Quan hệ Việt-Trung

Chuyện này đã được xác nhận trên báo chí VN chỉ có điều chúng ta phản ứng như TQ mới chỉ đánh bắt của chúng ta ít cá chứ không phải là vừa giết 9 người vô tội:

Trong khi đánh cá hợp pháp ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, các ngư dân Việt Nam đã bị tàu nước ngoài nổ súng tấn công, bắn chết 9 người, làm bị thương nhiều người khác và bắt giữ 8 người. Sự việc xảy ra vào ngày 8/1.

Theo xác minh ban đầu, tàu nước ngòai là của Trung Quốc. Thuyền viên Phạm Văn Quân chỉ các vết đạn trên vỏ chiếc tàu thoát nạn trở về và cho biết, 1 người trên tàu của anh bị bắn chết và 5 người khác bị trọng thương. Còn 1 chiếc tàu khác bị tấn công nghiêm trọng hơn, trên tàu có 8 người bị giết hại, 8 người bị bắt (trong đó có 2 người bị thương). Cả người và tàu đều bị phía Trung Quốc chiếm giữ.

Hôm qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: "Chúng tôi coi việc tàu Trung Quốc bắn chết 9 ngư dân Việt Nam và làm bị thương nhiều người khác, gây thiệt hại đến tài sản và ngư cụ của ngư dân Việt Nam là nghiêm trọng.
Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc có các biện pháp tích cực nhằm ngăn chặn và chấm dứt ngay những hành động sai trái trên, cho điều tra và xử lý nghiêm những kẻ bắn chết người"
( www.vnexpress.net)
 
Những lời lẽ trong phát ngôn của BNG VN theo tôi là thiếu sức mạnh và cương quyết cũng như sự quyết liệt. Lời lẽ đúng là rất ngoại giao mặc dù sự việc thực sự cực kì nghiêm trọng. Vô cớ bắn chết 9 người vô tội trong hải phận nước khác là điều hoàn toàn không thể chấp nhận, tôi nghĩ chúng ta phải có những phản ứng mạnh mẽ và cứng rắn hơn nữa. Vẫn biết là có nhiều thứ phức tạp nhưng dù sao thì cũng không thể nhún nhường trước những hành động như vậy. Điều đáng nói hơn nữa là phản ứng của dư luận , báo chí VN cũng là điều đáng xấu hổ.
Lấy ví dụ khi VN thua Indo 3-0, công nhận là đau, báo chí ầm mĩ suốt mấy tháng trời đến bây giờ chưa dứt nhưng so với sự nghiêm trọng của sự kiện trên thì trận thua đó chả đáng gì, báo chí đáng nhẽ phải dưa tin cụ thể, cập nhập và có thái độ rõ ràng hơn nữa. Đằng này chỉ là vài dòng tin ngắn ngủi. Trong thể thao thắng thua và chuyện thường, nhưng những nỗi nhục như vụ Letard hay vụ việc hôm nay mới chính là những thứ làm hỏng hình ảnh của nước ta trên trường TG. Có thể các nước khác đều đang hướng về VN để chờ đợi những phản ứng của chúng ta nhưng đã vài ngày trôi qua vẫn chỉ là một bài báo cỏn con, một bài phát biểu bâng quơ...
 
Bác này, em bảo thật nói thì dễ lắm. Bị thế ai mà chả bực, bác ngồi bực thì đến hết ngày. Vừa rồi ở Iraq bọn NB nó chỉ có mấy công dân bị bắt cóc thôi mà cả nước phát sốt lên. Tức thật đấy, căm thật đấy nhưng trong trò chơi chính trị thì chỉ đến thế là cùng thôi.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thì thế anh mới bảo là vẫn biết có nhiều phức tạp nhưng dù sao thấy dân mình bị ức hiếp thế cũng ức :(. Bảo sang lãnh thổ của nó đánh cá hay sao đó bị nó bắn như bọn Hàn với Triều Tiên vẫn bắn nhau đấy thì không sao đằng này rõ ràng đang ở trong nhà mình bị chúng nó sộc vào tận nơi làm thịt mới đau.
 
fakten.jpg

Đây là hình ảnh của Thác Bản Giốc ở Cao Bằng mà một số bạn đã nói tới .
Thác Bản Giốc được xem là một trong những tặng vật vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho Cao Bằng. Đó là một thác nước cao, hùng vĩ và đẹp vào bậc nhất của Việt Nam. Thác Bản Giốc nằm trên biên giới Việt – Trung, thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, cách thị xã Cao Bằng 89km theo tỉnh lộ 206 về phía Bắc, cách thị trấn Trùng Khánh 26km. Sau dòng thác là dòng sông bạn có thể đi du thuyền trên sông, Bờ sông với cảnh quan đẹp nên thơ, trong lành với thảm cỏ, rừng núi xanh ngắt, mây trắng bồng bềnh. Bên kia sông là nước láng giềng Trung Quốc. Với độ cao 53m, rộng 300m, thác có 3 tầng gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xóa. Ngay từ xa, du khách đã có thể nghe thấy tiếng ầm ào của thác vang động cả một vùng rộng lớn. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy cây đã xẻ dòng sông thành ba luồng nước như ba dải lụa trắng. Vào những ngày hè nắng nóng, không khí ở đây vẫn mát lạnh, mỗi buổi sáng khi ánh mặt trời chiếu qua làn hơi nước tạo thành dải cầu vồng lung linh huyền ảo. Thác Bản Giốc với những vẻ đẹp, ưu thế riêng đang ngày càng thu hút nhiều khách tham quan trong và ngoài nước.
--------------------------------------------------------------------------
Về thác Bản Giốc ở tỉnh Cao Bằng và khu vực Hữu Nghị Quan ở tỉnh Lạng Sơn thì sự thực như sau:

Hai khu vực này thuộc các khu vực phức tạp, nhạy cảm nhất trong quan hệ biên giới giữa hai nước. Trên thực tế, tại hai khu vực này đã từng xẩy ra tranh chấp phức tạp và kéo dài trong nhiều năm. Các văn bản pháp lý về hoạch định và phân giới cắm mốc giữa chính quyền Pháp và Nhà Thanh cũng có những điểm quy định không rõ ràng. Đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn (1/100.000), địa hình ở khu vực Hữu Nghị Quan được vẽ tổng hợp, không phù hợp với địa hình tự nhiên trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới. Những hạn chế về cơ sở pháp lý và điều kiện tự nhiên đó đã dẫn đến hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở hai khu vực này.

Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các cơ sở và yếu tố có liên quan, hai bên đã thống nhất giải quyết hai khu vực nêu trên như sau:

a. Khu vực thác Bản Giốc là một trong số các khu vực đường biên giới đi theo sông, suối. Do đó, cũng như ở các khu vực sông, suối khác đường biên giới ở khu vực này được giải quyết theo tập quán quốc tế là theo trung tuyến dòng chảy chính; việc xác định trung tuyến dòng chảy chính ở thác Bản Giốc sẽ do hai bên cùng đo đạc xác định trong quá trình phân giới, cắm mốc và dòng chảy chính vẫn ở trên thác. Như vậy, hoàn toàn không có việc ta mất thác Bản Giốc mà chỉ là việc xác định hướng đi của đường biên giới phù hợp với nguyên tắc xác định hướng đi của đường biên giới trên sông, suối đã được hai bên thỏa thuận, phù hợp với tập quán quốc tế.

b. Khu vực Hữu Nghị Quan có liên quan đến đoạn biên giới đi qua đường bộ nối liền hai nước và đi qua tuyến đường sắt. Đối với đoạn đường bộ thì Biên bản hoạch định Pháp - Thanh năm 1886 quy định rằng đường biên giới "nằm ở phía Nam Ải Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng". Khi phân giới, hai bên đã cắm mốc số 18 để xác định đường biên giới và vị trí của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đông Đăng (mốc này đã bị mất); còn trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1894 thì địa danh Nam Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như vậy, đường biên giới luôn luôn ở phía Nam của Nam Quan, chứ không phải đi qua địa danh đó. Đối với đoạn đường sắt, phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới đi qua điểm nối ray, nhưng qua đàm phán hai bên đã đi đến giải pháp là đường biên giới nằm ở phía Bắc điểm nối ray 148 m, chứ không phải ở điểm nối ray như ý kiến của Trung Quốc.

-----------------------------------------------------------------------
Theo tôi được biết thì Chiến tranh Trung-Việt năm 79 có mấy nguyên nhân sau :
1- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN.
2- VN chiếm đóng Cam Bốt.
3- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ.
4- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ.
vn-langsontc4.jpg

vn-langsontc2.jpg

Mối quan hệ giữa Trung cộng và Việt Nam bắt đầu xấu đi vào giữa những năm 1970 ,khi việt nam gia nhập vào liên minh xô viết hùng mạnh nhằm đẩy mạnh việc hợp tác kinh tế ,sau đó là việc VN ký hiệp ước về hợp tác và ban giao với Liên Bang XÔ Viết vào năm 1978 .Trung Quốc đã ngay lập tức gán cho VN là 1 cu ba phía Đông và gọi việc này là một minh ước về liên minh quân sự .Mối quan hệ đó ngày càng trở nên tồi tệ ,khi 12/1978 ,Việt Nam đã tấn công và giải phóng campuchia khỏi chế độ Pol Pot tàn ác thân Trung Quốc .
Việc tấn công bất ngờ 29 ngày vào Miền Bắc VN vào 2/1979 là 1 kế hoạch mà Trung Quốc xem là 1 hành động trừng phạt ,phản ứng và thể hiện chính sách đối với Chính quyền Hà nội bởi vì sự thân thiết của Việt Nam với Liên bang Xô viết và đối với việc ngược đãi cộng đồng người Hoa đang sinh sống trong VN ,nó cũng thể hiện giấc mộng bá quyền của đế quốc phía Đông bắc châu á ,và là 1 nỗ lực của chính quyền Bắc Kinh nhằm xác nhập Việt Nam vào bản đồ Trung Hoa .
2/1979 ,Trung quốc tấn công bất ngờ dọc theo biên giới VN .Chiến dịch được giới hạn bởi sự tham gia của các sư đoàn bộ binh .Những đơn vị tiên phong của Trung cộng đã vượt qua biên giới vào buổi sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979 .Toàn bộ các sư đoàn Trung cộng sử dụng là Bộ Binh ,thiết giáp và pháo binh .Sức mạnh của không quân Trung cộng đã không xuất hiện trong xuốt cuộc chiến tranh .Chỉ trong 1 ngày ,quân đội giải phóng nhân dân TQ (Chinese People's Liberation Army-PLA) đã thọc sâu được khoảng 8 km vào đất VN dọc theo giới tuyến phân chia .Và sau đó đã tiến rất chậm và gần như bị kiềm hãm do có sự chống trả quyết liệt của binh lính VN và sự khó khăn trong sự hỗ trợ chuyển vận .21/2 tiếp tục tấn công Cao bằng 1 tỉnh miền cao phía Bắc ,và tấn công các trung tâm VH quan trọng của tỉnh lạnh sơn .Các đơn vị TQ đã xâm nhập vào Cao Bang 27/2 ,nhưng thành phố ko bị kiểm xoát hoàn toàn tới 2/3 .Lang Son cũng thất thủ 2 ngày sau đó ,5/3 Người Trung Quốc nói rằng Việt Nam đã bị trừng trị đích đáng và tuyến bố chiến dịch kết thúc .Bắc Kinh đã tuyên bố nhiệm vụ dạy bảo vn của chiến dịch đã cơ bản hoàn thành ,và quân đội nhân dân TH sẽ triệt thoái hoàn toàn vào 16/3 .
Còn phía Hà nội thì mô tả về sự kết thúc của cuộc tấn công bất ngờ này là Bắc Kinh đã bắt buộc phải rút lui nếu muốn tránh 1 sự thất bại toàn diện của quân đội mình .Hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng TH sẽ tiếp tục mở nhiều cuộc chiến tranh khác với Việt Nam trong tương lai gần .Gerald Segal trong cuốn sách được xuất bản của mình năm 1981 tựa :"Defending China." đã ngụ ý rằng cuộc chiến tranh biên giới mà TH gây ra với VN là 1 thất bại hoàn toàn của phía TH :"Các lực lượng TQ đã thất bại trước các lực lượng VN vừa được rút từ Campodia ,thất bại trong tranh chấp biên giới ,thất bại khi cố làm suy yếu liên minh Xô Viết ,thất bại khi cố vẽ ra 1 hình tượng mãnh hổ TH hùng mạnh ,và thất bại cả trong việc liên minh với Mỹ để chống lại liên MInh Xô viết ."
Tuy thế ,Bruce Elleman lai cho rằng :" Một thắng lợi chính yếu về ngoại giao sau cuộc tấn công của người Trung Quốc là đã nhận ra rằng sự hỗ trợ về mặt quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là không có thật ." Xét trên phương diện này thì ,chính sách của Bắc Kinh hầu như thành công trên mặt trận ngoại giao ,kể từ khi ấy Matxcova hầu như không có hành động can thiệp gì vào xích mích này ,điều đó cũng cho thấy mặt hạn chế về thực tiễn của hiệp ước Xô -Việt ..Trung Quốc đã dành được chiến thắng chiến lược là giảm đến mức thấp nhất khả năng có thể có trong tương lai là phải cùng lúc đối mặt với USSR và VN .
Sau cuộc chiến ,cả Trung quốc và Việt Nam đều tổ chức lại việc phòng thủ biên giới .Trong năm 1986 ,Trung Hoa đã triển khai từ 25 đến 28 sư đoàn ,phía Việt Nam là 32 Sư đoàn dọc theo đường biên giới đang phân tranh giữa 2 nước .
Cuộc tấn công năm 1979 còn chứng tỏ ,Trung Hoa đối với sự nhận định của Hà Nội là một hiểm hoạ .Các tướng lãnh cao cấp của quân đội nhân dân VN đã nhận ra rằng từ nay phải chuẩn bị một kế hoạch chu đáo nhằm ứng phó với việc Quân Trung cộng có thể tấn công trở lại và không chỉ dừng chân tại vùng cao nguyên và trung du mà còn có thể tiến thẳng vào Hà Nội .Chiến tranh biên giới đã thắt chặt thêm mới quan hệ hữu nghị giữa Xô Viết và Việt Nam .Vai trò quân sự của Liên Xô tại việt nam tăng liên tục trong suốt những năm 1980 bằng việc Liên Xô cung cấp trang thiết bị quân sự cho Việt Nam ,thêm vào đó là việc các tàu chiến của liên Xô xuất hiện tại các cầu cảng tại Đà Nẵng và Vịnh Cam ranh.Máy bay Trinh sát của liên xô xuất hiện trên khắp vùng trời VN .Người Việt Nam đã đối đầu với chiến dịch gây hấn của người TQ bằng việc tổ chức các tỉnh và huyện đọc đường biên giới thành :"1 rừng sắt ." là những lực lượng quân sự tinh nhuệ ,được huấn luyện và trang bị tốt ,với nhiều binh chủng ,tăng cường thêm lực lượng bán quân sự tại chỗ .Trong đó ,ước đoán khoảng 600 000 ngàn quân đã được động viên nhằm chống lại các sư đoàn phía Trung Quốc và sẵn sàng cho việc ứng phó một cách chủ động mọi sự khiêu khích và xâm chiếm khác từ Trung Hoa .Thật khó để xác định 1 cách chính xác giới hạn của tiềm lực quân sự của Việt Nam ,nhưng nó(sự tăng cường quân bị) là cái giá mà chính phủ Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được .
Vào năm 1987 ,Trung quốc đóng 9 quân đoàn xấp xỉ 400 000 quân dọc theo biên giới Sino-Vietnamese ,bao gồm 1 phần đường bờ biển .Họ còn tăng cường thêm các hạm đội và thực hiện nhiều cuộc tập trận hỗn hợp với sự tham gia của nhiều binh chủng giả định cho cuộc đổ bộ xuống đảo Hải Nam ,nơi Quân đội việt nam có thể vượt qua đầu tiên .Tất cả những chuẩn bị này đều nhằm 1 mục đích là đối phó với 1 cuộc chiến tranh trên biển có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
Trong khi đó thì sự gây hấn có cường độ thấp vẫn tiếp tục diễn ra từ hai phía biên giới ,mỗi bên đều bố trí nhiều trọng pháo và liên tục nã thăm dò vào các vị trí phòng thủ của đối phương trên núi dọc biên giới .Xung đột biên giới tiếp tục tăng với cường độ mạnh suốt trong mùa mưa .Khi Bắc kinh cố gắng làm giảm sức ép các cuộc tấn công của quân đội việt nam vào các ổ đề kháng của những tay súng Campuchia .
Rất sớm vào những năm 1980 ,Trung Hoa đã theo đuổi cái mà những nhà quan sát quân sự mô tả là 1 chiến dịch bí mật chống lại Việt Nam ,với 1 chuỗi các cuộc khiêu khích có hệ thống dọc biên giới và ít nhất là 1 cuộc chiến tranh thăm dò quy mô nhỏ có giới hạn .Người Việt nam gọi đó là :"Cuộc chiến tranh liên hoàn nhằm phá hoại ngầm(multifaceted war of sabotage) ." Người VN mô tả những cuộc tấn công này là sự quấy nhiều 1 cách đều đặn của đạn pháo ,sự xâm nhập của các đơn vị tuần tra bộ binh ,sự xâm nhập của hải quân và mìn thì được cài đặt khắp nơi dọc biên giới cả trên biển lẫn trên đường sông .Một phần trong kế hoạch của Bắc kinh là kích động các thành phần thiểu số đang sinh sống đọc các vùng núi biên giới đang bất mãn với sự đối xử của HN ,những đội thám báo TQ từ các dãy núi đã thâm nhập vào các trung tâm kinh tế VN thu thập 1 cách có hiệu quả các tin tức về cảng biển ,vận chuyển hàng hoá ,thông tin liên lạc ..Chiến tranh tâm lý cũng là 1 phần chủ chốt trong chiến địch ,cái mà người VN gọi là :"chiến tranh kinh tế ."

--------------------------------------------------------------------------
Các tranh chấp lãnh thổ

Tranh chấp lãnh thổ tập trung vào ba điểm lớn: biên giới trên bộ, vịnh Bắc Bộ, và biển Đông (gồm vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa).

Để giải quyết tranh chấp, Việt Nam và Trung Quốc đã thúc đẩy một cơ chế thảo luận: cấp chuyên viên; cấp chính phủ (tầm mức thứ trưởng, ngoại trưởng) và cấp cao (tầm mức tổng bí thư, chủ tịch và thủ tướng).

Các cuộc họp cấp chuyên viên bắt đầu từ tháng 10-1992 và cho đến cuối năm 1995 chủ yếu bàn vấn đề biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Cuộc họp cấp chính phủ bắt đầu vào tháng Tám 1993 và vòng đàm phán thứ mười diễn ra tháng Giêng 2004. Thành tựu đầu tiên là việc ký một thỏa thuận ngày 19-10-1993 về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Các đàm phán dẫn đến việc ký một hiệp định về biên giới trên bộ ngày 30-12-1999 phản ánh mức độ tiến bộ trong đàm phán vấn đề đất liền. Hiệp định này được thông qua năm 2000.

Theo ghi nhận của GS. Ramses Amer, vào tháng Tám 2002, Việt Nam công bố văn bản hiệp định mặc dù việc công bố không kèm theo bản đồ. Đến tháng Chín, thứ trưởng ngoại giao Lê Công Phụng cung cấp thêm thông tin về hiệp định.

Ông nói về các cơ chế và nguyên tắc dùng trong việc giải quyết các khu vực tranh chấp dọc biên giới. Các khu vực tranh chấp chính – được nhắc đến dưới tên ‘khu vực C’ – bao gồm 164 khu vực bao quát 227 cây số vuông. Trong số này, khoảng 113 cây số vuông được xác định là thuộc về Việt Nam và khoảng 114 cây số vuông là thuộc về Trung Quốc.
Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam nói kết quả đàm phán phù hợp với các nguyên tắc đặt ra để bảo đảm sự công bằng và hài lòng cho cả hai bên.

Đường biên trên vịnh Bắc Bộ

Năm 2000, các thương lượng về vịnh Bắc Bộ được tăng tốc nhằm đạt một thỏa thuận trong năm đó - một điều cuối cùng xảy ra với việc ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25-12-2000.

Cho đến ngày 20-6 năm nay, hai nước mới chính thức trao đổi thư phê chuẩn Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ để Hiệp định bắt đầu có hiệu lực.

Thông tin chính thức cho hay Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích vịnh và Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích vịnh.

Bên cạnh hiệp định này, Việt Nam và Trung Quốc còn ký Hiệp định về hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ.

Khác với Hiệp định phân định vịnh, Hiệp định hợp tác nghề cá có thời hạn hiệu lực cụ thể (12 năm và 3 năm mặc nhiên gia hạn) và giá trị pháp lý ở mức cấp chính phủ phê duyệt.

Sóng biển Đông

Các cuộc hội đàm về vấn đề biển Đông bắt đầu muộn hơn so với các hội đàm về biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Có vẻ như càng về cuối thập niên 1990, hai phía Việt Nam và Trung Quốc càng tỏ ra kiềm chế để tránh hành động có thể dẫn đến căng thẳng.

Các diễn biến thời gian này cho thấy hai nước đã dần dần đồng ý về một kế hoạch giải quyết xung đột có thể thực thi tại biển Đông.

Tuy nhiên, những động thái của các bên trong năm 2004 cho thấy chừng nào các bên vẫn tuyên bố chủ quyền đầy đủ tại Trường Sa và Hoàng Sa, thì vẫn chưa thể tìm ra giải pháp cho tranh chấp ở đây.

Buôn lậu xuyên biên giới
Ngoài tranh chấp lãnh thổ, buôn lậu hàng Trung Quốc vào Việt Nam là vấn đề duy nhất mà hai nước chính thức thừa nhận là một vấn đề mà hai quốc gia cần giải quyết.

Mặc dù hợp tác kinh tế song phương mở rộng, nhưng buôn lậu một lần nữa trở thành quan ngại chính trong năm 1997. Điều này thể hiện qua cuộc hội đàm cấp cao tháng Bảy 1997 và liên quan chuyến thăm của phó thủ tướng đặc trách kinh tế của Trung Quốc tháng 10 năm đó.

Các nỗ lực này dẫn đến một thỏa thuận chính thức về biên mậu song phương ký ngày 19-10-1998.

Các biện pháp khác nhằm thúc đẩy thương mại cũng tiếp tục trong suốt cuối thập niên 1990 và đầu thế kỷ 21. Có thể xem chúng góp phần cho sự tăng trưởng quan hệ kinh tế giữa hai nước trong thời gian qua.

Cộng đồng người Hoa
Theo GS. Ramses Amer, vấn đề người Hoa không liên quan cộng đồng người Hoa ở Việt Nam mà liên quan số phận những người đã rời Việt Nam để sang Trung Quốc cuối thập niên 1970.

Ít nhất cho tới giữa thập niên 1990, Trung Quốc còn duy trì yêu cầu đưa những người này quay về Việt Nam, còn Việt Nam thì kiên quyết phản đối điều này.

Quan điểm của Việt Nam dựa trên cân nhắc kinh tế, ví dụ như Việt Nam không thể đón nhận một số lượng người lớn như vậy, mà ước tính là 280.000 vào giữa thập niên 1990.

Việt Nam cũng nói số người này đã định cư và hòa nhập xã hội Trung Quốc và vì thế việc hồi hương sẽ làm xáo trộn cuộc sống của họ.

GS. Ramses Amer nói Việt Nam cũng có các quan ngại an ninh khi số người Hoa này đã sống dưới ảnh hưởng của Trung Quốc kể từ cuối thập niên 1970.

Theo GS. Ramses Amer, vấn đề này vẫn là một nguồn căng thẳng tiềm tàng.

Tổng kết lại, chính sách ngoại giao và cái nhìn của người Việt về Trung Quốc đặt cơ sở từ hai ngàn năm quan hệ lịch sử với người láng giềng phương Bắc.

Sử gia Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt sử ký toàn thư, có viết: “Nam - Bắc mạnh yếu đều có từng lúc. Đương khi phương Bắc yếu thì ta mạnh, phương Bắc mạnh thì ta cũng thành yếu. Thế lớn trong thiên hạ là như vậy.”

Đó là thế quan hệ nặng về song phương trong suốt nhiều thế kỷ, khi mà đế chế Trung Hoa là đại cường duy nhất và áp đảo tại Đông Á và trong thế giới chính trị Việt Nam tham gia.

Quan hệ này chỉ tan vỡ khi có sự xuất hiện của các cường quốc Phương Tây tại châu Á.

Nhưng nay, khi nhìn lại giai đoạn 80-90, có thể thấy nét 'song phương' phần nào trở lại sau khi đồng minh lớn nhất của Việt Nam là Liên Xô suy yếu rồi sụp đổ.

Có thể gọi quan hệ Việt–Trung cũng là một nghệ thuật uyển chuyển của các cuộc đối đầu và đối thoại, mà trong hoàn cảnh hiện nay, sự hợp tác với Trung Quốc được bổ túc bằng việc đa phương hóa quan hệ với những định chế và các quốc gia khác.

-----------------------------------------------------------------------

Trên đây là những điều tui lấy trong khu "mật "của tui . Nếu có sai thì cũng hẳn nhiên vì phần lớn đều là ý kiến cá nhân và một số bài dịch nên chưa chắc đã sát nghĩa (tui dốt Ngoại ngữ ) .Mong mọi người đọc và chỉ rõ .
Nói đến Tung Của tôi có khá nhiều điều để nói nhưng nhìn chung tôi ko thích anh bạn này . Hy vọng sẽ được cùng chia sẻ nhiều thông tin .
Nếu bạn nào thích vụ án Thiên An Môn thì tôi có một số Tư liệu hay .
 
http://www.thanhnien.com.vn/TinTuc/XaHoi/2005/1/11/39550/
http://www.thanhnien.com.vn/TinTuc/XaHoi/2005/1/14/39750/
http://www.mofa.gov.vn/cs_doingoai/pbld/ns0408181426011
http://english.sohu.com/20041228/n223675229.shtml

"Q: The Vietnamese Press recently reported that the Vietnamese side urged China to cancel its oil exploration program in the South China Sea. Has the Chinese side made any explanation to the Vietnamese side over this issue?
A: As for your first question, I'd like to make a clarification. The platform of "Kantan 3", China's oil rig, operates on the Chinese side of waters in the mouth of the Beibu Gulf. This is a normal exploration activity. To ensure the security of vessels' passage, China's maritime authorities sent out voyage warning in advance in accordance with international norms. Vietnam's accusation based on its unilateral claim is groundless, unacceptable to China. We are ready to keep dialogues and communication with the Vietnamese side over this issue."
http://www.fmprc.gov.cn/eng/xwfw/s2510/t171674.htm

:|
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Chú Khoa lần sau post bài chú ý dịch ra TV, hoặc ko nên post vào E-HAO nhé, ở đây có những người ko học TA ;). Lần sau post kiểu này trừ điểm chất lượng ráng chịu à nha [-(.

* ngoài lề tẹo: cuối tuần sau xuống chỗ chị chơi hả, mấy giờ nhó fone để chị ra đón ;), số nè: 860-386-4723.
 
FM confirms Vietnamese bandits try to rob Chinese fishing boats
www.chinaview.cn 2005-01-15 13:56:20

BEIJING, Jan. 15 (Xinhuanet) -- Chinese maritime police shot dead several armed robbers and captured eight others who were trying torob Chinese fishing boats operating on Jan. 8 at the Chinese side of the Beibu Gulf, the Foreign Ministry said Saturday.

According to Foreign Ministry spokesman Kong Quan, on the morning of Jan. 8, several Chinese fishing boats from Hainan Province were operating on the Chinese side of the Beibu Gulf, andthree unidentified armed vessels came trying to rob and firing at the Chinese boats.

Chinese maritime police rushed to the spot for rescue immediately after receiving report from the fishermen. The three armed vessels opened fire at the police boats and injured Chinese law enforcement personnel, Kong said.

The Chinese maritime police were forced to take necessary actions. They shot dead several armed robbers, seized one of the armed vessels and eight robbers along with their weapons and ammunition and tools, he said.

Calling it a "serious armed robbery case at sea," Kong said therobbers had confessed they were Vietnamese, and had committed fourarmed robberies of Chinese fishing boats in the Beibu Gulf before.

The Chinese side has informed the Vietnamese side of the issue in detail in accordance with the Sino-Vietnamese consulate treaty,Kong said. "The Chinese has abundant and irrefutable human testimony and material evidence, and will handle the case according to Chinese law."

The spokesman said since the agreements on demarcation and fishery cooperation in the Beibu Gulf between China and Vietnam took effect last June, the overall situation there is stable. However, the armed robberies of Chinese fishing boats have posed serious threat to the life and property safety of Chinese and Vietnamese fishermen.

China is willing to cooperate closely with Vietnam so that the two countries can take effective measures to combat maritime crimes and safeguard security and stability in the Beibu Gulf, he said.

http://news.xinhuanet.com/english/2005-01/15/content_2463613.htm

Tóm tắt nội dung bằng tiếng Việt (để không EM Bảo Thư lại trừ điểm chất lượng 8-} ;) ) Phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao TQ tuyên bố rằng những đối tượng mà tuần duyên TQ bắn chết cũng như bị bắt giữ là hải tặc Việt Nam. Do đó lực lượng tuần duyên TQ có quyền tấn công cũng như truy tố những người này. Hết.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Oái, em nhầm người bác Khoa ui, em cứ tưởng bài của bác là của em Đỗ Bá Khoa :(, hic, chả hiểu sao muh dạo này em cứ nhầm lẫn identity của mọi người loạn cả lên 8-}, em thành thật xin lỗi bác :(.
 
Bạn Tùng thân mến, ảnh quân TQ kéo qua ải Nam Quan là ảnh ghép. Không có chuyện dân đứng vấy chào và xe TQ đi ngênh ngang như thế đâu.
 
Cuối cùng có người nói với tớ về mấy cái ảnh vớ vỉn ấy . Chờ mãi .
Bọn quân Tàu theo lời kể thì toàn một rặt mặt áo trắng ( Tử tù ) bị cho lên trước , chúng hung hãn lắm .
Tớ ko tin mấy thằng cầm cờ đâu nhưng tớ tin mấy cái thằng mặc áo trắng . Bác nào có tài liệu thêm về đội quân Áo trắng này cho anh em xem với .
 
Cũng không phải ảnh nào cũng là vớ vỉn cả. Mấy ảnh tù binh VN cũng thế, có cái là thật, có cái là giả mạo.
Chuyện Áo trắng trừ khi cậu nghe chính nhân chứng kể, còn tớ cho rằng chỉ là thêu dệt.

b. Khu vực Hữu Nghị Quan có liên quan đến đoạn biên giới đi qua đường bộ nối liền hai nước và đi qua tuyến đường sắt. Đối với đoạn đường bộ thì Biên bản hoạch định Pháp - Thanh năm 1886 quy định rằng đường biên giới "nằm ở phía Nam Ải Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng". Khi phân giới, hai bên đã cắm mốc số 18 để xác định đường biên giới và vị trí của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đông Đăng (mốc này đã bị mất); còn trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1894 thì địa danh Nam Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như vậy, đường biên giới luôn luôn ở phía Nam của Nam Quan, chứ không phải đi qua địa danh đó. Đối với đoạn đường sắt, phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới đi qua điểm nối ray, nhưng qua đàm phán hai bên đã đi đến giải pháp là đường biên giới nằm ở phía Bắc điểm nối ray 148 m, chứ không phải ở điểm nối ray như ý kiến của Trung Quốc.

Nói thêm về chuyện này, có 1 kí sự (xuất bản năm 1979), trong đó tác giả mô tả rất rõ là đứng ở đồn BP của VN, và nhìn sang cổng thành Nam Quan ở bên kia biên giới. Do đó chuyện đường biên giới nằm phía nam ải Nam Quan là chính xác.
Tuy nhiên, đường biên giới thực sự nằm phía bắc điểm nối ray 326 mét. Nói cách khác, VN bị mất 178 mét.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
em thấy cái của đấy như ở Bằng Tường, gần Hữu Nghị quan ấy, các bác ạ.
 
Ải Nam QUan không ở Bằng Tường, Hữu Nghị Quan thì ở đâu hả chú.
 
Nguyễn Thanh Tùng đã viết:
-----------------------------------------------------------------------
Theo tôi được biết thì Chiến tranh Trung-Việt năm 79 có mấy nguyên nhân sau :
1- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN.
2- VN chiếm đóng Cam Bốt.
3- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ.
4- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ.
vn-langsontc4.jpg

vn-langsontc2.jpg

Mối quan hệ giữa Trung cộng và Việt Nam bắt đầu xấu đi vào giữa những năm 1970 ,khi việt nam gia nhập vào liên minh xô viết hùng mạnh nhằm đẩy mạnh việc hợp tác kinh tế ,sau đó là việc VN ký hiệp ước về hợp tác và ban giao với Liên Bang XÔ Viết vào năm 1978 .Trung Quốc đã ngay lập tức gán cho VN là 1 cu ba phía Đông và gọi việc này là một minh ước về liên minh quân sự .Mối quan hệ đó ngày càng trở nên tồi tệ ,khi 12/1978 ,Việt Nam đã tấn công và giải phóng campuchia khỏi chế độ Pol Pot tàn ác thân Trung Quốc .
Việc tấn công bất ngờ 29 ngày vào Miền Bắc VN vào 2/1979 là 1 kế hoạch mà Trung Quốc xem là 1 hành động trừng phạt ,phản ứng và thể hiện chính sách đối với Chính quyền Hà nội bởi vì sự thân thiết của Việt Nam với Liên bang Xô viết và đối với việc ngược đãi cộng đồng người Hoa đang sinh sống trong VN ,nó cũng thể hiện giấc mộng bá quyền của đế quốc phía Đông bắc châu á ,và là 1 nỗ lực của chính quyền Bắc Kinh nhằm xác nhập Việt Nam vào bản đồ Trung Hoa .
2/1979 ,Trung quốc tấn công bất ngờ dọc theo biên giới VN .Chiến dịch được giới hạn bởi sự tham gia của các sư đoàn bộ binh .Những đơn vị tiên phong của Trung cộng đã vượt qua biên giới vào buổi sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979 .Toàn bộ các sư đoàn Trung cộng sử dụng là Bộ Binh ,thiết giáp và pháo binh .Sức mạnh của không quân Trung cộng đã không xuất hiện trong xuốt cuộc chiến tranh .Chỉ trong 1 ngày ,quân đội giải phóng nhân dân TQ (Chinese People's Liberation Army-PLA) đã thọc sâu được khoảng 8 km vào đất VN dọc theo giới tuyến phân chia .Và sau đó đã tiến rất chậm và gần như bị kiềm hãm do có sự chống trả quyết liệt của binh lính VN và sự khó khăn trong sự hỗ trợ chuyển vận .21/2 tiếp tục tấn công Cao bằng 1 tỉnh miền cao phía Bắc ,và tấn công các trung tâm VH quan trọng của tỉnh lạnh sơn .Các đơn vị TQ đã xâm nhập vào Cao Bang 27/2 ,nhưng thành phố ko bị kiểm xoát hoàn toàn tới 2/3 .Lang Son cũng thất thủ 2 ngày sau đó ,5/3 Người Trung Quốc nói rằng Việt Nam đã bị trừng trị đích đáng và tuyến bố chiến dịch kết thúc .Bắc Kinh đã tuyên bố nhiệm vụ dạy bảo vn của chiến dịch đã cơ bản hoàn thành ,và quân đội nhân dân TH sẽ triệt thoái hoàn toàn vào 16/3 .
Còn phía Hà nội thì mô tả về sự kết thúc của cuộc tấn công bất ngờ này là Bắc Kinh đã bắt buộc phải rút lui nếu muốn tránh 1 sự thất bại toàn diện của quân đội mình .Hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng TH sẽ tiếp tục mở nhiều cuộc chiến tranh khác với Việt Nam trong tương lai gần .Gerald Segal trong cuốn sách được xuất bản của mình năm 1981 tựa :"Defending China." đã ngụ ý rằng cuộc chiến tranh biên giới mà TH gây ra với VN là 1 thất bại hoàn toàn của phía TH :"Các lực lượng TQ đã thất bại trước các lực lượng VN vừa được rút từ Campodia ,thất bại trong tranh chấp biên giới ,thất bại khi cố làm suy yếu liên minh Xô Viết ,thất bại khi cố vẽ ra 1 hình tượng mãnh hổ TH hùng mạnh ,và thất bại cả trong việc liên minh với Mỹ để chống lại liên MInh Xô viết ."
Tuy thế ,Bruce Elleman lai cho rằng :" Một thắng lợi chính yếu về ngoại giao sau cuộc tấn công của người Trung Quốc là đã nhận ra rằng sự hỗ trợ về mặt quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là không có thật ." Xét trên phương diện này thì ,chính sách của Bắc Kinh hầu như thành công trên mặt trận ngoại giao ,kể từ khi ấy Matxcova hầu như không có hành động can thiệp gì vào xích mích này ,điều đó cũng cho thấy mặt hạn chế về thực tiễn của hiệp ước Xô -Việt ..Trung Quốc đã dành được chiến thắng chiến lược là giảm đến mức thấp nhất khả năng có thể có trong tương lai là phải cùng lúc đối mặt với USSR và VN .
Sau cuộc chiến ,cả Trung quốc và Việt Nam đều tổ chức lại việc phòng thủ biên giới .Trong năm 1986 ,Trung Hoa đã triển khai từ 25 đến 28 sư đoàn ,phía Việt Nam là 32 Sư đoàn dọc theo đường biên giới đang phân tranh giữa 2 nước .
Cuộc tấn công năm 1979 còn chứng tỏ ,Trung Hoa đối với sự nhận định của Hà Nội là một hiểm hoạ .Các tướng lãnh cao cấp của quân đội nhân dân VN đã nhận ra rằng từ nay phải chuẩn bị một kế hoạch chu đáo nhằm ứng phó với việc Quân Trung cộng có thể tấn công trở lại và không chỉ dừng chân tại vùng cao nguyên và trung du mà còn có thể tiến thẳng vào Hà Nội .Chiến tranh biên giới đã thắt chặt thêm mới quan hệ hữu nghị giữa Xô Viết và Việt Nam .Vai trò quân sự của Liên Xô tại việt nam tăng liên tục trong suốt những năm 1980 bằng việc Liên Xô cung cấp trang thiết bị quân sự cho Việt Nam ,thêm vào đó là việc các tàu chiến của liên Xô xuất hiện tại các cầu cảng tại Đà Nẵng và Vịnh Cam ranh.Máy bay Trinh sát của liên xô xuất hiện trên khắp vùng trời VN .Người Việt Nam đã đối đầu với chiến dịch gây hấn của người TQ bằng việc tổ chức các tỉnh và huyện đọc đường biên giới thành :"1 rừng sắt ." là những lực lượng quân sự tinh nhuệ ,được huấn luyện và trang bị tốt ,với nhiều binh chủng ,tăng cường thêm lực lượng bán quân sự tại chỗ .Trong đó ,ước đoán khoảng 600 000 ngàn quân đã được động viên nhằm chống lại các sư đoàn phía Trung Quốc và sẵn sàng cho việc ứng phó một cách chủ động mọi sự khiêu khích và xâm chiếm khác từ Trung Hoa .Thật khó để xác định 1 cách chính xác giới hạn của tiềm lực quân sự của Việt Nam ,nhưng nó(sự tăng cường quân bị) là cái giá mà chính phủ Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được .
Vào năm 1987 ,Trung quốc đóng 9 quân đoàn xấp xỉ 400 000 quân dọc theo biên giới Sino-Vietnamese ,bao gồm 1 phần đường bờ biển .Họ còn tăng cường thêm các hạm đội và thực hiện nhiều cuộc tập trận hỗn hợp với sự tham gia của nhiều binh chủng giả định cho cuộc đổ bộ xuống đảo Hải Nam ,nơi Quân đội việt nam có thể vượt qua đầu tiên .Tất cả những chuẩn bị này đều nhằm 1 mục đích là đối phó với 1 cuộc chiến tranh trên biển có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
Trong khi đó thì sự gây hấn có cường độ thấp vẫn tiếp tục diễn ra từ hai phía biên giới ,mỗi bên đều bố trí nhiều trọng pháo và liên tục nã thăm dò vào các vị trí phòng thủ của đối phương trên núi dọc biên giới .Xung đột biên giới tiếp tục tăng với cường độ mạnh suốt trong mùa mưa .Khi Bắc kinh cố gắng làm giảm sức ép các cuộc tấn công của quân đội việt nam vào các ổ đề kháng của những tay súng Campuchia .
Rất sớm vào những năm 1980 ,Trung Hoa đã theo đuổi cái mà những nhà quan sát quân sự mô tả là 1 chiến dịch bí mật chống lại Việt Nam ,với 1 chuỗi các cuộc khiêu khích có hệ thống dọc biên giới và ít nhất là 1 cuộc chiến tranh thăm dò quy mô nhỏ có giới hạn .Người Việt nam gọi đó là :"Cuộc chiến tranh liên hoàn nhằm phá hoại ngầm(multifaceted war of sabotage) ." Người VN mô tả những cuộc tấn công này là sự quấy nhiều 1 cách đều đặn của đạn pháo ,sự xâm nhập của các đơn vị tuần tra bộ binh ,sự xâm nhập của hải quân và mìn thì được cài đặt khắp nơi dọc biên giới cả trên biển lẫn trên đường sông .Một phần trong kế hoạch của Bắc kinh là kích động các thành phần thiểu số đang sinh sống đọc các vùng núi biên giới đang bất mãn với sự đối xử của HN ,những đội thám báo TQ từ các dãy núi đã thâm nhập vào các trung tâm kinh tế VN thu thập 1 cách có hiệu quả các tin tức về cảng biển ,vận chuyển hàng hoá ,thông tin liên lạc ..Chiến tranh tâm lý cũng là 1 phần chủ chốt trong chiến địch ,cái mà người VN gọi là :"chiến tranh kinh tế ."

--------------------------------------------------------------------------
Các tranh chấp lãnh thổ

Tranh chấp lãnh thổ tập trung vào ba điểm lớn: biên giới trên bộ, vịnh Bắc Bộ, và biển Đông (gồm vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa).

Để giải quyết tranh chấp, Việt Nam và Trung Quốc đã thúc đẩy một cơ chế thảo luận: cấp chuyên viên; cấp chính phủ (tầm mức thứ trưởng, ngoại trưởng) và cấp cao (tầm mức tổng bí thư, chủ tịch và thủ tướng).

Các cuộc họp cấp chuyên viên bắt đầu từ tháng 10-1992 và cho đến cuối năm 1995 chủ yếu bàn vấn đề biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Cuộc họp cấp chính phủ bắt đầu vào tháng Tám 1993 và vòng đàm phán thứ mười diễn ra tháng Giêng 2004. Thành tựu đầu tiên là việc ký một thỏa thuận ngày 19-10-1993 về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Các đàm phán dẫn đến việc ký một hiệp định về biên giới trên bộ ngày 30-12-1999 phản ánh mức độ tiến bộ trong đàm phán vấn đề đất liền. Hiệp định này được thông qua năm 2000.

Theo ghi nhận của GS. Ramses Amer, vào tháng Tám 2002, Việt Nam công bố văn bản hiệp định mặc dù việc công bố không kèm theo bản đồ. Đến tháng Chín, thứ trưởng ngoại giao Lê Công Phụng cung cấp thêm thông tin về hiệp định.

Ông nói về các cơ chế và nguyên tắc dùng trong việc giải quyết các khu vực tranh chấp dọc biên giới. Các khu vực tranh chấp chính – được nhắc đến dưới tên ‘khu vực C’ – bao gồm 164 khu vực bao quát 227 cây số vuông. Trong số này, khoảng 113 cây số vuông được xác định là thuộc về Việt Nam và khoảng 114 cây số vuông là thuộc về Trung Quốc.
Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam nói kết quả đàm phán phù hợp với các nguyên tắc đặt ra để bảo đảm sự công bằng và hài lòng cho cả hai bên.

Đường biên trên vịnh Bắc Bộ

Năm 2000, các thương lượng về vịnh Bắc Bộ được tăng tốc nhằm đạt một thỏa thuận trong năm đó - một điều cuối cùng xảy ra với việc ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25-12-2000.

Cho đến ngày 20-6 năm nay, hai nước mới chính thức trao đổi thư phê chuẩn Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ để Hiệp định bắt đầu có hiệu lực.

Thông tin chính thức cho hay Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích vịnh và Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích vịnh.

Bên cạnh hiệp định này, Việt Nam và Trung Quốc còn ký Hiệp định về hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ.

Khác với Hiệp định phân định vịnh, Hiệp định hợp tác nghề cá có thời hạn hiệu lực cụ thể (12 năm và 3 năm mặc nhiên gia hạn) và giá trị pháp lý ở mức cấp chính phủ phê duyệt.

Sóng biển Đông

Các cuộc hội đàm về vấn đề biển Đông bắt đầu muộn hơn so với các hội đàm về biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ.

Có vẻ như càng về cuối thập niên 1990, hai phía Việt Nam và Trung Quốc càng tỏ ra kiềm chế để tránh hành động có thể dẫn đến căng thẳng.

Các diễn biến thời gian này cho thấy hai nước đã dần dần đồng ý về một kế hoạch giải quyết xung đột có thể thực thi tại biển Đông.

Tuy nhiên, những động thái của các bên trong năm 2004 cho thấy chừng nào các bên vẫn tuyên bố chủ quyền đầy đủ tại Trường Sa và Hoàng Sa, thì vẫn chưa thể tìm ra giải pháp cho tranh chấp ở đây.

Buôn lậu xuyên biên giới
Ngoài tranh chấp lãnh thổ, buôn lậu hàng Trung Quốc vào Việt Nam là vấn đề duy nhất mà hai nước chính thức thừa nhận là một vấn đề mà hai quốc gia cần giải quyết.

Mặc dù hợp tác kinh tế song phương mở rộng, nhưng buôn lậu một lần nữa trở thành quan ngại chính trong năm 1997. Điều này thể hiện qua cuộc hội đàm cấp cao tháng Bảy 1997 và liên quan chuyến thăm của phó thủ tướng đặc trách kinh tế của Trung Quốc tháng 10 năm đó.

Các nỗ lực này dẫn đến một thỏa thuận chính thức về biên mậu song phương ký ngày 19-10-1998.

Các biện pháp khác nhằm thúc đẩy thương mại cũng tiếp tục trong suốt cuối thập niên 1990 và đầu thế kỷ 21. Có thể xem chúng góp phần cho sự tăng trưởng quan hệ kinh tế giữa hai nước trong thời gian qua.

Cộng đồng người Hoa
Theo GS. Ramses Amer, vấn đề người Hoa không liên quan cộng đồng người Hoa ở Việt Nam mà liên quan số phận những người đã rời Việt Nam để sang Trung Quốc cuối thập niên 1970.

Ít nhất cho tới giữa thập niên 1990, Trung Quốc còn duy trì yêu cầu đưa những người này quay về Việt Nam, còn Việt Nam thì kiên quyết phản đối điều này.

Quan điểm của Việt Nam dựa trên cân nhắc kinh tế, ví dụ như Việt Nam không thể đón nhận một số lượng người lớn như vậy, mà ước tính là 280.000 vào giữa thập niên 1990.

Việt Nam cũng nói số người này đã định cư và hòa nhập xã hội Trung Quốc và vì thế việc hồi hương sẽ làm xáo trộn cuộc sống của họ.

GS. Ramses Amer nói Việt Nam cũng có các quan ngại an ninh khi số người Hoa này đã sống dưới ảnh hưởng của Trung Quốc kể từ cuối thập niên 1970.

Theo GS. Ramses Amer, vấn đề này vẫn là một nguồn căng thẳng tiềm tàng.

Tổng kết lại, chính sách ngoại giao và cái nhìn của người Việt về Trung Quốc đặt cơ sở từ hai ngàn năm quan hệ lịch sử với người láng giềng phương Bắc.

Sử gia Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt sử ký toàn thư, có viết: “Nam - Bắc mạnh yếu đều có từng lúc. Đương khi phương Bắc yếu thì ta mạnh, phương Bắc mạnh thì ta cũng thành yếu. Thế lớn trong thiên hạ là như vậy.”

Đó là thế quan hệ nặng về song phương trong suốt nhiều thế kỷ, khi mà đế chế Trung Hoa là đại cường duy nhất và áp đảo tại Đông Á và trong thế giới chính trị Việt Nam tham gia.

Quan hệ này chỉ tan vỡ khi có sự xuất hiện của các cường quốc Phương Tây tại châu Á.

Nhưng nay, khi nhìn lại giai đoạn 80-90, có thể thấy nét 'song phương' phần nào trở lại sau khi đồng minh lớn nhất của Việt Nam là Liên Xô suy yếu rồi sụp đổ.

Có thể gọi quan hệ Việt–Trung cũng là một nghệ thuật uyển chuyển của các cuộc đối đầu và đối thoại, mà trong hoàn cảnh hiện nay, sự hợp tác với Trung Quốc được bổ túc bằng việc đa phương hóa quan hệ với những định chế và các quốc gia khác.

-----------------------------------------------------------------------

Trên đây là những điều tui lấy trong khu "mật "của tui . Nếu có sai thì cũng hẳn nhiên vì phần lớn đều là ý kiến cá nhân và một số bài dịch nên chưa chắc đã sát nghĩa (tui dốt Ngoại ngữ ) .Mong mọi người đọc và chỉ rõ .
Nói đến Tung Của tôi có khá nhiều điều để nói nhưng nhìn chung tôi ko thích anh bạn này . Hy vọng sẽ được cùng chia sẻ nhiều thông tin .
Nếu bạn nào thích vụ án Thiên An Môn thì tôi có một số Tư liệu hay .
TQ đâu phải là bạn của mình, đời đời như vậy rồi( tuy nhiên mình vẫn phải làm ăn kinh tế với nó).
Đoạn phía sau của bài anh thì hình như ở BBC, còn đoạn phía trước thì hay quá, ko hiểu anh lấy ở đâu?( mà có chính xác ko vậy?) :) Còn về vụ T-A-M là anh nói vụ năm 89 ah?
 
Phần trên của bạn Tùng được lấy từ trang globalsecurity.org (đấy là đoán thế, vì còn những trang khác copy nguyên xi bài này). Có thể xem bản tiếng Anh ở đây : http://www.globalsecurity.org/military/world/war/prc-vietnam.htm
Ảnh thì chắc từ trang hải ngoại nào đấy:D

Độ chính xác thì... tùy người đọc nhận định. Chẳng hạn việc nói quân TQ tiến được 8km trong ngày đầu tiên là hơi thiên vị TQ. Chỉ có vài điểm đột xuất như vậy ở Cao Bằng khi TQ dùng gần hết 200 xe tăng thiết giáp của QĐ42 tập trung đột phá, hoặc ở Tam Lung (Lạng Sơn) nhưng sau đó bị VN vây ngược trở lại... Trong khi ở Lào Cai, Đồng Đăng, Quảng Ninh, Hà Giang... thậm chí TQ không tiến nổi 3-4km trong ngày đầu tiên.
Hoặc nguyên nhân dẫn đến CT biên giới Việt-Trung... v v và vv...

Vụ vừa rồi, nói thẳng, tớ rất khó chịu khi đọc những lời hô hào, đại loại, sao CPVN nhu nhược thế, sao không đánh chết cha thằng Tàu đi... Đó là những suy nghĩ nông cạn và dốt nát.
Đến sự kiện 1979, TQ còn vu cho VN tấn công trước. Vậy mong gì ở lần này mà định đòi TQ phải thế này thế nọ ?
Định phản ứng quân sự, khả năng ở đâu mà đòi đánh. Mà có đánh thì người hy sinh đầu tiên chắc chắn không phải những kẻ to mồm đòi đánh nhất.

Đây là đòn nắn gân của TQ. Nếu VN phản ứng quân sự, TQ sẽ vu cho hải quân VN khiêu khích, rồi tận dụng cơ hội đánh luôn TS. Đây là kịch bản mà người TQ mong đợi nhất. Nếu VN không phản ứng, TQ sẽ tiếp tục gây ra những vụ tương tự, nếu không có gì thay đổi, vụ cuối cùng sẽ diễn ra trên TS. Hành động thế nào cho hợp lí là không dễ.

Theo tớ, tạm thời trước mắt cần tăng cường các hoạt động tuần tra của KQ và HQ, nhưng cần chủ động tránh đụng độ đến mức tối đa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thế chú Sơn đợi bọn Tàu nó vào HN bắt ông Trà rồi lúc đấy phản ứng cũng không muộn nhỉ:D. Rõ ràng phản ứng Quân Sự thì không phải là giải pháp rồi, cái sự cứng rắn hơn không có nghĩa là minh vác quân sang giết lại 9 thằng Tàu mà phải lên tiếng mạnh mẽ hơn nữa, có rất nhiều cách, chú đọc nhiều chắc thừa biết:). Còn việc kể cả to như Mỹ mà giết người vô tội nước nhỏ như Campuchia thì cũng không chấp nhận được. Dư luận TG sẽ có phản ứng gay gắt nếu chúng ta cũng tỏ ra cương quyết và cứng rắn hơn nhưng bản thân chúng ta đã không dám lên tiếng phản đối mạnh mẽ rồi thì biết làm thế nào đây?
Chú lấy cơ sở đâu bảo đây là đòn nắn gân của TQ? Muốn nắn gân để gây hấn thì giết 9 người anh nghĩ lại chưa đủ để gây chiến tranh. Phải một vụ to cỡ 11-9 thì may ra. Thế theo chú Sơn thì sau vụ này chúng ta phải phản ứng ra sao? Gửi công văn kiến nghị sang chính phủ TQ à?
 
À, thưa bác Tuấn, quả thực là em cũng chẳng đồng tình với cách phản ứng của BNG VN, nhưng vì không nghĩ ra là nên như thế nào, lời lẽ ra sao nên không dám nói. Cá nhân em thì tin là phản ứng như thế chả có tác dụng gì.

Còn chuyện nắn gân. Đâu cứ phải gây chiến ngay được mới là nắn gân. Nếu nói theo cách của bác chẳng hạn, thì rõ là TQ thấy mình vô cớ giết, bắt người của VN mà VN không dám phản ứng mạnh. Lần sau sẽ không là 9 mà là 19 người chẳng hạn, nếu VN vẫn chỉ thế thì không còn là tàu cá nữa, mà là tàu vận tải, tàu chiến của VN. Và bước cuối cùng thì ai cũng biết rồi...

Nếu khiêu khích nhỏ thì chỉ cần dùng tàu cá vũ trang (như mấy vụ trước) là được. Dùng tàu hải quân, nếu VN phản ứng mạnh và TG hiểu rõ về vụ đấy, sẽ rất bất lợi cho TQ. Họ đã dám chấp nhận thế thì phải có lí do.

Đấy là ý kiến của em.
 
em thì lại thấy cách ứng xử của các bác VN thế là cũng đúng với hoàn cảnh VN hiện nay thôi . Các bác cứ thử nghĩ mà xem , khi mà kẻ thù mạnh hơn mình dễ đến 10 lần thì nên dĩ hòa vi quý là tốt hơn , nhịn đến khi nào mình còn nhịn được , mà xu hướng tiếp xúc quốc tế với các nước mạnh từ xưa đến nay của VN bao h chẳng thế .
Tất nhiên đây chẳng qua chỉ là một cử chỉ nắn gân Vn của bọn china thôi , nhưng mà nếu VN quả này làm ko khéo là lần sau thể nào chúng nó cũng làm to hơn " đùa với chó , chó liếm mặt " mà , nhưng em tin là lần sau còn có chuyện này nữa thì VN sẽ ko đê yên đâu vì sau quả này thì ông nhịn nhất cũng phải nóng mắt .
Mà em thấy cái link của bác Phan duy hay phết đó , có nhiều ông nói đúng , mình mà cáu quả này thì sẽ đúng í đồ của china , chúng nó chỉ muốn có thế để gây sự nên phải hết sức bình tĩnh , đừng có nóng mà chết .
 
Back
Bên trên