Kinh tế học và Tri thức
Bản dịch thảo - 25/04/2002
Bản tiếng Việt này được Đinh Tuấn Minh và Nguyễn An Nguyên dịch từ nguyên bản tiếng Anh in trong Economica, Vol. IV, 1937, pp. 33-54. Đây mới chỉ là bản dịch thảo vì vậy các bạn chỉ nên đọc tham khảo chứ không nên trích dẫn. Mọi góp ý về bản dịch xin gửi về
[email protected]
I
Sự mơ hồ của tiêu đề bài báo này không phải là vô tình. Dĩ nhiên chủ đề chính của nó là vai trò mà các giả thiết và định đề về tri thức do các thành viên khác nhau trong xã hội sở hữu trong phân tích kinh tế. Nhưng không có nghĩa điều này không hề liên can gì tới một câu hỏi khác có thể được bàn luận với cùng tiêu đề, câu hỏi ở chừng mực nào phân tích kinh tế hình thức truyền tải một lượng tri thức nào đó về cái xảy ra trong thế giới thực. Thực ra, luận điểm chính của tôi sẽ là những định đề hình thức (tautologies), mà nhất thiết phải sử dụng trong phân tích cân bằng hình thức trong kinh tế học, có thể chuyển đổi được thành các định đề mà sẽ cho chúng ta biết một cái gì đó về quan hệ nhân quả trong thế giới thực chỉ khi chúng ta có khả năng thổi đầy những định đề hình thức đó bằng các mệnh đề xác định về cách thức tiếp thu và truyền đạt tri thức. Nói ngắn ngọn, tôi sẽ cho rằng yếu tố thực nghiệm trong lý thuyết kinh tế – phần duy nhất liên quan không chỉ đơn thuần tới các ngụ ý mà tới các nguyên nhân và kết quả và do vậy dẫn tới kết luận cho phép kiểm chứng ở một mức độ nào đó trên nguyên tắc – chứa đựng các định đề về sự tiếp thu tri thức.
Có lẽ tôi nên bắt đầu bằng cách nhắc lại cho các bạn một thực tế thú vị là rất nhiều các cố gắng gần đây ở các lĩnh vực khác nhau nhằm đưa việc nghiên cứu lý thuyết xa hơn phạm vi phân tích cân bằng truyền thống đã nhanh chóng dẫn đến câu trả lời về sự cần thiết phải quay trở lại một câu hỏi mà nếu không hoàn toàn đồng nhất với thuật ngữ của tôi thì ít nhất cũng là một phần của nó, câu hỏi về viễn tuệ (foresight). Tôi nghĩ, cũng như những người khác, lý thuyết về rủi ro là lĩnh vực đầu tiên thu hút rộng rãi việc tranh luận về các giả thiết liên quan tới sự viễn tuệ. Công trình nghiên cứu của Frank H. Knight trong lĩnh vực này có lẽ là một kích thích có ảnh hưởng sâu sắc vượt ra ngoài phạm vi chuyên ngành của nó. Không lâu sau đó các giả thiết liên quan tới sự viễn tuệ đã thể hiện vai trò nền tảng đối với lời giải đáp cho các vấn đề hóc búa về lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo, các vấn đề về lưỡng độc quyền và độc quyền. Và từ đó ngày càng hiển nhiên là các giả thiết về viễn tuệ và “những phỏng đoán” đóng vai trò quan trọng không kém trong nghiên cứu về các vần đề “động” (dynamic) liên quan tới tiền tệ và dao động ngành (industrial fluctuations) và cụ thể những khái niệm đã được đưa vào trong các lĩnh vực này từ sự phân tích cân bằng hình thức, như những cái về mức lãi suất cân bằng, có thể được định nghĩa chính xác chỉ với sự hiện diện của các giả thiết liên quan tới sự viễn tuệ. Tình huống ở đây có lẽ là, trước khi có thể giải thích tại sao con người phạm sai lầm, chúng ta trước tiên phải giải thích tại sao họ nên luôn luôn đúng.
Nói chung, dường như đã tới điểm mà tất cả chúng ta đều nhận thấy là bản thân khái niệm cân bằng chỉ có thể được xác định và làm rõ ràng với sự hiện diện của các giả thiết liên quan tới viễn tuệ, mặc dù có lẽ tất cả chúng ta vẫn chưa hoàn toàn nhất trí các giả thiết cốt yếu này chính xác là gì. Đây là câu hỏi khiến tôi phải tốn nhiều giấy mực ở phần sau của bài viết. Nhưng hiện tại mối bận tâm duy nhất của tôi là chỉ ra dù chúng ta có muốn xác định ranh giới cho việc phân tích tĩnh kinh tế (economic statics) hay là muốn đi xa hơn nữa thì chúng ta vẫn không thể tránh khỏi vấn đề gây tranh cãi về vị trí chính xác của các giả thiết liên quan tới viễn tuệ trong lập luận của chúng ta. Chẳng lẽ đây chỉ đơn thuần là một nhiệm vụ mà chúng ta miễn cưỡng phải giải quyết?
Như đã trình bày, đối với tôi lý do của công việc này có lẽ là chúng ta chỉ mới phải giải quyết ở đây một khía cạnh rất nhỏ của một vấn đề rộng lớn hơn nhiều mà chúng ta đã gặp phải ở thời điểm trước đây. Trên thực tế ngay khi chúng ta áp dụng hệ thống các định đề hình thức – các chuỗi định đề chắc chắn đúng vì chúng chỉ đơn thuần là những biến đổi các giả thiết mà chúng ta xuất phát để hình thành nội dung chính của phân tích cân bằng - cho tình huống một xã hội gồm một số người độc lập thì các câu hỏi, về cơ bản tương tự như những câu hỏi đã được đề cập, sẽ nảy sinh. Trong một thời gian dài tôi cảm thấy rằng bản thân khái niệm cân bằng và các phương pháp được sử dụng trong phân tích thuần tuý chỉ có nghĩa rõ ràng khi chúng ta giới hạn chúng trong phân tích hành động của một người đơn lẻ và rằng chúng ta thực sự đang bước sang một lĩnh vực khác và lặng lẽ đưa ra một nguyên lý mới với đặc điểm hoàn toàn khác khi chúng ta áp dụng nó để giải thích các tương tác của một số cá nhân khác nhau.
Tôi tin rằng có nhiều người không còn đủ kiên nhẫn và tin tưởng vào xu hướng chung xuất hiện trong tất cả các phân tích cân bằng hiện đại là chuyển kinh tế học thành một bộ môn logic thuần tuý, một tập các định đề hiển nhiên, tương tự như toán học hay hình học, có sự nhất quán nội tại, không phụ thuộc vào các kiểm nghiệm. Nhưng dường như, nếu chỉ dừng ở quá trình này, nó sẽ mang trong mình khiếm khuyết của chính bản thân nó. Trong quá trình chắt lọc những phần thuần tuý tiên thiên từ lý luận về các dữ kiện trong đời sống kinh tế, chúng ta chẳng những chỉ cô lập phần lý luận thành một dạng Logic Thuần tuý về Lựa chọn (Pure Logic of Choice) vào trong một toà pha-lê thuần khiết mà chúng ta còn cô lập và làm nổi bật vai trò của một bộ phận khác vốn chẳng được ai nhòm ngó đến. Phê phán của tôi đối với những xu hướng gần đây về xây dựng lý thuyết kinh tế ngày càng hình thức không phải là ở chỗ chúng ta đã đi quá xa mà là chúng ta vẫn chưa làm đủ để hoàn thiện quá trình phân tách bộ môn logic này và để khôi phục việc nghiên cứu các quá trình nhân quả vào đúng vị trí của nó thông qua việc sử dụng lý thuyết kinh tế hình thức như là một công cụ theo cách của toán học.
II
Nhưng trước khi tôi có thể chứng minh luận điểm của tôi là các định đề hình thức (tautological propositions) về phân tích thuần tuý về cân bằng như vậy không có khả năng áp dụng trực tiếp để giải thích các quan hệ xã hội, trước tiên tôi phải chỉ ra rằng khái niệm cân bằng có một nghĩa rõ ràng nếu nó được áp dụng cho những hành động của một cá nhân đơn lẻ và nghĩa này là gì. Để phản bác lại luận điểm của tôi người ta có thể nói rằng chính tại đây khái niệm cân bằng không có ý nghĩa, bởi vì, nếu một ai muốn áp dụng nó, tất cả những cái mà một người có thể nói có lẽ là một người riêng lẻ luôn luôn ở trạng thái cân bằng. Nhưng mệnh đề cuối cùng này, mặc dù là một sự thật hiển nhiên, không cho ta biết bất cứ điều gì khác hơn là cách mà khái niệm cân bằng thường bị sử dụng sai. Vấn đề không phải là ở chỗ liệu một người như thế có ở trạng thái cân bằng hay không mà là những hành động nào của anh ta thể hiện các mối quan hệ cân bằng với nhau. Tất cả các định đề phân tích cân bằng, như định đề cho rằng các giá trị tương đối sẽ tương ứng với các chi phí tương đối, hay một người sẽ cân bằng các lợi ích biên của bất kỳ một yếu tố nào trong những cách sử dụng khác nhau của yếu tố này, là các định đề về các mối quan hệ giữa các hành động. Các hành động của một người có thể được coi là ở trạng thái cân bằng chỉ ở chừng mực khi chúng có thể được xem như là bộ phận của một kế hoạch. Chỉ có như thế, tức là chỉ khi tất cả các hành động này đã được quyết định tại cùng một thời điểm và với cùng một tập các hoàn cảnh, thì các mệnh đề của chúng ta về mối quan hệ lẫn nhau giữa các hành động được rút ra từ các giả thiết về tri thức và sở thích của người này mới có một ứng dụng nào đó. Cần phải nhớ rằng cái gọi là “dữ liệu” (data), mà chúng ta dùng để sắp đặt trình tự phân tích, là (một phần xuất phát từ các sở thích của anh ta) tất cả những dữ kiện (facts) được đưa đến cho người đang được xem xét, những cái mà anh ta biết (hay tin) là tồn tại, và theo bất kỳ nghĩa nào, không phải là các dữ kiện khách quan. Chỉ với điều này các định đề mà chúng ta rút ra chắc chắn hợp lệ tiên thiên (necessarily a priori valid) và tính nhất quán của luận điểm được đảm bảo .
Hai kết luận chính rút ra từ sự suy luận này là, thứ nhất, do các quan hệ cân bằng tồn tại giữa các hành động kế tiếp của một người chỉ khi chúng là một phần của quá trình thực thi của cùng kế hoạch, bất kỳ sự thay đổi nào về tri thức liên quan (relevant knowledge) của người này, tức bất kỳ thay đổi nào khiến anh ta thay đổi kế hoạch, đều dẫn đến sự phá vỡ mối quan hệ cân bằng giữa các hành động được anh ta thực hiện trước và sau khi có sự thay đổi về tri thức. Nói cách khác, mối quan hệ cân bằng chỉ bao gồm các hành động trong giai đoạn mà các dự tính của anh ta tỏ ra là đúng. Thứ hai, do cân bằng là mối quan hệ giữa các hành động, và do các hành động của một người dứt khoát phải xảy ra liên tiếp theo thời gian, nên dòng thời gian hiển nhiên là thiết yếu hầu mang lại một ý nghĩa nào đó cho khái niệm cân bằng. Điều này đáng để bàn do nhiều nhà kinh tế dường như không đủ khả năng tìm ra một vị trí cho thời gian trong phân tích cân bằng và đã dẫn đến việc đưa ra ý tưởng cân bằng phải được nhìn nhận như là không chịu ảnh hưởng của thời gian. Với tôi có lẽ đây là một mệnh đề vô nghĩa.