Học sinh đang hoàn toàn “mù” lịch sử

Em rất tán thành.
Nhưng em hỏi, vậy nên cải tiến SGK lịch sử như thế nào, để học sinh có thể thích và học lịch sử của Việt Nam?
 
Có topic của Chu Anh Duy giới thiệu sơ qua về lịch sử VN mình thấy hay, bổ ích, lí thú và có nội dung tương tự với chủ đề này nên đánh bạo post ra đây để cho các bạn yêu thích lịch sử đọc và tham khảo.


Việt Nam Qua Các Thời Đại


I- TỪ HỌ HỔNG BÀNG ĐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU


*- Họ Hồng Bàng

Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Công Nguyên (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 trước công nguyên). Đây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ... tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 trước công nguyên.

* - An Dương Vương- Triện Đà

Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Đây là lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông)

* - Nhà Tiềng Hán Xâm Lăng Việt Nam

Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Đời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Đức sang đánh, Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.
 
II- THỜI ĐẠI BẮC THUỘC


* - Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất (111 trước công nguyên - 39 sau Công nguyên)

Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta. Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa.

* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng

Năm 34 sau cong nguyen, Tô Định làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Định giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Định thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN). Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai.

* - Bắc Thuộc Lần Thứ Hai

Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa. Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu. Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu. Trong suốt 501 năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.

* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Lý Bôn Chấm Dứt Bắc Thuộc Lần II - Nhà Tiền Lý (544-602)

Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang quấy nhiễu.
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ.
Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Đế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Đế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương.
Đến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Đế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Đế. Để rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu. Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau này.

* - Bắc Thuộc Lần Thứ Ba (602 - 938)

Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Đường diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Đường và đổi tên thành An Nam Đô Hộ Phủ. Chính sách cai trị của nhà Đường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Đông nổi lên chống với quân Đường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất.
Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Đường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa. Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Đường về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Đường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa.

* - Thời Kỳ Chuyển Tiếp Độc Lập với Dương Diên Nghệ - Ngô Quyền (931-938)

Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu. Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu. Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Đằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938 trở về sau.
 
III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP


* - Nhà Ngô (938 - 965)

Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.

* - Nhà Đinh (968 - 980)

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.

* - Nhà Tiền Lê (980 - 1009)

Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta. Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.

* - Nhà Lý (1010 -1225)

Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi.
Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Độ, nghe lời Trần Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.

* - Nhà Trần (1225 -1400)

Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này.
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước ta. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Đồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu. Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu.
Để phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta. Thuyền chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba.
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu.
Đạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu.
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt ngôi của Thiếu Đế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.

* - Nhà Hồ (1400-1407)

Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là Hồ Quý Ly, đặt tên nước Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và soạn thảo công văn, sớ biểu. Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc. Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.

* - Nhà Hậu Trần (1409 - 1413)

Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Định Đế chiêu mộ quân chống giặc Minh. Đầu năm 1409 thì Giản Định Đế vào Thanh Hóa để phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Được nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.

* - Nước Ta Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)

Đến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Đồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .

* - 10 Kháng Chiến Chống Quân Minh (1418 - 1427) : Lê Lợi

Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh.
Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng vây.
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Đông Đô (Hà Nội), chém Liễu Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.

* - Hậu Nhà Lê (1428-1527)

Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Đại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền, khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo. Bộ Luật Hồng Đức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này. Văn học cũng được chú trọng đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này. Tuy nhiên, Phật giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận kinh đô Chiêm là thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này.
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên chống lại Đại Việt.
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được. Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.

* - Nhà Mạc (1527-1592)

Mạc Đặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên làm vua hiệu là Minh Đức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532, lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Đăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh để được bãi binh & phong chức Đô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.

* - Nhà Lê Trung Hưng (1532-1778)

Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
 
IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH (1572-1802)


* - Trịnh Nguyễn Phân Tranh

Ngay sau khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến, mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Định ngày nay, sau các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay .
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm, cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa.
Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Đồng thời vua Lê Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long mới thống nhất được đất nước.

* - Nhà Tây Sơn (1778-1802)

Anh em Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Đầu tiên anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào Gia Định. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Định, Chúa Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong tặng cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782, vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786, họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa .... Hứa Thế Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Đống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong vòng 5 ngày. Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn Phúc Ánh được nhiều ngươ ;øi tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến.
 
V-NHÀ NGUYỄN (1802-1945)


Lên ngôi năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lấy hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội, đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Đức. Về luật pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước đã dâng lên vua Tự Đức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở. Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Đông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới. Nên trước kia trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không thực hiện gì cả.
 
VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT NAM (1858-1884)


Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa. Năm 1858 Pháp bắt đầu xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam phần Gia-định, Định-tường, Biên-hòa mở đầu cho những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp.
Năm 1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất, nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp. Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874), nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt Nam.
Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là Tổng Đốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp lần nữa.
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Đức băng hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi
Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp kể từ đó.


The end
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Hoàng Long đã viết:
Bởi vì bản thân "nhận định" của cá nhân - cho dù đó là một học giả hay người bình thường - đã mang tính chủ quan rồi. Tương tự như chuyện là cùng một món phở bò nếu người ta hỏi cậu "hàng phở nào ở Hà Nội ngon nhất" thì cậu sẽ trả lời là phở Bát Đàn nhưng nếu người ta hỏi tớ thì tớ sẽ bảo là phở Lý Quốc Sư.
Tất nhiên là nhận định lịch sử khác với nhận xét về món ăn vì dù sao cũng có một số quy luật nhất định. ví dụ như: tàn sát người vô tội mà thiếu một lý do chính đáng là sai chẳng hạn... tuy nhiên ngay cả những quy luật như thế cũng không hoàn hảo. người ta có thể hỏi "thế là nào lý do chính đáng." Mỹ có lý do chính đáng để ném bom Hiroshima và Nagasaki không chẳng hạn.
Lịch sử là một môn khoa học tương đối. Những khái niệm như "chính xác," "khách quan," "hoàn hảo," cần phải được hiểu dưới một khía cạnh rất hẹp. Đó là lý do tại sao nhà viết sử phải tránh đưa ý kiến cá nhân của mình khi biên sử (mặc dù sự tránh đó cũng mang tính chất tương đối) và nhận định được coi là "đúng" là nhận định được đa số người đọc sử chấp nhận. tuy nhiên cái "đúng" đó cũng là cái đúng tương đối.
chính vì như thế, sử nói riêng và xã hội học nói chung chỉ có thể phát triển mạnh dưới môi trường học thuật tự do, khi mà một sự kiện, một học thuyết được đánh giá dưới nhiều góc độ chứ không bị bó buộc vào một đường hướng nhất định.
Bái phục trình độ lý luận của anh Long . Hix. Em có cảm tưởng như là anh nghiên cứu khá kỹ lịch sử .
 
Em rất tán thành.
Nhưng em hỏi, vậy nên cải tiến SGK lịch sử như thế nào, để học sinh có thể thích và học lịch sử của Việt Nam?

Topic này bị chôn ở đây chắc lâu lắm rồi, tự nhiên hôm nay qua đây em đọc thấy hay hay :)

Em nghĩ vấn đề của việc giảng dạy lịch sử, đặc biệt là lịch sử thời đại mới nằm ở chỗ là nó động chạm nhiều đến các khía cạnh chính trị, quan điểm xã hội. Những điều này nếu đưa vào giảng dạy mà ko đủ chuyên môn nhận thức rất dễ đâm ra lệch lạc.

Em tán thành ý kiến của anh Hoàng Long về việc ko sử dụng 1 quyển sách chung, khuyến khích ng` học tự đọc tự tìm hiểu. Hơn nữa, theo em lịch sử muốn thực sự đc tiếp thu tốt thì ko thể dùng mấy dòng chữ khô khan cứng nhắc, mà phải làm sao để học sinh thực sự HIỂU sử và YÊU sử.

Để HIỂU, trước hết là nên thay đổi cách cung cấp kiến thức theo kiểu sách đưa trò nhận. Thay vào đó nên để cho chính học sinh tìm cách giải thích các vấn đề của lịch sử. Em mới học ở Sing đc 3 tháng, nhưng em thấy ấn tượng với cách bọn nó coi Lịch Sử là cách để tiếp cận suy nghĩ của con người. Ví dụ như với vụ ném bom nguyên tử vào Hiroshima và Nagasaki, bọn em đc cho tìm hiểu rất nhiều về các vấn đề đang diễn ra vào thời kỳ đó rồi tự giải thích xem có thật sự là Mỹ cần ném bom vào Nhật ko (khi ấy em cho là có). Ý em là, những sự kiện dù tốt hay xấu cũng còn tùy quan điểm, mà ai làm gì cũng chả có cái lý. Nếu chúng ta tìm hiểu đc cái lý ấy thì có thể nhìn nhận đc sự việc một cách khách quan. Từ cách tìm hiểu ấy đưa các vấn đề trước đây coi là taboo vào mà bàn thẳng thắn. Ví dụ như vụ quân Bắc Việt thảm sát ng` dân ở Huế, nếu chúng ta dám thừa nhận và cho học sinh tìm hiểu, giải thích đc ta sai ở đâu, có lẽ lúc ấy sẽ hiểu hơn

Để YÊU sử lại là chuyện khác. Tại sao học sinh mình thích xem phim Tàu, từ đó biết đc mấy ông Ung Chính Càn Long mà ko có chuyện tương tự với sử Việt? có thể tài chính là khó chăng? Nếu cách tiếp cận này khó, thử tiếp cận theo hướng cho học sinh cảm nhận đc cái không khí của lịch sử. Đọc "đem trước đổi mới" chẳng hạn, hiểu thêm đc nhiều điều chứ? Hoặc ví dụ như em xem series Band of Brothers, thấy thực sự ấn tượng và khâm phục, ko phải vì những gì đc nói trong ấy là những "chiến thắng hào hùng", "chiến công hiển hách" mà là những gì rất thật, rất đúng với suy nghĩ của mình. Nếu bây h cho học sinh hiểu đc cái khốc liệt của Quảng Trị, biết đc bộ đội ta ngày xưa bị băm ở đấy như thế nào; hay là biết đc Điện Biên Phủ quân ta chết nhiều như thế nào có lẽ sẽ khiến cho HS thấy ấn tượng hơn. Công bằng mà nói, cái gì hoàn hảo chả bị ghét. SGK sử cũng thế, cứ viết mãi là ta thắng ta thắng và ta thắng trong khi những gì ta thiệt hại để giành đc chiến thắng ấy thì lại bỏ qua, cho rằng nó làm lu mờ đi ý nghĩa của chiến thắng thì làm sao mà học sinh thấy đúng đc?

Ý kiến của em như thế, ko hiểu h này những ng` sôi nổi có còn muốn tham gia ko :) Em đang chờ ý kiến phản hồi :)
 
mình nể nhất là vua minh mệnh thời nhà nguyễn,1 đêm ngủ đến 5 bà vợ,là có` khoảng 3 bà có thai,dc 147 người con,trong đó có 48 trai...hết sức nể..
 
Lịch sử của nước mình từ xa xưa toàn oánh nhau để giữ nước nên học bất kì tời nào cũng thấy toàn đánh nhau 8-} Toàn diễn biến với kế hoạch rồi mốc thời gian ..v...v..Nói chung là toàn bắt học sinh nhớ những cái đấy thì hs cũng chán chả muốn nhớ => làm sao yêu đc
Nói chung là Lịch sử dân tộc mình khá oai hùng nhưng mà nếu học thì chỉ nên học những cái gì là tư duy chiến lược hay đường lối kháng chiến ( kiểu như môn Lịch sử Đảng mình thấy rất hay :x ) chứ học mấy cái mốc toàn oánh nhau thì ko nhớ đc thật :-?? Lại còn phải nhớ xem bao nhiêu máy bay bị bắn hạ, bao nhiêu xe tăng, rồi quân địch bị tiêu diệt nữa :(( Nhớ để làm gì >:p Chỉ cần biết là NHIỀU, thế thui \:d/
 
Có cái này hay về vua Lê Ngọa Triều. ( Lê Long Đĩnh) này. :D

Lê Long Đĩnh và nỗi oan lịch sử.

Lê Long Đĩnh (LLĐ) (896-1009) là con trai thứ 5 của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) mẹ là Chi hậu DIệu Nữ. Năm Nhâm Thình (992) LLĐ đc vua vua cha phong làm Khai Minh Vương cử đi trấn giữ châu Đằng( nay ở Hưng Yên). Năm Ất Tỵ (1005) Lê Đại Hành mất để lại di chiếu nhường ngôi cho Lê Long Việt chưa kịp lên ngôi thì ng anh là LLTich và ng em thứ 6 là LLKính đem quân tranh ngôi. :-w LĐ cũng tham gia nhưng LV nể tình không giết. Sau khi ổn định nổi loạn, Lê Long VIệt chính thức lên ngôi, làm vua đc 3 ngày thì " LD sai hung thủ ban đêm trèo tường vào cung giết" ( DVSKTT) LLD giết a cướp ngôi bầy tôi đều chạy trốn. Chỉ co Lý Công Uẩn ôm thây vua LV mà khóc. LD cho là tôi trung mới phong tước.

Theo sử sách ghi chép thì LLD lên ngôi năm 1005 làm nhiều điều bạo ngược. VD:
Sách ĐVSKTT chép: Vua tính thik giết ng, phàm những ai bị hành hình hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào ng đốt chết hoặc là sai 1 tên kép hát ng Tống lấy dao ngắn dao cùn xẻo thịt cho chết. :-ss Đi đánh dẹp bắt đc nghịch đảng thì cho ra bờ sông, khi triều rútm sai ng làm lao dưới đáy sông, nhột cả vào trong ấy, đến khi triều dâng thì ngập chết. :-s

Phàm bò lợn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc tiết rồi mới đưa nhà bếp sau. Từng róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả vờ lỡ tay trượt dao xuống đầu cho chảy máu rồi cả cười. >:). Hoặc nhân yến tiệc giết mèo cho các vương ăn, xong đưa đầu mèo ra, các quan đều sợ. :-ss vua lấy làm thik.


Theo như trên thì LLD chỉ ham giết chóc, những công việc triều chính bỏ bê. Sự thực có đúng như vậy không?


Công trạng đáng ghi nhận.


Các sak lịch sử thời gian gần đây chỉ tập trung chỉ trích phê phán tội lỗi của LLD mà không nhắc đến những việc làm ích nước lợi dân của ông.

Đối ngoại:

LLD vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với Tống. Mối quan hệ này đc xây dựng lại sau chiến tranh với Tống dười triều Lê Hoàn. ( 981), do đó, với nc ta, nhà Tống có thái độ mềm dẻo, ko làm căng sợ sinh binh đao, thậm chí nhà Tống còn e dè sợ mất lòng ông. :x Năm 1009 vua đem biếu nhà Tống con tê ngưu :-? "Vua tông cho rằng con ý từ xa đến ko hợp thủy thổ muốn trả nhưng sợ trái ý vua, , sai đợi đến khi sứ nc ta về mới đem thả ra biển. Vua lại xin áo giáp mũ trụ trang sức vàng. Vua Tông đồng ý.Vua lại xin nhà Tống cho thông thương với Ung Châu, nhưng Tống chỉ cho thông thương với Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi" (DVSKTT)

ĐỐi nội:

Bộ máy nhà nc tiếp tục đc hoàn thiện theo quan chế nhà Tống. Như vậy việc học tộc xây dựng thiết chế cquyen ko phải từ thời Lý mà là là từ tiền Lê.
Một vấn đề quan trong là Lê Long đĩnh đã tập trung quyền lực trên 1 lãnh thổ nhất định, dẹp các thế lực chống đối.
Lần thứ nhất là năm 1005 vua đánh dẹp cuộc bạo loạn giữa các anh e.
Lần 2, vua đánh giặc Cử Long ở cưẳ biển Thần Đầu, Ninh Bình.
Lần 3 năm 1008 vua đánh châu Đô Lương ( Tuyên Quang)
Lần 4 cùng năm đóvua đánh Án Động nay ko rõ ở đâu. :-??
Lần 5, vua đánh Hoan Châu- Nghệ An.
Lần 6, vua đánh các châu Hoan Đg, Thạch Hà- Hà Tĩnh.

Công việc của LLD đa đặt nền móng cho các triều đại sau tieeps tục xây dựng nhà nc PK tập quyền TW thêm vững mạnh. :D

Để tạo thuận lợi cho việc đi lại, năm 1009 vua cho quân xuống ÁI Châu Thanh Hóa đào kênh đắp đg và cho ghi trên bia sô dặm từ Chi Long ( Nga Sơn TH) đến sông Vũ Lung. Tại đây, LLD cho ng đóng thuyền đặt đò để chở ng qua lại. Tháng 7 cùng năm, vua sai 5000 quân ở Nghệ An sửa sang đg sá.

Trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng vua sai e đem con Tê trắng sang biếu nhà Tống để xin Cửu Kinh và Kinh Đại tạng.

Hoạt động văn hóa dân gian đc phát triển. Triều đính cho 1 số nghệ nhân vào dạy binh lính cung nữ múa hát.Lễ hội có đua thuyền, đấu vật.

Nguồn: Thế giới mới số 752.

PS:

Nói chung ông này ko phải xấu xa hoàn toàn. ;) Vua mà tiểu nhân thì lúc trc giết xừ Lý Công Uẩn thì làm j có thành Thăng Long. :p làm j có trg Amx.:p
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Topic này bị chôn ở đây chắc lâu lắm rồi, tự nhiên hôm nay qua đây em đọc thấy hay hay :)

Em nghĩ vấn đề của việc giảng dạy lịch sử, đặc biệt là lịch sử thời đại mới nằm ở chỗ là nó động chạm nhiều đến các khía cạnh chính trị, quan điểm xã hội. Những điều này nếu đưa vào giảng dạy mà ko đủ chuyên môn nhận thức rất dễ đâm ra lệch lạc.

Em tán thành ý kiến của anh Hoàng Long về việc ko sử dụng 1 quyển sách chung, khuyến khích ng` học tự đọc tự tìm hiểu. Hơn nữa, theo em lịch sử muốn thực sự đc tiếp thu tốt thì ko thể dùng mấy dòng chữ khô khan cứng nhắc, mà phải làm sao để học sinh thực sự HIỂU sử và YÊU sử.

Để HIỂU, trước hết là nên thay đổi cách cung cấp kiến thức theo kiểu sách đưa trò nhận. Thay vào đó nên để cho chính học sinh tìm cách giải thích các vấn đề của lịch sử. Em mới học ở Sing đc 3 tháng, nhưng em thấy ấn tượng với cách bọn nó coi Lịch Sử là cách để tiếp cận suy nghĩ của con người. Ví dụ như với vụ ném bom nguyên tử vào Hiroshima và Nagasaki, bọn em đc cho tìm hiểu rất nhiều về các vấn đề đang diễn ra vào thời kỳ đó rồi tự giải thích xem có thật sự là Mỹ cần ném bom vào Nhật ko (khi ấy em cho là có). Ý em là, những sự kiện dù tốt hay xấu cũng còn tùy quan điểm, mà ai làm gì cũng chả có cái lý. Nếu chúng ta tìm hiểu đc cái lý ấy thì có thể nhìn nhận đc sự việc một cách khách quan. Từ cách tìm hiểu ấy đưa các vấn đề trước đây coi là taboo vào mà bàn thẳng thắn. Ví dụ như vụ quân Bắc Việt thảm sát ng` dân ở Huế, nếu chúng ta dám thừa nhận và cho học sinh tìm hiểu, giải thích đc ta sai ở đâu, có lẽ lúc ấy sẽ hiểu hơn

Để YÊU sử lại là chuyện khác. Tại sao học sinh mình thích xem phim Tàu, từ đó biết đc mấy ông Ung Chính Càn Long mà ko có chuyện tương tự với sử Việt? có thể tài chính là khó chăng? Nếu cách tiếp cận này khó, thử tiếp cận theo hướng cho học sinh cảm nhận đc cái không khí của lịch sử. Đọc "đem trước đổi mới" chẳng hạn, hiểu thêm đc nhiều điều chứ? Hoặc ví dụ như em xem series Band of Brothers, thấy thực sự ấn tượng và khâm phục, ko phải vì những gì đc nói trong ấy là những "chiến thắng hào hùng", "chiến công hiển hách" mà là những gì rất thật, rất đúng với suy nghĩ của mình. Nếu bây h cho học sinh hiểu đc cái khốc liệt của Quảng Trị, biết đc bộ đội ta ngày xưa bị băm ở đấy như thế nào; hay là biết đc Điện Biên Phủ quân ta chết nhiều như thế nào có lẽ sẽ khiến cho HS thấy ấn tượng hơn. Công bằng mà nói, cái gì hoàn hảo chả bị ghét. SGK sử cũng thế, cứ viết mãi là ta thắng ta thắng và ta thắng trong khi những gì ta thiệt hại để giành đc chiến thắng ấy thì lại bỏ qua, cho rằng nó làm lu mờ đi ý nghĩa của chiến thắng thì làm sao mà học sinh thấy đúng đc?

Ý kiến của em như thế, ko hiểu h này những ng` sôi nổi có còn muốn tham gia ko :) Em đang chờ ý kiến phản hồi :)

vì lý do chính trị nên nhiều vấn đề lịch sử người ta ko thể viết vào SGK để học sinh thảo luận được

ví dụ như vấn đề này:

http://www.hn-ams.org/forum/showpost.php?p=1957846&postcount=24

và cái này nữa
 

Đính kèm

  • hcmdonxinhoc.jpg
    hcmdonxinhoc.jpg
    47.7 KB · Xem: 39
Chỉnh sửa lần cuối:
Cái ảnh anh Hoài gửi có phải Bác xin vào trường thuộc địa gì đó ko?
 
Cái ảnh anh Hoài gửi có phải Bác xin vào trường thuộc địa gì đó ko?

Nhờ ai đó biết tiếng Pháp dịch hộ cho :p

---------------------------------

Vì nhiều lý do nên học sinh, sinh viên bây giờ "mù" lịch sử, và nhiều học sinh sinh viên hiểu biết về lịch sử VN và thế giới chưa chắc đã được biết tới một số sự kiện bi thảm đã xảy ra trong thế kỷ 20 tại các nước XHCN trước đây

ví dụ VỤ THẢM SÁT KATYN (1940)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thư viết ngày 15/09/1911, chắc là Bác mới đến Marseilles.
Chữ Bác đẹp hơn chữ em nên em đọc chả thấy rõ lắm.
Ah đây rồi, Bác xin vào học nội trú ở trường thuộc địa.
Cái này có chi tiết gì đáng chú ý hả anh admin?:-??
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bức thư đấy có thể dc hiểu là Bác sang Pháp chẳng phải để tìm đường cứu nước nào cả, chỉ là tìm lợi ích cho bản thân. Sau này ko dc thì lại tự cho là đi tìm đường cứu nước.

Cách đây 5 năm em đi tìm tư liệu thì được giới thiệu cái thư này trong bảo tàng HCM ở HN rồi. Ở đấy họ giải thích đơn giản là để tìm hiểu học hỏi, chứ ko phải cách hiểu trên. Tất nhiên có thể có nhiều cách hiểu, nhưng nếu xâu chuỗi với nhiều sự kiện trước và sau thì cách giải thích sau hợp lý hơn nhiều. Kể cả cái trên có đúng thì cũng chẳng quan trọng.
 
Nói thực sự, có hiểu biết lịch sử hay không đều phụ thuộc hết vào đam mê tìm tòi của người học sinh. Dẫu biết nguồn thông tin đc cung cấp hiện nay còn nghèo và thiếu hấp dẫn, nhưng nếu ko có những bạn ham mê lịch sử, có những người bỏ thời gian riêng ra tìm hiểu làm đề tài, thì những người khác và thế hệ sau đâu dễ dàng đc hưởng. Ngày xưa, tớ cũng chả khoái sử lắm, nhưng bà cô giao đề tài viết về phố phường HN, đúng chủ đề mình thích, thế là suốt ngày lang thang phố cổ, chụp ảnh, hỏi han, đến lúc nộp, thấy vui vì mình biết thêm nhiều điều, chả cần biết mây điểm. Chán nhất là tập tài liệu bà giáo chấm xong kêu mất bài, ức chế. Có phải cái gì cũng mang sách giáo khoa ra đổ lỗi đc đâu, có nhiều tài liệu của dân amateur làm mà mình xem vẫn thích. Ví dụ như cái clip hôm nay nay ngó thấy bên blog Khoa Trần, đơn giản và ngắn gọn, xem vẫn thích. Các bạn xem thử nhé:
Phần 1
http://www.youtube.com/watch?v=DvyN8WWzz4A&eurl=http://blog.360.yahoo.com/blog-hRunYyclf5nTd1KMjsQw
Phần 2
http://www.youtube.com/watch?v=jzjB_uoxNrY&eurl=http://blog.360.yahoo.com/blog-hRunYyclf5nTd1KMjsQw
Vẫn ước mơ 1 ngày lập đc 1 hội làm Vietnam project, hay chí ít một website như thế, chỉ đc 1 phần như wikipedia vietnam hoặc vn-ebook cũng vui rồi. Ai có chung mục đích có thể liên lạc với tớ qua email: [email protected]
 
Vì nhiều lý do nên học sinh, sinh viên bây giờ "mù" lịch sử, và nhiều học sinh sinh viên hiểu biết về lịch sử VN và thế giới chưa chắc đã được biết tới một số sự kiện bi thảm đã xảy ra trong thế kỷ 20 tại các nước XHCN trước đây

ví dụ VỤ THẢM SÁT KATYN (1940)
He he cái này hay đấy, em bây h mới biết.:">
Nhưng mà anh ơi, theo cái ảnh chụp bác En xin thì cái địa danh đó viết là Katyń theo tiếng Ba Lan, tiếng Nga là Катынь, thế thì tiếng Việt đọc phiên âm phải là Ka-tưn chứ.:-??
Boris_Yeltsin_Katyn.jpg
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên