Toàn cầu hóa.

Thực ra thì vào thời điểm hiện tại các nước vốn giàu sẵn rất mong các nước nghèo có thể giàu lên nhanh chóng, bởi vì công nghệ càng cao thì sản phẩm càng tăng cả chất lẫn lượng trong thời gian ngắn. Nước giàu vốn đã giàu nhưng dù thế nào đi nữa thì thị trường của các nước giàu tuy tiềm năng nhưng cũng có mặt hạn chế. Ví dụ như các sản phẩm đời cũ nhưng còn sót lại trong kho thì thị trường nước ngoài ít quan tâm hơn vì đã có các sản phẩm cao cấp hơn. Nhưng với các thị trường ở các nước nghèo thì đó lại là 1 tiềm năng to lớn.
Có điều là việc gì cũng có 2 mặt của nó, các nước giàu đúng là muốn giúp nước nghèo bắt kịp kinh tế toàn cầu thật, đấy là mặt tích cực của toàn cầu hoá. Nhưng các nước giàu có chuyển giao toàn bộ công nghệ cho các nước nghèo ko. Nếu các nước nghèo nắm đc kĩ thuật tiên tiến thì liệu có phải là các công ty của nước giàu sẽ phải chịu cạnh tranh lớn hơn ko. Bài học của Trung Quốc dành cho Mỹ đâu phải là nhỏ, Trung Quốc học bao nhiêu từ Mỹ, đến giờ Trung Quốc phá Mỹ gấp bội lần. Có lẽ sự dè dặt trong vấn đề chuyển giao công nghệ cũng 1 phần khiến các nước nghèo khó thể bắt kịp các nước giàu chăng.
 
Thực ra thì vào thời điểm hiện tại các nước vốn giàu sẵn rất mong các nước nghèo có thể giàu lên nhanh chóng, bởi vì công nghệ càng cao thì sản phẩm càng tăng cả chất lẫn lượng trong thời gian ngắn. Nước giàu vốn đã giàu nhưng dù thế nào đi nữa thì thị trường của các nước giàu tuy tiềm năng nhưng cũng có mặt hạn chế. Ví dụ như các sản phẩm đời cũ nhưng còn sót lại trong kho thì thị trường nước ngoài ít quan tâm hơn vì đã có các sản phẩm cao cấp hơn. Nhưng với các thị trường ở các nước nghèo thì đó lại là 1 tiềm năng to lớn.

Đã là toàn cầu hóa, thị trường liên hiệp của nhiều quốc gia có nền kinh tế lớn mạnh là rất lớn. Hơn nữa, đa phần những công nghệ mới và hàng hóa mới ít khi xảy ra trong một sớm một chiều cả, cho nên thường các công ty có dự tính để lo xong hàng hóa cũ trước khi tung ra thị trường hàng hóa mới. Với lại hiệu tính sản xuất lúc đầu thỉ Marketing department cũng tính toán kỹ rồi, trừ khi là có chuyện gì đó rất đột ngột trong một khoảng thời gian rất ngắc thay đổi cả tính chất của một sản phẩm (hiếm có) thì hàng tồn kho sẽ ở mức tối thiểu (nếu không công ty đó sẽ bị thiệt hại kinh tế trầm trọng).

Đem hàng tồn động đi bán cho các nước nghèo cũng là một sự thổi phồng của kinh tế học nữa, đa phần số lượng hàng hóa không đáng kể và khoảng vài năm mới có một lần (có khi còn lâu hơn, nhưng do sự tiến triển của công nghệ rất nhanh, tuy nhiên chính vì thế marketing department cũng sẽ chặt tay hơn về số lượng sản xuất).

Hơn nữa nếu công ty nào mà có nhiều hàng tồn kho như vậy, thì nó sẽ phá sản trong một thời gian ngắn thôi, bởi vì cho dù bán ở các nước nghèo, những hàng hóa này cũng phải cạnh tranh với những hàng hóa tốt hơn của các công ty khác. Cho nên lỗ ít hơn lỗ nhiều, giá thành sẽ bị giảm tới mức tối thiểu, và thường là sẽ dẫn đến lỗ vốn.

Có điều là việc gì cũng có 2 mặt của nó, các nước giàu đúng là muốn giúp nước nghèo bắt kịp kinh tế toàn cầu thật, đấy là mặt tích cực của toàn cầu hoá. Nhưng các nước giàu có chuyển giao toàn bộ công nghệ cho các nước nghèo ko. Nếu các nước nghèo nắm đc kĩ thuật tiên tiến thì liệu có phải là các công ty của nước giàu sẽ phải chịu cạnh tranh lớn hơn ko. Bài học của Trung Quốc dành cho Mỹ đâu phải là nhỏ, Trung Quốc học bao nhiêu từ Mỹ, đến giờ Trung Quốc phá Mỹ gấp bội lần. Có lẽ sự dè dặt trong vấn đề chuyển giao công nghệ cũng 1 phần khiến các nước nghèo khó thể bắt kịp các nước giàu chăng.

Xin đừng quên là khi mà kinh tế Trung Quốc phát triển thì người dân Trung Quốc cũng giàu hơn, tạo ra một lượng lớn thị trường cho hàng hóa.

Cái chuyện các nước lớn ngại chuyển giao công nghệ cho các nước nghèo thì đúng một vài phần, nhưng cũng là một sự thổi phồng của kinh tế học thôi.

Bởi vì thứ nhất, nên nhớ một điều nền kinh tế các nước đang phát triển bây giờ là rất market-oriented nghĩa là tư nhân và thị trường là nắm quyền (nếu là một đất nước mà nền kinh tế bị nắm quyền bởi chính phủ thì khác), chứ không phải là chính phủ. Đa phần các công nghệ kỹ thuật đều thuộc vào các công ty tư nhân chứ không phải của nhà nước. Quyền được bán các công nghệ này đều toàn quyền phụ thuộc vào các công ty này. Vì lợi ích kinh tế, nếu giá cả hợp lý và phù hợp với chính sách phát triển của các công ty đó thì việc chuyển nhượng công nghệ là rất hợp lý.

Về chính trị thì có thể Mỹ và TQ không gây gắc cho lắm. Nhưng về kinh tế, cả hai rất phụ thuộc lẫn nhau, trong cuộc kinh tế này cả hai đều có lợi, chứ không phải chỉ có TQ. Hơn nữa về international business bây giờ, thì sẽ hiệu quả và chính xác hơn nếu chúng ta nhìn dưới ống kính của một công ty, với mục tiêu cơ bản là lợi nhuận bởi vì đa phần các nền kinh tế của các nước phát triển đều là market-oriented - Kinh tế thị trường.


Có điều là việc gì cũng có 2 mặt của nó, các nước giàu đúng là muốn giúp nước nghèo bắt kịp kinh tế toàn cầu thật, đấy là mặt tích cực của toàn cầu hoá.

Đó chính là tác động của "the invisible hand" của Adam Smith, cạnh tranh thì sẽ tạo ra hiệu quả (tuy có rất nhiều khuyết điểm, nhưng vẫn khá chính xác cho đến bây giờ).
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Để tạo cho tranh luận gần với thực tế hơn, mình xin mở đầu với kết nối toàn cầu hóa và tình trạng kinh tế Việt Nam.

Hiện tại Việt Nam đã chọn tham gia vào Toàn Cầu Hóa. Tuy nhiên chọn đúng hướng với tích cực đi đúng hướng là một khoảng cách rất xa, cần những nỗ lực không ngừng của các intellectuals hiện nay. Thế hệ hiện tại đã chấp nhận Toàn Cầu Hóa, trong tương lai, hy vọng thế hệ của chúng ta sẽ tích cực tham gia toàn cầu hóa.

Toàn cầu hóa thì có hai bậc, macro level và micro level. Theo ngôn ngữ của Thomas Friedman là reform whole sale and reform retails. Về macro levels (whole sale) thì Việt Nam đang tiến hành, tuy nhiên vẫn có rất nhiều thiếu xót. Còn về mặc micro level (retails) thì những cải cách vẫn rất là hạn chế.

Về Macro levels thì có một số đáng chú ý:

1) International trade (thông thương giữa các nước), đặc biệt lả free trade (tự do thương mại): đây là một cornerstone (điểm chính yếu) của kinh tế học mà hầu hết các nhà kinh tế học đều đồng ý là làm lợi cho nền kinh tế của cả hai bên. Viễn cãnh Việt Nam sắp tiến vào WTO cuối năm nay là rất khả quan, tuy nhiên vào WTO chỉ là bước đầu, còn có các cuộc đàm phán đa thương để mở cửa thêm thị trường (multilateral or bilateral trade talks).

2) Liberalization of the economy (tự do hóa nền kinh tế): Đây cũng là một điểm hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý, bởi vì khi kinh tế bị chính trị ảnh hưởng sẽ dẫn đến sự kém hiệu quả của nền kinh tế.

Bước cải cách dưới khẩu hiệu Kinh tế thị trường là một bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn rất nhiều công ty nhà nước hoạt động, trên 70 % các công ty nhà nước hoạt động thua lỗ hàng năm tạo ra sự lãng phí nguyên liệu và nguồn vốn đầu tư, bởi vì một phần lớn tiền của ngân hàng phải chi để tiếp tục hoạt động các công ty này. Hơn nữa rất nhiều ngành nghề bị độc quyền bởi chính phủ, tạo ra hạn chế rất lớn cho các entrepreneurs để tiến vào thị trường, cũng như tạo ra cản trở rất lớn cho sự phát triển của họ do không có access vô một số nguyên liệu cần thiết.

3) Financial reforms: cái này gồm có hai phần chính thị trường chứng khoáng và ngân hàng. Thị trường chứng khoáng Việt Nam mình không biết rõ lắm cho nên mình sẽ nói tới Ngân hàng.

Vấn đề với ngân hàng Việt Nam (phần lớn là chính phủ nắm giữ): 1) một phần lớn số vốn của ngân hàng phải chi trả cho sự thua lỗ của các công ty nhà nước, 2) một phần không nhỏ phải chi cho những nhà vay có quan hệ chính trị, tức là về mặc kinh tế là không có lợi nhuận, và cứ tiếp tục cho vây (Tăng Minh Phụng ngày xưa cũng gần dính với vụ này, 3) không có công khai (transparency) - rất nhiều khoảng vốn cho vay cho những công ty không có nguồn gốc rõ ràng, không có double-check và varification (kiểm tra kỹ lưỡng).

Những vấn đề này tạo ra một sự thiếu hụt vốn cho tư nhân vay mượng để mở rộng công ty, và tạo ra một sự lãng phí tiền tệ của đất nước.


Những ý kiến này chỉ là tóm tắt của một số cải cách căn bản của một globalized economy (nền kinh tế toàn cầu hóa), hôm nay mình tạm dừng, sẽ tiếp tục hôm khác.

Nếu các bạn có ý kiến hay phát hiện sai xót gì, xin vui lòng thông báo.

(To be continued)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Theo em thì khu vực kinh tế nhà nước khá chậm trong việc thích nghi với kinh tế thị trường, Nhà nước vừa muốn các công ti nhà nước vẫn là chủ đạo trong nền kinh tế trong khi vừa muốn kéo khu vực kinh tế nhà nước thoát khỏi sự trì trệ quan liêu gây thất thoát nhiều tài sản. Bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. chính phủ muốn tạo điều kiện để nguồn vốn bên ngoài đầu tư vào doanh nghiệp. Nhưng có lẽ là cái sự cổ phần hoá ấy quá dè dặt chăng khi mà nhà nước vẫn còn nắm đa số cổ phần, một khi vẫn còn nắm đa số cổ phiếu thì những cổ đông bên ngoài vẫn chưa thể có đc ảnh hưởng lên doanh nghiệp mà giúp đc doanh nghiệp cả. Như thế nhu cầu mua cổ phiếu sẽ giảm, cung vượt quá cầu dẫn đến giá cổ phiếu giảm, e rằng như thế còn thua lỗ hơn trước đây.
 
Theo em thì khu vực kinh tế nhà nước khá chậm trong việc thích nghi với kinh tế thị trường, Nhà nước vừa muốn các công ti nhà nước vẫn là chủ đạo trong nền kinh tế trong khi vừa muốn kéo khu vực kinh tế nhà nước thoát khỏi sự trì trệ quan liêu gây thất thoát nhiều tài sản. Bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. chính phủ muốn tạo điều kiện để nguồn vốn bên ngoài đầu tư vào doanh nghiệp. Nhưng có lẽ là cái sự cổ phần hoá ấy quá dè dặt chăng khi mà nhà nước vẫn còn nắm đa số cổ phần, một khi vẫn còn nắm đa số cổ phiếu thì những cổ đông bên ngoài vẫn chưa thể có đc ảnh hưởng lên doanh nghiệp mà giúp đc doanh nghiệp cả. Như thế nhu cầu mua cổ phiếu sẽ giảm, cung vượt quá cầu dẫn đến giá cổ phiếu giảm, e rằng như thế còn thua lỗ hơn trước đây.

Trung nói đúng, đây là một vấn đề cần nhiều cải cách (hơi nghiêng về micro reform). Việc làm này trên lý thuyết thì có vẻ hiệu quả, tuy nhiên có khuyết điểm rất trầm trọng.

Khi mua cổ phiếu của công ty, có hai loại:

1)Loại thứ nhất là những cổ đông nhỏ, những người này vì nhận thấy là công ty có lợi nhuận nên mua một số lượng cổ phiếu nhất định để cùng được chia sẻ với những lợi nhuận của công ty.

Khuyết điểm của hệ thống ở đây là bởi vì hệ thống công chánh (transparency) ở Việt Nam rất là ít hiệu quả, cho nên hầu hết các công ty Việt Nam đều không đưa đầy đủ thông tin hoặc không đưa thông tin kinh doanh của mình cho công chúng bởi vì nhiều nguyên do: thiếu xót những luật cần thiết, không có cơ quan độc lập (chính trị) để giám sát và kiểm chứng vv. Chính vì vậy rất khó nhận định công ty có lợi nhuận hay không. Vì thế, đa phần các cổ đông nhỏ của các công ty ở Việt Nam là nhân viên của công ty, hoặc là người thân của nhân viên của công ty.

2) Loại thứ hai là cổ đông lớn. Những người này đa phần là chủ của các công ty khác nhận thấy công ty có trưng bán cổ phần có tiềm năng (ví dụ như có access vào những thị trường quan trọng, hay là nguyên liệu cần thiết, có công cụ thiết bị vv) nhưng làm ăn không hiểu quả. Họ sẽ tìm cách mua đa phần cổ phiếu, nhằm nắm quyền quản trị, hy vọng thay đổi cấu trúc và hoạt động của công ty để đạt lợi nhuận.

Tuy nhiên khuyết điểm ở đây là đa phần cổ phiếu của các công ty nhà nước đều bị nắm giữ bởi nhà nước, cho nên điều này sẽ hạn chế những nhà đầu tư lớn có mong muốn thay đổi cấu trúc của công ty để đạt năng suất cao hơn. Chính vì thế, đa phần các cổ đông lớn của các công ty nhà nước này đều là những người trong chính trị có lợi ích liên quan đến công ty này, hoặc là những người lãnh đạo hiện thời của công ty. Những người này vì lợi ích hiện tại sẽ không muốn thay đổi cấu trúc và hoạt động của công ty.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Social Capital​

Trong một thế giới toàn cầu hóa, nếu chỉ thay đổi cấu trúc, luật lệ, thể chế của một nền kinh tế, hy vọng là bao nhiêu đó là đủ để nền kinh tế vực dậy thì vẫn còn thiếu. Trong cuốn Culture Matters, nguyên tố văn hóa và con người đóng một vai trò rất lớn trong việc chuyển đổi một nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế thành công. Nguyên tố này trong nhiều sách được gọi là Social Capital.

Để cụ thể vấn đề, mình xin nói về Việt Nam.

1) Văn hóa Việt Nam là bị ảnh hưởng rất lớn từ Khổng Tử và văn hóa của Trung Quốc, và trong cái văn hóa này thương mại bị đánh giá thấp nhất trong xã hội (sĩ, nông, công, thương). Tuy là nó không còn gay gắt như ngày xưa, tuy nhiên những di tích của cách nhìn nhận này vẫn bám rất sau vào cốt rễ tư tưởng con người như: thương mại là bót lộp, thương gia là người làm ăn bất chánh.

Chính vì cái tư tưởng này đã gây tạo ra một hình ảnh tiêu cực cho tất cả các nhà doanh nghiệp trong vấn đề giao lưu xã hội (một yếu tố quan trọng của kinh doanh), ảnh hưởng đến nguyện vọng những người trẻ đi vào doanh nghiệp.

Một vấn đề nan giải hơn nữa đó là, chính vì cái tư tưởng này cho nên chính quyền thường có hai cách giải quyết: 1) rất là gắt ghe kiểm soát việc thương nghiệp và thương nhân dẫn đến rất nhiều luật lệ cấm đoán, 2) rất là thờ ơ, không quan tâm đến, dẫn đến sự thiếu thốn những luật lệ cần thiết để cho kinh tế hoạt động (vd như bảo vệ hợp đồng vv). Việt Nam bây giờ đang thi hành cả hai phương pháp này, vừa cấm đoán rất nhiều, tuy nhiên thiếu thốn nhiều luật lệ cần thiết, cho dù có cũng không có toàn ý thi hành.

2) Chính vì cái tư tưởng của Văn hóa này, cho nên đa phần các thương nhân Việt Nam suy nghĩ là muốn làm thương gia thành công thì phải bất chấp thủ đoạn, xảo quyệt. Thử lấy một ví dụ đơn giản:

Một chủ thuyền nhận được một đơn đặt hàng chuyên chở một món hàng quý trị giá 100 dollars với tiền công là 5 dollars. Đa phần thương gia Việt Nam sẽ cho rằng đem món hàng đi bán sẽ được lời hơn. Có thể lấy một ví dụ thực tế hơn, khi bạn đi chợ ở một khu lạ nào, bạn cử chỉ như là không biết gì, đa phần các thương gia ở khu vực đó sẽ ra giá cao hơn so với giá bình thường, suy nghĩ rằng người lạ thì lâu lâu mới tới một lần, cho nên ra giá cao sẽ được lời hơn.

Chính vì tư tưởng này, không có một uy tín nhất định, cho nên tạo ra một sự không tin tưởng giữa thương gia với thương gia, giữa thương gia với khách hàng. Và cái này sẽ làm cản trở nền kinh tế phát triển một cách hoàn hảo.

Trong doanh nghiệp nói riêng, và nền kinh tế một nước nói chung, trust (tín nhiệm) là một nguyên tố rất quan trong, chứ không phải như tư tưởng của Việt Nam là ngây thơ và không biết cách làm ăn. Quay lại ví dụ trên, nếu vị chủ thuyền đó giữ tín nhiệm, thì sẽ tạo ra sự tin tưởng giữa ông ta và khách hàng, kết quả là tương lai, hai người sẽ hợp tác lâu dài.

3) Một vấn đề lớn của văn hóa Việt Nam là sự yếu kém của luật pháp. Người Việt Nam thường tuân thủ theo người chấp pháp, chứ không phải là luật lệ ghi trên giấy tờ. Nói một cách khác, thông thường, người chấp pháp làm trái với luật lệ nhưng người dân vẫn chấp nhận việc đó. Vấn đề này có những nguy hại rất phức tạp, tuy nhiên mình xin chỉ nói trong phạm vi kinh tế.

Chính cái văn hóa này tạo ra một sự kết nối chặc chẽ giữa chính trị và kinh tế - quanxi (quan hệ). Điều này rất có hại đối với một nền kinh tế hiện đại. Lấy ví dụ: khi có tranh chấp kinh tế, thông thường hai bên tham gia không đưa lên tòa án đế giải quyết mặc dù là có luật pháp liên quan về vấn đề này, mà đi tìm nhưng người có chức quyền can thiệp với quà cáp, quan hệ vv. Việc này xảy ra cũng không ít ở một nền kinh tế phát triển như Nam Hàn và Malaysia.

Tư tưởng này có tác dụng rất tiêu cực đối với một nền kinh tế hiện đại bởi vì nó không có một luật lệ rõ ràng, không có một tiêu chỉ hoạt động cụ thể để mà các thương nhân tuân theo, tạo ra sự không hiểu quả cho nền kinh tế (misallocation of resources). Việc này cũng có đóng góp quan trọng đến tham nhũng.


Không có vấn đề gì là không có giải quyết, và cái gì cũng có thể thay đổi, nếu với phương pháp hợp lý thì cả Culture chúng ta cũng có thể thay đổi cho phù hợp với một nền kinh tế hiện đại và giữ gìn được bản sắc dân tộc. Hong Kong và Singapore là những khuân mẩu rất đáng đế học hỏi.

Mệt quá, để post tiếp mình sẽ viết tiếp một số phương pháp cụ thể. Tất nhiên, đây chỉ là một quan điểm tóm tắt và đơn giản hóa bởi vì vấn đền phức tạp hơn rất nhiều, nếu các bạn có hứng thú, có thể tìm đọc Culture Matters. Cuối cùng, nếu các bạn có ý kiến hay phát hiện sai xót gì, xin vui lòng thông báo. Xin chân thành cảm ơn.

(To be continued)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
có một thực tế liên quan đến văn hóa về thương gia ở VN là , ở miền Nam , do đã có kinh nghiệm vf ý thức kinh doanh trong một nền kinh tế thị trường đầy đủ như hồi trước 75 , nên phong cách phục vụ của người miền Nam rất dễ chịu , đề cao uy tín .Trong khi đó , người miền Bắc chúng ta , do sống dưới một xã hội từ lâu quá nặng nề bởi 2 ý thức hệ mang tính thù ghét thương mại như Nho Giáo và Cộng sản , và lại trải qua chiến tranh lâu dài , nên hiện giờ , cái cách làm ăn , phục vụ của thương gia miền Bắc vẫn cực kì yếu kém . Ở một số nơi ngay giữa lòng Hà Nội này mà họ vẫn phục vụ theo cái kiểu chộp giật , kiểu ăn cắp ... , và ko tính đến chuyện gây dựng uy tín lâu dài với khách hàng . Đó là một thực tế đáng buồn , đòi hỏi tất cả thế hệ trẻ chúng ta hôm nay phải khắc phục bằng mọi giá .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nói đến cái tư tưởng anti-commerce (khinh biệt thương mại), cái topic này có thể chứng minh một phần nào, trừ mấy cái bài cuối, đa số các bài thiên về nghi kị sự toàn cầu hóa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
em nghĩ là việc toàn cầu hóa thì mọi người đều đã chấp nhận rồi , nhưng rõ ràng là trong bước đầu của nó , khi sắp tới WTO sẽ gây ra cho nền kinh tế , (đặc biệt là những ngành nghề còn chậm thay đổi ) những shock không thể tránh khỏi , và đó vẫn là một vấn đề khiến nhiều người lo ngại vì chưa biết sẽ vượt qua như thế nào . Nói là nghi kị thì chưa hẳn đã khách quan !
 
Đó là lo ngại chăng?:-/
Biết là TCH tốt, biết là nó tất yếu của thời hiện đại, nhưng đối mặt với nó ko phải là dễ dàng, ko hẳn là sẽ đc lợi nếu ko muốn nói là có thể thua thiệt lớn.
Thương mại là trò chơi có tính mạo hiểm với đủ mọi quy mô. Thế nên việc mưu mô, xảo quyệt ở đâu chả có. VN lo là lo bị nước ngoài nó lừa cũng nên.:-?
 
em nghĩ là việc toàn cầu hóa thì mọi người đều đã chấp nhận rồi , nhưng rõ ràng là trong bước đầu của nó , khi sắp tới WTO sẽ gây ra cho nền kinh tế , (đặc biệt là những ngành nghề còn chậm thay đổi ) những shock không thể tránh khỏi , và đó vẫn là một vấn đề khiến nhiều người lo ngại vì chưa biết sẽ vượt qua như thế nào . Nói là nghi kị thì chưa hẳn đã khách quan !

Đó là lo ngại chăng?
Biết là TCH tốt, biết là nó tất yếu của thời hiện đại, nhưng đối mặt với nó ko phải là dễ dàng, ko hẳn là sẽ đc lợi nếu ko muốn nói là có thể thua thiệt lớn.
Thương mại là trò chơi có tính mạo hiểm với đủ mọi quy mô. Thế nên việc mưu mô, xảo quyệt ở đâu chả có. VN lo là lo bị nước ngoài nó lừa cũng nên

Các bạn nói rất , mình xin lỗi nếu có quan sát sai và trách lầm các bạn^^.

Cũng giống như chúng ta hàng ngày đi xe trên đường, rất nguy hiểm. Nếu té xuống thì không mất mạng cũng bị thương, bị người khác đụng thì càng không nhẹ, thống kê người chết tai nạn cũng rất nhiều. Tuy nhiên điều đó nói rằng chúng ta khi lái xe phải cẩn thận, chứ không phải bảo chúng ta không lái xe.
 
vâng đúng rồi ạ , anh Phước trách nhầm bọn em rồi , bọn em đều có đầu óc cởi mở , đều ủng hộ toàn cầu hóa đó chứ, thời đại này rồi , không ai cho rằng , không nên gia nhập vào toàn cầu hóa cả .
Nhưng phải nói tới những mặt khó khăn của nó đối với VN mà hiện nay ,trong ngắn hạn trước mắt ,nước ta chưa chắc chắn là đã đủ khả năng vượt qua được để cùng thảo luận pp giải quyết .
Toàn cầu hóa là xu thế phát triển của nhân loại , nếu ko tham gia ,hoặc chống lại nó , sẽ như là bị bánh xe lịch sử nghiền nát , nhưng ở đây , bọn em muốn nhìn vấn đề này theo nhiều chiều , nhiều khía cạnh .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
về toàn cầu hoá, vẫn đang nghiên cứu 1 số mặt hại để phản lại bác Phước :D rồi sẽ nói sau về vấn đề VN :D
Nhưng mọi người lạc quan lên, dù vẫn còn điểm yếu nhưng kinh tế VN cũng khá trưởng thành đấy chứ, nhiều tập đoàn ngó tớí VN vì tiềm lực kinh tế VN đang vận hành khá tốt, ví dụ như intertek đó, rồi thời gian sẽ kiểm chứng thôi.:D
 
về toàn cầu hoá, vẫn đang nghiên cứu 1 số mặt hại để phản lại bác Phước rồi sẽ nói sau về vấn đề VN
Nhưng mọi người lạc quan lên, dù vẫn còn điểm yếu nhưng kinh tế VN cũng khá trưởng thành đấy chứ, nhiều tập đoàn ngó tớí VN vì tiềm lực kinh tế VN đang vận hành khá tốt, ví dụ như intertek đó, rồi thời gian sẽ kiểm chứng thôi.

Hy vọng là khi bạn nghĩ ra điều hại, thì nghĩ cách đối phó làm sao vừa tăng cường toàn cầu hóa, cải cách nền kinh tế Việt Nam.

Còn việc nhòm ngó, có thể là bạn đang suy nghĩ tới cái dependency theory, tức là các nước giàu có dùng các tập đoàn lớn nhằm để chi phối nền kinh tế quốc gia các nước yếu, của một Brazilian economist. Cái này cũng có phần đúng, tuy nhiên nó bị thổi phòng lên rất nhiều và không phù hợp với thời đại hiện nay. Bởi vì cái nền kinh tế bạn đang nhìn vào là một nền kinh tế bị chi phối lớn bởi chính phủ, vậy cho nên để phân biệt một cách rõ ràng, chúng ta nên tìm hiểu rõ cấu trúc của nền kinh tế đất nước đó một cách kỹ càng, với những thông tin mới, rồi mới có thể rút ra những kết luận cần thiết. .

Còn nền Kinh tế Việt Nam, so với các nền kinh tế khác vẫn đang là trong quá trình sơ khai, mới bắt đầu, còn rất nhiều điều cần sửa, và phải có quyết tâm kiên trì. Không nên tự thỏa mãn sớm.
 
1 điều đáng buồn là GDP của Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của việc bán tài nguyên ra nước ngoài mà dầu khí là 1 ví dụ điển hình. Trong khi đó chúng ta vẫn phải nhập năng lượng hằng năm do sự thiếu hụt trong nước : xăng, điện. Thực tế là 1 nền kinh tế phát triển ko thể vững chắc đc nến nền kinh tế đó bao gồm việc bán tài nguyên thiên nhiên cho nước ngoài. Điều này có lẽ ko thể trong vài năm mà bỏ đi đc.
 
ố là la, sao vắng vẻ thế nhỉ, bác Phước đâu rồi vào nói chuyện đi chứ
 
ố là la, sao vắng vẻ thế nhỉ, bác Phước đâu rồi vào nói chuyện đi chứ

Xin lỗi Trung, dạo này mình hơi chú tâm vào chủ đề Bắc Triều Tiên, hơn nữa mình đang đọc thêm một cuốn sách về toàn cầu hóa nữa, và xem lại một số kiến thức căn bản của economics để chau dồi thêm kiến thức. Cho nên trong thời gian ngắn này mình chưa có thông tin gì mới để thêm.

Tuy nhiên Trung và những người khác có gợi ý gì, hay câu hỏi gì thì mình xin vui lòng giải đáp và tiếc tục bàn luận.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
@ Trung : nếu thế thì các nước thành viên OPEC mà nền kinh tế quá phụ thuộc vào dầu mỏ sẽ là những nước chết đầu tiên , vd như Saudi Arabia .

Thực ra , theo tôi , việc thiếu năng lượng cũng là một dấu hiệu tốt , tất nhiên , chúng ta ngày nay vẫn phải mua điện của Tàu nhưng thế tức là sức sản xuất đã phát triển rất nhanh , cần phải tiêu thụ thêm nhiều năng lượng , y hệt Trung Quốc hiện nay đó .Mà một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế là " A country' s standard of living depends on its ability to produce goods and services "
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Ai hiểu khái niệm "goverment debt" (~~nợ nhà nước 8-}) là gì ko ạ?
Cả từ "downturn", "OPEX", "CAPEX" nữa ạ?:-/
 
ngoài lề một chút ,phải xin phép anh Phước mấy dòng để giải thích cho Lộc :

nợ nhà nước (goverment debt) thì em có thể đơn giản là vào wikipedia đọc cho nhanh ,nếu ko lại phải đọc các tài liệu chuyên sâu , tiếng anh thôi , chưa có tiêng Việt đâu nhưng mà mình cũng học từ luôn nhỉ .

Đại khái là 1 khoản tiền nào đó mà chính phủ ở mọi cấp , trung ương , hay địa phương (tiểu bang hoặc tỉnh ) 'vay" của người dân thông qua các hình thức như công trái ( goverment bond hay security hoặc là ở Anh thì họ gọi là consols ) nhằm huy động nguồn lực tài chính của toàn dân . Đó là vay của người dân trong nước . Ngoài ra , nhà nước có thể vay trực tiếp từ các ngân hàng , hoặc các tổ chức tài chính siêu quốc gia ( supranational financial institutions ) .Một số người thì lại coi cả những trách nhiệm khác về tài chính của nhà nước (goverment liability ) là thuộc vào phạm trù gov debts , tức là những nguồn tiền sẽ phải được nhà nước trả trong tương lai như lương hưu (pension) hoặc là các hàng hóa dịch vụ mà nhà nước đã kí hợp đồng đặt mua (contract) nhưng chưa trả tiền .

Người ta có thể phân loại gov debts theo thời hạn , ví dụ ngắn hạn (short-term ) là 1-> 2 năm , trung hạn (medium-term ) là khoảng 5 năm , dài hạn là 10 năm trở lên .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên