Quyết tâm ko bàn về Tôn giáo nữa nhưng sợ mọi người "hỉu nhầm " (cái này trên TTVNOL ko sao nhưng ở HAO thì tớ cảm thấy nó có Tình người hơn ) nên đành phải viết trả lời chị Giao . Em nói chưa đọc Bai Bờ Lờ thì đúng là thế nhưng ko có nghĩa tất cả các tác phẩm viết về Tôn giáo , ấy nên tất cả các đoạn trích hẳn nhiên nó chẳng đến nỗi sai với nguyên tác chứ ? Nó ko sai , nhưng theo chị nó ko hợp Văn cảnh ? Vậy xin hỏi chị , một cuốn sách dạy cho cả Trẻ em , cho hàng bao nhiêu người học hỏi thì nên có cái lời đó chăng ? Đấy , em thú nhận là chưa đọc Bai Bờ Lờ nên đề nghị mọi người cho xin những lời nói tốt đẹp ở trong cuốn sách ấy . Nó khó kiếm lắm phải ko ?
Thấy chị nhớ Văn nhiều , em chẳng nhớ nổi , dân khối A quanh năm nhai nhưng con số nhưng thi thoảng có nghịch tý , tạm trích bài viết này tặng chị ,coi như câu trả lời cho Đề Văn của chị nhé .
------------------------------------------------------------------------
I.Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và Thệ Phản Giáo dưới chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy.
Tác phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Qúi Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản Hè 2003. Nguyên tác bằng tiếng la-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh mục “quan án đạo” là Heinrich Kramer và James Sprenger. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1486 để làm tài liệu chính thức cho các quan tòa án đạo xử dụng.
Mấy trang đầu sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh của giáo hoàng là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy. Đây là chứng tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo dài 300 năm (1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép vào tội phù thủy. Người phụ nữ có thể bị người hàng xóm thù ghét vu cáo cho tội đã dùng bùa phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là người phụ nữ đó có thể bị truy tố ra Tòa Án Đạo và bị kết tội phù thủy. Một phụ nữ bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm có hình thù đặc biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma qủi. Người phụ nữ đó có thể bị kết án về tội phù thủy.
Vào đầu thế kỷ 15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) được giáo hoàng cử làm các quan án xử tội phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có 100,000 người bị giết bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.
Năm 1572, tại Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với phù thủy hơn cả công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu sống 20,000 người riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000 người bị đưa lên dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.
Sắc lệnh 9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII
Sắc lệnh của giáo hoàng đưa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy,thầy pháp, bói toán, ... Giáo hoàng cũng đưa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riệng ông ta để dạy dỗ các quan án :
- Các phù thủy có thể thông đồng với “qủi đực, qủi cái” để gây ra bão táp phá hoại mùa màng, giết hại súc vật.
- Bọn phù thủy đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay qủi dữ và có khả năng xử dụng tà thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.
- Phù thủy có khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh hoạn. Họ kết ước với ma qủi để có thể biết trước tương lai bằng cách đoán mộng.
Đó là tiêu biểu những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã tán bậy theo sự suy tưởng ngu xuẩn của hắn. Chủ trương diệt phù thủy thực sự đã bắt nguồn từ Cựu Ước, ít nhất từ 3000 năm trước CN:
- Deut. 7:16 (Sách Phục Luật) “ Ngươi phải diệt các dân tộc mà Thiên Chúa của ngươi đã giao cho ngươi”.
- Deuteromy 18:10 “Phải giết hết các thầy pháp và các thầy bùa ngải”.
- Leviticus 19:26 “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân chúng”.
- Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”.
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
II. Quan Niệm của đạo Hồi về Phụ Nữ.
Số tín đồ Hồi giáo hiện nay trên 1 tỷ 200 triệu, trải rộng khắp các lục địa gồm nhiều quốc gia dân tộc với những tục lệ và luật pháp khác nhau. Do đó, số phận của phụ nữ mỗi nơi một khác. Tuy nhiên, vượt lên trên mọi dị biệt của địa phương, kinh thánh Koran và “thánh luật” Sharia là hai bộ sách luật pháp tối cao quyết định phần lớn số phận của người phụ nữ Hồi giáo.
- Koran 33:53 “Phụ nữ phải mặc kín đáo hoàn toàn, không được để lộ phần nào của cơ thể trước mặt bất cứ một người đàn ông nào, bao gồm cả mặt và tay”.
- Koran 4:34 “Đàn ông có thẩm quyền trên người đàn bà. Chúa sinh ra đàn ông cao qúi hơn đàn bà. Đối với phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ và đánh đập”.
- Koran 2:22 “Đàn bà là “cánh đồng lạc thú”, đàn ông có quyền chủ động bước vào nếu muốn”.
Các thánh tử đạo lên thiên đàng được chúa Allah cấp cho mỗi người 72 trinh nữ để hưởng lạc suốt đời. Kinh Koran coi “Thiên Đường là khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời”.
Đàn ông không có tội “ngoại tình” vì có quyền lấy nhiều vợ. Đàn bà không được lấy người thứ hai ngoài chồng. Khi bị buộc vào tội ngoại tình thì người đàn bà phải bị đưa ra cho công chúng ném đá cho đền chết.
Tại Afganistan, phụ nữ không được đi học. Các cán bộ tôn giáo có nhiệm vụ như cảnh sát. Họ được trang bị một cái roi dài, quấn dây cáp bằng thép, dùng để đánh bất cứ một phụ nữ nào trên đường phố mà mặc y phục không đúng qui định, như mặc quần áo bó sát thân hình, để lộ vớ trắng ở bàn chân, đeo nữ trang, đi giầy gây tiếng kêu. Phụ nữ bị cấm đi học, cấm làm việc, cấm đi xe đạp, v.v...
Tuy nhiên, mọi sự cấm đoán vô lý và quá đáng cuối cùng sẽ bị phản ứng ngược lại. Xưa kia, trong thế giới Hồi giáo ít có ai dám viết sách chống lại đạo Hồi. Cách đây vài thập niên, nhà văn Anh gốc Ấn rất nổi tiếng là Salmon Rushdie đã dám viết tiểu thuyết “Satanic Verses” chống đạo Hồi và bị giáo chủ Khomeni lên án tử hình. Nhưng ngày nay, người ta thấy có nhiều sách do chính các tín đồ Hồi giáo viết để lên án Hồi giáo và kêu gọi cải tổ. Chẳng hạn như tác phẩm “Tại sao tôi không theo đạo Hồi” (Why I am not a Muslim) của Ign Warra (Prometheus Books xuất bản năm 2003). Ngay ở trang đầu cuốn sách, tác giả đã trích dẫn câu nói rất nổi tiếng của triết gia kiêm sử gia Pháp Joseph Ernest Renan (1823-1892): “Những tín đồ Hồi giáo là những nạn nhân đầu tiên của đạo Hồi. Rất nhiều lần trong các cuộc du lịch của tôi tại phương Đông, tôi thấy sự cuồng tín của một nhóm ít người nguy hiểm đã buộc người khác phải theo đạo bằng cách khủng bố. Giải phóng tín đồ Hồi giáo thoát ra khỏi tôn giáo của họ là việc làm tốt nhất mà chúng ta có thể làm cho họ” (Muslims are the fisrt victims of Islam. Many times I have observed in my travels in the Orient, that fanatism comes from a small number of dangerous men who maintain the others in the practice of religion by terror. To liberate the Muslim from his religion is the best service that one can render him).
Điều làm tôi cảm thấy vui là mới đây xuất hiện một cuốn sách tựa đề “Chuyện rắc rối với đạo Hồi” (The Trouble with Islam) của Irshad Manjii, một nữ tín đồ Hồi giáo ở Đông-Phi (East Africa), Random House, Canada xuất bản 2003. Tác giả tố cáo các chính quyền Hồi giáo trên khắp thế giới xâm phạm nữ quyền và kêu gọi toàn toàn thế giới can thiệp để cải tổ đạo Hồi :
- Tại Nigeria, một cô gái 17 tuổi bị các bạn của cha cô hiếp dâm; có 7 nhân chứng, nhưng cô ta vẫn bị tòa án Hồi giáo phạt đánh 180 roi.
- Tại Pakistan, hiện nay mỗi ngày có ít nhất 2 phụ nữ bị giết vì “honor killing”
- Tại Tunisia và Algéria, phụ nữ Hồi không được lấy chồng ngoài đạo Hồi.
- Cảnh sát Saudi Arabia bắt giam các phụ nữ mua hoa, quà tặng, hay mặc áo đỏ trong dịp lễ Valentine.
- Khi vào đền thờ Hồi giáo, đàn ông và đàn bà đi vào bằng các cửa khác nhau. Đàn bà đứng sau đàn ông, do đó đàn bà có thể nhìn thấy đàn ông, nhưng đàn ông không nhìn thấy đàn bà. Trong đền thờ, chỉ đàn ông có quyền điều khiển các buổi đọc kinh. Đàn bà bị cấm triệt để, vì kinh Koran đã qui định rõ như vậy : “Girls can’t lead prayer. They are not permitted”.
Irshad Manjii là một phụ nữ Hồi giáo trẻ tuổi đã khám phá ra một điều mà tác giả cho là mới mẻ và đáng ngạc nhiên. Trước đó, Manjii nghĩ Hồi giáo là một tôn giáo riêng biệt, nhưng sau đó Manjii mới biết Hồi giáo đã phát sinh từ truyền thống Do Thái – Kitô giáo (Islam comes from Judae-Christian traditions). Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo là ba đạo độc thần, đều là con cháu của một ông tổ chung là Abraham. Hồi giáo là món quà tặng từ Do Thái giáo (Islam is a gift of the Jews). Vấn đề được đặt ra là tại sao Hồi giáo, Do Thái giáo và Kitô giáo lại căm thù nhau, chem giết nhau không nương tay. Đáng lẽ cả ba đạo phải thân thiết nhau mới phải, vì cả hai đều thờ chung một Chúa và cùng một gốc Abraham! Lý do đơn giản là bản chất của độc thần giáo là tự cho đạo của mình có độc quyền chân lý, là “chánh đạo” còn tất cả những ai có ý nghĩ khác họ là “tà đạo”.
III. Thái độ tôn trọng và ca ngợi phụ nữ trong văn chương bình dân Việt Nam.
Dân tộc chúng ta theo truyền thống thờ cúng Tổ Tiên, nên rất tôn kính Ông Bà, Cha Mẹ. Chúng ta coi cha mẹ ngang nhau :
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.
Cha mẹ là hình ảnh của vợ chồng vì phải là vợ chồng rồi mới thành cha mẹ. Vợ chồng là đầu mối của gia đình, gia tộc và dân tộc. Vì tầm mức quan trọng của mối liên hệ vợ chồng như vậy, nên dân tộc ta đã đưa mối liên hệ vợ chồng thành “Đạo Vợ Chông”, đặt trên căn bản kết ước lâu dài trọn cuộc đời :
Đạo vợ chồng khó lắm anh ơi
Không như ong bướm đậu rồi lại đi.
Vợ chồng bình đẳng và lo giúp đỡ nhau tác động hai chiều:
Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau nương cậy để phòng nắng mưa.
Đôi ta như rắn liu điu
Nước chảy mặc nước, ta đìu lấy nhau.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay
Làm nên danh vọng hay ăn mày cũng theo.
Thuận vợ, thuận chồng
Tát bể Đông cũng cạn.
Trong đời sống gia đình Việt Nam, người phụ nữ luôn luôn đóng vai chính, biểu lộ lòng yêu thương và hy sinh cho gia đình, luôn luôn cần cù siêng năng, chịu khó chịu khổ, tự lực tự cường, chỉ biết trông cậy vào sức mình để lo bản thân, cho gia đình, cho con cái, cho dòng tộc và luôn cho cả đất nước. Phụ nữ Việt Nam giống như hình ảnh con cò trên đồng ruộng :
Trời sinh mẹ đẻ tay không
Nên tôi bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con
Một mai khôn lớn vuông tròn
Rủ nhay bay khắp nước non xa gần.
Nhà thơ Tú Xương ví vợ của ông như con cò ở ven sông :
Thân cò lặn lội bờ sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lịch sử Việt Nam cho thấy nhiều phụ nữ là những anh thư liệt sĩ, như bà Triệu, bà Trưng, Nguyễn thị Xuân :
Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh.
Ghé vai gánh vác sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam.
Phụ nữ Việt còn biểu lộ đức tính tự trọng, và hiên ngang lên tiếng chống lại cường quyền. Dưới thời nhà Nguyễn, nhiều nhà nho bị hủ hóa vì tư tưởng Tống Nho, khinh thường văn hóa nước nhà :
“Nôm na là cha mách qué”
coi các nguyên tắc cứng ngắc của Khổng Mạnh như những khuôn vàng thước ngọc. Bà vợ Việt Nam chống lại ông chồng hủ nho chỉ biết trọng cái vỏ hư danh bề ngoài mà không biết lo thực tế :
Ra ngoài làm dáng anh đồ
Về nhà hỏi vợ: “Cám khô đâu mày?”
Cám khô tao để cối xay
Chó mà ăn hết thì mày đừng ăn.
Ngày 6-3-1828, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm phụ nữ không được mặc váy. Phụ nữ dám dùng lời mỉa mai châm biếm chống lại triều đình :
Chiếu Vua mồng sáu tháng ba,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì bắt lột quần chồng sao đang!
Có một đức tính rất đặc biệt ở người phụ nữ Việt Nam mà ít có phụ nữ của một nước nào khác có thể có được. Đó là đức tính nhẫn nhịn :
Một câu nhịn, chín câu lành.
Chữ “Nhẫn” là chữ tượng vàng,
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa thì đời nào khê.
Nói đây cho chị em nhà
Còn dăm bát gạo, còn vài lạng bông
Bán đi trả nợ cho chồng
Còn ăn, hết nhịn, bằng lòng chồng con
Đắng cay ngậm quả bồ hòn.
Vì có nhiều đức tính cao qúi nên phụ nữ Việt Nam được tôn trọng từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong một số trường hợp, ý kiến của phụ nữ còn được tôn trọng hơn ý kiến của chồng :
Lệnh ông không bằng cồng bà
Có một câu nói phổ biến trong dân gian, câu nói đó không vần không điệu nhưng cũng rất thông thường trên cửa miệng nhiều người đàn ông Việt Nam. Đó là câu “Nhất Vợ, nhì Trời”.
Dù cho câu nói này chỉ là một câu nói đùa, nhưng nó vẫn là một câu nói độc đáo, vì trong các nền văn hóa độc thần không thể nào có một câu nói tương tự. Những câu nói như “Con cóc là cậu ông Trời” chỉ có thể có trong văn hóa Việt Nam, vì đại đa số dân tộc Việt Nam , tuy hay nói tới “Ông Trời”, nhưng không bao giờ họ tin rằng Ông Trời là Đấng Tối Cao hay Đấng Tạo Hóa Toàn Năng. Các linh mục Công giáo và các mục sư Tin Lành luôn luôn viết sách, viết báo, giảng đạo trên đài phát thanh hay trong các giáo đường, cố gắng đồng hóa “ông Trời” của văn hóa Việt với “Đức Chúa Trời” của đạo KiTô. Họ hí hửng tin rằng: hề người Việt Nam tin có “ông Trời” sẽ đương nhiên tin có “Đức Chúa Trời” mà họ tôn thờ. Thực sự, đối với người Việt Nam, “ông Trời” chỉ là bầu trời xanh, là năng lực thiên nhiên, là sự vận hành của vũ trụ, ... Thế còn sao lại gọi Trời bằng “ông”. Thưa rằng ngưòi Việt chúng tôi còn gọi nhiều “vật” bằng “ông” lắm, như “ông bình vôi”, “ông ba mươi”, v.v... Khi người bình dân Việt nói “Nhất Vợ Nhì Trời” là họ thật sự đặt các bà xã của họ ngồi lên đầu “Ông Trời” đó. Tôi khuyên các linh mục Công giáo và các mục sư Thệ Phản giáo không nên ví “ông Trời” của văn hóa Việt với Chúa Trời của các ông, kẻo bị hiểu nhầm là các bà xã ở nhà được ngồi trên đầu Chúa!
------------------------------------------------------------------------
Nếu ai ko thích bài viết trên thì có thể coi là Đả kích Kito giáo cũng được nhưng nên nhớ người ta ko cho cuốn sách "Người Trung Quốc " xấu xí là Đả kích đâu nhé .
Nhân đây , thấy có một bạn đề cập đến có hay ko có Chúa . Tớ trích dẫn một số ý tớ hay những người cùng thảo luận với tớ viết nhé :
Sự ko tin vào tôn giáo nào cũng chưa hẳn đã giúp tôi được cái gì Nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy sung sướng vì ko bị tôn giáo nào ràng buộc cả. Có lẽ đó là cái lợi của sự ko theo tôn giáo nào chăng? Nhớ có lần cậu bạn người Hồi cứ bảo vào Đạo đi. Cuối cùng tôi hỏi:
- "Vậy Chúa tồn tại thì Người nhìn thấy trước hết mọi sự phải ko",
- "Phải".
- "Tức là thực ra mọi chuyện đều được an bài rồi chứ gì"?
- "Phải"
- "Vậy việc tôi vào Đạo hay ko cũng do ý Chúa cả mà! Nếu Chúa muốn tôi vào Đạo thì người chỉ cần búng tay một cái là xong"
- .....
Thực sự thì tôi ko thấy có lý do gì khiến tôi phải vào Đạo nào cả. Mà giả sử định vào thì có cả tỉ cái Đạo, anh nào cũng bảo mình đúng thì biết tin ai - trong khi thực tế chả anh nào chứng minh được tử tế cả, hì hì hì hì. Một số người cho rằng Đạo làm con người sống tử tế hơn, lương thiện hơn - với những người này thì tôi yêu cầu họ cho một cái nghiên cứu xã hội thử xem tỉ lệ tội phạm trong người ko có Đạo có hơn người có Đạo ko, nhưng chưa ai có một cái nghiên cứu như vậy cả thì phải.
Thực ra câu hỏi "Có Chúa ko?" với tôi cũng giống như "Vũ trụ bắt đầu thế nào", hoặc là "Vũ trụ sẽ về đâu?" Nghĩa là tôi chỉ hi vọng có thể đợi người ta trả lời được một cách khoa học.
Thế KHÔNG SỢ 1 "Thượng Đế" (mà nghe 1 người 2000 năm trước nói là có thực) có làm con người ta sống xấu hơn không?
Có lẽ có mà có lẽ không. Cái đó tùy.
Nói không là bởi vì từ trước khi người ta biết đến Thiên Chúa giáo, con người vẫn ăn ở với nhau tình nghĩa và yêu thương.
----------------------------------------------------------
Một điều nữa tôi thấy rất nhiều người không theo Đạo cho rằng Thiên Chúa giáo có phần kỳ thị và vị kỷ. Bỏ qua tất cả những điểm khác, tôi chỉ muốn nói không cứ là Thiên Chúa giáo mới tốt đẹp, nhưng dường như tôi chưa gặp 1 người Thiên Chúa nào có cái nhìn bình đẳng với những người ngoại đạo, mà thường tự cho đạo của mình là trên hết. Tôi gặp 1 số người đạo Hồi, tất cả đều sùng đạo và coi vị tiên tri cái gì Mohamét của họ là hơn hết, nhưng chưa ai nói bằng lời với tôi là những người ngoài đạo Hồi ít văn minh hơn họ cả, trong khi đó người theo đạo Thiên Chúa nói thường xuyên ???
Riêng bản thân ,tôi tin vào những điều này này :
Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.