Đoàn Trang
(Ms_Independent)
Điều hành viên
Tiểu sử và cuộc đời của Gabriel García Márquez
Ông được biết tới khắp Châu Mỹ La Tinh 1 cách yêu mến với cái tên gọi "Gabo". Những người dân đất nước Colombia, Nam Mỹ và quê nhà thứ 2 của ông Mê-hi-cô giành cho ông tình yêu và sự tôn kính. Tất cả họ đều tự cho ông là của riêng mình. Với tư cách là người đoạt giải thưởng Nobel, ông đã có những ảnh hưởng tới rất nhiều các nhà văn cũng như đọc giả khắp nơi trên thế giới. Ở tuổi đời 77, ông vẫn tiếp tục là một nhà báo, một cố vấn cho các nhà báo, một nhà viết kịch bản phim và truyền hình, một nhà phê bình điện ảnh và một nhà hoạt động chính trị nhiệt tình. Ông nói lên những suy nghĩ cuả mình và từ chối viết hoặc nói bằng bất kì thứ ngôn ngữ nào trừ tiếng Tây Ban Nha.
Gabriel, nickname "Gabito" ("Gabriel nhỏ", lấy tên cha ông) sinh vào tháng Ba năm 1927 tại một thị trấn nhỏ bé đầy chuối của Aracata. Vào thời điểm ông sinh ra cũng là khi mùa chuối nở rộ. Năm kế đó, ngành kinh tế chuối bắt đầu có những sự đổi mới và gây ra một vết nứt trong lòng thị trấn mà không bao giờ có thể làm liền lại. Do cha mẹ phải lo chật vật kiếm ăn, ông được ông bà ngoại đón về và nuôi nấng như một phần của gia đình. Ông bà của ông là người da màu; ông ngoại là một cựu đại tá có cấp bậc và được tôn kính bởi những người dân trong làng và bà ngoại - bán "candy animails" để nuôi sống cả nhà, có thể kể những câu chuyện lạ thường và mê tín nhất 1 cách hoàn toàn thuyết phục. Cả hai đều là những người kể chuyện tuyệt vời và ngôi nhà nơi họ nuôi lớn "Gabo" bị ma ám. Đây chính là những hành trang của cuộc đời - và nghệ thuật của Gabriel García Márquez.
Ở tuổi 19, mặc dù có niềm đam mê trở thành nhà văn, García Márquez đã theo học khoa luật tại Universidad Nacional, Bogota, vì tôn trọng ý kiến của cha mẹ muốn ông làm gì đó "thiết thực". Thèm thuồng có được một điều gì đó để thu hút ông, Gabriel bắt đầu lang thang xung quanh Bogota đọc thơ thay vì chuẩn bị cho các lớp luật của mình. Ông tìm thấy sự tuyệt diệu trong các tác phẩm của Franz Kafka, William Faulkner (nhà văn Mỹ được dịch đọc nhiều nhất thế hệ của ông), Ernest Hemingway, James Joyce và Virginia Woolf. Ông bắt đầu viết. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Leaf Storm (Lá trong gió lốc), bị phản đối cho công bố năm 1952, sau đó gặp phải hãng chịu trách nhiệm xuất bản lừa đảo, người CEO của hãng đã biến mất không lâu sau đó.
Trước khi rời quê nhà đi học đại học ở tuổi 18, García Márquez gặp Mercedes Barcha Pardo khi đó 13 tuổi và tuyên bố cô bé là người con gái thú vị nhất mà ông từng gặp. García Márquez cầu hôn người con gái một cách nồng nàn. Ở tuổi mười ba, cô gái biết là cô muốn hoàn thành nốt sự học; cô hoãn lại việc đính hôn. Mặc dù không lấy nhau cho tới tận khi mười bốn năm sau đó, tình yêu của họ tồn tại vĩnh cửu và cuộc hôn nhân của họ là một lực đẩy lái García Márquez. Trong khi García Márquez chu du khắp chốn và bỏ dở trường luật, ở Colombia cô kiên nhẫn đợi chờ cho tới khi ông trở về bên cô khi cô đã 27 tuổi.
García Márquez chuyển hướng sang báo chí sau khi rời trường học. Ông viết một bài báo gây xúc động mạnh nhưng đồng thời mang nhiều tính tranh cãi về một thủy thủy chết trong vụ đắm tàu ở Colombia. Lo ông có khả năng bị chính quyền gây khó dễ về việc viết bài báo mang tính sì căng đan, người phụ trách biên tập báo của ông gửi ông tới Italy. Ở Châu Âu, các bạn và các biên tập báo của García Márquez giúp ông liên tục di cư để tránh cho ông khỏi gặp phải các rắc rối chính trị. Trong vòng 5 năm ấy, ông viết bài về các câu chuyện ở Rome, Geneva, Poland, Hungary, Paris, Venezuela, Havana và thành phố New York.
Ông tiếp tục xuất bản những câu chuyện mà ông tin vào, nhưng đã bị trục xuất khỏi quê mẹ Colombia của mình cũng như ở những nơi khác. Do bản chất tự nhiên của những bài viết chính trị mang tính tranh cãi của mình, ông đã không được chào đón ở chính quê hương mình năm 1980. Với một visa bị giới hạn cao, ông cũng đã bị từ chối vào U.S.A từ 1962-1996_ hơn ba thập kỉ. Ông bị rất nhiều người cho rằng mình là kẻ phản bội và nổi loạn - và ông chưa từng bao giờ xin lỗi.
Sau suốt ba năm bị treo bút cho tới tận đầu 1965, cuốn tiểu thuyết cá nhân mà ông hằng luôn luôn hi vọng được viết tuôn trào ra từ trong lòng García Márquez. Trong vòng một tuần sau khi One Hundred Years of Solitude (Trăm năm cô đơn) được xuất bản năm 1967, tất cả 8000 bản copy từ bản in gốc đã được bán.
Nó đã được dịch sang ba-tá ngôn ngữ và giành giải thưởng Chianchiano ở Italy, the Best Foreign Book (Sách nước ngoài hay nhất) ở Pháp, giải thưởng Rómulo Gallegos và cuối cùng là giải thưởng Nobel Văn học.
Xuyên suốt sự thành công của mình, Gabo vẫn viết và hút thuốc. Ông xài hết đôi khi sáu bao thuốc một ngày vào điểm cao trào trong quá trình sáng tác One hundred years of Solitude Các tiểu thuyết của ông do đó mà, cả magic lẫn cổ tích, đã giúp ông trụ lại ở hàng đầu của văn học từ năm 1970: The Autumn of the Partriarch, Chronicle of a Death Foretold, Love in the Time of Cholera, the General in His Labyrith and Of Love and Other Demons.
Ông vẫn tiếp tục viết những câu chuyện tàn ác với sức hấp dẫn lớn. Một điều mà chúng tôi có thể đảm bảo về những cuốn sách của García Márquez: bạn sẽ không cảm thấy nhàm chán. Năm nay, ông vừa thu về được sự ca ngợi vô cùng to lớn cho cuốn tự truyện của mình vừa xuất bản cùng với tựa đề rất hợp với nó: Living to Tell the Tale. Cũng như tiểu thuyết của ông, nó đã chinh phục được trái tim của đọc giả ở khắp mọi nơi.
Oprah.com
Chỉnh sửa lần cuối: