Truyện Kiều - Nguyễn Du

Chu Anh Duy
(boytotbung)

Điều hành viên
Giới Thiệu tác giả và tác phẩm
...


Mục lục

* * * Đoạn 001 - Đoạn 002 - Đoạn 003 - Đoạn 004 - Đoạn 005

. . . . Đoạn 006 - Đoạn 007 - Đoạn 008 - Đoạn 009 - Đoạn 010

* * * Đoạn 011 - Đoạn 012 - Đoạn 013 - Đoạn 014 - Đoạn 015

. . . . Đoạn 016 - Đoạn 017 - Đoạn 018 - Đoạn 019 - Đoạn 020

* * * Đoạn 021 - Đoạn 022 - Đoạn 023 - Đoạn 024 - Đoạn 025

. . . . Đoạn 026 - Đoạn 027 - Đoạn 028 - Đoạn 029 - Đoạn 030

* * * Đoạn 031 - Đoạn 032 - Đoạn 033 - Đoạn 034 - Đoạn 035

. . . . Đoạn 036 - Đoạn 037 - Đoạn 038 - Đoạn 039 - Đoạn 040

* * * Đoạn 041 - Đoạn 042 - Đoạn 043 - Đoạn 044 - Đoạn 045

. . . . Đoạn 046 - Đoạn 047 - Đoạn 048 - Đoạn 049 - Đoạn 050

* * * Đoạn 051 - Đoạn 052 - Đoạn 053 - Đoạn 054 - Đoạn 055

. . . . Đoạn 056 - Đoạn 057 - Đoạn 058 - Đoạn 059 - Đoạn 060

* * * Đoạn 061 - Đoạn 062 - Đoạn 063 - Đoạn 064 - Đoạn 065

. . . . Đoạn 066 - Đoạn 067 - Đoạn 068 - Đoạn 069 - Đoạn 070

* * * Đoạn 071 - Đoạn 072 - Đoạn 073 - Đoạn 074 - Đoạn 075

. . . . Đoạn 076 - Đoạn 077 - Đoạn 078 - Đoạn 079 - Đoạn 080

* * * Đoạn 081 - Đoạn 082 - Đoạn 083 - Đoạn 084 - Đoạn 085

. . . . Đoạn 086 - Đoạn 087 - Đoạn 088 - Đoạn 089 - Đoạn 090

* * * Đoạn 091 - Đoạn 092 - Đoạn 093 - Đoạn 094 - Đoạn 095

. . . . Đoạn 096 - Đoạn 097 - Đoạn 098 - Đoạn 099 - Đoạn 100
 
Đoạn 001

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu ,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.



Lạ gì bỉ sắc tư phong ,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh .



Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.



Đầu lòng hai ả tố nga ,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.



Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da.



- Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Người có tài thì thường gặp mệnh bạc, hình như Tài, mệnh ghét nhau, xung khắc với nhau, hễ được hơn cái này thì phải kém cái kia

- Bể dâu: Trong văn chương cổ của chúng ta thường dùng thành ngữ "bãi bể nương dâu", hoặc nói tắt là "bể dâu" để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời

- Bỉ sắc tư phong: Cái kia kém thì cái này hơn, nghĩa là: Được hơn điều này thì bị kém điều kia

- Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen: Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp, ý nói: Người đàn bà đẹp thường gặp cảnh ngộ không hay.

- Cảo thơm : do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.

- Phong tình: Chỉ những chuyện ái tình trai gai

- Sử xanh: Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là thanh sử.

- GiaTĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).

- Hai kinh: Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).

- Viên ngoại: Một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Về sau, "Viên ngoại" dần dần trở thành một hư hàm. Chữ "Viên ngoại" ở đây được dùng theo nghĩa này.

- Chữ : Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có "danh" là tên chính, và "tự" là tên chữ ("Danh" đặt từ khi sinh ra, còn "tụ" thì đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo "danh" mà đặt ra).

- Tố Nga: Chỉ người con gái đẹp.Tích La Công Viễn dẫn Đường Minh Hoàng lên cửa khuyết thành Chí Đại. Nơi đó có bảng đề Phủ Quảng Hàn Thanh Hư, bên dưới có vài chục cô tố nga múa hát.

- Mai cốt cách, tuyết tinh thần: Thuý Kiều và Thuý Vân, mỗi người có một vẻ riêng ví như mai có "cốt cách" của mai, tuyết có "tinh thần" của tuyết. Cả câu muốn nói "nhị Kiều" cốt cách thì thanh lịch như cây mai, còn tâm hồn thì trắng trong như tuyết.
Lấy từ lời chú trong Quảng Sự Loại: mai dĩ vận thắng, dĩ cách cao ( cây mai thắng về vận, cao về cách).
Đường thi có câu :
Hữu mai vô tuyết bất tinh thần
có hoa mai mà gặp trời không có tuyết thì cũng chẳng có tinh thần.

- Khuôn trăng: Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét lông mày.

- Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói.
Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
Lấy từ Đông Châu Liệt Quốc : Tề Văn Khương mạo mỹ, tỷ hoa hoa giải ngữ, tỷ ngọc ngọc sinh hương
(nàng Văn Khương nước Tề hình dung đẹp đẽ, nếu đem so với hoa thì như là hoa biết nói, nếu đem so với ngọc thì như là ngọc toát hương thơm.)
Vua Đường Minh Hoàng khi thưởng ngoạn hoa sen trắng cũng có nói với tả hữu: khởi cập ngã giải ngữ hoa : Hoa sen kia há sánh kịp với bông hoa biết nói của ta đây (ý chỉ Dương Quý Phi).
 
Đoạn 002

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy , nét xuân sơn ,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.



Một, hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.



Cung thương làu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.




Thu thuỷ: Nước mùa thu, Xuân sơn: Núi mùa xuân.
Câu nói này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
Trong truyện Tây Sương kí có câu :
"Tha vọng xuyên liễu doanh doanh thu thủy,
túc tổn liễu đạm đạm xuân sơn
(người ấy trông mong mòn mỏi cả nước mùa thu đầy đầy, buồn bã héo cả núi mùa xuân nhàn nhạt)

- Một, hai nghiêng nước nghiêng thành :Bài ca của Lý Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:

Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc

Nghĩa là:
Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người
Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người.

Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ.
Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.

- Sắc đành đòi một, tài đành họa hai: Câu này có nghĩa là về "sắc" thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về "tài" thì họa may ra thì còn có người thứ hai nữa.

- Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương giốc, truỷ, vũ.
Làu bậc: Làu thông cung bậc.

- Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà.
Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm.

- Bạc mệnh: Tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh.
Não nhân: Làm cho người ta nghe mà não lòng.

-Hồng quần: Cái quân màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.

- Cặp kê: Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.

- Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ "tường đông" để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
 
Đoạn 003

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.



Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.



Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.



Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.



Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.




Con én đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như chiếc thoi đưa.

- Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.

- Thanh minh: Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.

- Tảo mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên.

- Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.

- Yến anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộng ràng đi chơi xuân.

- Ngựa đi như nước: Ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác.

- áo quần như nêm: ý nói người đông đúc, chen chúc.

- Ngổn ngang gò đống kéo lên: Những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi gò đống.

- Vàng - vó: Một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ hội.

- Tiểu khê: Ngòi nước nhỏ.
 
Đoạn 004

Rằng: "Sao trong tiết thanh minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?"


Vương Quan mới dẫn gần xa:
"Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.

Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!"



- Ca nhi: Con hát.

- Hồng nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.

- Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, ví với người đẹp.

- Trâm gãy bình rơi: ý nói người đẹp đã chết.

- Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời trước đấy.

- Nếp tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm Tiên một cách chu đáo.

- Thỏ lặn, ác tà: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
 
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.



"Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là ai ?

Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho." [/color]



Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.



Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.



Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.



- Châu: Hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.

- Hoá công: Thợ tạo hoá, tức là trời.

- Phượng: Chim phượng trống. Loan: Chim phượng mái.
Trong văn cổ, loan phượng dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.

- Tiếc lục tham hồng: ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.

- Suối vàng: Do chữ Hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.

- áy: Vàng úa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Đoạn 6

Vân rằng: "Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa."


Rằng: "Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?"


Quan rằng: "Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa."


Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ."


Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.



Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.


- Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.

- Âm khí: Cái khí cõi âm, cõi chết, ở đây chỉ không khí bãi tha ma.

- Thể: Thể xác (hữu hình). Phách: Chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.

- Hiển linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.
 
Đoạn 007

Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng:
"Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em."




Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.



Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.



Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.


Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.


- Tinh thành: Lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.

- U hiển: U là tối, chỉ cõi chết. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. ý nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cõi âm , người cõi dương.

- Tay khấu: Tay càm cương ngựa. ý nói, buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả.

- Dặm băng: Như nói dặm đường đi. Băng là lướt đi.

- Lưng túi gió trăng: Tức là lưng túi thơ. Những nhà thơ thời xưa hay ngâm phong vịnh nguyệt, nên người ta gọi thơ là phong nguyệt (gió trăng).

- Câu: con ngựa, non trẻ, xinh đẹp.

- Tự tình: Chuyện trò, bày tỏ tâm tình.

- Hài văn: Thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường dùng.

- Dặm xanh: Dặm cỏ xanh.

- Cây quỳnh, cành giao: Cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao. ý nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá thành đẹp.

Hai Kiều: Hai người con gái xinh đẹp, tức hai chị em Thuý Kiều.
 
Đoạn 008

Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.



Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.



Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.



May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.



Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.


- Trâm anh: Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của người sĩ tử, quan chức. Nhà trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.

- Phú hậu: Giàu có.

- Nết đất: Theo lối nhà, theo dòng dõi trong nhà, mạch đất đó có truyền thống văn chương.

- Phong tư: Dáng điệu.

- Tài mạo: Tài hoa và dung mạo.

- Phong nhã: Phong lưu nho nhã. Hào hoa: Sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà, Ra ngoài là ra giao thiệp với đời.

- Đồng thân: Bạn cùng học.

- Hương lân: Làng xóm, ý nói: Vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.

- Đồng tước: Đời tam quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một toà lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (sẻ đồng), và định hễ đánh thắng Đông Ngô thì bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều (là vợ Tôn sách và vợ Chu Du) đem về đấy để vui thú cảnh già. Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung, tác giả mượn điển cũ để nói lóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung.

- Buồng thêu: Buồng người con gái.

- Chốc mòng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.

- Giải cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ tình cờ.

- Đố lá: Hội đố lá, còn gọi là diệp hý, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và tìm hiểu nhau.

- Bóng hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.

- Xuân lan, thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngưòi như lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.

- Quốc sắc: Sắc đẹp nhất nước, chỉ Thuý Kiều.

- Chỉn: Tiếng cổ. Chỉn khôn: chẳng xong, không xong.
 
009

Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.



Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.



Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch nhòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.



Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:

"Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?"


- Vàng gieo ngấn nước: ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.

- Đông lân: Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ "tường đông"
Hải đường lả ngọn đông lân: Cây hải đường ở xóm đông ngả ngọn xuống.

- Bóng nga: Bóng trăng.

- Người mà: Chỉ Đạm Tiên.

- Người đâu: Chỉ Kim Trọng.
 
Đoạn 010

Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.



Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.



Rước mừng đón hỏi dò la:

"Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ?"



Thưa rằng: "Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.

Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.

Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời."


- Triện: Lan can.

- Phong vận: Yểu điệu.

- Thanh tân: Thanh tú tưới tắn.

- Sương in mặt, tuyết pha thân ý nói mặt và thân hình người tiểu kiều đó như có sương và tuyết in phủ lấy.

-Sen vàng: Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều), rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sinh liên hoa" (mỗi bước đi nở ra một hoa sen).

- Lãng đãng: Tiếng cổ, có nghĩa là đi từ từ chậm chậm, chập chờn mờ tỏ.

- Đào nguyên: Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ "nguồn đào" hay "động đào" để chỉ cảnh tiên.

- Thanh khí: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (cùng một thứ tiếng thì ứng với nhau, cùng một loại khí thì tìm đến nhau).

- Hàn gia: Hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lạnhlẽo, nói khiêm tốn.

- Tây thiên: Phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.

- Hạ cố: Trông xuống, chiếu cố đến nhau.

- Hạ tứ: Ban xuống, ban cho. Cả câu: Hai bài thơ của Kiều lời đẹp ý hay, thật quý báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.

- Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Số đoạn trường: Sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.

- Quả kiếp nhân duyên: Quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ý nói duyên (tốt). hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.
 
Đoạn 011

Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm.



Xem thơ nức nở khen thầm:

"Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập Đoạn Trường
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai."



Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.



Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.



Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi !
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.




- Tú khẩu, cẩm tâm: Miệng thêu, lòng gấm. ý nói thơ Kiều làm rất hay.

- Đòi cơn: Nhiều cơn.
 
Đoạn 12

Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi:
"Cơn cớ gì ?
Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa ?"



Thưa rằng: "Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau !"



Dạy rằng: "Mộng huyễn cứ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao."




Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.



Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.


- Trướng loan: Màn có thêu chim loan.

-Nhà huyên: chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.

- Hoa lê: Ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.

- Dưỡng sinh: Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.

- Mộng triệu: Điều thấy trong mộng.

- MạchTương: Dòng nước mắt.
Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đình. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.

-Tơ mành: Sợi tơ mong manh. Hai chữ này chỉ chung Kiều và Kim Trọng để kết thúc đoạn nói về Kim Trọng.
 
Đoạn 013

Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.



Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.



Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.



Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.



Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu !
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.



Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang.


- Thư song: Chỗ cửa sổ phòng đọc sách.

-Biếng khuây: Không khuây, không khuây.

-Sầu đong càng lắc càng đầy: ý nói mối sầu tương tư, càng ngày càng chồng chất lên mãi.

-Mây Tần khóa kín song the: Câu này ý nói: Mây che kín cửa sổ phòng Kiều.

- Tuần trăng khuyết: Khuyết hết cả một tuần trăng (cứ mỗi kì trăng tròn, gọi là một tuần trăng). Chỉ thời gian suốt cả tháng.

-Đĩa dầu hao: Đĩa dầu hao cạn (vì đèn bị thắp khuya).

-Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.: ý cả câu: Bút để lâu không viết đến ngọn bị khô đi, đàn để lâu không gẩy đến dây bị chùng lại. ý nói Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.

- Màch Tương: Mành làm bằng trúc núi Tương.

-Ba sinh: Do chữ Tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: "Quá khứ", "hiện tại" và "vị lai" của con người.

- Kỳ ngộ: Sự gặp gỡ kì lạ.

- Vi lô: Cây lau, cây sậy.

-Lam Kiều: Vùng đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường, khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài thơ, có câu:
"Lam Kiều tiện thị thần tiên quật, hà tất khi (kì) khu thướng ngọc kinh"
(cầu Lam là cái tổ tiên đó, hà tất phải vất vả lên đế đô để thi cử làm gì).
Về sau, Hàng đi qua một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước, vào xin nước một nhà bà lão gần đấy thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão bảo: Bà cần dùng cối ngọc và chày ngọc để giã thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm được cối và chày ngọc đưa đến, lại ở đấy giã thuốc cho bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây, Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều.
 
Đoạn 014

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.



Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu ?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.



Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.



Có cây, có đá sẵn sàng,
Có hiên Lãm Thúy, nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.



Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.




- Lá thắm: Do chữ Hồng diệp. Vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thị.

-Chim xanh: Người ta thường gọi sứ giả đưa tin là "chim xanh" (thanh điểu). Câu này ý nói: Khó thông tin tức mối manh với Thuý Kiều.

-Ngô Việt thương gia: Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).

- Đá: Đây chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non bộ ) do những tảng đá xếp thành.

- Lãm Thuý: tên cái hiên của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên số tiên định.

- Bài: Bày ra, xếp đặt sẵn, do chữ "an bài".

- Song hồ: Cửa sổ dán giấy. Cành mây: Cánh cửa sổ.

-.Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
ý nói: Cửa động bị khoá, cửa nguồn bị ngăn, cho nên tuy nhà Kiều gần có gang tấc, mà vẫn là xa xôi cách trở.
 
Đoạn 015
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.



Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.



Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.



Giơ tay với lấy về nhà:
“Này trong khuê các đâu mà đến đây ?
Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm !"



Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.



-Nhẫn từ: Kể từ khi (tiếng cổ).

- Tường gấm: Do chữ cẩm tường, bức tường gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô điểm vǎn hoa).

- Kim thoa: Cái thoa gài tóc bằng vàng.

-Khuê các: Buồng lầu, nơi ở của con gái nhà sang trọng.
 
Đoạn 016
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
"Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về ?"

Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
"Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!"

Sinh rằng: "Lân lý ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay !

Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là."

Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Thang mây rón bước ngọn tường,
Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe ?




- Hư không: Bỗng không, tự nhiên.

- Hợp phố: Tên một quận, trước thuộc Giao châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo Hán sử: Nguyên xưa, ven bể quận Hợp Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng, bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là Mạnh Thường đến nhận chức, cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Do đó, người ta thường nói "Châu về Hợp Phố" (Hợp Phố châu hoàn), để chỉ những trường hợp vật báu đã bị mất lại trở về với chủ cũ.

- Lân lí: Nguyên nghĩa là xóm và làng, đây dùng như nhgiã bà con láng giềng.

- Niềm tây: Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.

- Thang mây: Do chữ vân thê, nguyên là một khí

- Người hôm nọ: Người gặp gỡ hôm đi thanh minh.

Chăng nhe: (từ cổ) phải chăng là.
 
Đoạn 017
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.



Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.
Xương mai tính đã rũ mòn,
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay !

Tháng tròn như gửi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã liều.
Tiện đây xin một hai điều,
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng ?"


Ngại ngần nàng mới thưa rằng:
"Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong,
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa !"



Sinh rằng: "Rày gió mai mưa,
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi.
Dù chăng xét tấm tình si,
Thiệt đây mà có ích gì đến ai ?

Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Khuôn thiên dù phụ tấc thành,
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru ?"




-Kẻ: Chỉ Kim Trọng.
Người: Chỉ Kiều, Kim Trọng nhìn tỏ mặt Kiều, mà Kiều thì e thẹn cúi đầu.

- Ngẫu nhĩ: Tình cờ, cũng như "ngẫu nhiên".

- Chồn: Mệt mỏi, ý nói sốt ruột lắm.

-Xương mai: Xương vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người ta thường gọi những người xương vóc gầy là mai cốt (xương mai).

-Rũ mòn: Gầy mòn, ý nói tương tư mà gầy mòn đi.

-Tháng tròn như gởi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã liều!
ý nói suốt tháng tâm thần như gửi ở cung trăng.

- Đài gương: Giá cao, trên mặt chiếc gương lớn và hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn chữ đài gương để chỉ người phụ nữ.

-Dấu bèo: ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi nổi mặt nước. ở đây là lời Kim Trọng tự nói khiêm.

- Băng tuyết: ý nói trong sạch, thanh bạch.

-Chất hằng: Một thể chất lúc nào cũng như thế.

-Phỉ phong: Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng ngày. ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà tư chất thì cũng bình thường, không có tài sắc gì, lời Kiều tự khiêm (Bốn chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới nói bản thân).

-Chỉ hồng: Do chữ xích thằng (sợi dây đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng. Do điển này mà có những danh từ: "chỉ hồng", "tơ hồng" để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và "Nguyệt lão" (ông già dưới trăng), "Trăng già", "ông Tơ", để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.

- Dù chăng: Dù chẳng, nếu không.

-Khuôn thiên: Khuôn tạo hóa, chỉ trời. Khuôn do chữ quân, tức là cái khuôn dùng để nặn đồ gốm. Người xưa ví tạo hoá đúc nặn ra muôn vật như cái khuôn nặn ra các đồ gốm, nên gọi Tạo hoá là Hồng quân, Thiên quân, (khuôn trời).

-Tấc thành: Tấc lòng chân thành, thành thực.

-Lượng xuân: Nguyên nghĩa là tấm lòng tốt đẹp như mùa xuân. Còn có thể giải là tấm lòng của người phụ nữ trẻ tuổi, xinh đẹp.
 
Đoạn 018
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.


Rằng: ""Trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang !
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung."


Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.


Rằng: "Trăm năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi."


Sẵn tay bả quạt hoa quì,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Một lời gắn bó tất giao,
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.


Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.


Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
Một tường tuyết trở sương che,
Tin Xuân đâu dễ đi về cho năng.




-Chiều xuân: Như nói tứ xuân (Xuân tứ).

-Nét thu: Nét thu ba, nét sóng thu, tức con mắt.

-Đá vàng: Do chữ kim thạch. Kim đây là loài đồng, chỉ chuông đồng, vạc đồng; thạch là đá, chỉ bia đá. Thời xưa, những việc lớn, những công đức hay châm ngôn, thường được người ta khắc vào chuông đồng, bia đá, để lưu truyền thiên cổ. Do đó, người ta thường dùng danh từ kim thạch để chỉ cái gì có tính cách vĩnh cửu bền vững, không thay đổi được, như ghi tạc vào vàng đá. Đây nói: Kiều nhận lời gắn bó với Kim Trọng, và xin ghi tạc lời đó, như ghi tạc vào vàng đá.

- Bả: Bản Trương Vĩnh Ký chú Bả là cầm.

-Quạt hoa quì: Chiếc quạt bằng lá quì vẽ hoa.

- Tất giao: Sơn và keo, chỉ tình nghĩa gắn bó bền chặt với nhau như hai chất keo và sơn.

-Lầu trang: Lầu trang điểm, chỉ dùng lầu ở của phụ nữ.

- Đá biết tuổi vàng: Muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, xấu tốt thế nào, người ta thường dùng thứ đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Qua sự trao đổi, Kim-Kiều đã hiểu biết và yêu nhau, như đá biết rõ tuổi vàng.

- Sông Tương: Hai câu này lấy ý ở bài thơ trong Tình sử:

" Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ,
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ"

Dịch nghĩa:

Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương,
Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau,
Cùng uống nước sông Tương.

-Tuyết trở sương che: ý nói bức tường của nhà Kiều với nhà Kim Trọng như có tuyết sương ngăn trở, che khuất khiến cho hai người gặp gỡ trao đổi tin tức
 
Đoạn 019
Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường, dưới nữa là hai em.



Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
Nhà lan thanh vắng một mình,
Gẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay.



Thì trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.
Cách hoa sẽ đặng tiếng vàng,
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.



Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.



Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút sang đây tạ lòng !"




-Thưa hồng rậm lục: Màu đỏ ít đi, màu xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp tới.

-Hai đường: Do chữ song đường (xuân đường và huyền đường) chỉ cha mẹ.

- Nhà lan: Do chữ lan thất.

- Thì trân: Những thức ăn quý đương mùa. Thuý Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý, "sẵn bày" ở đây không phải là bày biện ra bàn ở nhà Kiều.

-Lửa hương: Hai chữ này thường dùng để chỉ tình duyên vợ chồng.

- Hoa râm: Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm bạc trông như những chẫm hoa râm.

- Tri âm: Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu, Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn, đều nổi tiếng, cùng làm bạn với nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn, như núi Thái - Sơn", khi Bá Nha nghĩ đến dòng chảy (lưu thuỷ), thì Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn cuồn cuộn như sông Giang, sông Hà". Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đứt dây, đập đàn ra, và than rằng: "Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người hiểu biết tiếng đàn của mình) nữa". Về sau, tri âm dùng để chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
 
Back
Bên trên