Cánh đồng bất tận! Nguyễn Ngọc Tư

atNguyen-ngoc-tu.jpg


Nguyễn Ngọc Tư: 'Tôi viết như cảm xúc của mình'


Sự việc nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị “phê phán, kiểm điểm” vừa qua đã gây xôn xao dư luận. Hàng trăm ý kiến bạn đọc gửi về tòa soạn chia sẻ những suy nghĩ về việc này. Từ Cà Mau, Nguyễn Ngọc Tư tâm sự với VnExpress về công việc viết lách và cuộc sống của chị.


- Lúc bắt tay viết những dòng đầu tiên truyện dài “Cánh đồng bất tận”, chị dự đoán thế nào về những phản ứng, lời khen chê có thể gặp phải sau này?

May là tôi không nghĩ tới. Nếu lường đo mọi chuyện, tôi nghĩ "cánh đồng" đó sẽ không giống "cánh đồng…" mà bạn đọc bây giờ. Thật ra, bao giờ bắt tay vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm mới này ai sẽ khen, và biết cả một vài khuôn mặt của những người chê. Lần nào cũng nghĩ nhưng lần nào cũng viết như cảm xúc của mình, bởi trước khi tôi viết cho ai đó thì tôi viết cho mình.

- Nếu được một phép lạ quay trở lại thời điểm bắt đầu viết “Cánh đồng bất tận” mà vẫn nhớ tất cả những lời khen chê, chị sẽ triển khai mạch truyện, giọng truyện như thế nào?

Tôi không xấu hổ vì những gì mình đã viết nên chẳng nghĩ mình sẽ ngoặt sang hướng khác. Có điều, lúc ấy, tôi có còn cảm xúc liền mạch để trải ra trang giấy không, tôi có còn hứng thú không, tôi có bớt yêu thương những nhân vật của mình không?

- Nhiều chi tiết trong “Cánh đồng bất tận” bị xem là quá ác, như: đổ keo dán sắt vào cửa mình người phụ nữ, gái điếm dập dìu, vẻ lạnh lùng tàn nhẫn của người đàn ông ghét đàn bà, một thằng con trai mới lớn bị hấp dẫn bởi một cô gái điếm… Khi đặt bút viết những dòng ấy, chị đắn đo, trăn trở ra sao để chọn cách thể hiện?

Có lần, tôi nghĩ, sao để hai đứa bé ngồi trong kẹt bồ lúa bắt gặp mẹ nó và ông bán vải làm gì. Nhưng rồi tôi nghĩ, liệu chúng chỉ nhìn mẹ chúng nắm tay ông kia đi dung dăng dung dẻ trên đường quang đãng thì có còn là nỗi ám ảnh, là bi kịch trong tâm hồn chúng không?

- Nhìn lại toàn bộ quá trình sáng tác của mình, chị thích tác phẩm nào nhất?

Tôi không dùng quan niệm "thích", bởi vì chưa bao giờ thấy thích. Viết xong một tác phẩm, tôi chỉ cảm giác vui hoặc không vui. Cải ơi, Nhà cổ, Lấy chồng, hay những truyện ngắn trong tập Ngọn đèn không tắt làm tôi vui. Đó là những truyện tôi đọc thấy buồn cười như không phải của… mình.

- Hiện giờ chị đang viết gì?

Tôi đang viết tạp văn ba lăng nhăng. Tôi cần những mẩu viết ngắn ấy hâm lửa lại cho mình.

- Sau cơn sóng gió này, chị nghĩ gì về văn chương và con đường viết lách?

Đó là con đường nhọc nhằn khủng khiếp, qua khoảng có hoa hồng là đoạn đầy dây kẽm gai. Nhưng tôi vẫn bước về phía trước, tôi tin phía ấy lại có hoa hồng.

- Cuộc sống hiện tại của chị như thế nào?

Tôi bình thường. Tôi không nổi tiếng, ít ra thì tôi nghĩ vậy. Nổi tiếng mà không sống thật với mình, không dám nói ra điều mình nghĩ, không bảo vệ được cuộc sống riêng tư, thì tôi chọn làm người bình thường. Tôi muốn làm người bình thường.

- Tác phẩm gần đây nhất mà chị đọc là gì?

Vương quốc ảo của nhà văn trẻ Trung Quốc Quách Kính Minh. Một người bạn gửi tặng tôi. Đọc thấy thích cái không khí buồn bã trong đó.

- Chị nói gì với những độc giả trong và ngoài nước, những người luôn tìm đọc những gì chị viết và ủng hộ chị?

Tôi sợ nói lời cảm ơn mọi người lại chê là khách sáo. Rồi nghĩ, nếu bạn bè đã hiểu mình, yêu thương mình đến vậy thì lời cảm ơn này không cần phải nói ra.


Anh Vân thực hiện​
 
Dòng chảy yêu thương trong 'Cánh đồng bất tận'


Khi người đọc đã bắt đầu thấy quen thuộc với những câu chuyện dân dã hồn hậu, khi cái tên Nguyễn Ngọc Tư đã không còn gây lạ nữa sau những tập truyện "Ngọn đèn không tắt", "Nước chảy mây trôi"... thì bất ngờ "Cánh đồng bất tận" của cô xuất hiện. Một sự xuất hiện đủ sức gây ngỡ ngàng bằng một câu chuyện man dại và khốc liệt.



Vẫn là chuyện của những dòng sông, những vùng đất dọc ngang kênh rạch nhưng với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa người đọc đến một thế giới hoàn toàn khác. Không còn hình ảnh của vùng quê Nam Bộ trù phú với những người dân phóng khoáng, giàu nghĩa khí mà chúng ta vẫn gặp ở rất nhiều câu chuyện, rất nhiều bộ phim, rất nhiều cuốn sách. Cánh đồng bất tận đã mở ra trước mắt người đọc một thế giới khắc nghiệt và tàn khốc. Ở đó có người phụ nữ nghèo đến mức một mảnh vải đẹp là cả một giấc mơ và phải đánh đổi nó bằng thân xác của mình. Ở đó có hai đứa trẻ suốt đời theo cha rong ruổi qua những cánh đồng, chúng lạc lõng, cô đơn đến mức quên cả cách giao tiếp với con người. Ở đó có người chồng thù hận người vợ bỏ theo trai đến mức phá hỏng cuộc đời của chính những đứa con ruột thịt.


“Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi".


Xuyên suốt câu chuyện của Nguyễn Ngọc Tư là hình ảnh của những cánh đồng. Với một số người trong chúng ta, có thể cánh đồng nào cũng giống nhau, nhưng với hai đứa trẻ, hai nhân vật chính trong truyện, những cánh đồng được phân biệt rất rõ. Cũng dễ hiểu thôi vì cuộc đời của những đứa trẻ đó là một cuộc hành trình từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Những cuộc hành trình kéo dài bất tận và những cánh đồng cũng trải dài bất tận.


Một câu chuyện mà từ đầu đến cuối là những đau khổ, những hằn học, những sự bội phản và những cuộc trả thù. Ở đó chỉ có đói nghèo và bất hạnh. Con người không nhận được gì khác ngoài sự trả giá. Ở đó, khái niệm "ở hiền gặp lành" là một cái gì đó quá mơ hồ, quá xa vời. Một câu chuyện như vậy sẽ làm người ta thấy mệt mỏi, thấy buồn bã và bi quan. Nhưng, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, lại không đem đến cho người đọc cảm giác ấy. Bởi vì, có một dòng chảy yêu thương len lỏi khắp câu chuyện, kéo dài theo những cánh đồng. Dòng chảy yêu thương đó lớn dần lên và trở thành chủ đạo khi sau tất cả những bất hạnh mà một con người có thể gánh chịu trong cuộc đời, người ta vẫn không thôi nghĩ tới những điều tốt đẹp.


"Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn".


Đoạn kết của câu chuyện mở ra một chân trời mới. Những "cánh đồng" có thể vẫn kéo dài bất tận, nhưng sự hận thù sẽ không bất tận, sự bất hạnh sẽ không bất tận, nỗi khổ đau sẽ không bất tận nếu người ta biết yêu thương, biết hy vọng và biết tin tưởng ở những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Bạn sẽ thấy nhiều điều khác nữa nếu bạn để trí tưởng tượng của mình bay cao ở Cánh đồng bất tận.


Nguồn: Thế giới sách
 
Dưới đây là những nhận định phê bình về các tác phẩm của nhà văn NNT dành cho các bạn yêu thích muốn đi sâu tìm hiểu, tham khảo hơn nữa về tác giả và tác phẩm.

*****



Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn trẻ Nam bộ


Tôi bắt đầu đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư cách nay vài năm. Lúc đó, chị đã tạo được tiếng vang nhất định trong lòng người đọc với tác phẩm Giao thừa. Tôi khởi công làm quyển Từ điển từ ngữ Nam Bộ nên quan tâm tới sáng tác của chị nhiều vì để làm quyển từ điển ấy, tôi rất cần những dẫn liệu của các nhà văn Nam Bộ. Các sáng tác của nhà văn Nam Bộ lớp trước thì dễ tìm, dễ lấy dẫn liệu, vì ngôn ngữ của họ còn thuần chất Nam Bộ; còn sáng tác của các nhà văn Nam Bộ hiện nay thì không dễ có. Mà hiện nay, có là nhà văn Nam Bộ đi nữa thì liệu những dẫn liệu trong sáng tác của họ có phải là lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ hay không? Vì trong thời buổi giao lưu hiện đại này, giữ được những cái gì là bản sắc của riêng mình không phải là dễ. Hơn nữa, ở lĩnh vực viết văn, có nhiều người nghĩ rằng, Nam Bộ không phải là xứ sở của văn chương, nên còn có nhiều người "ngại" sợ thiên hạ biết mình là người Nam Bộ nữa. Bởi đó, có đôi khi họ cố sửa giọng, nắn giọng, thay đổi thói quen dùng từ để sao trong tác phẩm của mình, người đọc cảm thấy có tính toàn dân, hiện đại hơn. Cá nhân tôi khi làm quyển Từ điển từ ngữ Nam Bộ, lại có một suy nghĩ khác: có được văn phong Nam Bộ của Ngọc Tư làm dẫn liệu, nói có thể người ta cho là hơi quá, như "vớ được vàng".


Cho đến nay, ngoài những truyện đăng với các tác giả khác trong những tuyển tập chung, Nguyễn Ngọc Tư đã có được các tập truyện ngắn riêng: Tập truyện Ngọn đèn không tắt(NXB Trẻ 2000), Ông ngoại (NXB Trẻ 2001), Biển trời mênh mông (NXB Kim Đồng 2003), Giao thừa (NXB Trẻ 2003), Tập truyện và ký Nước chảy mây trôi (NXB Văn nghệ TP HCM 2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (NXB Văn hóa Sài Gòn 2005). Gần đây tác phẩm Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ 2005) của chị được phát hành gây nên một tiếng vang mới, khen chê đều có, nhưng dù gì thì hiện nay tên tuổi của chị không những đã được biết đến ở cả nước mà hình như ở nước ngoài nhiều bạn đọc cũng quan tâm. Trong các tập sách này, có nhiều truyện được chọn in ở nhiều tập, có lẽ vì nó thu hút người đọc, như: Dòng nhớ, Nhớ sông, Chuyện của Điệp, Hiu hiu gió bấc, Huệ lấy chồng, Cái nhìn khắc khoải, Nhà cổ, Ngổn ngang…


Đọc truyện của chị, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm. Bối cảnh trong các truyện ngắn phần lớn là vùng đất U Minh. Đó là mảnh đất cuối trời quê hương, mà nhiều người chỉ nghe nói tới, chớ cũng không có lần được đặt chân đến, đừng nói chi đến việc đi hết vùng đất Mũi. Trong tác phẩm của chị có một không gian Nam Bộ với những loại cây, tên gọi nghe quen, dân dã: "mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước...", với những vàm, kinh, rạch, xẻo, tắt chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: "vàm Cỏ Xước, Vàm Mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao...", hay những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ: "xóm Xẻo, xóm Rạch, xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy, Mút Cà Tha...". Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người Nam Bộ với những cái tên cũng hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ, và cách xưng gọi thứ kết hợp với tên: Hai, Ba, Tư, Chín, Út...; Tư Nhớ, Năm Nhỏ, Sáu Đèo... mang những tâm tư, nguyện vọng cũng hết sức nhỏ bé, đời thường. Đó là những con người sinh sống bằng những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ, như: "nghề sông nước, nghề nuôi vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát...", ngoài những ngành nghề truyền thống làm ruộng, làm rẫy, đan lát... Đặc biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị.


Truyện của chị đa phần dừng lại ở những tình cảnh gia đình nghèo, đề cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, những nông dân chân chất với những ước mơ và cuộc sống hết sức bình dị đời thường rất đáng cảm thông, trân trọng, nhưng đôi khi cuộc đời nghiệt ngã cũng không cho họ được như ý, được toại nguyện, như: "Chuyện của Điệp", "Nhớ sông", "Đau gì như thể"...


Truyện Chuyện của Điệp nói về một cô bé lớn lên với ngoại, nhưng có tâm hồn đa cảm, bao dung: "Má à, sáng này má kêu con Giàu theo con ra đoàn, mấy bộ đồ của bé Bơ còn nguyên một giỏ y thinh, con gởi nó đem về cho má, mai mốt má sanh cho em bé mặc, nghen má".


Hay truyện Nhớ sông, nói về cảnh bất hạnh của gia đình ông Chín, vợ mất sớm vì một tai nạn bất ngờ trên sông nước, để ông phải lâm vào cảnh "gà trống nuôi con". Dù nghèo, nhưng ba cha con vẫn gắn bó với nhau bằng một tình thương yêu hết sức thiêng liêng, cảm động. Đọc truyện này nhiều người phải rơi nước mắt vì cảnh gia đình ông Chín: "Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền con dư lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nước". Cảm động nhiều là đoạn nói về tình cảnh trong quá khứ, khi mỗi lần ghe ông ghé lại, đứa trẻ con ông lại lên bờ chạy như điên dại, và lúc ấy, nó như tìm lại được khoảng trời tuổi thơ đầy mơ ước, mà điều này khiến vợ chồng ông đau xót qua tâm sự: "Có lúc, vừa ghé lại bờ, chưa kịp buộc dây ghe vô gốc mắm, do quẩn chân lâu ngày, Giang đã chạy lên bờ, chạy cuống chạy cuồng như vui như điên trên đất, má Giang rớt nước mắt, "Con nó thiệt thòi...". Ông Chín an ủi, "vì miếng ăn mà, mình ơi".


Cuộc sống nghèo khổ tạo cho con người một nghị lực, lâu dần trở thành thói quen, mà thói quen dễ làm con người nhớ. Dù nỗi nhớ của những con người nghèo khổ này "lạ quá!", mấy ai "thông cảm" được: "Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở, "Trời ới, con nhớ ghe quá trời đất đi". Xuống ghe, Giang mò mẩm từng món hàng, từng miếng sạp." (Nhớ sông).


Đọc truyện của chị người đọc có băn khoăn: ở vùng đất đồng bằng này, còn bao nhiêu gia đình đang ở vào tình cảnh như gia đình ông Chín, gia đình của Điệp, gia đình của cha con Tư Nhớ?


Truyện của chị còn đề cao nhân phẩm của những con người lao động nghèo. Họ thiếu thốn tiền bạc, nhưng không nghèo tình nghĩa mà lại giàu nhân cách, trách nhiệm. Truyện Đau gì như thể... lại là một bi kịch của 3 thế hệ: ông, mẹ, cháu. Cả ba nương tựa vào nhau bằng niềm vui sống mong manh, nhưng cũng hết sức mãnh liệt, bền bỉ. Tư Nhớ bị hàm oan vì "sự loạn luân". Thiên hạ đồn đại dai dẳng, trong đó có người của chính quyền xã Xẻo Mê cũng cho rằng, con của Nga cũng chính là con của Tư Nhớ - cha của Nga, và ông đã bị nhốt mấy ngày ở Ủy ban vì chuyện này. Đoạn viết về tình cảnh này của cha con chú Tư hết sức xúc động: "Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: "Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá he". Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhớ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, "Thiên hạ để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ". Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau." (Đau gì như thể...)


Chuyện oan khuất của một đời người là nỗi đau âm ỉ, dữ dội của chính họ, nhưng người khác vô tâm thì sao có thể chia xẻ cho họ được. Ông đã nhiều lần dành dụm tiền, viết lại đơn để lên các cấp Ủy ban xin được minh oan, xã thì bảo ông lên huyện, "rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại", "Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa". Nhưng người ta xem chuyện đó đơn giản, khi nghe ông trình bày sự việc: "Ủa, đơn giản vậy thôi hả?" làm ông quá thất vọng. Khi "chính quyền sai" ông không khiếu kiện, chỉ xin hai chữ "minh oan", nhưng họ trả lời ông cũng hết sức "vô tâm, cửa quyền": "Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa?", hay: "Chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi...". Ngày xưa nói, "chính quyền là công bộc của dân". Bây giờ nói, "cán bộ là đây tớ của dân", nhưng xem ra câu nói ấy chỉ dừng lại ở cửa miệng.


Truyện Cải ơi! cũng đề cập tới tình cảnh của ông già Năm Nhỏ phải chịu tiếng oan là "giết con" khi nhỏ Cải (con của vợ ông), làm mất đôi trâu, sợ đòn, bỏ trốn. Cuộc hành trình dài lặn lội đi tìm đứa con, với nhiều "phương kế" của ông, của một người "cha ghẻ" (bố dượng) để mong tìm được con Cải, có nhiều chi tiết hết sức tình người, rất xúc động. Những chi tiết này là cuộc sống sinh hoạt đời thường, bình dị, giàu chất Nam Bộ và cũng thấm đượm tình người: "Ông già Năm Nhỏ lặng đi, tự hỏi, bây giờ ông lên tivi, con Cải có nhận ra ông không. Câu trả lời là có, ông đã dắt con nhỏ đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều, ông đã cõng con nhỏ đi tắt mấy vạt đồng đến khám bệnh chỗ ông bác sĩ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về... Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già muốn lên tivi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng, về đi con ơi, đôi trâu có sá gì!".


Nhân vật trong truyện của chị phần lớn là những con người ít phản kháng trước những ngang trái, bất công, nhưng giỏi sự chịu đựng. Cụ thể như gia đình Tư Nhớ trong truyện Đau gì như thể..., hoặc một nhóm người nông dân nghèo ở Trảng Cò, trong truyện Lỡ mùa: Người nông dân khổ vì không có đất canh tác do những quy hoạch treo. Họ mất đất, nên luôn ao ước được cày bừa trên mảnh đất của chính mình, mỗi khi thấy mưa về, nhưng giờ đây cũng không được: "Trời vẫn trĩu đầy nước, tối âm u, ông Ba thấy núi mây đen thẫm dựng lên một mảng trời phía Trảng Cò, ông chắc lưỡi như xót xa lắm, điệu này dưới mình mưa lớn dữ, đất chắc chìm hết rồi, đồng chỉ chắc còn loi ngoi cỏ, muốn cày, bừa cũng khó lắm đây. Ông Ba già nghe ruột mình nôn lên, từng khúc, từng khúc, nghẹn ứ đến mức ông không lên tiếng được".


Trong những sáng tác của chị, có rất nhiều truyện chị đề cập tới tình yêu đôi lứa ở nông thôn, với những ước mơ, đơn giản, bình dị. Có những tình yêu đi đến kết cục nhưng phải qua bao nhiêu thăng trầm, sóng gió, như truyện Bến đò xóm Miễu, nhưng có rất nhiều tình yêu dang dở, xót xa, vì nhiều lẽ: nghèo, thiếu học, không dám mở lời, ngang trái gia đình, hoàn cảnh... Đó là những mảnh tình yêu đẹp, góp phần điểm xuyết thêm cho mảng hiện thực buồn của nông thôn vốn yên tĩnh trở nên "xao động".


Truyện Hiu hiu gió bấc là một tình cảm đẹp nhưng bất thành đã để lại nỗi đau ở hai con người tha thiết yêu nhau: "Hôm đám, anh hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậy. Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồi".


Có khi tình yêu đến bất ngờ, rồi vội đi, để lại một khoảng trống cho thực tại và một kỷ niệm đẹp trong quá khứ, như ở truyện Cái nhìn khắc khoải, chị viết: "Chị bật khóc, con Cộc điềm đạm lại cái mẻ lúa, nó ăn chậm rãi. Ý nói sao mà tội nghiệp hai người quá đi, làm người mà khổ vậy, làm vịt còn sướng hơn. Đêm đó, ngoài nhà xuồng, nó nghe ông thở dài. Tự mình làm mình chịu, ai biểu...".


Chủ đề tha hóa cũng được chị đề cập trong một số truyện, như truyện Nỗi buồn rất lạ, Cánh đồng bất tận... Có thể nói, truyện Cánh đồng bất tận là một cảnh báo về sự tha hóa ở một lớp người vì sự nghèo túng và thất học gây nên, cần phải được ngăn chặn bằng cách tổ chức một xã hội tốt hơn nó hiện có. Đọc truyện này, người đọc có những khen chê trái ngược nhau. Tôi nghĩ, dù thế nào, đã là nhà văn, viết được một tác phẩm mà tạo được sự tranh luận rộng rãi ở người đọc, như hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp trước đây, xét ở một khía cạnh nào đó thì thành công lắm rồi. Còn sự tha hóa thì ở thời kỳ nào không có, xã hội nào không có, tầng lớp nào không có. Mỗi tầng lớp có một kiểu tha hóa khác nhau. Thành thị tha hóa kiểu thành thị; nông thôn tha hóa kiểu nông thôn. Có điều, một số người đọc cảm thấy liều lượng "hư đốn" trong Cánh đồng bất tận lớn quá, như "bất tận", đâm ra không tin và phê phán chị vì có cái nhìn "bôi đen" hiện thực. Nhưng số người khác thì cho rằng, hiện thực mà chị phản ánh, tuy là hư cấu nhưng nó phản ánh chân thực đời sống nông thôn. Có người cho rằng, chị viết "tình dục (sex) nông thôn" nhưng tôi không nghĩ vậy. Tôi cho rằng sự khen chê thì tùy bạn, thói thường miêu tả hiện thực đẹp như một lời khen; đề cập tới hiện thực xấu như một lời chê, mà "lời khen thì dễ nghe, lời chê thì khó chịu", nhưng thế nào thì cũng xin bạn đọc "cẩn thận" để tránh nặng lời, quy chụp cho tác giả và những người có ý kiến phê bình khác mình. Cá nhân tôi thích truyện này ở quang cảnh nông thôn mà qua vài nét chấm phá của chị, hiện ra một nông thôn Nam Bộ đặc thù, ai đã từng sống ở nông thôn cũng thấy thích bức tranh đồng quê ấy. Chị viết: "Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn liều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra...". Ở một đoạn khác chị viết: "Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên nầy tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo đến, nhưng người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau...".


Trong nhiều truyện ngắn, khả năng miêu tả tâm lý ở người và vật của chị tỏ ra khá sắc sảo. Đó là đoạn viết về lão nông nuôi vịt chạy đồng và người phụ nữ tình cờ được ông "cưu mang" với con vịt xiêm tên Cộc thường ngày vẫn là bầu bạn của ông. Những chi tiết trong đoạn truyện Cái nhìn khắc khoải cho thấy sự am hiểu của chị hết sức tường tận về vùng đất đồng bằng và tâm lý của con người Nam Bộ từng trải này: "Tháng chín. Gió chướng non xập xòe trên ngọn dừa. Ông trở về kinh Mười Hai, quê ruột của ông. Chèo gần tới nhà ông thấy một người phụ nữ ngồi dưới bực cỏ đợi tàu. Chiều rồi, tàu cuối chạy lúc ba giờ rưỡi đi qua đã lâu lắm. Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết. Ông khập khựng cho ghe đi tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị nọ đi đâu, chị khóc như mưa bấc, "Tôi cũng không biết mình đi đâu". Lãng xẹt vậy đó. Ông ngại ngần ngó những tia nắng đỏ cuối cùng đậu phía đám dừa nước:


- Cô có sao không?

Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc.

- Tôi biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay... làm ơn cho tôi theo anh đêm nay nghen.


Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu trong khi tụi vịt đạp đầu chen nhau dưới sạp bằng tre đóng thưa thớt rộ lên lạc cạc inh ỏi. Đôi chân đàn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cúi đầu không nói không rằng lùi lũi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: "Cộc! Bị đòn nghen mậy". Nó dừng lại, đủng đỉnh quay đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt kêu: "Trời, vịt gì mà khôn quá vậy?". Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt xiêm chớ vịt gì, thiệt tình".


Một đoạn khác trong truyện Nhà cổ có những chi tiết chắt lọc kèm với những phân tích, nhận xét ngắn gọn, đủ cho người đọc nhận diện tâm lý, tính cách của từng con người ở trong “Nhân Phủ” tại làng cổ Phương Điền: "Năm tôi mười sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng thương chị Thể mất rồi. Chị Thể mồ côi, từ nhỏ về ở nhờ trong "Nhân Phủ", đẹp nết, đẹp người. Sinh thời, má anh Hải hay nắm tay trìu mến, "Má có hai thằng con trai, chừng nào lớn, bây chọn một đứa, làm con dâu má nghen". Chị Thể chỉ cười cười, không nói. Chị hiền, dịu dàng như chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần còn nhớ, huống chi ba người họ lớn lên cùng nhau... nhưng nhường qua nhường lại hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày... Ông anh chẳng mua gì, nhưng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp giặt đồ, anh xách nước để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai người cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm ngây dại mùi lá dứa. Người em thức sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung những câu chẳng có nghĩa gì".


Đoạn tâm sự của ông già Sáu Đèo, làm nghề bán vé số, về con bìm bịp và cuộc đời của ông, trong truyện ngắn Biển người mênh mông, khắc họa được hình ảnh một con người Nam Bộ với nghề sông nước đã trở thành cái "nghiệp chướng" mà dù không còn khả năng phải lên bờ, ông vẫn ráng giữ một kỷ niệm của vùng sông nước là "con bìm bịp". Những nhận xét của ông già Nam Bộ này khiến cho ta phải suy nghĩ lâu hơn về nhiều lẽ của cuộc đời, về một lớp người Nam Bộ có tính cách "giang hồ, phóng khoáng, nặng ân nghĩa": "Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua, nhiều lúc phò con bìm bịp nầy như phò bà già vợ vậy mà vui. Đi bán ở đâu, lâu lâu ông cũng tạt về nhà, quăng mấy con cá ươn cho "con quỷ sứ", xong rồi từ giã, "Tía đi nghen". Trời mưa dầm, ông già đội áo đi kiếm cóc, rắn mối cho nó ăn. Vui buồn gì cũng tía tía con con. Có đêm con bìm bịp kêu suốt, những tiếng bịp bịp ngắn ngủn buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó. "Lúc nào qua thấy nhớ sông nó đều kêu như vậy". Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng lang thang xứ này xứ nọ. Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì chở thuê, gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà Mau, nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm.".


Ngôn từ trong tất cả truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật, đều khá thuần chất Nam Bộ. Số lượng từ ngữ Nam Bộ được dùng trong tác phẩm của chị khá lớn. Đặc điểm này tạo nên ở truyện của chị một văn phong riêng mà nhiều người cảm thấy yêu thích. Trong các truyện của chị có rất nhiều từ ngữ địa phương Nam Bộ được chị sử dụng khá thích hợp, thậm chí có những từ dùng rất đắt phản ánh được đặc trưng của một vùng quê Nam Bộ. Đó là những từ chỉ địa hình, sản vật gắn với một vùng sông nước: "áo bà ba, bà chằn, bình bát, bông, bông súng, bông trang, cà ràng, cải lương, cây còng, cây tra, chàng tắm, chợ nổi, cò cò, dây thun, dừa nước, đất nẻ, đậu hũ, đậu phộng, đèn chong, đờn, đùng đình, hàng bông, hàng lơn, hột, kinh, lồng đèn, lức dại, mẻ ung, mền, miệt, mồng gà, mùng, nạng thun, nước bò, nước kém, nước miếng, nước rong, ô rô, rạch, rạp, rẫy khóm, sao nhái, sạp ghe, số đề, tà lỏn, tép đất, thằn lằn, thớt thịt, thương hồ, trái, trự, tủ kiếng, tum...". Đó là những hoạt động, sinh hoạt: "bắn đạn, biên thư, biểu, búng thun, chào sân, coi kiếng, cự, day, dùa, đá banh, đánh lộn, đơm nút, giăng mùng, lặn đất, lục, mằn nắn, nhậu nhẹt, thiến heo, thường, tợp, vô...". Đó là những trạng thái, tính chất: "bằn bặt, bịnh, buồn hiu, cà chớn, chảnh, đong đưa, giả bộ, lai rai, lãng xẹt, lanh, lẫm lẫm, lỉnh lảng, long chong, lông bông, lừ lừ, im re, ngộ, nhẹ hều, ốm, quớt, rã gánh, rớt nhịp, sương sương, tạnh hột, tém tẻ, tệ hệ, thong dong, tròn dình, trớt he, trùng trình, xà quần, xỉn, xửng vửng...". Đó là những cách xưng gọi mang sắc thái Nam Bộ: "bây, má, tía, qua, chế, ý...". Đó là những từ biến âm và biến âm có rút gọn: "bi nhiêu, hông, hổng dè, hy sanh, kinh, mơi mốt, Tết nhứt, thiệt, thí mồ...; ảnh, ban nẩy, bển, chỉ, con mẻ, cổ, hổng, ổng...". Đó là cách diễn đạt kiểu Nam Bộ: "bảnh thiệt, cà lơ phất phơ, cá chốt rỉa, chành miệng, chợ ba bảy chín, coi giò coi cẳng, đã thiệt, đánh lô tô, điệu này, đưa chốt qua sông, mát trời ông địa, mắc mớ, mần chi, miệng cá sặc, mùi rụng rún, mừng húm, quá giang, thử coi, vá chằng vá đụp...". Đó là những tình thái từ có màu sắc Nam Bộ: "hen, nghen, vậy ta, khỉ khô...".


Nhìn từ phương diện nghệ thuật, chị đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam Bộ khá thành công trong sáng tác của mình. Điều này, góp phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất nhiên, có thể có người không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng, trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều tự địa phương thì sẽ gây trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng, để có được những sáng tác phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản ánh.


Nguyễn Ngọc Tư mới bước vào làng văn, lại chỉ mới dừng lại ở địa hạt truyện ngắn, và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của chị thường là những vấn đề gia đình, xã hội đương thời, gắn với không gian của một vài làng xã, huyện, nên chúng ta chưa thể đòi hỏi điều gì hơn một tầm vóc bao quát những vấn đề văn hóa, lịch sử, xã hội trong những sáng tác của chị. Nhưng với chừng ấy năm viết văn, lại ở một địa bàn mà điều kiện tiếp xúc với tri thức sách vở còn nhiều trở ngại, cũng phải khách quan nhìn nhận rằng, chị có một năng lực tốt mới có thể khái quát được những vấn đề gia đình, xã hội để cô đọng nó vào trong một truyện ngắn. Và những truyện ngắn của chị càng về sau càng có chiều sâu của sự nhận thức trí tuệ hơn. Có điều, ở góc nhìn của một người Nam Bộ vốn quan tâm tới lĩnh vực từ ngữ Nam Bộ dùng trong sáng tác văn chương hiện nay, thì tôi vẫn nghĩ chị là nhà văn hiếm, vì còn giữ được cái cốt cách diễn đạt của một người Nam Bộ trong sáng tác văn chương. Chỉ mong chị giữ được chất Nam Bộ trong sáng tác của mình và ngày càng có điều kiện nghiên cứu, học tập những vấn đề rộng lớn hơn để có được những tác phẩm lớn thể hiện được tầm quan sát, nắm bắt của mình ở nhiều lĩnh vực lớn như: lịch sử, văn hóa, xã hội, ít ra là của vùng đất Nam Bộ mà chị đã sống.


(Nguồn: Văn nghệ Sông Cửu Long)
 
Thanks Đoàn Trang! hưởng ứng lời kêu gọi của Nghĩa và bởi lòng yêu thích Cánh đồng bất tận nữa chứ, gửi thật nhiều bài. Đọc mỏi cả miệng luôn, sướng thật.

Khi nào Đoàn Trang vận động chủ đề gì nhất định Nghĩa sẽ giơ cả 2 tay, 2 chân... "Á! té mất" ủng hộ ngay.

Chào Thân ái & Quyết thắng!
 
Vòng xoáy ''xã hội hóa dung tục'' - dưới con mắt của nhiều nhà lãnh đạo ''Cánh đồng bất tận'' còn được nhìn nhận như một câu chuyện kể về ''tình dục nông thôn Việt Nam'' - và thẳng thắn hơn khi họ coi đó là một thứ dung tục, ngồn ngộn - một thứ hiện thực hóa cuộc sống mà những gì nó mang lại chỉ khiến con người ta cảm giác mơn trớn rờn rợn, một thứ bản năng tự nhiên của con người nhưng lại ẩn mình dưới dáng dấp của thú vật.

Xã hội hóa văn chương - văn chương hiện thực hóa đời sống - khi bản thân hai điều đấy song song tồn tại thì lại tạo ra những mâu thuẫn trái ngược nhau. Văn chương nhìn thẳng và soi rọi cái nhìn thẳng đứng của nó vào đời sống này, ngòi bút của nó lao đi như bản năng mách bảo, bằng chính đôi mắt nó nhìn cuộc sống, bằng đôi tai nghe những dư luận thiên hạ, bằng mũi để ngửi thấy mùi hương của cuộc sống dù nồng hay nhạt, bằng đấu lưỡi để cảm nhận cái vị của thiên nhiên, bằng chính 10 đầu ngón tay chạm vào dây thần kinh cuộc sống. 5 thứ giác quan con người ta được sinh ra đã có cùng với một thứ giác quan đặc biệt thứ 6 - giác quan - và vì thế trong nghệ thuật hãy để nó là đầu tựa cho cảm nhận của con người. Cuộc sống với 6 giác quan đấy hiện lên dưới ngòi bút chân thực sống động, là bức tranh tái hiện lại cuộc sống của con người, nhịp đập nó chưa hề và sẽ không ngừng ngơi nghỉ - nhưng không - khi con người ta nhìn trực diện vào bức tranh đấy họ lại gào thét, phá toang, phủ nhận tất cả. Bức tranh hiện thực ấy tan ra làm trăm mảnh. Cả không gian lẫn thời gian như thu hẹp lại, ngột ngạt, nồng đến khó thở. Bản năng lại lần nữa thôi thúc con người ta trốn chạy, vùng vẫy thoát ra khỏi. Nhưng cay nghiệt thay : hiện thực là hiện thực - nó là linh hồn hiện hữu của cuộc sống này. Bức tranh ấy dù có tan ra trăm mảnh nó vẫn là miền kí ức sống, tựa như cái mạch máu đang căng gồng trong não chúng ta...dồn dập, ứ đọng tưởng như sắp đứt. Có nhận ra chăng khi chúng ta đang mắc vào cái vòng luần quẩn của cuộc sống, cái bẫy mà người giăng là chính chúng ta ? Cái hố sâu vực thắm ấy hiện ra khi cái tôi - cái bản ngã của con người quá ư ích kỉ, bảo thủ và ươn hèn - không dám đối mặt - nhìn và trốn chạy - đã có một ai nghĩ đến chưa : chúng ta đang trốn trạy quá khứ, trốn tránh tương lai và lãng quên hiện tại - trong khi cái hiện tại mà chúng ta đang sống đang sinh tồn đã từng là ngày mai và sẽ ngắn thôi để trở thành ngày mai khi mà con tàu của thời gian vẫn lăn bánh trên chuyến tàu tốc hành của nó không ngừng nghỉ. Không có gì là xấu cho cái đúng cái sai, ai chẳng có mặc cảm của riêng mình, ai chẳng có lần từng chùn bước trước thử thách của cuộc sống này ! Mỗi cá nhân chỉ là một phần tử của cuộc sống, nhỏ nhoi như hạt cát nhưng chính cái phần tử nhỏ nhoi đấy đang dần nhen nhóm, đang tụ lại cung nhau và cùng sống dậy - sống để đi - đi để đến - để bằng 6 thứ giác quan đặc biệt kia - chính trái tim và tâm hồn sẽ hàn gắn lại bức tranh - nhưng lần này chất liệu pha trộn trong phẩm màu cuộc sống sẽ là lòng nhân ái bao dung tạo nên một bức tranh cuộc sống mang tên '' Nhân đạo''.

Nguyễn Ngọc Tư đã trót yêu cái cuộc sống này,yêu miền quê nơi nuôi dưỡng cô lớn lên và trưởng thành. Một cái nhìn không chỉ bằng đôi mắt mà bằng cả con tim, cô đã mang cuộc sống vào trong tâm hồn mình và dùng chính dòng máu của trái tim khắc tạc nên chân dung của nó. Bức tranh ấy hiện lên sao mà chua xót, đau đớn, máu và nước mắt nhưng lạ thay chính bằng dòng máu đang chảy trong cơ thể mình, bằng tình yêu cuộc sống và nhân loại, cô đã nhìn thấy giá trị nhân bản xót lại cuối cùng chính là không khí hơi thở cho mầm sống yếu ớt này - cho một ngày mai đang đến - đúng bằng chính âm vang của mình - chính những giá trị nhân văn, nhân bản và nhân đạo đấy sẽ làm tan chảy lớp ''keo sắt'' đang đóng băng trên bức tranh cuộc sống .
 
Chỉnh sửa lần cuối:
@ anh Linh: Gì nhờ, anh Linh bảo văn của em ĐT đầy hình ảnh à. Khà khà. Vào mà xem văn của em Vân Trang đây này. Mà khóc thét nhé, hớ hớ hớ! :))

@ Vân Trang: bình khá lắm, càng bình càng lên phím :D :> :)
 
Đoàn Trang đã viết:
@ anh Linh: Gì nhờ, anh Linh bảo văn của em ĐT đầy hình ảnh à. Khà khà. Vào mà xem văn của em Vân Trang đây này. Mà khóc thét nhé, hớ hớ hớ! :))

@ Vân Trang: bình khá lắm, càng bình càng lên phím :D :> :)

1. Đúng là khóc thét thật! Khóc rồi!

2. Trang biết trang này chưa nhỉ:

http://www.viet-studies.org/NNTu/ -> tất cả các sáng tác của NNTư

http://www.viet-studies.org/culture.htm -> trang Văn hóa, tất cả các bài liên quan đến vụ NNTư cũng có ở đây

L.

TB. Cũng ở đó, có link tới bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tuấn (NMT), có lẽ là nhà văn thị trường (hiểu theo nghĩa viết hấp dẫn, bán chạy) nhất của thời XHCN ở Việt Nam mình. NMT có mấy nhận xét về các nhà văn trẻ bây giờ (cả NNTư), nhưng chán quá!

***
Hỏi: Bận thế, anh còn quan tâm tới văn học trẻ VN bây giờ và cả những chuyện ì xèo văn chương như vụ "Cánh đồng bất tận" không? Anh có thích thú gương mặt trẻ nào về cách đặt vấn đề hay văn phong của họ?

- Tôi có theo dõi nhưng không tham gia. Vì người chê "Cánh đồng bất tận" cũng cảm tính mà người khen cũng cảm tính. Một số gương mặt trẻ tôi có tìm đọc như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu... Ưu thế của họ là viết rất phóng khoáng, không hoà chung, lẫn vào ai cả. Bản năng, năng khiếu họ rất giỏi. Nhưng tầm vóc tác phẩm họ còn thiếu và nhiều người gán cho tác phẩm họ những điều không có. Các cây bút trẻ chỉ mạnh ở truyện ngắn, chưa mạnh ở tiểu thuyết.
***

NMT hồi viết những best-seller của Việt Nam như "Đứng trước biển", "Những khoảng cách còn lại", "Cù lao Tràm" (cũng bị đấu tố như NNTư bây giờ, vì coi là bôi xấu Nam Bộ!), "Ngoại tình"... thì có gì là tầm vóc đâu. Đơn thuần là "hiện thực phê phán", viết khéo và hấp dẫn thôi, chứ thua xa bút lực của NNTư bây giờ.

Sau thì ổng đi viết kịch bản phim ăn khách mà thôi (cái này NMT tài).

Nhận với cả xét, cứ như bậc cha chú không bằng!
 
Chỉnh sửa lần cuối:
:D Anh Linh kinh nhỉ, chẳng hiểu sao mà bụng đầy tin! Hà hơi ra 1 cái là tin vãi ra lã chã như sương sớm :)D) như phun hoa nhả ngọc. :p
 
Đoàn Trang đã viết:
:D Anh Linh kinh nhỉ, chẳng hiểu sao mà bụng đầy tin! Hà hơi ra 1 cái là tin vãi ra lã chã như sương sớm :)D) như phun hoa nhả ngọc. :p

Ai lại khen thế cơ chứ... Cái em Trang này...

L.

TB. Tin trong óc, trong bụng đâu mà??? Bụng... bão hòa rồi :)
 
Nguyễn Mạnh Tuấn đã viết:
***
Hỏi: Bận thế, anh còn quan tâm tới văn học trẻ VN bây giờ và cả những chuyện ì xèo văn chương như vụ "Cánh đồng bất tận" không? Anh có thích thú gương mặt trẻ nào về cách đặt vấn đề hay văn phong của họ?

- Tôi có theo dõi nhưng không tham gia. Vì người chê "Cánh đồng bất tận" cũng cảm tính mà người khen cũng cảm tính. Một số gương mặt trẻ tôi có tìm đọc như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu... Ưu thế của họ là viết rất phóng khoáng, không hoà chung, lẫn vào ai cả. Bản năng, năng khiếu họ rất giỏi. Nhưng tầm vóc tác phẩm họ còn thiếu và nhiều người gán cho tác phẩm họ những điều không có. Các cây bút trẻ chỉ mạnh ở truyện ngắn, chưa mạnh ở tiểu thuyết.

***

Hễ mở miệng là đã cảm tính. Bất kể ai. Nói cái gì. Nói như thế nào. Nói nhiều hay nói ít.

Sở dĩ bởi xúc cảm là nguyên nhân và/hoặc hệ quả của quá trình tư duy, hành động.



Nguyên tắc căn bản trong quá trình tiếp nhận thông tin là sự hoài nghi, chọn lọc. Để thu về được những tri thức có tính đúng đắn, chuẩn xác tương đối.
 
:) to chị Trang : chị à, lần sau post bài em sẽ điều chỉnh phông chữ để mọi người dễ đọc hơn ^_____^ tại em hay để cảm hứng và cảm xúc lúc đấy đi theo hướng nào và chọn theo phông chữ mình thấy hợp lúc đấy - cảm tính quá nhỉ ^_____________^
 
Nhắc đến vấn đề cảm tính trong văn chương đôi lúc vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Cảm tính có thể coi như một động từ tính từ hay đơn thuần chỉ là danh từ. Nó thuộc về cả người viết cũng như người đọc. Có nhiều người sống theo cảm tính - đôi lúc tìm một cách lí giải thuần và gần hơn thì cảm hứng cảm xúc - cái tôi cái phần kín bên trong con người - cảm nhận cuộc sống - sống theo cái vị cảm đấy - viết như một linh tính, một mạch nguồn, sự mách bảo, kích thích, như cái tôi đang sống tồn tại trong cơ thể hữu thực. Cảm tính trong lòng độc giả - nhanh như điện xẹt hay mềm mại và hiền hòa như dòng nước, cũng là những qui trình khác nhau. Nếu goi là xử lý thông tin cũng là một cách ngắn gọn và dễ hiểu. Phải có bước tiến chạm vàp thông tin mới có cơ hội tiếp nhận nó. Thông tin đi theo nhiều hướng khác nhau đến và khi nó được phân giải trong người - thì mỗi người đều có một cách khác nhau -thông tin đó tự chọn hướng đi phù hợp cho mình. Không cần là một sự kết thúc văn bản vẫn tạo nên được cái kịch tính văn chương -kịch tính trong cảm tính của người đọc - dù là hời hợt hay sâu sắc - cảm nhận có thể ngắn hay dài. Sự tồn tại của thứ cảm tính này có thể được chính bản thân người viết và người đọc bao bọc và có đới sống lâu dài nhưng có lúc nó bị thay đổi hay tự thay đổi theo khuôn phép, bộ mặt của xã hội - cũng khó mà có thể đánh giá hay nhận định đấy là xấu hay tốt. Bản chất của ngôn từ đã hàm chứa những ngôn từ cá nhân nó mới lí giải được.

Người viết có thể cảm tính - hay cảm tính hóa câu chuyện của họ nhưng mỗi người đều có con mắt riêng của mình - dù là nó trần trụi hay ẩn mình khép nép - câu chuyện ẩn mình và hiện dần theo cái gọi là cảm tính- bước đầu nâng đỡ và dìu dắt khởi nguồn của văn chương. Nghệ thuật không có giới hạn - tồn tại trong lòng cuộc sống.

Người đọc có thể cảm tính - yêu hay ghét - khen hay chê - con mắt đởi thực và con mắt tâm hồn cho họ cái quyền phàn xét dù không là trước công luận xã hội cũng là cho chính bản thân mình. Vậy chăng nên nói là xấu - có thể khó thẩm định là tốt, là xu hướng, là thời thế, là chuần mực gì cũng được - nhưng chắc cũng nên cảm ơn cái gọi là ''cảm tính'' phần nào vì nó đã đánh thức cái phần hồn đôi lúc đang chết dần chết mòn trong con tim của chúng ta.

Dưới hình thức nào chăng nữa - mỗi con người chúng ta đều có những nhận định về xã hội cuộc sống của riêng mình - khó mà ngăn cản cái mạch nguồn cảm xúc ấy nhưng cũng khó mà tránh dư luận xã hội làm lung lay và khiến chúng ta điêu chỉnh lại cảm nhận ban đầu - âu cũng là qui luật của xã hội, của đào thải. Nhưng có một điều - chắc hẳn ai trong chúng ta cũng nhận thấy văn chương có đởi sống của riêng nó - dù thực dù hư - dù xa dù gần - dù hoang tưởng , trừu tượng hay thật đến không ngờ - nó đã, đang và sẽ tồn tại và sinh trưởng như một thực thể cùng chúng ta - có quá chăng khi nói - và hơn nữa nó giúp con người ta có cơ hội nhìn nhận lại cuộc sống và trực diện vào mỗi cá nhân mình .....?
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Em đã đọc truyện này cách đây mấy tháng trên báo Văn Nghệ.

Từ đầu đến giờ đọc những bài mà mọi người bình,thấy mình ngộ ra nhiều điều quá. Có những cảm xúc khi đọc xong mà không thể gọi tên nó là cái gì. Em đã tự hỏi liệu có phải mình chưa đủ lớn để đọc và hiểu nó không. Nó làm em có một cái nhìn mới về cuộc sống này hơn. Vẫn biết cuộc sống không bao giờ là màu hồng nhưng dường như nó cũng không là màu xanh của hi vọng như người ta thường nói. Nó không xám xịt hay đen tối, nó mang những mảng màu tím u uất và cả màu đỏ của đau thương. Mới 17 tuổi,em mới chỉ nhìn thấy những mảng màu của vui của buồn, chưa bao giờ em lại nghĩ có những mảng màu đau đớn và lạnh lùng đến vậy.

Khi đọc chi tiết người ta hành hạ người phụ nữ kia bằng cái cách đó, một cảm giác rùng mình làm em lạnh người. Chẳng phải chỉ vì cái cách hành hạ đó quá ư là dã man nhưng mà còn vì em không nghĩ đến đó là cách xử sự của con người với con người. Nó cay độc,đúng, cay độc.

Em đọc ở trên có một bài của 1 chị lớp Văn viết rằng câu chuyện này không hề mang tính đời thường và nhân đạo, rằng truyện mới ngày nay dường như chỉ toàn những thứ dung tục.Vi Thùy Linh và Đỗ Hoàng Diệu thì em không dám nói vì chưa đọc nhiều. Nhưng nếu nói Võ Thị Hảo hay Nguyễn Ngọc Tư là viết truyện với chủ đề dung tục thì em khó đồng ý.Chủ đề của "Cánh đồng bất tận" là gì? Nếu chủ đề của nó là dung tục thì có lẽ nhà văn chỉ cố gây ấn tượng và thu hút người đọc vào những chuyện thú tính và khuyến khích con người ta thỏa mãn những gì được coi là bản năng tự nhiên. Còn Nguyễn Ngọc Tư, chả lẽ chúng ta không thấy cái đau đớn mà nhà văn cảm nhận khi viết từng trang truyện. Phải, Nguyễn Ngọc Tư không lên án người phụ nữ làm cái nghề bị khinh mạt kia, mà Nguyễn Ngọc Tư muốn nhìn sâu hơn vào tâm hồn con người ấy. Không ai cổ vũ gì chuyện đó nhưng con người ta không thể nhìn sự việc chỉ bằng một phía. Đọc "Cánh đồng bất tận" khó mà có được một cảm giác thỏa mãn hay bị kích thích về thú tính, nó làm người ta thấy đau, thấy sợ, thấy xót nhiều hơn chứ???

Công nhận những văn mới ngày nay có đề cập nhiều đến những vấn đề nhạy cảm. Người ta khó chấp nhận nó vì người ta đã quen với thứ văn chương mềm mại và đi ca ngợi tình người, lòng nhân ái đơn thuần. Giống như khi Thơ Mới xuất hiện, nó cũng đã gây nhiều tranh cãi và gặp nhiều phản đối. Bởi nó mới. Con người ta thường ngại thay đổi. Khi "Giàn thiêu" của Võ Thị Hảo xuất hiện, nó cũng gây nhiều tranh cãi. Nhưng phải công nhận Võ Thị Hảo mượn chuyện xưa mà nói chuyện nay rất tài tình. Nhìn vào Từ Lộ mà ta thấy có phần nào của ta ở trong đó: luôn hối tiếc những gì mà mình không được tận hưởng ở cuộc sống trần tục...Phải chăng nó là suy nghĩ cố hữu của con người?

Khi đọc "Món tái dê" của Hồ Anh Thái hay "Đôi tay lạ" của Trần Thanh Sơn, có lẽ sẽ còn thấy rùng mình hơn về một xã hội loài người đầy ham muốn. Em chưa đủ kinh nghiệm đời sống để nói được điều đó là đúng hay sai, và văn chương cũng cần thời gian để chứng minh cho giá trị của nó, vì thế chỉ dám đưa ra vài lời cảm nhận trẻ con thế thôi:D
 
@ em Trang: chị nghĩ Nguyễn Mạnh Tuấn dùng 'cảm tính' ở dạng tính từ.

Ám chỉ người bình duy cảm hơn là/thay vì duy lý khi nhận định.
 
:) chị à, đấy cũng chính là một phần trong những gì em đã nói - độc giả nói chung hay giới trẻ nói riêng, thường đặt cảm xúc của mình lên, cũng như thế cảm tính mạnh - đúng như ở vị trí của một tính từ. Dễ để sinh ra thứ cảm tính nhất thời nhưng có lẽ cần thời gian lâu hơn để đánh giá hay nhìn nhận một sự việc đa chiều. Mỗi người có cảm quan riêng, em nghĩ đấy là điều dễ hiểu. Mọi người có thể nói giới trẻ nhìn chung bốc đồng, sống cảm tính - cảm tính đấy cũng có thể là trung thực với nhận định của bản thân hay là do ảnh hưởng bên ngoài - sống là quá trình mà bản thân nó bao gồm trao đổi hóa thông tin, cá nhân hóa xã hội dưới con mắt của mình - cảm tính cũng có thể cao hơn, xa hơn, kích thích hơn khi đây là sự kết nối giữa một cộng đồng, một tập thể, một nhóm cùng chung quan điểm. Không phải ai cũng vạch định cho mình một cái nhìn cụ thể, một lối sống duy tâm, họ có thể tiếp nhận cái bên ngoài xã hội và cuộc sống nhiều hơn. Nên một nghĩa nào đấy cảm tính không chỉ đại diện cho một cá nhân mà cũng có thể cho một tập thể. Một cá nhân bắt gặp cái nhìn, quan điểm sống của tập thể - họ đồng cảm - vô hình chăng cảm tính cũng được coi là một điểm nhìn của xã hội - có thể đẩy mọi người ra xa nhưng cũng kéo vào gần ?
 
Chẳng hiểu có thể gọi là nhạy cảm khi nói đến tầm vóc của một câu chuyện? Đúng một khía cạnh nào đấy nó là thước đo cho cái hình hài mà nhà văn tạo dựng đến với công chúng. Tầm vóc ấy sẽ hiện lên dưới khía cạnh như thế nào : chủ đề, nghệ thuật, số lượng độc giả, sự trường tồn trong thế giới văn chương và trong lòng người đọc hay đơn giản chỉ tóm gọn trong 4 chữ '' tác phẩm văn học''? Đúng là mỗi truyện ngắn dù ít dù nhiều cũng chính là để truyền tải cái suy nghi, hình ảnh của người viết. Họ viết cái mình cảm, họ viết cho cái đam mê văn chương, cho cảm xúc bản thân - nhưng liệu có thực sự ai cũng đặt ngọn đuốc tầm vóc phía trước ngòi bút của minh?

Lắm lúc cũng tự hỏi về cái đời sống của văn chương, về một bước tiến trong nền văn học Việt Nam - những cây bút trẻ thổi hồn, mang hơi thở mới vào thi đàn văn chương, có thể nói họ phóng khoáng, cái nhìn chân thực, là dung tục, là xã hội hóa văn chương bằng góc nhìn đơn độc của riêng mình. Những phiếm đàn phiếm luận về điều này chắc đã đang và sẽ tranh cãi - còn điểm nhìn - còn quan niệm - còn cái tôi cá nhân - còn tập thể - còn âm ỉ ngọn lửa cháy. Một tác phầm làm dậy sóng trong lòng người đọc - nhiều khi đơn giản lắm vì họ nhìn thấy cái tôi, cái nhìn cuộc sông của mình trong đấy. Bắt gặp chính mình, bắt gặp hồi ức khó ai không giật mình...thảng đâu đây cái tôi đang ngay cạnh mà không biết. Những mảng sống của thế giới bất chợt gặp nhau dưới ánh nhìn của văn chương. Tự dưng thấy chút gì xa lạ khi dùng từ ''tầm vóc''- khi mà nó đang hiển hiện giữa lòng người đọc đấy thôi. Hội tụ tại một điểm nhìn - nhưng con mắt cùng nhìn về một phía. Nên khuyến khích giới trẻ viết lắm chứ - ngoài cái nhu cầu bản thân, cuộc sống này là nguồn cảm hứng cho các nhà văn đấy thôi. Viết - để viết - theo cái nghĩa đơn giản và trung thực nhất của nó - cũng hay đấy chứ - tồn tại và sống. Sức sống của văn học chính trong đời sống thường nhật.

Mặt còn lại, chắc chẳng cần nói hay bàn cãi nhiều về ''tầm vóc'' - chúng ta vẫn có những tượng đài văn học - làm sống dậy một thời kì, một thể kỉ văn chương. Là một đích đến, là khao khát, là hoài bão của một đời văn, nó đẹp và đáng trân trọng.

Có chăng muốn nói nhiều hơn về một tác phầm đời thường, chưa định nghĩa đến tầm vóc nhưng sống trong lòng người đọc và hình như sinh linh đấy đang lớn dần.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
:D em à, 'cảm tính' (tính từ) chỉ sự mất/thiếu thăng bằng cảm xúc khi tư duy.

Không ai tranh cãi vấn đề cảm tính (danh từ) tồn tại đồng thời song song với tư duy. Tuy nhiên chị nghĩ cái ông NMT nhấn mạnh là sự cân bằng của nó trong quá trình phê và bình ;)


TB. chị cũng biết và hiểu em đã đề cập đến điều chị nói trong bài viết trước của em mà :)


Nguyễn Vân Trang đã viết:
:) chị à, đấy cũng chính là một phần trong những gì em đã nói - độc giả nói chung hay giới trẻ nói riêng, thường đặt cảm xúc của mình lên, cũng như thế cảm tính mạnh - đúng như ở vị trí của một tính từ. Dễ để sinh ra thứ cảm tính nhất thời nhưng có lẽ cần thời gian lâu hơn để đánh giá hay nhìn nhận một sự việc đa chiều. Mỗi người có cảm quan riêng, em nghĩ đấy là điều dễ hiểu. Mọi người có thể nói giới trẻ nhìn chung bốc đồng, sống cảm tính - cảm tính đấy cũng có thể là trung thực với nhận định của bản thân hay là do ảnh hưởng bên ngoài - sống là quá trình mà bản thân nó bao gồm trao đổi hóa thông tin, cá nhân hóa xã hội dưới con mắt của mình - cảm tính cũng có thể cao hơn, xa hơn, kích thích hơn khi đây là sự kết nối giữa một cộng đồng, một tập thể, một nhóm cùng chung quan điểm. Không phải ai cũng vạch định cho mình một cái nhìn cụ thể, một lối sống duy tâm, họ có thể tiếp nhận cái bên ngoài xã hội và cuộc sống nhiều hơn. Nên một nghĩa nào đấy cảm tính không chỉ đại diện cho một cá nhân mà cũng có thể cho một tập thể. Một cá nhân bắt gặp cái nhìn, quan điểm sống của tập thể - họ đồng cảm - vô hình chăng cảm tính cũng được coi là một điểm nhìn của xã hội - có thể đẩy mọi người ra xa nhưng cũng kéo vào gần ?
 
Cho em VT bình, để chị ĐT phê nhé ;)

Bàn về tầm vóc các tác phẩm VN, chị nghĩ ý NMT là các nhà văn thì mối quan tâm chỉ vẫn quẩn quanh trong lũy tre làng :D

Về điểm này, chị thấy có nhà văn hải ngoại Thuận hay viết tiểu thuyết chứ không phải truyện ngắn, và tầm phạm vi bối cảnh lẫn chủ đề khá rộng. Thuận lợi và lợi thế do đang sinh sống ở nước ngoài lại lớn như nước Pháp.

Nguyễn Vân Trang đã viết:
Chẳng hiểu có thể gọi là nhạy cảm khi nói đến tầm vóc của một câu chuyện? Đúng một khía cạnh nào đấy nó là thước đo cho cái hình hài mà nhà văn tạo dựng đến với công chúng. Tầm vóc ấy sẽ hiện lên dưới khía cạnh như thế nào : chủ đề, nghệ thuật, số lượng độc giả, sự trường tồn trong thế giới văn chương và trong lòng người đọc hay đơn giản chỉ tóm gọn trong 4 chữ '' tác phẩm văn học''? Đúng là mỗi truyện ngắn dù ít dù nhiều cũng chính là để truyền tải cái suy nghi, hình ảnh của người viết. Họ viết cái mình cảm, họ viết cho cái đam mê văn chương, cho cảm xúc bản thân - nhưng liệu có thực sự ai cũng đặt ngọn đuốc tầm vóc phía trước ngòi bút của minh?

Lắm lúc cũng tự hỏi về cái đời sống của văn chương, về một bước tiến trong nền văn học Việt Nam - những cây bút trẻ thổi hồn, mang hơi thở mới vào thi đàn văn chương, có thể nói họ phóng khoáng, cái nhìn chân thực, là dung tục, là xã hội hóa văn chương bằng góc nhìn đơn độc của riêng mình. Những phiếm đàn phiếm luận về điều này chắc đã đang và sẽ tranh cãi - còn điểm nhìn - còn quan niệm - còn cái tôi cá nhân - còn tập thể - còn âm ỉ ngọn lửa cháy. Một tác phầm làm dậy sóng trong lòng người đọc - nhiều khi đơn giản lắm vì họ nhìn thấy cái tôi, cái nhìn cuộc sông của mình trong đấy. Bắt gặp chính mình, bắt gặp hồi ức khó ai không giật mình...thảng đâu đây cái tôi đang ngay cạnh mà không biết. Những mảng sống của thế giới bất chợt gặp nhau dưới ánh nhìn của văn chương. Tự dưng thấy chút gì xa lạ khi dùng từ ''tầm vóc''- khi mà nó đang hiển hiện giữa lòng người đọc đấy thôi. Hội tụ tại một điểm nhìn - nhưng con mắt cùng nhìn về một phía. Nên khuyến khích giới trẻ viết lắm chứ - ngoài cái nhu cầu bản thân, cuộc sống này là nguồn cảm hứng cho các nhà văn đấy thôi. Viết - để viết - theo cái nghĩa đơn giản và trung thực nhất của nó - cũng hay đấy chứ - tồn tại và sống. Sức sống của văn học chính trong đời sống thường nhật.

Mặt còn lại, chắc chẳng cần nói hay bàn cãi nhiều về ''tầm vóc'' - chúng ta vẫn có những tượng đài văn học - làm sống dậy một thời kì, một thể kỉ văn chương. Là một đích đến, là khao khát, là hoài bão của một đời văn, nó đẹp và đáng trân trọng.

Có chăng muốn nói nhiều hơn về một tác phầm đời thường, chưa định nghĩa đến tầm vóc nhưng sống trong lòng người đọc và hình như sinh linh đấy đang lớn dần.
 
Đoàn Trang đã viết:
Bàn về tầm vóc các tác phẩm VN, chị nghĩ ý NMT là các nhà văn thì mối quan tâm chỉ vẫn quẩn quanh trong lũy tre làng :D

Hihi, NMT thi viết được quái gì vượt khỏi lũy tre làng đâu?

Đề tài, nhiều khi rất lặt vặt, đời thường, như một cơn đói, một vụ ăn cắp... vẫn có thể tạo thành một tác phẩm hay (có thể lấy ví dụ dễ dàng, cả Tây lẫn ta). Còn viết kém thì đề tài có rộng như... "Chiến tranh và hòa bình" vẫn chỉ là sự phụ họa, là thứ văn học minh họa, tuyên truyền, xi-rô... (như đa số các tác phẩm viết về chiến tranh của ta vậy).

L.
 
Nguyễn Hoàng Linh đã viết:
Hihi, NMT thi viết được quái gì vượt khỏi lũy tre làng đâu?

Đề tài, nhiều khi rất lặt vặt, đời thường, như một cơn đói, một vụ ăn cắp... vẫn có thể tạo thành một tác phẩm hay (có thể lấy ví dụ dễ dàng, cả Tây lẫn ta). Còn viết kém thì đề tài có rộng như... "Chiến tranh và hòa bình" vẫn chỉ là sự phụ họa, là thứ văn học minh họa, tuyên truyền, xi-rô... (như đa số các tác phẩm viết về chiến tranh của ta vậy).

Cái nào ra cái nấy chứ nhỉ. Đang bàn tới tầm vóc tác phẩm ở đây. Chứ đâu có đả động gì đến chất lượng tác phẩm?

Chủ đề tác phẩm nếu về các vấn đề xã hội thì đương nhiên xã hội nào càng lớn, càng nhiều vấn đề lại càng mở rộng phạm vi hoạt động cho các nhà văn đào bới, khai quật nuôi lớn phổng các sáng tác.
 
Back
Bên trên