tộc, của tình người. Nếu An Die Freude (Ca Ngợi Niềm Vui, thơ của Schiller, Beethoven phổ nhạc trong giao hưởng số 9) đã làm rúng động năm châu, thì Nối Vòng Tay Lớn cũng vang dội như một địa chấn từ Bắc vô Nam, từ đông sang Tây.

Vượt qua tự tình dân tộc để đến với tình người có thể là một trong đỉnh cao nhất của Trịnh Công Sơn. Mấy ai đã không khỏi mủi lòng khi nghe Sơn chuyển từ tiếng khóc não nùng giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong... đến lời van lơn . . . ôi nhân loại . . . không ai thù ghét ai. . . Nếu trong vũ trụ quan của họ Trịnh, cũng như Beethoven, có bóng dáng của Thượng đế, thì cuối đời, Sơn thích làm nhà ở cõi vô vi. Trong khi nhạc sĩ Đức than thân, trách phận đã oái ăm dáng cho mình cái bệnh nan y (chúc thư Heiligenstadt) thì Sơn điềm nhiên đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng... với tôi là ai mà yêu quá đời nầy. Trong khi Beethoven trách móc đồng loại ôi nhân thế tôi ơi... các người xem tôi như kẻ ghét người... là oan ức cho tôi lắm..., họ Trịnh cũng có lúc hoài nghi một cách nên thơ đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng... Nhưng hoài nghi đó không giữ lâu vì thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận...

Không phải Sơn không có nhiều nỗi khổ riêng, kể cả đời sống tình cảm : và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Ai cũng biết hai thiên tài bên trời đông và trời Tây đều có đời sống tình cảm phức tạp. Về điểm nầy, không biết vì run rủi hay định mệnh mà hơn một thế kỷ rưỡi sau, họ Trịnh đã làm người phát ngôn tuyệt vời cho Beethoven khi chàng viết : Cuối cùng thì tình yêu không giữ được người mình yêu. Nhưng phương cách đối xử mỗi người một khác. Trong khi Beethoven viết An Die Fern Geliebte (Cho Người Tình Xa), Sơn cho ra đời Diễm Xưa.

Trong khi bị bệnh tai hành hạ từ năm 25 tuổi cho đến khi hoàn toàn điếc vào khoảng dưới 50, Beethoven còn phải khổ sở chống đỡ nhiều chứng bịnh kinh niên khác và cuối cùng đành bại trận trước bệnh ruột và gan vào năm 57 tuổi. Rượu là một trong những nguyên do chính. Trong thập niêm cuối đời, họ Trịnh cũng trải qua một số kinh nghiệm tương tự, kể cả rượu, và đã trở về cát bụi năm 62 tuổi. Đối với phàm nhân, đau khổ làm cho tâm hồn băng hoại. Cho nên hai thiên tài họ Trịnh và Beethoven có một điểm chung nữa rất lớn : đau khổ là thuốc bổ cho sáng tạo. Thay vì tàn lụi như cỏ sa mạc, với họ, đau khổ đã đơm hoa, khai quả cho nghệ thuật, những hoa quả tươi mát, dịu ngọt, làm cho đời nhẹ nỗi trần ai. Họ là bình minh của cuộc đời, của vũ trụ.

Về triết lý sáng tác, trong khi Beethoven trau chuốt từng nốt, từng câu, Sơn có lối viết nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã có nhận xét hay : Trịnh Công Sơn " viết dễ như lấy chữ trong túi ra ". Việc Beethoven xé bỏ bản thảo của mình không phải là chuyện hiếm. Nhạc sĩ Đức nổi tiếng là người có tánh hay bực bội, nóng nảy. Beethoven đã có lúc khâm phục ca ngợi người hùng đại đế Napoléon. Người ta kể rằng, sau khi nghe tin đại đế gây cảnh khói lửa tang tóc ở Âu Châu, chàng đã xé toang trang tựa bản thảo bản giao hưởng Anh hùng ca (giao hưởng số 3) có ghi lời đề tặng cho đại đế. Trái lại, Sơn tánh vốn thường đằm đẹ, trông có vẻ bình thản hơn trong mấy năm cuối đời mình. Beethoven luôn luôn là con người của đam mê tột độ. Sơn cũng đã từng có một thời rất Beethoven : Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận (TCS). Đều là máu nghệ sĩ thứ thật cả !

Nhất lý hay nhị nguyên

Với Trịnh Công Sơn, cũng như phần nào đối với Beethoven, ta còn thấy thể hiện một số " phản đề " khá thú vị trong tư tưởng Thiền và triết học, là ngành Sơn đã học và suốt đời rất thích. Các phản đề đó là : (1) giải thoát và vướng mắc, (2) đổi thay và chân lý, (3) đời buôn chôn và lòng vị tha. Là nguồn cảm hứng lớn, các phản đề nầy đã làm giàu kho tàng văn hóa nhân loại. Chúng bám chặt thiên tài nơi nơi, không bao giờ chịu nhả ra và cũng không phân biệt ranh giới quốc gia hay chủng tộc (tài/mệnh của Nguyễn Du; người gù/mỹ nhân của Victor Hugo ; Anna Karenina của Leo Tolstoy...). Có lẽ Trịnh Công Sơn đủ thông Thiền để thấy rằng hạnh phúc và đau khổ _ mới nghe qua có vẽ tương phản _ sự thật không phải là hai trạng thái đối kháng nhau ; với Thiền, chúng chỉ là một. Cũng có lẽ vì thế mà Sơn không thấy có gì mâu thuẫn trong các hình ảnh hay ý niệm đối nghịch nhau trong một số lời ca của mình.

Rất Beethoven mà cũng rất Sơn

Trong chúc thư Heiligenstadt, trong giây phút tuyệt vọng, Beethoven đã phơi bày tâm sự nảo nề với Karl và Johann : " Ôi nhân thế tôi ơi, các người đã từng xem tôi hay nói về tôi như kẻ bất nhân, không tình nghĩa, hay thậm chí còn xem tôi như kẻ thù ghét người, các người có biết như vậy là oan ức cho tôi lắm không... chỉ vì các người không biết lý do thầm kín nào đã làm tôi có bộ mặt như vậy... từ lúc nhỏ tim tôi, tâm hồn vẫn hướng về tình thương và thiện ý... nhưng sáu năm qua bệnh nan y của tôi đã làm tôi khổ và bầy y sĩ vô tài đã làm tôi khổ sở hơn. Năm nầy qua năm khác, hy vọng khỏi bệnh biến theo mây khói làm tôi phải chấp nhận viễn tượng bị tàn tật suốt đời... trời phú cho tính hăng say mãnh liệt... mà rồi tôi cũng phải rút lui sống trong cô đơn... Có lúc tôi muốn quên mình bị tàn tật, nhưng than ôi, bệnh nghiệt ngã của tôi vẫn hành tôi mà thậm chí tôi vẫn không đủ can đảm để nói lớn : "Các người hãy hét lên bởi vì tôi điếc". Làm sao tôi dám thú với người ta rằng tôi bị tật về một cơ năng đáng lẽ phải được toàn thiện ở tôi hơn ở người khác... Lạy Chúa linh thiêng, xin ngài nhìn xuống tâm hồn và tim con, ngài thấy tim con lúc nào cũng đầy tình thương người và ước mong làm điều thiện... Hãy dạy con cái [của Karl và Johann] biết làm điều lành, bởi vì theo kinh nghiệm bản thân tôi, chỉ có cái đức mới đem lại hạnh phúc chứ không phải tiền tài...chính cái đức đã nuôi dưỡng tôi trong lúc tuyệt vọng. Chính nhờ có lòng nhân ái và nghệ thuật mà tôi đã không chấm dứt đời mình bằng tự vận ".

Trong khi Beethoven phẫn nộ cay cú với định mệnh, Sơn nhẹ nhàng ca ru đời đi nhé. Cái Sơn thật là cái Sơn đã có lần thốt Sống mà giữ mãi trong lòng những hờn oán thì cũng nặng nề. Trong đoản văn" để bắt đầu một hồi ức ", Trịnh Công Sơn cũng tâm tình tương tự như Beethoven, nhưng thiếu cái vị mặn, vị chát của nhạc sĩ Đức : Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nầy. Vì thế lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn... Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống.

Trịnh Công Sơn chia tay với chúng ta để vào thế giới những người không bao giờ chết. Ở đó Sơn đã gặp mẹ và Beethoven. Nếu, theo Thiền, sự trở về đích thực là sự trở về với mình, là sự đi đến sau những năm tháng say sưa dấn thân cho nghệ thuật, cho quê hương, cho đồng loại, cho vạn vật, thì nay Sơn đã trở về.

Đời như vô tận, một mình tôi về. Với tôi.


Võ Xuân Hân
 
Tản mạn về TCS:
- Một nhân tài, văn nhân, tên tuổi sẽ còn sáng chói.
- TCS không phải là người được đào tạo sâu về nhạc lý, ít thay đổi phong cách, cách viết nhạc chưa phong phú về mặt kỹ năng, nghiên cứu.
- TCS là một nhà thơ có tài, thơ có thần thái.
- Trong phim "Em còn nhớ hay em đã quên" - TCS đã được mời làm cố vấn, nhiều bài hát TCS là sáng tác cho giọng ca Khánh Ly, cho con người Khánh Ly. Đó là sự gắn kết "sống còn" hiếm hoi giữa người sáng tác và người biểu diễn.
- TCS là người khi sáng tác đã có sự "xuất thần", "thiền" rất cao, ví như những từ "ôi tóc em dài đêm thần thoại", "em đi bỏ lại con đường, bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em..".. mang nặng tính "cảm" hơn là tính "thực", vì đêm thần thoại, hay vô thường thì đều không rõ ràng, khiến hình ảnh phụ thuộc vào cảm quan của người đọc, nghe.
- Sinh thời, TCS yêu mến và chơi thân với nhạc sỹ Văn Cao, dường như hai đỉnh cao của nhạc VN (trước và sau CM tháng 8) có một sự giao hòa đặc biệt.
- TCS đã quá "hư", "thả", "xuất chúng"... để rồi ra đi sớm để lại bao tiếc nuối cho những người hâm mộ ông.
- TCS chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo, trong từng nốt nhạc, bài hát của ông người ta đều thấy.

(Hết)
 
Em cũng không rõ vì sao, mỗi khi nghe những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, hay đọc những gì ông viết, trong em lại như có cảm giác vô cùng buồn và đơn độc. Nó như làm em muốn vứt bỏ thế giới thực tại để dắm mình trong cái mộng mơ, cái hư vô,cái viễn tưởng ấy.
Một nỗi buồn da diết

Có lẽ phải nhưng ai đã từng trải hết cuộc đời mới hiểu được hết tâm trạng của ông. Nó có thể không phù hợp với tuổi chị em mình, nhưng đối với em, nó lại như một niềm vui mới.
 
Em cũng không rõ vì sao, mỗi khi nghe những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, hay đọc những gì ông viết, trong em lại như có cảm giác vô cùng buồn và đơn độc. Nó như làm em muốn vứt bỏ thế giới thực tại để dắm mình trong cái mộng mơ, cái hư vô,cái viễn tưởng ấy.
Một nỗi buồn da diết

Có lẽ phải nhưng ai đã từng trải hết cuộc đời mới hiểu được hết tâm trạng của ông. Nó có thể không phù hợp với tuổi chị em mình, nhưng đối với em, nó lại như một niềm vui mới.

em đồng í là nó ko phù hợp với tuổi này :-< ...

nghe nhiều, ko đúng cách dẫn đến lôi cuốn, mụ mị, sầu não, khá thảm hại :-<

hồi trước em có post 1 ít nhạc của bác Trịnh lên mạng, phần lớn là của Khánh ly hát .... em share nè ^_^

http://laituanhoang.multiply.com/music?&=&page_start=50
http://laituanhoang.multiply.com/music?&=&page_start=40
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Em cũng không rõ vì sao, mỗi khi nghe những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, hay đọc những gì ông viết, trong em lại như có cảm giác vô cùng buồn và đơn độc. Nó như làm em muốn vứt bỏ thế giới thực tại để dắm mình trong cái mộng mơ, cái hư vô,cái viễn tưởng ấy.
Một nỗi buồn da diết

Có lẽ phải nhưng ai đã từng trải hết cuộc đời mới hiểu được hết tâm trạng của ông. Nó có thể không phù hợp với tuổi chị em mình, nhưng đối với em, nó lại như một niềm vui mới.

* Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là đỉnh cao hay cao siêu gì nhưng nghe nhạc Trịnh phải có cái tâm, cái mà như em nói là từng trải của nó... nếu không nó dễ vận vào thân lắm em à.
 
Back
Bên trên