Chân dung các nhà KTe học mọi thời đại

Hỏi anh Tuấn cái: quyển này đã in được ở VN chưa? Câu thứ hai: có phải anh làm cái này cùng với anh Ngô Đức Thành không ạ?
 
Tống Minh Tuấn đã viết:
NICHOLAS KALDOR (1908 – 1986)
Kaldor chuyển về ging dạy năm 1949 tại Trường Cao đẳng Hoàng đế
Em nghĩ không nên dịch college là cao đẳng, có lẽ để nguyên tên tiếng Anh thì hơn. :)
 
King's College, Univ. of Cambridge. Khó dịch phết.
Hay dịch là "Ngọc viện Đại học Cambridge" :)

/Thanh
 
Những từ tương đương về địa danh của nước ngoài quả là khó dịch, tuy nhiên có những địa danh có thể dịch thoáng:
King's college, Camb. University: Trường Vua, ĐH Camb.
LSE: Học viện kinh tế London.
Norrkoping Campus, Lingkoping Universitet: Phân nhánh Nhổn của Đại Học Mù Cang Chải.

P.S Tại sao lại phải băn khoăn nhiều về những từ như King's college nhỉ? Nói chung dù dịch hay để nguyên chắc cũng không làm giảm tốc độ đọc hiểu của mọi người đi bao nhiêu.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bổ sung thêm cho Tống Tuấn này:

NHÀ KINH TẾ HỌC ADAM SMITH VÀ TÁC PHẨM "TÀI SẢN CỦA CÁC QUỐC GIA"

Trong công việc tìm hiểu bản chất con người, bản chất của thiên nhiên và Thượng Đế, các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học… đã biểu lộ niềm tin của mình qua các tác phẩm. Hình ảnh của bản ngã (the self) đã thay đổi trong văn chương, chẳng hạn từ thời Shakespeare qua các giai đoạn lãng mạn và thời đại Victoria, tới chủ nghĩa cá nhân hiện tại. Cho nên muốn hiểu rõ các tác phẩm văn học, cần phải hiểu thêm các tư tưởng triết học, các khuynh hướng trí thức quan trọng qua nhiều thế kỷ. Đã có sự liên hệ giữa cách suy tưởng lý thuyết với các hình ảnh diễn tả trong văn chương. Nhờ lý thuyết về Kinh Tế Học của Adam Smith (1723-1790), Charles Dickens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Các tác phẩm về phân tâm học của Sigmund Freud đã dọn đường cho James Joyce và Virginia Woolf. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chế độ tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga xẩy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Đế Quốc Xô Viết sau trận Thế Chiến Thứ Hai.

1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của Thế Giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" (the Wealth of Nations) và nền triết học về “tài sản” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.

"Tài Sản của các Quốc Gia" là tác phẩm đầu tiên viết về ngành chính trị kinh tế học (political economy), đã thảo luận sự liên hệ giữa tự do và trật tự, phân tích các phương thức kinh tế (economic processes), tấn công hệ thống trọng thương (the mercantile system) của nước Anh bởi vì hệ thống này đã giới hạn nền tự do mậu dịch (free trade).

Tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" đã trình bày các vấn đề căn bản của trật tự xã hội và sự tiến bộ của con người trong một xã hội mà cá nhân đi theo con đường tư lợi (self-interest), đã sản xuất ra các mặt hàng mà các người khác cần mua. Người bán và người mua gặp nhau tại thị trường rồi nhờ thị trường mà có sự hòa hợp xã hội.

1/ Cuộc đời của Adam Smith.

Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh Tế Học này.

Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố Edinbug, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.

Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment). Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới "Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education) để quán triệt các nền triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.

Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học (rhetoric) tới ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Quý Ông" (Gentleman 's Magazine) đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Tô Cách Lan".

Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo Sư Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo đức học (ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học.

Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia".

Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" (human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (self-preservation). Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia": “con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) … mà không ai biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường (market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.

Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.

Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản.

Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải trở về London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.

Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh đốt bỏ. Ông qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia".

2/ Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm "Tài Sản".

Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là thời đại của Lý Trí (the Age of Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu sau Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ (The Glorious Revolution) tại nước Anh vào năm 1688 và chấm dứt trước Cuộc Cách Mạng Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời kỳ Khai Sáng đáng nhớ không phải bằng năm tháng, mà bằng tên của các nhà triết học danh tiếng như Montesquieu, Voltaire, Condorcet, Descartes, Diderot, Rousseau… tại nước Pháp, Emmanuel Kant tại nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học kiêm triết học Giambattista Vico và nhà luật học kiêm xã hội học Beccaria, tại nước Anh có John Locke, Edward Gibbson và Edmund Burke, tại Bắc Mỹ là Benjamin Franklin, còn đại diện cho miền Tô Cách Lan là David Hume và Adam Smith.

Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng bị ảnh hưởng sâu đậm vì các khám phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định luật về sự rơi tự do của Galileo Galilei tại nước Ý, định luật về chuyển động và trọng lực của trái đất khám phá do Isaac Newton tại nước Anh… Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật của thiên nhiên. Do căn cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và thí nghiệm, các tiến bộ quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học, Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn, Cơ Học… và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng của triết gia người Anh là Francis Bacon theo đó "kiến thức là sức mạnh". Kiến thức vì thế được biên soạn thành các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết học cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học và họ tin tưởng rằng phương pháp khoa học có thể áp dụng vào công trình tìm hiểu bản chất của con người. Nhiều bộ môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học, Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị Học đã được các nhà triết học khai phá, họ so sánh lý trí với sự ngu dốt, với các điều mê tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm quyền của người dân, họ vạch ra các bất công xã hội và tấn công chế độ chuyên chế và phê phán giới cầm quyền, nhất là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman Catholic Church) đã duy trì sự ngu dốt vì quyền lợi riêng tư của nhà thờ.

Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng không phải là những kẻ vô thần (atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế toàn năng nhưng mục đích của họ là trình bày rằng có thể điều tra được, tìm hiểu được số mệnh (destiny) của con người trên trái đất và họ không chịu chấp nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra. Các nhà lãnh đạo trí thức của thời kỳ này đã dùng các khẩu hiệu như giáo dục, làm sáng tỏ (clarification), phá vỡ điều huyền bí (demystification) trước các áp chế tinh thần.

Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu xét sự vật của các nhà triết học đã thay đổi. Lý trí không còn được chú trọng mà thay vào là "cảm xúc" (feeling). Trật tự, kỷ luật và cách kiểm soát (discipline, order & control) đã bị thay thế bằng sự đam mê, tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality & spontaneity) và khi thời kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu.

1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch sử mới. Vào thời điểm này, cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng Pháp đang âm ỉ và tốc độ của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về năng lực hơi nước và một số khám phá khác. Vào lúc này tại nước Anh, đời sống kinh tế của người dân nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả ổn định, tiền lương của giới lao động thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại thương gồm cả nhập cảng và xuất cảng hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các giai cấp thống trị phản đối các đề nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được giành cho một thiểu số được ưu đãi, hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi chính trị của đa số dân chúng chỉ có về mặt lý thuyết.

Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế cao, không cho đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và giờ lao động phải dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị Viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Aâu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là thuyết "Trọng Thương" (mercantilism) với các niềm tin chính như sau: thứ nhất, các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy "vàng và bạc", và muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa, họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác, thứ hai, họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ, nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ.

Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của thuyết "Trọng Thương" thì sai nhầm và có hại. Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh tế, nói chuyện với nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu phác thảo cuốn sách "Tài Sản" từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách thứ hai này được xuất bản.

Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có tên là "Tìm Hiểu Bản Chất và các Nguyên Do của Tài Sản của các Quốc Gia" (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), gọi tắt là "Tài Sản của các Quốc Gia", hay "Tài Sản". Thực ra, tầm vóc bách khoa của bộ sách hai tập này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học. Có nhà phê bình đã gọi tác phẩm là "Bộ sách lịch sử và phê bình nền Văn Minh của cả Châu Aâu".

Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận về cách phân công lao động, tác giả đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa lao động sản xuất và lao động phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển kinh tế của châu Âu kể từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình chính sách thương mại và thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia, các phương pháp quốc phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn gốc và sự phát triển của các đạo quân tại châu Aâu, lịch sử giáo dục vào thời trung cổ, sự phát triển các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các nguyên tắc thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue). Tại phần V của bộ sách, tác giả Adam Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của cách tổ chức xã hội: giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude state of hunters), giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic agriculture), giai đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal farming) và giai đoạn cuối cùng là sự liên hệ thương mại (commercial interdependence), và đi kèm với mỗi giai đoạn là các định chế (institutions) thích hợp với các nhu cầu của từng giai đoạn.

Luận đề chính của tác phẩm "Tài Sản" được căn cứ vào niềm tin rằng "mỗi con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi " (self-interest) mà điển hình là lòng ham muốn tài sản (desire for wealth). Các động lực ích kỷ là căn cốt của các hành động của con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội (society's welfare), rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không ngừng, thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia. Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm bánh mì chỉ vì tư lợi của họ mà khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith còn cho rằng sự phân công lao động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. "Một bàn tay vô hình" dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể và về điểm này, Adam Smith đồng ý với Thomas Paine là "một chính quyền tốt nhất là loại chính quyền cai trị ít nhất".

Trong cách phân phối lao động, Adam Smith cho rằng nên phân chia tiến trình sản xuất thành các khâu đoạn nhờ đó gia tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề của chủ nhân và công nhân, Adam Smith đã viết: "giới công nhân muốn đòi nhiều, giới chủ nhân muốn trả ít" và tác giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì lương bổng cao sẽ khiến cho người công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn và hưũ hiệu hơn, đồng thời tác giả còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề là sự can thiệp bất công vào quyền lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc, chọn nghề hay đổi nghề từ chỗ trả lương thấp tới nơi trả lương cao.

Phần chính của tác phẩm "Tài Sản" là quyển IV có tên là "Về các hệ thống kinh tế" (Of Systems of Political Economy). Ở đây, tác giả cứu xét hai hệ thống: hệ thống thương mại và hệ thống nông nghiệp và phần nông nghiệp chỉ dày bằng 1/8 của phần thương mại. Adam Smith đã làm phát triển các nguyên tắc "tự do kinh doanh" (the principles of laissez-faire) và tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới tự do mậu dịch (free trade) bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền thương mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể phát triển toàn diện.

Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách "Lịch Sử của Nền Văn Minh", Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng "Tài Sản của các Quốc Gia" có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.

Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương nên trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Nhà Kinh Tế Học Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người Cha của Nền Kinh Tế Mới".
 
Chỉnh sửa lần cuối:
KARL MARX VÀ TÁC PHẨM TƯ BẢN LUẬN

Karl Marx qua đời trong thành phố London vào ngày 14-3-1883. Chỉ có 8 người tham dự đám tang của danh nhân này tại nghĩa trang Highgate, gồm cả người vợ và 2 người con.

Trong bài điếu văn đọc trước ngôi mộ của Karl Marx, Friedrick Engels là người bạn thân nhất, người cộng tác lâu năm và cũng là một môn đệ của Karl Marx, đã tóm tắt rằng "Trên hết, Marx là một nhà cách mạng và chủ đích chính trong cuộc đời của ông là lật đổ xã hội tư bản cùng các định chế do chế độ này lập nên".

Karl Marx đã trưởng thành trong một thời kỳ hỗn loạn, giữa các cuộc cách mạng đang diễn ra tại châu Âu vào năm 1848. Tại nước Ý có các cuộc nổi dậy đòi dân chủ, tại nước Pháp chế độ quân chủ bị tiêu diệt, đồng thời người dân Hung đang đấu tranh đòi tự do và độc lập khỏi nền cai trị của người Áo. Tại nước Đức, thể chế tiền đại nghị (pre- parliamentary) được thiết lập trong khi đó nội chiến tàn phá nước Thụy Sĩ và thành phố Prague là trung tâm của các hỗn loạn do việc thành lập liên minh thuần Slav (a pan-slavic alliance) còn tại nước Anh, phong trào đòi dân chủ Chartism đang đe dọa lật đổ chính quyền. Người dân châu Âu vào thời kỳ này đòi hỏi các chính quyền và xã hội phải giảm bớt các lạm dụng xấu xa gây nên do cuộc kỹ nghệ hóa, đòi hỏi hủy bỏ các tàn tích phong kiến. Đây là giai đoạn rất thích hợp cho các tư tưởng lật đổ, cấp tiến, và Karl Marx đã quan sát cuộc Cách Mạng Pháp năm 1848, đã coi Công Xã Paris (the Paris Commune) diễn ra vào năm 1871 là một kiểu mẫu của xã hội vô sản.

1. Cuộc đời của Karl Marx.

Karl Heindrich Marx chào đời vào ngày 5/5/1818 tại Trier trong miền sông Rhine, thuộc nước Phổ (Prussia). Ông nội của Karl là một giáo sĩ Do Thái (rabbi). Cha của Karl là một luật sư giàu có, cả hai phía cha và mẹ của Karl Marx đều thuộc giòng dõi Do Thái nhưng khi Karl tới tuổi thiếu niên thì cả gia đình này chuyển sang đạo Thiên Chúa vì các lý do thương mại và xã hội. Có lẽ do mặc cảm về nguồn gốc này mà về sau, Karl Marx đã chống lại đạo Do Thái.

Vào năm 1835, Karl Marx theo học Luật Khoa tại trường Đại Học Bonn rồi qua năm sau, đổi sang Đại Học Berlin. Trong thời gian sống tại Berlin, Karl Marx rất ưa thích môn Triết Học, có cơ hội đọc triết thuyết của Wilhelm Friedrich Hegel.

Tại nước Phổ vào giai đoạn này, Triết Học (philosophy) là một môn học nghiêng về chính trị trong khi bên ngoài xã hội, người công dân không được phép tham dự vào các công quyền (public affairs). Karl Marx đã tham gia vào nhóm các sinh viên và giáo sư cấp tiến, thiên về phe tả, thường hay chỉ trích gay gắt cách quản trị xã hội của chính quyền nước Phổ.

Karl Marx tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Jena vào năm 1841, có ước vọng trở nên một giáo sư đại học nhưng vì các tư tưởng chống đối chính quyền nên đã gặp nhiều thất bại. Karl Marx quay sang ngành báo chí, đã viết nhiều bài theo đường lối cấp tiến cho nhiều nhật báo trong đó có tạp chí Sông Rhine (the Rheinische Zeitung), khởi đầu xuất bản vào năm 1842.

Năm 1843, Karl Marx lập gia đình với cô Jenny von Westphalen, một thiếu nữ trẻ đẹp, con gái của một sĩ quan Phổ, dù cho cả hai gia đình đều không bằng lòng trước cuộc hôn nhân này. Các tư tưởng cấp tiến, các bài viết có tính công kích chính quyền của Karl Marx đã bị kiểm duyệt, người viết bị theo dõi rồi để tránh bị bắt giam, Marx cùng với vợ chạy qua thành phố Paris.

Tại nơi này, Karl Marx gặp Friedrich Engels, một người cấp tiến khác gốc Đức, cả hai người trở nên bạn thân, cộng tác với nhau qua nhiều bài viết. Engels là một người giàu tương đối, con trai của một chủ nhân xưởng dệt, lại có tư tưởng xã hội cấp tiến giống như Karl Marx. Nền móng của tác phẩm sau này "Tư Bản Luận" (Das Kapital) bắt nguồn từ cuốn sách của Friedrich Engels có tên là "Tình trạng của các giới lao động tại nước Anh" (Condition of the Working Classes in England).

Các bài viết có tính cách xúi dục nổi loạn của Karl Marx chống lại chính quyền Đức đã khiến cho chính quyền này vận động với nước Pháp trục xuất Marx ra khỏi thành phố Paris vào năm 1845. Marx qua Brussels, nước Bỉ, trú ngụ trong ba năm rồi trở về nước Đức, làm chủ nhiệm tạp chí Sông Rhine Mới (the Neue Rheinische Zeitung), xuất bản tại Cologne. Qua tạp chí này, Karl Marx nổi tiếng là một người phát ngôn của đường lối cải tổ dân chủ cấp tiến.

Sau cuộc cách mạng năm 1848 thất bại tại nước Đức, Karl Marx phải bỏ chạy qua Paris. Vào năm này, Marx đã cộng tác với Friedrich Engels, viết ra Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản (The Communist Manifesto), một văn bản cấp tiến nhất, kêu gọi bạo lực và gây nên nhiều ảnh hưởng sâu đậm về sau: "Các người Cộng Sản cho rằng không cần phải che dấu các quan điểm và ý định. Họ tuyên bố công khai rằng mục đích của họ chỉ được thực hiện do cuộc lật đổ bằng bạo lực toàn thể trật tự xã hội đương thời. Trước Cuộc Cách Mạng Cộng Sản này, các giai cấp cai trị phải run sợ. Các công nhân không bị mất mát gì cả ngoài gông cùm. Họ có cả một thế giới để chiếm đoạt. Hỡi các Công Nhân của Thế Giới, hãy đoàn kết lại!".

Vào các năm 1848 - 49, các cuộc cách mạng tại châu Âu đã không thành công, những kẻ xúi dục nổi loạn bị truy lùng, Karl Marx vì vậy phải bỏ chạy qua thành phố London vào mùa hè năm 1849. Từ tuổi 31, Marx đã trải qua phần còn lại của cuộc đời trong cảnh túng thiếu. Karl Marx có 6 người con, ba đứa bị chết yểu, hai trong số còn lại sau này đã tự sát. Trong cảnh sống cơ cực, Karl Marx đã được Friedrich Engels trợ giúp cho khỏi chết đói bởi vì lợi tức của Marx chỉ là một món tiền rất nhỏ nhờ các bài viết cho tờ báo New York Tribune, mô tả các sự việc xẩy ra tại châu Âu. Do hoàn cảnh sống quá eo hẹp và bất mãn này mà các bài viết của Karl Marx thường bộc lộ lòng hận thù, cay đắng. Karl Marx là một người học rộng nhưng mang thành kiến và tự kiêu, ông ta được nhiều người ngưỡng mộ nhưng có ít bạn bè và rất nhiều kẻ thù.

Mặc dù thường bị đau yếu vì bệnh tật và sống trong cảnh nghèo túng trong khu vực Soho buồn tẻ của thành phố London, mỗi ngày Karl Marx thường ra Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tìm kiếm tài liệu để viết nên một tác phẩm có tên là "Tư Bản Luận" (Das Kapital). Cuốn sách này đã được soạn thảo trong 18 năm trường, đôi khi bị ngưng lại vì các lần đau bệnh hay vì vài hoạt động khác của tác giả. Friedried Engels rất lo lắng cho tác phẩm này, e sợ nó bị dở dang. Engels đã nói "ngày mà cuốn sách được đưa in, tôi phải uống rượu thật say để chúc mừng". Cả hai Karl Marx và Engels đều coi cuốn "Tư Bản Luận" là "cuốn sách bị nguyền rủa" (the damned book) bởi vì nó sẽ mang lại một "cơn ác mộng".

Trong đời sống lưu vong của Karl Marx tại thành phố London, có một biến cố quan trọng khác, đó là việc thành lập vào năm 1864 Hiệp Hội Các Công Nhân Quốc Tế (the International Working Men's Association) được mọi người sau này gọi là Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Nhất (the First International). Đây là một tổ chức cố gắng kết hợp các giới lao động trên thế giới. Karl Marx là người đứng đằng sau sân khấu, đã soạn ra các tài liệu, nguyên tắc, chương trình, các bài diễn văn... nhưng về sau các vụ cãi cọ nội bộ, tranh giành quyền chỉ huy... đã khiến cho tổ chức này bị giải tán sau cuộc sụp đổ của Công Xã Paris vào năm 1871. Tổ chức công nhân quốc tế này lại được các nhà xã hội châu Âu tiếp tục bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Hai (the Second International) rồi về sau bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Ba (the Third International) hay Tổ Chức Comintern, do các người Cộng Sản trên toàn thế giới.

Karl Marx đã chuẩn bị cuốn "Tư Bản Luận" trong rất nhiều năm, rồi vào cuối năm 1866, toàn thể bản thảo của cuốn sách này được gửi sang Hamburg và vào mùa thu năm sau, cuốn sách ra đời. Cuốn "Tư Bản Luận" được viết bằng tiếng Đức, bản dịch đầu tiên sang ngoại ngữ khác là ấn bản tiếng Nga năm 1872 rồi tới năm 1886 mới có ấn bản tiếng Anh. Vào thời đại của Karl Marx, nước Anh là nơi tượng trưng cho chế độ tư bản đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế của Karl Marx đều dược rút ra do việc quan sát sinh hoạt của nước Anh này. Tại nước Anh vào thời đại Victoria, xã hội chứa đầy bất công, nhiều hoàn cảnh xấu xa.

Căn cứ vào các báo cáo chính thức của các nhân viên thanh tra trong chính quyền Anh, Marx đã trình bày các sự kiện xã hội một cách xác thực trong cuốn Tư Bản Luận theo đó đàn bà bị thuần hóa như các con vật, phải kéo các con thuyền dọc theo sông đào, kéo các toa xe nặng chở đầy than đá trong hầm mỏ. Trẻ em tại nước Anh bắt đầu làm việc trong các xưởng dệt vải len từ khi lên 9 hay 10 tuổi và phải lao động cực nhọc mỗi ngày từ 12 tới 15 giờ. Từ khi áp dụng ca đêm, các giường nằm của trẻ em không bao giờ lạnh cả bởi vì chúng thay nhau ngủ theo ca! Bệnh lao phổi và các bệnh nghề nghiệp khác đã giết trẻ em theo một mức độ cao. Việc phản đối các điều kiện làm việc hết sức tồi tệ kể trên không chỉ giới hạn vào Karl Marx. Những nhân vật có lòng nhân đạo như Charles Dickens, John Ruskin và Thomas Carlyle đã viết ra nhiều tác phẩm văn chương với nội dung phơi bày các bất công xã hội và đòi hỏi các cải tổ. Quốc Hội Anh cũng đặt ra các đạo luật sửa chữa.

Karl Marx rất hãnh diện về cách tiếp cận các vấn đề kinh tế và xã hội một cách khoa học. Engels nói rằng: "Giống như Darwin đã khám phá ra định luật Tiến Hóa trong bản chất hữu cơ, Marx đã tìm ra định luật Tiến Hóa trong lịch sử con người". Karl Marx xác nhận rằng: "các hiện tượng kinh tế có thể quan sát và ghi lại với độ chính xác giống như khoa học tự nhiên". Thông thường Karl Marx hay dẫn chứng các công trình của các nhà sinh học, hóa học và vật lý. Rõ ràng là Karl Marx mong muốn trở nên một nhân vật danh tiếng về xã hội và kinh tế giống như Darwin và Newton. Do cách phân tích xã hội theo khoa học, Karl Marx tin rằng mình đã khám phá ra cách thay đổi từ thế giới tư bản sang thế giới xã hội chủ nghĩa (a socialistic world).

2. Tác phẩm Tư Bản Luận.

Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là "lịch sử của đấu tranh giai cấp" (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đã gây nên các hoạt động của xã hội.

Trong thời đại La Mã, đã có các giai cấp quý tộc, hạ lưu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu tước, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, đã có các tranh chấp giữa giới tư sản (the bourgeoisie) với đa số thuộc giai cấp trung lưu thành thị mới, sở hữu các cơ xưởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.

Marx và Engels đã mô tả sự phát triển của giới tư sản là do giới này đã nắm được quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trướng thị trường, giới tư sản đã thiết lập được các mạng lưới mậu dịch nhờ đó mang về các nguyên liệu rẻ tiền đồng thời giới tư sản này xiết chặt quyền kiểm soát tư bản, các phương tiện sản xuất và trao đổi. Sự bành trướng kỹ nghệ đã khiến cho gia tăng giai cấp công nhân vô sản, họ là những người giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số người thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tư sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản đang lớn mạnh này.

Theo Marx và Engels, trước các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp đoàn để đòi hỏi tăng lương. Các vụ rối loạn đôi khi xẩy ra, nghiệp đoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhưng các công nhân dần dần đoàn kết lại, để chống lại các kẻ đàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế độ mới được gọi là "cộng sản", sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản.

Trong xã hội cộng sản này, quyền tư hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phương tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nước (state). Nhà Nước kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phương tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nước chăm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng để chi trả các chi phí nhưng mục đích của các hoạt động xã hội là sự an lạc của giai cấp lao động, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi người sẽ "làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu".

Những lời tiên đoán của Marx và Engels đã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế độ cộng sản lan tràn tại nước Nga và tại phần Đông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới đảng viên Cộng Sản đã khéo léo bóc lột nhân dân hơn cả bọn tư bản, đã hưởng thụ mọi đặc quyền đặc lợi một cách kín đáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp "công nhân và nông dân" thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không được phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Đảng Cộng Sản độc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.

Do quan niệm về Tiến Hóa đã được mọi người quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx đã dùng lý thuyết về "Đấu Tranh Giai Cấp" để cắt nghĩa Lịch Sử và tin rằng điều này không thể bác bỏ được. Ngoài ra, một đóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc được gọi là "Duy Vật Biện Chứng" (dialectical materialism), một danh từ vừa mơ hồ, vừa khó hiểu.

Phương pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học người Đức Georg Wilhelm Hegel (1770 - 1831) chủ trương rằng mọi sự vật đều ở trong trạng thái biển đổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực đối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc địa của người Anh đối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đã sinh ra nước Hoa Kỳ và như vậy "định luật của đời sống là các tương phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển".

Chủ đề này đã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa Lịch Sử bằng Kinh Tế. Marx và Engels đã cho rằng "lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của Giai Cấp Đấu Tranh. Người tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lưu, hạng hầu tước và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn đối đầu với nhau, họ thường xuyên gây chiến với nhau".

Trong bài điếu văn nói về Marx, Engels cho biết rõ hơn: "Karl Marx đã khám phá ra một sự việc đơn giản, ẩn nấp dưới sự phát triển ý thức hệ, đó là các con người trước tiên cần tới đồ ăn và nước uống, quần áo và nơi trú ẩn trước khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phương tiện sinh tồn và các giai đoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời đại, đã tạo nên nền móng của các định chế của quốc gia, cũng như các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý tưởng tôn giáo". Tóm lại, cuộc tranh giành vì đồ ăn và nơi trú ẩn rõ ràng xác định mọi hành động của con người.

Theo Karl Marx, lịch sử của Nhân Loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp kia.

Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, đây là loại xã hội không giai cấp nhưng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, đầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lương trong chế độ tư bản.

Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng bước tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là "nền độc tài của giai cấp vô sản" rồi tới quyền sở hữu cộng đồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp.

Trong cuốn "Tư Bản Luận", Marx đã làm phát triển một trường hợp chống lại hệ thống tư bản để chứng minh rằng chế độ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một điều không tránh khỏi.

Những người Cộng Sản coi sự đóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là "lý thuyết về giá trị lao động" (the theory of labor value). Thực ra, căn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời đại trước như Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao động là nguồn gốc của mọi giá trị.

Marx đã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo đó "một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao đổi giữa các lao động, giá trị của mọi thứ được đo lường bằng lao động". Từ Adam Smith, Marx đã mượn định nghĩa về tư bản như sau: "tư bản là một lượng lao động được lưu trữ", còn Ricardo đã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải được xác định theo số lượng lao động bên trong.

Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về "giá trị thặng dư", vấn đề này được xác định trong cuốn sách "Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học" (Critique of Political Economy, 1859) và cũng được xét lại trong tác phẩm "Tư Bản Luận" theo đó người công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) để bán hầu mong tránh khỏi bị chết đói, đó là sức lao động của chính mình. Chủ nhân đã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao động không đúng theo số tiền lương đã trả cho người công nhân. Người công nhân được trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhưng đã bị bắt buộc lao động trong 10 giờ. Số 4 giờ dư này đã bị giới tư bản ăn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v. đều xuất ra từ sự thặng dư lao động do người công nhân bị bóc lột và như vậy hệ thống tư bản chỉ là một chế độ khai thác và bóc lột giới lao công.

Lý thuyết về giá trị và thặng dư lao động của Karl Marx đã được dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy động. Ngày nay, các nhà kinh tế đã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do để bác bỏ lý thuyết về sức lao động của người công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ đó đã có các thay đổi lớn lao về sức lao động cần dùng. Solomon Bennett Freehof đã viết rằng: "nhà hóa học đã khám phá ra cách làm cho đất đai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Năng suất (productivity) được tạo nên do nhà hóa học". Một học giả khác lý luận rằng: "người ta lặn xuống nước mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn". Karl Marx đã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức đã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không đồng ý với Karl Marx về cách đo lường giá trị. Các tiêu chuẩn được chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.

Trở về lý thuyết giá trị thặng dư (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tư bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lương bổng, dùng các lao động rẻ tiền hơn như đàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả như sau: "giới tư bản đã cắt xén người lao động thành một phần của con người, làm giảm giá con người tới mức độ là một thành phần của máy móc, phá hủy những điều thích thú trong việc làm và biến người công nhân thành một dụng cụ đáng ghét. Giới tư bản đã bóp nghẹt các tiềm năng trí thức của người công nhân, làm lệch đi các điều kiện lao động, bắt người công nhân phải sống trong một chế độ độc đoán, khiến cho người công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của người công nhân nằm dưới bánh xe khủng khiếp của tư bản".

Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc để gia tăng sản xuất không làm dễ dàng cho người công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác đàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất đi hứng thú của người công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng "máy móc là vũ khí mạnh nhất để đàn áp các vụ đình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền độc tài của giới tư bản. Máy hơi nước là bước đầu tiên của nhà tư bản đạp lên các đòi hỏi của các công nhân. Kể từ năm 1830 có cả một lịch sử các phát minh được dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân".

Karl Marx còn cho rằng "sự quá đông dân" (overpopulation) luôn luôn đi kèm với con đường tư bản, khi mà các kỹ nghệ mới được tạo ra, các kỹ nghệ cũ được sửa lại thì hệ thống tư bản cần đến "một đạo quân trừ bị của kỹ nghệ" (an industrial reserve army). Sự thặng dư lao động dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lương tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trường bị ứ đọng, sức lao động giảm đi và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa đầy hàng hóa, nhà tư bản chuyển sản phẩm sang các thị trường ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến để đổ tháo các hàng hóa mà người công nhân không có khả năng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền để giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt động đã dẫn tới các xung đột quốc tế và các cuộc chiến đế quốc.

Karl Marx tin tưởng rằng kết quả của các xung đột và rối loạn của chủ nghĩa tư bản là sự gia tăng việc tập trung và độc quyền bởi vì "một nhà tư bản sẽ giết chết các nhà tư bản khác".

Như vậy giới trung lưu sẽ biến đi, các tư bản nhỏ sẽ bị các tư bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tư bản gộc đối đầu với giới vô sản là đa số. Lúc này là cơ hội của giai cấp vô sản.

Trong cuốn Tư Bản Luận, có đoạn nói như sau: "Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tăng dần số lượng nghèo khó, đàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Đồng thời cũng gia tăng lòng phẫn nộ của giai cấp lao động, một hạng người mỗi ngày một đông hơn, có kỷ luật hơn, biết đoàn kết và có tổ chức. Sự độc quyền của chế độ tư bản trở thành cách kiềm chế phương pháp sản xuất trước kia đã phát triển. Việc tập trung các phương tiện sản xuất và xã hội hóa lao động đi tới một điểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tư bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tư sản và các nhà tư bản sẽ bị tịch thu tài sản".

Theo Karl Marx, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền độc tài và Karl Marx báo trước rằng "đây là giai đoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng". Karl Marx không nói rõ nền độc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Đất nước Liên Xô nằm trong tầm tay của chế độ cộng sản độc tài sắt máu hơn 70 năm mà người dân Nga vẫn nghèo đói, vẫn ngạt thở. Hơn nữa Karl Marx rất mơ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục đích chính của xã hội cộng sản là "mỗi cá nhân được phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do" theo đúng nguyên tắc cộng sản là "mọi người làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu" (From each according to his abilities, to each according to his needs!)

Giấc mơ không tưởng hoàn toàn đẹp đẽ này rất tương phản với công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu và vô cùng tàn ác đã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xưa như Thiên Chúa giáo, đã dạy cho mọi người cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các đức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là "thuốc phiện của dân chúng", đã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy đường lối phải đi và tôn giáo đã đặt các chướng ngại trên con đường cách mạng.

Theo thực tế, lý thuyết và các tiên đoán của Karl Marx đã hàm chứa các sai nhầm căn bản bởi vì chế độ tư bản đã đi theo một con đường khác, bởi vì trong khi xã hội tư bản phát triển thì các sửa chữa vẫn được thực hiện. Tại các quốc gia tư bản, giai cấp công nhân đã không bị nghèo đói. Các nghiệp đoàn lao động và các luật lệ của chính quyền đã kiểm soát sự cạnh tranh, loại bớt các bất công và các xấu xa của chế độ tư bản, mang lại sự phong phú cho mọi người. Karl Marx đặt hy vọng vào tình đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đã xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany. Karl Marx cũng tiên đoán rằng các cuộc cách mạng vô sản sẽ bùng nổ tại các quốc gia kỹ nghệ cao như nước Anh, nước Đức, Hoa Kỳ v.v. trong khi Liên Xô và Trung Quốc bị Karl Marx khinh rẻ, không coi là các nơi thích hợp cho chế độ cộng sản. Nhìn lại lịch sử của Liên Xô, mọi người thấy rằng quốc gia này không phải là một đất nước Cộng Sản và Stalin không phải là một con người Cộng Sản theo như Karl Marx đã định nghĩa, và các lãnh tụ Cộng Sản kể từ Lenin đã dễ dàng tuyên truyền Chủ Nghĩa Mác Xít hơn là thực hiện đúng theo chủ nghĩa này, cho nên có người đã nói rằng "nếu Karl Marx sống vào thời Stalin, ông ta sẽ chết sớm".

Tập sách đầu tiên của Bộ "Tư Bản Luận" được xuất bản vào năm 1867, đã được coi là "Thánh Kinh của giai cấp lao động". Sau khi Karl Marx qua đời vào năm 1883, Fredrick Engels đã thu thập các tài liệu của Marx một cách thiếu đầy đủ, thiếu xếp đặt phân minh rồi Tập II ra đời vào năm 1885 và Tập III vào năm 1894. Hai tập sách này đề cập tới "sự lưu thông của tư bản" (the circulation of capital) và phương pháp sản xuất của chế độ tư bản. Đối với 3 tập sách, nhiều người chỉ đọc Tập I và danh tiếng của Karl Marx nhờ vào tập sách này. Ngoài ra Karl Marx còn viết ra tập thứ tư, tên gọi là "Lý thuyết của Giá Trị Thặng Dư" (The Theory of Surplus Value) do Karl Kautsky biên tập từ các bản thảo của Karl Marx và xuất bản tại nước Đức từ năm 1905 tới 1910.

Cuốn "Tư Bản Luận" (Das Kapital) là một cuốn sách khó hiểu. Nhà phê bình Barzun đã mô tả cuốn này là "viết dở, thiếu thứ tự, thiếu lý luận và tính đồng nhất về tài liệu".

Nhà sử học William Henry Chamberlin bình luận rằng phương pháp Duy Vật Sử Quan của Karl Marx đã bỏ qua các yếu tố quan trọng như sắc dân, tôn giáo và đặc tính quốc gia, đã không kể tới sự quan trọng của bản chất con người.

Một nhà phê bình khác nhận xét rằng Karl Marx gây nên nhiều chết chóc, nghèo khổ, suy thoái và thất vọng cho Nhân Loại, nhiều hơn tất cả các nhà tư tưởng khác. Theo Thomas Patrick Neill, Karl Marx là "lãnh tụ đại diện cho các kẻ không có gì (the have-nots) trong công cuộc chống lại các kẻ có tài sản (the haves)". Karl Marx thôi thúc lòng tham vọng và ghen tuông về quyền lực, chủ trương phá bỏ nền đạo lý đương thời, bởi vì ông ta quá kiêu căng, nhiều ghen tức.

Karl Marx vì sống trong cảnh nghèo túng, đã nói lên các bất công trong xã hội tư bản khiến cho xã hội này phải sửa chữa các sai lầm; mặt khác, lý thuyết của Karl Marx có sức tàn phá ghê gớm, đã từng giết hại hàng chục triệu con người vô tội trong chính các xứ cộng sản do chủ trương "đấu tranh giai cấp".
 
THOMAS R. MALTHUS (1766 - 1834) và Tác Phẩm "KHẢO LUẬN VỀ DÂN SỐ"

Vào cuối thế kỷ 18, các nhà tư tưởng thường là các nhà không tưởng (utopians). Chủ thuyết Lý Tưởng (idealism) phối hợp với các phong trào cách mạng tại châu Mỹ và tại nước Pháp đã khiến cho những người nhìn xa trông rộng trở nên quá lạc quan và kết luận rằng con người sẽ đạt tới sự toàn hảo, sẽ có thể tạo nên cảnh thiên đường trên trái đất. Có hai nhà văn đại diện cho những người lạc quan, đã lên tiếng về các khát vọng và ước mơ về một thời đại mới, đó là ông William Godwin (1756 - 1836) người Anh và Bá Tước De Condorcet (1743 - 1794), người Pháp. Qua cuốn sách "Công Bằng Chính Trị" (Political Justice = An Enquiry Concerning Political Justice, and Its Influence on General Virtue and Happiness, 1793), ông Godwin đã thảo luận sự quan hệ giữa cá nhân với chính quyền và xã hội.

Ông Godwin tin rằng mọi chế độ quân chủ đều xấu, ông phản đối cá nhân dùng quyền lực áp đảo các cá nhân khác, chê trách các định chế xã hội thời đó kể cả hôn nhân và ông tin tưởng vào lý trí (reason), coi các vấn đề xã hội có thể giải quyết bằng các cách thảo luận hợp lý. Trong cuốn sách kể trên, ông Godwin tin tưởng rằng sẽ tới một thời gian mà mọi người sống quá đủ đến nỗi con người không cần ngủ, không còn chết nữa và nhu cầu của hôn nhân sẽ bị thay thế bằng cách phát triển trí tuệ, tóm lại con người sẽ trở nên các thiên thần (angels). Ông Godwin viết: "các cải tiến khác sẽ đi kèm với sức khỏe và sự sống lâu. Sẽ không có chiến tranh, không có tội ác, không có xét xử pháp lý và không có chính quyền. Ngoài ra sẽ không có bệnh tật, không phiền não, không giận hờn và con người sẽ tìm thấy sự tốt lành trong mọi sự việc". Để tránh nỗi lo sợ do có quá nhiều người mà lại quá ít thực phẩm, ông Godwin viết tiếp: "hàng triệu thế kỷ có thể trôi qua với dân số gia tăng mà trái đất vẫn còn đủ nuôi sống các con người cư ngụ".

Bá tước De Condorcet (1743 - 1794) là một nhà triết học người Pháp với tác phẩm chính là cuốn "Phác thảo một Hình Ảnh Lịch Sử của sự Tiến Bộ Tư Tưởng Con Người" (Sketch for a Historical Picture of the Progress of the Human Mind, 1773). Ông De Condorcet tin tưởng rằng bản chất con người có thể toàn thiện được và lịch sử đã cho thấy nhân loại hướng về nền văn minh khai sáng (an enlightened civilization). Ông phản đối tôn giáo và các định chế xã hội, cho rằng các điều xấu là do các định chế không hoàn hảo, do các luật lệ đặt ra bởi các nhà cai trị và tu sĩ. Bá tước De Condorcet tin rằng cho tới thời của ông, Lịch Sử gồm 9 giai đoạn (epochs), qua giai đoạn tương lai thứ 10, sẽ có công bằng (equality) giữa các quốc gia và các giai cấp xã hội nhờ đó con người được cải tiến về thể chất, trí tuệ và luân lý, và ông khuyến cáo rằng tình trạng của con người trên trái đất sẽ khả quan hơn nếu không có tỉ lệ sinh sản cao.

Trước các lạc quan kể trên, có một nhà tư tưởng phản đối lại, đó là vị tu sĩ trẻ Thomas Robert Malthus (1766 - 1834), 32 tuổi, sư huynh của Đại Học Jesus (Fellow of Jesus College) tại Cambridge. Câu trả lời của ông Malthus cho các nhà tư tưởng chủ trương toàn thiện là tác phẩm "Một Khảo Luận về Nguyên Tắc Dân Số" (An Essay on the Principle of Population) xuất bản năm 1798 và cuốn sách này đã trở nên một trong các tác phẩm cổ điển của ngành Kinh Tế Chính Trị Học (political economy).

Là người cùng thời với Adam Smith và Thomas Paine nhưng trẻ hơn, Thomas Malthus sinh ngày 17/2/1766 tại Surrey, nước Anh, tốt nghiệp trường đại học Cambridge, là con trai thứ hai của ông Daniel Malthus. Ông Daniel này là một nhà quý phái miền quê, một người bạn của J. J. Rousseau, một chủ nhân đồn điền và cũng là một người thán phục William Godwin. Cả hai cha con Daniel và Thomas đều ưa tranh luận, cậu con Thomas thường hay tấn công các quan điểm quá lạc quan còn người cha lại bảo vệ các ảo tưởng. Cuối cùng theo lời thôi thúc của cha, Thomas quyết định viết ra giấy các ý kiến của mình. Kết quả là tác phẩm "Khảo Luận về Dân Số" trở nên nổi tiếng, trong 200 năm qua đã ảnh hưởng tới tư tưởng và cách thực hành của nhân loại, và cho tới thời nay vẫn còn được mọi người chú ý.

22 năm về trước, vào năm 1776, Adam Smith đã tìm hiểu bản chất và các nguyên do của tài sản (wealth) thì nay Thomas Malthus đã bổ túc bằng cách phân tích bản chất và các nguyên do của sự nghèo khó (poverty). Qua ấn bản nặc danh xuất hiện vào năm 1798, tác phẩm của ông Malthus chỉ là một tập sách mỏng gồm khoảng 50,000 chữ, có tên đầy đủ là "Một Khảo Luận về Nguyên Tắc Dân Số gây Ảnh Hưởng tới cách Cải Tiến Tương Lai của Xã Hội với các Nhận Xét về các Suy Tư của các ông Godwin, ông Condorcet và các tác giả khác" "An Essay on the Principle of Population as It Affects the Future Improvement of Society, with Remarks on the Speculations of Mr. Godwin, M. Condorcet, and Other Writers". Tập sách kể trên không được in ra với số lượng nhiều, vì vậy ngày nay còn lại rất ít bản cổ. Sau này tác giả Malthus đã viết rằng "cuốn sách được viết ra do sự thúc bách của hoàn cảnh và từ một số ít tài liệu trong tầm tay tại một nơi thôn dã". Đề tài của tác phẩm "Khảo Luận về Dân Số" không phải là mới. Các nhà tư tưởng trong thế kỷ 18, kể cả Benjamin Franklin, đã thảo luận vấn đề dân số gia tăng, nhưng không một nhà tư tưởng nào đã trình bày vấn đề này một cách mạnh mẽ, thật thiết tha, với sự phân biệt rõ ràng như Thomas Malthus.

Ngay từ khởi đầu, Malthus đã minh xác hai điều thừa nhận: "thứ nhất, đồ ăn thì cần thiết cho sự sống của con người; thứ hai, sự đam mê (passion) giữa các phái tính (the sexes) thì cần thiết và sẽ còn tồn tại giống như hiện nay". Như vậy không một nhà "không tưởng" (utopians) nào dám cho rằng con người có thể sống mà không cần tới đồ ăn. Nhưng ông Godwin đã phỏng đoán rằng sự đam mê giữa các phái tính sẽ tàn lụi dần qua thời gian. Các lời biện hộ tốt đẹp nhất của sự hoàn hảo của con người được suy ra từ nhận xét về các tiến bộ mà con người đã thực hiện được từ trạng thái man rợ đi dần tới hoàn cảnh văn minh, nhưng đối với sự bớt dần của cách đam mê giữa các phái tính, cho đến nay không có tiến bộ nào được thực hiện. Có vẻ như hiện nay vẫn có một thứ sức mạnh về dục tính giống như 2,000 hay 4,000 năm về trước. Rồi coi như định đề kể trên không thể bác bỏ được, Thomas Malthus tiến tới và đặt ra một nguyên tắc danh tiếng: "năng lực của dân số thì lớn hơn gấp bội năng lực của trái đất sinh sản ra đồ ăn cho con người. Khi không bị kiềm chế bớt, dân số sẽ gia tăng theo tỉ lệ cấp số nhân (a geometrical ratio). Thực phẩm chỉ gia tăng theo tỉ lệ cấp số cộng (an arithmetical ratio). Sự hiểu biết chút ít về số học sẽ cho thấy sự cách biệt quá lớn giữa tỉ lệ trước so với tỉ lệ sau".

Trình bày chi tiết hơn, Thomas Malthus đã bảo vệ luận cứ của mình như sau: "Trong thế giới thú vật và thảo mộc, thiên nhiên đã rải rắc các hạt giống của sự sống bằng bàn tay phong phú và tự do hơn. Nhưng thiên nhiên đã giới hạn sự nuôi dưỡng cần thiết... Các giống thực vật và giống động vật thu hẹp dần do định luật giới hạn và giống người, dù cho cố gắng nào, cũng không thể thoát khỏi định luật giới hạn này. Đối với cây cỏ và thú vật, các tác dụng là sự phí phạn hạt giống, sự đau bệnh và yểu vong. Đối với con người, đó là sự nghèo khó (misery) và các tật xấu (vice)". Theo sự ước đoán của Malthus, các sự thật thực tế và phũ phàng này đã sinh ra các khó khăn không thể vượt qua được trên con đường hoàn thiện của xã hội. Không một cải tiến nào có thể dẹp bỏ áp lực của các định luật thiên nhiên. Các trở ngại này không cho phép "một xã hội hiện hữu trong đó mọi người sinh sống dễ dàng, vui hưởng hạnh phúc và hưởng các nhàn nhã tương đối, và cảm thấy không còn lo lắng về các phương tiện sinh sống của chính mình và của gia đình".

Thomas Malthus đã chọn một nơi dẫn chứng về cách gia tăng dân số, đó là Hoa Kỳ, một vùng đất có phương tiện sống dễ dàng, cách sinh sống còn giản dị vì vậy số dân không bị hạn chế do hôn nhân sớm. Loại bỏ vấn đề di dân, Malthus đã đi đến kết luận rằng dân số tăng gấp đôi sau mỗi 25 năm. Như vậy nếu không gặp các giới hạn, tỉ lệ gia tăng dân số của mỗi quốc gia là một thế hệ. Quay sang vấn đề thực phẩm, Malthus viết rằng: "do các chính sách tốt đẹp nhất, do cách khẩn hoang thêm đất đai, do khuyến khích canh nông, sản phẩm của hòn đảo Anh này có thể tăng gấp hai sau 25 năm đầu". Tuy nhiên các khó khăn sẽ gặp phải sau một thế hệ nữa, bởi vì dân số sẽ tăng thành 4 lần sau một khoảng thời gian 50 năm nhưng "không thể cho rằng thực phẩm có thể nhiều gấp 4 lần hơn". Cách tốt đẹp nhất chỉ có thể là số lượng thực phẩm gia tăng gấp 3 lần. Diễn tả bằng con số, Thomas Malthus cho rằng dân số tăng theo tỉ lệ 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64 v.v., trong khi tỉ lệ tăng trưởng của thực phẩm là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 v.v...

Vào phần cuối tác phẩm "Khảo Luận về Dân Số", Thomas Malthus kết luận rằng "khi các hoàn cảnh giống nhau, các quốc gia nên có số đông người theo số lượng thực phẩm mà người dân làm ra hay kiếm được và sự hạnh phúc nên theo mức độ phân chia thực phẩm hay theo số lượng mua được của một ngày lao động. Các quốc gia trồng bắp (ngô) đông dân hơn các quốc gia trồng cỏ (chăn nuôi gia súc) và các nước trồng lúa đông dân hơn các nước trồng bắp. Hạnh phúc của người dân không tùy thuộc vào dân số thưa hay đông mà vào sự nghèo khó hay giàu có, vào tuổi trẻ hay tuổi cao, vào tỉ lệ giữa dân số và số thực phẩm nuôi dưỡng".

Kết quả của điều suy đoán kể trên là mọi người phải hạn chế mức độ gia tăng dân số. Cách hạn chế được chia làm hai loại, loại hữu hiệu gồm sự nghèo đói, bệnh tật, cách nuôi dưỡng trẻ em kém, cách lao động nặng nhọc, và loại ngăn chặn gồm các giới hạn luân lý và các tật xấu (vice).

Như vậy theo sau quan điểm của Thomas Malthus, con người nên hưởng thụ hạnh phúc càng nhiều càng hay, không nên lãnh các trách nhiệm gia đình nếu không đủ khả năng và thuộc loại này, con người nên sống độc thân rồi sau đó, xã hội nên có chính sách khuyến khích giới lao động không nên có nhiều con. Không nên có các cơ quan từ thiện dù là công hay tư, bởi vì những tổ chức này chỉ cung cấp cho các người nghèo khó tiền bạc mà không làm gia tăng số lượng thực phẩm. Cũng không nên có chính sách giúp đỡ nhà ở do cách làm này có tác dụng làm cho nhiều người lập gia đình sớm và kết quả là làm gia tăng dân số. Tiền lương cao cũng gây ra các hậu quả tương tự. Chỉ còn một cách thoát khỏi tình trạng khó khăn này là hôn nhân trễ với sự kiêng cữ tình dục.

Cuốn Khảo Luận của Thomas Malthus đã gặp các phản đối, nguyền rủa, phần lớn từ hai nguồn: các nhà thần học bảo thủ và các nhà xã hội cấp tiến (social radicals). Malthus bị coi là "một người bảo vệ bệnh đậu mùa, sự nô lệ và sự giết chết trẻ em, là người từ chối cung cấp loại cháo cứu trợ, ngăn cản loại hôn nhân sớm và các trợ giúp của giáo xứ, là người coi xã hội đã bị quản trị dở với các hành động tốt đẹp nhất lại gây nên các điều tai hại nhất, tóm lại, ông ta là con người đã lấy đi các thơ mộng khỏi đời sống".

William Cobbett đã phản đối: "Làm sao ông Malthus và các đệ tử hư hỏng và ngu xuẩn của ông ấy có thể cấm tỉ lệ sinh sản của các người nghèo, cấm người nghèo không được phép kết hôn" và một câu nói chống đối cho rằng "chủ thuyết Malthus không thích hợp với lòng rộng lượng của Thượng Đế". Ông Malthus bị coi đã xuất bản một cuốn sách phi tôn giáo, vì vậy trong ấn bản thứ hai, Malthus đã nhấn mạnh vào cách hạn chế tinh thần (moral restraint) để giới hạn dân số và như vậy loại bỏ "mọi quy lỗi cho lòng tốt của Đấng Tối Cao".

Dưới con mắt của Thomas Malthus, các dự án cải thiện xã hội, làm nhẹ các nhu cầu, thực ra lại làm gia tăng các tật xấu mà xã hội muốn chữa trị. Lý thuyết của Malthus đã được các người giàu sang và giới cầm quyền chấp nhận một cách thiện cảm. Chính quyền Anh đã phải chú ý và phải cho thi hành cuộc kiểm tra dân số đầu tiên vào năm 1801. Trước kia, loại kiểm tra này bị chống đối vì có tính cách chống lại Thánh Kinh, vì không có đặc tính Anh. Một kết quả khác là chính quyền Anh phải sửa đổi các đạo luật liên quan tới người nghèo để tránh bớt các khuyết điểm mà lý thuyết Malthus đã cho thấy rõ.

Các ý tưởng của Thomas Malthus cũng có ảnh hưởng tới bộ môn Khoa Học Tự Nhiên cũng như Khoa Học Xã Hội. Cả hai nhà khoa học danh tiếng Charles Darwin và Alfred Russel Wallace đều công nhận mắc nợ Thomas Malthus khi làm phát triển lý thuyết Tiến Hóa.

Các phản đối giận dữ của giới tu sĩ và của các nhà xã hội không tưởng đối với ấn bản năm 1798 của Thomas Malthus đã không làm cho tác giả này nao núng, mà còn khiến cho ông Malthus bị ám ảnh bởi vấn đề dân số và mong muốn tìm hiểu thêm đề tài này một cách sâu xa hơn. Để có thêm các bằng chứng, ông Malthus đã đi chu du châu Âu vào năm 1799, qua các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và một phần của đất Nga là những xứ sở vào thời kỳ này mở cửa cho phép du khách người Anh, rồi vào năm 1802, ông Malthus cũng qua hai nước Pháp và Thụy Sĩ trong một thời gian ngắn hơn. Sau đó Thomas Malthus cho xuất bản một tập sách mỏng có tên là "Cuộc Khảo Sát Lý Do của Giá Thực Phẩm Cao Hiện Nay" (An Investigation of the Cause of the Present High Price of Provisions) qua đó có trình bày quan điểm cho rằng giá tiền và tiền lời bị xác định do "sức cầu hữu hiệu" (effective demand).

Năm năm sau ấn bản đầu tiên của cuốn Khảo Luận (Essay), ấn bản thứ hai là cuốn sách dày 610 trang, không chứa đựng các lời thơ hay giọng văn sôi nổi, tự phụ, mà là một khảo cứu kinh tế có tầm hiểu biết rộng, gồm nhiều dẫn chứng với các ý tưởng căn bản không thay đổi. Trong thời gian tác giả còn sống, 4 ấn bản khác đã xuất hiện và tới ấn bản thứ năm, tác phẩm "Khảo Luận" đã dày 1,000 trang. Một tác phẩm khác của Thomas Malthus xuất bản năm 1820 là cuốn "Các Nguyên Tắc của Môn Kinh Tế Chính Trị Học xét theo quan điểm của các Áp Dụng Thực Tế" (The Principles of Political Economy Considered with a View to Their Practical Applications).

Không kể tới tác phẩm, cuộc sống của ông Thomas R. Malthus thì tương đối bình yên. Ông Malthus tiếp tục khảo cứu môn Kinh Tế cho tới năm 1804 thì lập gia đình vào tuổi 38. Năm sau, ông được bổ nhiệm làm Giáo Sư môn Lịch Sử và Kinh Tế Chính Trị Học tại một trường đại học mới được thiết lập tại Haileybury, Ấn Độ, ngôi trường giành cho các công chức của Công Ty Đông Ấn. Đây là một chức giáo sư mới của môn Kinh Tế Chính Trị Học. Ông Malthus sống tại Haileybury trong 30 năm, cho tới khi ông qua đời năm 1834. Ông có 3 người con.

Vấn đề dân số do ông Thomas R. Malthus nêu ra đã không chìm vào quên lãng. Các bài tranh luận ủng hộ và chống đối vẫn còn tiếp tục với các đề tài như "Thách Đố của Tương Lai Con Người", "Con Đường tới Đoạn Sống Còn", "Các Giới Hạn trên Trái Đất"... , "Hành Tinh bị cướp đoạt", " Sự Đe Dọa của Malthus", "Nhân Loại không cần nhịn ăn"... Vấn đề dân số này đã khiến cho các nhà xã hội phải quan tâm, nhiều người đã chấp nhận việc giới hạn số con trong gia đình, chấp nhận việc dùng các phương pháp ngừa thai... nhưng cách kiểm soát sinh sản này đã không được một số người áp dụng do họ thiếu hiểu biết hay do các giáo điều tôn giáo, coi việc ngừa thai là trái tự nhiên.

Vào năm 1798 khi Thomas R. Malthus viết ra tác phẩm "Khảo Luận", dân số trên thế giới vào khoảng 1 tỉ người. Sau 175 năm, con số này lên tới 4 tỉ và trở thành 6.25 tỉ vào năm 2000. Sự gia tăng này không phải do số sinh tăng nhanh mà phần lớn do đời người đã được kéo dài thêm nhờ các phương tiện y tế, vệ sinh, xã hội... Hiện nay trên thế giới, sự di dân đã làm giảm bớt các nơi đông dân nhưng vẫn còn các xứ sở có mức độ sinh sản cao như các vùng châu Á, Cận Đông, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Tại các địa phương này, người dân vẫn bị nghèo khổ và đói ăn do nạn nhân mãn. Ngược lại, tại các quốc gia văn minh và tiến bộ hơn, dân số đã giảm nhiều như tại các nước Pháp, Áo, Anh, Thụy Điển, Nhật Bản, Ái Nhĩ Lan... Đồng thời với mức dân số giảm, thực phẩm đã gia tăng nhờ các phương pháp sản xuất, khai quang đất đai, tiêu diệt côn trùng... Mức thặng dư thực phẩm tại Hoa Kỳ và Canada cũng làm cho nhiều người lạc quan hơn trước.

Nói đến tác phẩm "Khảo Luận về Dân Số" của Thomas R. Malthus, nhà kinh tế người Anh John Maynard Keynes đã cho rằng tác phẩm này đã gây ảnh hưởng lớn tới tiến trình tư tưởng của Nhân Loại và trong số các tác giả danh tiếng người Anh và Tô Cách Lan như Lock, Hume, Adam Smith, Paley, Bentham, Darwin, Mill, phải kể tới Thomas Malthus.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
thế còn Keynes đâu.......chờ mãi......mà chả thấy.............
 
Một thiếu sót không thể tha thứ được. Keynes sẽ có vào ngày mai.
Xin cám ơn bạn đã nhắc nhở :D
 
Hỏi anh Tuấn cái: quyển này đã in được ở VN chưa? Câu thứ hai: có phải anh làm cái này cùng với anh Ngô Đức Thành không ạ?

[/b]anh tmt chưa thấy trả lời anh Dũng, nếu đúng thì thằng cha này :) tài ghê
 
thế còn Keynes đâu.......chờ mãi......mà chả thấy.............


hươu cao cổ :lol:
 
Rat tiec day lai la tin buon. Franco Modigliani, 1 trong nhung finance va macroeconomists duoc nguong mo nhat nua cuoi the ki 20, da ma^'t do tuoi cao sang nay 25/9 tai Cambridge, MA, USA. Moi nguoi ai quan tam vao day doc tin nhe, co 1 chut ve su nghiep cua Modigliani.

http://web.mit.edu/newsoffice/nr/2003/modigliani.html
 
Đây rồi ra lò rồi........................................................................... ........................
 

Đính kèm

  • sach.JPG
    sach.JPG
    90.1 KB · Xem: 132
Tống Minh Tuấn đã viết:
Đây rồi ra lò rồi........................................................................... ........................
Chúc mừng bác Tuấn & "50 nhà kinh tế học..." mẹ tròn con vuông. Mấy hôm nữa về VN, nhất định em sẽ đi kiếm một cuốn.
 
“Tư tưởng của các nhà kinh tế và các triết gia chính trị, cả khi họ đúng lẫn lúc họ sai, đều mạnh mẽ hơnn người ta thường nghĩ. Thật vậy, thế giới bị thống trị bởi một số ít người khác. Những người hành động, những người tự cho rằng họ không bị chi phối gì bởi những ảnh hưởng tri thức, lại thường là nô lệ của một nhà kinh tế đã quá cố nào đó.”
Đó là những dòng cuối cùng John Maynard Keynes viết trong cuốn Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ. Keynes thường chỉ ra rằng các vấn đề kinh tế chủ chốt nói chung được bàn tho trong một khuôn khổ và bối cnh đã được gây dựng trong suốt nhiều thế kỷ. Việc không biết về bề dầy lịch sử ấy sẽ dẫn tới những cuộc tranh luận kém hiệu qu và cũng dẫn tới c những chính sách kinh tế tồi tệ. Lịch sử có ý nghĩa không phi chỉ vì những ai thiếu hiểu biết về lịch sử sẽ nhất định lặp lại những lỗi lầm của nó, như nhận xét của Santanyana. Mà lịch sử còn có giá trị đối với tưng lai kết thành từ nó. Giống như các khoa học khác, kinh tế học không xuất hiện trong buồng chân không. Trái lại, các tư tưởng kinh tế được gây dựng bởi những người muốn gii quyết các vấn đề quan trọng trong thời đại của họ. Chúng ta cần một nhãn quan lịch sử để hiểu rõ chức năng quan trọng này của kinh tế học và để biết các nhà kinh tế vĩ đại trong quá khứ đã ứng phó với các vấn đề của thời đại họ ra sao. Cuối cùng, lịch sử quan trọng bởi vì, theo một nghĩa nào đó, đó là vị quan toà phán xét cái gì là quan trọng nhất thời, còn cái gì có ý nghĩa và vai trò trường cửu...

John Maynard Keynes (1883-1946)

Cùng với Adam Smith và Karl Marx, John Maynard Keynes được coi là một trong ba người khổng lồ trong lịch sử kinh tế học. Nếu như Adam Smith được xem như là người lạc quan trong bộ ba này khi ông nhìn nhận tiến bộ về kinh tế là kết qu chủ yếu của chủ nghĩa tư bn; và nếu Marx được xem là người bi quan khi ông tin rằng hàng loạt những vấn đề nghiêm trọng của chủ nghĩa tư bn sẽ khiến cho nó tự sụp đổ thì Keynes có thể được xem là vị cứu tinh theo chủ nghĩa thực dụng của thế giới tư bn. Nhận ra những lợi ích và c những khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bn, Keynes viện tới các chính sách kinh tế như là một phưng tiện làm dịu bớt các vấn đề của chủ nghĩa tư bn. Ông cho rằng các chính sách kinh tế khôn ngoan có thể cứu giúp chủ nghĩa tư bn, cho phép người ta phát huy lợi ích mà không phi tri qua những điều tồi tệ của nó.
Keynes sinh ra ở Cambridge, nước Anh năm 1883 trong một vọng tộc lâu đời. Cha của ông, John Neville Keynes làm qun lý đào tạo tại Đại học Cambridge và là một nhà kinh tế đồng thời là một nhà triết học danh tiếng tại trường đại học này. Còn mẹ của ông đã từng giữ cưng vị thị trưởng Cambridge.
Keynes được học tại những trường tốt nhất ở Anh - Cao đẳng Eton và King's College, Cambridge. Tại trường Cambridge, ông học văn học cổ Hy-La và triết học dưới sự ging dạy của G.E Moore, toán học của Alfred North Whitehead, và kinh tế học của Alfred Marshall. Keynes cũng trở thành thành viên của câu lạc bộ các trí thức tại Cambridge, câu lạc bộ mà sau đó trở thành nhóm Bloomsbury. Nhóm này có những nhân vật lớn trong giới văn chưng và nghệ thuật như Virginia Woolf, E.M Forster, và Lytton Strachey.
Sau khi tốt nghiệp, Keynes thi công chức và đứng vị trí thứ hai trong số tất c những người tham gia thi tuyển. Kết qu này cho phép Keynes chỉ có thể lựa chọn các vị trí côngviệc sau người đứng thứ nhất. Mặc dù ông đã ao ước một công việc tại Bộ tài chính, nhưng vị trí này lại bị người đứng thứ nhất là Otto Niemeyer lấy mất. Thật trớ trêu là Keynes đạt được điểm cao nhất đối với các môn logic, triết học, khoa học chính trị, và ging luận; nhưng xét tổng số điểm thì ông chỉ đứng thứ hai vì ông bị điểm tưng đối thấp đối với môn Kinh tế học. Sau này, Keynes đã nói một cách châm biếm rằng lúc đó "ông còn hiểu biết về kinh tế học nhiều hn ban giám kho của kỳ thi đó" (Harrod 1951, tr. 121)
Sau khi lựa chọn một chỗ làm tại văn phòng ấn độ, Keynes đã giúp tổ chức và điều phối các quyền lợi của Anh liên quan tới ấn độ. “Công việc đầu tiên của ông là hướng dẫn và sắp xếp việc chuyên chở bằng đường biển tới Bombay 10 con bê đực Ayershire, và việc này chỉ kéo dài được vài tháng" (Moggride 1992, tr. 168). Mọi thứ chẳng có gì thú vị sau đó và rất dễ hiểu là Keynes cm thấy nhàm chán với công việc của mình. Hai năm sau đó, vào năm 1908, ông quay trở về trường Cambridge để ging dạy kinh tế học. Ba năm sau ông đm đưng vị trí tổng biên tập tạp chí Economic Journal, là tạp chí kinh tế danh tiếng nhất trên thế giới vào thời đó.
Sự tôn vinh đầu tiên của công chúng đến với Keynes sau khi ông cho xuất bn cuốn Những hậu qu kinh tế của hoà bình, một cuốn sách viết về Hiệp ước hoà bình Versailles kết thúc Thế chiến Thứ nhất. Trong suốt Thế chiến I Keynes làm việc tại Bộ tài chính Anh và đầu tiên chịu trách nhiệm huy động các nguồn tài chính từ bên ngoài để cung cấp chi phí cho chiến tranh của Anh. Khi chiến tranh sắp đến hồi kết thúc, Keynes được chọn làm một thành viên của phái đoàn Anh tới Versailles đàm phán với Đức về việc bồi thường chiến tranh. Ngoài việc hạn chế những hành động gây khó chịu của những nhân vật quan trọng tại hội nghị hoà bình (tổng thống Mỹ Wilson, Thủ tướng Pháp Clemenceau, Thủ tướng Anh Loyd George), Keynes (1971-89, quyển 2) cũng đã chỉ trích gay gắt chính bn hiệp ước hoà bình. Theo như những tính toán của ông, nước Đức không thể thực hiện được những đòi hỏi của Anh và Pháp về việc bồi thường chiến phí. Một hậu qu kinh tế sẽ là sự lụi bại của nước Đức và lòng căm thù ngày càng cao của người Đức đối với Anh và Pháp. Hậu qu chính trị, thứ mà Keynes cũng lo sợ tưng tự, là sự trỗi dậy của một nước Đức quân phiệt đầy thù hận trong tưng lai.
Khi đã là một nhân vật có tiếng tăm trên c nước, Keynes chuyển sự quan tâm của mình sang các lý thuyết và chính sách kinh tế. Cuốn Kho luận về Ci cách tiền tệ (Keynes 1971-89, Q. 4) đã cnh báo về sự nguy hiểm của lạm phát. Cuốn sách hướng tới sự kiểm soát cung tiền của ngân hàng trung ưng như một phưng tiện ổn định mức giá và kiềm chế lạm phát. Trong công trình này cũng có câu châm ngôn nổi tiếng và đã bị hiểu sai của Keynes, đó là "trong dài hạn tất c chúng ta đều chết". Rất nhiều người đã cho rằng câu nói này ngụ ý rằng Keynes sẵn sàng hy sinh hoạt động kinh tế trong dài hạn để đổi lấy các lợi ích kinh tế ngắn hạn. Tuy nhiên đây hoàn toàn không phi là điều mà Keynes muốn nói. Hàm ý của Keynes là chỉ trích những người tin rằng vấn đề lạm phát cuối cùng sẽ tự nó được gii quyết, mà không cần tới bất kỳ sự can thiệp chủ động nào của chính phủ. Ngược lại, Keynes cm thấy rằng thay vì chờ đợi các vấn đề lạm phát tự điều chỉnh trong một tưng lai xa vời, tốt hn c là nên sử dụng những chính sách kinh tế để ci thiện vấn đề ngay trong hiện tại. Quan điểm của ông là không có lý do gì để chờ đợi những lợi ích trong tưng lai mờ mịt, khi một tiến trình nhanh chóng hn có thể gii quyết các vấn đề kinh tế bằng cách sử dụng những chính sách kinh tế một cách khôn ngoan.
Trong thập niên 1920, lạm phát bị đẩy lùi và nước Anh nhận thấy nó ngày càng bị lệ thuộc vào những dao động kinh tế và những thời kỳ thất nghiệp cao kéo dài. Keynes vì vậy đã chuyển hướng sang những vấn đề mới này. Cuốn Nghiên cứu về tiền tệ (Keynes 1971-89, quyển 5, 6) đã kho sát một cách chi tiết những mối quan hệ giữa tiền tệ, giá c và thất nghiệp. Keynes cho rằng mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư là nguyên nhân chính cho các dao động kinh tế. Theo Keynes. Khi người ta cố gắng tiết kiệm nhiều hn các doanh nghiệp muốn đầu tư, các doanh nghiệp sẽ nhanh chóng nhận thấy năng lực sn xuất của họ là dư thừa và có quá ít người có thể mua được hàng hoá họ sn xuất ra. Mặt khác, khi đầu tư vượt quá tiết kiệm, người ta sẽ tiêu dùng quá nhiều. Người tiêu dùng sẽ chi tiêu thay vì tiết kiệm và các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu cao hn đối với lao động để sn xuất hàng hoá cũng như có nhu cầu cao hn đối với lao động xây dựng các nhà máy và chế tạo thiết bị. Tất c chi tiêu này sẽ đẩy tiền công và các chi phí sn xuất khác lên, và cũng làm tăng giá của hàng tiêu dùng. Lạm phát sẽ là kết cục cuối cùng.
Keynes nhấn mạnh rằng vấn đề nằm ở chỗ các quyết định tiết kiệm và đầu tư được thực hiện bởi các nhóm cá nhân khác nhau. Kết qu là không có sự đm bo nào rằng tiết kiệm và đầu tư sẽ bằng nhau. Keynes sau đó đưa ra luận cứ rằng trách nhiệm của ngân hàng trung ưng là phi giữ cho hai biến này bằng nhau, và do đó ngăn chặn được lạm phát và suy thoái. Nếu tiết kiệm vượt quá đầu tư, ngân hàng trung ưng cần hạ thấp lãi suất, như vậy vừa gim bớt tiết kiệm và kích thích việc đi vay. Ngược lại, nếu đầu tư vượt quá tiết kiệm, ngân hàng trung ưng cần tăng lãi suất, như vậy làm tăng tiết kiệm và gim việc vay mượn vì mục đích đầu tư.
Keynes được biết đến nhiều nhất vì cuốn cách kinh điển của ông, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (Keynes 1971-89, Q. 7). Tác phẩm này là nền tng cho sự phát triển của c một ngành kinh tế học (kinh tế học vĩ mô), và là công trình được nhắc đến và gây tranh cãi nhiều nhất đối với kinh tế học thế kỷ XX. Bn thân công trình này vừa là một sự công kích vào những người đi trước Keynes và cũng là một lý thuyết về những nhân tố xác định mức sn lượng và việc làm trong một quốc gia. Mặc dù cuốn sách nói rất ít về chính sách kinh tế, nhưng nó đã cung cấp một nền tng lý thuyết cho các hành động mang tính chính sách của chính phủ trong việc ngăn chặn cuộc Đại suy thoái đã gần như bao trùm tất c các quốc gia trong thập niên 30 của thế kỷ XX.
Keynes mở đầu cuốn Lý thuyết tổng quát bằng việc công kích Quy luật của Say, quan điểm cho rằng "bn thân cung sẽ tạo ra cầu của chính nó". Theo luật này, thất nghiệp là không thể có vì ứng với bất cứ sự tồn tại nào của cung lao động (hay bất cứ sự tồn tại cung hàng hoá nào trong nền kinh tế), sẽ có một nhu cầu đối với lượng lao động đó (hay một nhu cầu đối với những hàng hoá đó). Sau đó Keynes tiến tới lật ngược lại quy luật của Say, và đưa ra luận cứ rằng tổng cầu xác định cung của đầu ra và mức việc làm. Bất cứ khi nào cầu tăng cao, các nền kinh tế sẽ phồn thịnh, các doanh nghiệp sẽ mở rộng sn xuất và thuê thêm nhân công, và thất nghiệp sẽ không trở thành vấn đề nữa. Nhưng hễ khi nào cầu thấp, các hãng sẽ không thể bán được hàng của họ và họ sẽ buộc phi cắt gim sn lượng và việc làm. Nếu mọi thứ trở nên rất tồi tệ, sẽ có sự sa thi hàng loạt, thất nghiệp cao và suy thoái.
Vì những lý do rõ ràng như vậy, Keynes tiếp tục quay sang nghiên cứu tổng cầu và các nguyên nhân gây ra thay đổi trong tổng cầu. Sau khi phân tích hai thành tố quan trọng nhất của cầu, Keynes đã phát triển những lý thuyết hiện đại về chi tiêu của người tiêu dùng và đầu tư của doanh nghiệp.
Keynes xác định hai nhân tố quyết định chủ yếu của chi tiêu tiêu dùng - các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan. Trong số những nhân tố chủ quan, hay những nhân tố tâm lý tác động tới tiêu dùng có sự không biết chắc chắn về tưng lai, mong muốn để lại tài sn thừa kế và mong muốn được hưởng thụ sự độc lập và quyền lực. Việc lo lắng hn về tưng lai kinh tế của cá nhân, mong muốn để lại tài sn cho con cái nhiều hn, hay mong muốn lớn hn về sự độc lập, sẽ dẫn tới tiết kiệm nhiều hn và chi tiêu ít hn. Ngược lại, một tưng lai kinh tế chắc chắn, không có người thừa kế và sự bàng quan về sự độc lập kinh tế của cá nhân sẽ làm gim tiết kiệm và tăng tiêu dùng.
Những nhân tố khách quan tác động tới tiêu dùng là những tác động kinh tế như lãi suất, thuế, sự phân phối thu nhập và của ci, thu nhập tưng lai kỳ vọng và quan trọng nhất là thu nhập hiện thời. Khi lãi suất tăng, người tiêu dùng sẽ trở nên do dự trong việc vay tiền cho mục đích mua nhà, xe hi mới và các hàng hoá mua bằng tín dụng khác. Ngược lại, với lãi suất thấp, người tiêu dùng có thể thấy thoi mái hn đối với việc vay nợ và chi tiêu. Cũng như vậy, khi của ci, thu nhập hiện thời, hoặc thu nhập kỳ vọng trong tưng lai tăng lên, mọi người sẽ chi tiêu nhiều hn và tiết kiệm ít hn, và nếu với ít của ci hn, thu nhập hiện thời và thu nhập kỳ vọng trong tưng lai thấp hn, mọi người sẽ chi tiêu ít đi và tiết kiệm nhiều hn.
Trong khi có nhiều nhân tố tác động tới tiêu dùng, thì đầu tư trong kinh doanh theo Keynes chỉ phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là lợi nhuận kỳ vọng của đầu tư và lãi suất. Lợi nhuận kỳ vọng là những lợi ích từ việc đầu tư vào nhà xưởng và thiết bị mới; lãi suất là chi phí để có được các nguồn vốn dùng cho xây dựng nhà xưởng và mua sắm thiết bị. Nếu tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của dự án đầu tư lớn hn lãi suất, các hãng kinh doanh sẽ mở rộng sn xuất, xây dựng nhà xưởng và mua sắm thiết bị. Tuy nhiên, nếu lãi suất vượt quá tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của đầu tư, dự án đầu tư đó sẽ không được thực hiện.
Những thay đổi trong kỳ vọng và những thay đổi trong lãi suất dẫn đến những thay đổi trong đầu tư kinh doanh. Khi các chủ doanh nghiệp lạc quan về nền kinh tế (tin tuởng rằng họ sẽ có thể bán được nhiều hàng hoá trong tưng lai và nhận được một mức giá có lời từ người tiêu dùng cho những hàng hoá này), họ sẽ kỳ vọng vào tỷ suất lợi nhuận cao từ số tiền sử dụng để xây dựng nhà xưởng và mua thiết bị. Tuy nhiên khi họ bắt đầu bi quan, những người ra quyết định kinh doanh này cho rằng doanh số bán sẽ thấp và nghĩ rằng chỉ khi họ bán hàng hoá với giá rẻ thì người tiêu dùng mới mua những hàng hoá này. Trong trường hợp này, tỷ suất lợi nhuận đối với các dự án đầy tư sẽ được kỳ vọng là thấp và rất ít nhà máy mới được xây dựng.
Tiếp đó, Keynes gii thích cái gì quyết định lãi suất. Theo Keynes, lãi suất được xác định trong thị trường tiền tệ ni mà người dân và các doanh nghiệp có nhu cầu về tiền và ni các ngân hàng trung ưng kiểm soát cung tiền. Nhu cầu về tiền xuất phát từ các quyết định về phân bổ tài sn của người dân và các doanh nghiệp - họ có thể giữ tiền hay giữ tài sn của mình dưới dạng trái phiếu, cổ phiếu và loại tài sn khác.
Vì yêu cầu của thực tiễn, cung tiền trong nền kinh tế nhất định phi do một ai đó chi phối. Khi ngân hàng trung ưng tăng cung tiền, họ mua trái phiếu chính phủ. Một trái phiếu chỉ là một giấy cam kết tr cho người sở hữu nó một khon tiền cố định tại một thời điểm nào đó trong tưng lai. Để làm cho vấn đề đn gin, xét một trái phiếu cam kết tr người sở hữu nó 1000 đôla sau một năm. Nếu tôi mua trái phiếu này với giá 800 đôla, lãi suất tôi có được, hay tỷ suất lợi nhuận của số tiền tôi cho bất kỳ ai phát hành trái phiếu đó là 25 % (200 đô la tiền lãi của số 800 đô la tôi đã tr cho trái phiếu). Nếu giá của trái phiếu là 909 đô la thay vì 800 đô la, tôi sẽ chỉ có được khong 10 % lãi suất từ số tiền của mình (một khon lãi 91 đô la của số tiền 909 đô la tr cho trái phiếu). Và nếu tôi mua trái phiếu với giá 990 đô la, tôi sẽ chỉ kiếm được 1% lợi tức (10 đô la trên khon 990 đô la bỏ ra). Như vậy, giá trái phiếu và lợi nhuận có sự liên hệ ngược chiều - khi cái này tăng lên, cái kia gim xuống và ngược lại.
Khi ngân hàng trung ưng mua trái phiếu, giá trái phiếu được đẩy lên và tỷ suất lợi nhuận của các tài sn này bị hạ thấp. Ngược lại, khi ngân hàng trung ưng muốn gim cung tiền họ phi bán trái phiếu. Để mọi người mua những trái phiếu này, ngân hàng trung ưng phi bán chúng với mức giá thấp. Vì vậy, những người mua trái phiếu sẽ nhận được một mức tỷ suất lợi tức có lời đối với tiền của họ, hay lãi suất sẽ tăng lên.
Sau khi chỉ trích lý thuyết cổ điển, và sau khi vạch ra các nhân tố quyết định tổng cầu đối với hàng hoá và dịch vụ, thật ngạc nhiên là Keynes đã nói rất ít về việc làm thế nào để gim thất nghiệp và ngăn chặn các cuộc khủng hong. Điều này là rất đặc biệt vì mối quan tâm đầu tiên và trên hết của Keynes luôn là chính sách kinh tế.
Ông ủng hộ c việc tạo tiền (chính sách tiền tệ) cũng như việc chi tiêu và cắt gim thuế của chính phủ (chính sách tài khoá). Trong một đoạn được trích dẫn rất nhiều, Keynes viết về nhu cầu lớn hn đối với nhà ở, bệnh viện trường học và đường sá. Tuy nhiên, ông có lưu ý rằng rất nhiều người có thiên hướng phn đối những chi tiêu "lãng phí" đó của chính phủ. Do đó, một cách tiếp cận khác (tạo tiền) cũng rất cần thiết.
Nếu như Kho bạc nhét đầy tiền vào những cái chai, chôn chúng xuống đất ở một độ sâu thích hợp trong những mỏ than đã ngừng khai thác mà sau đó bị phủ đầy rác thi của thành phố... các hãng tư nhân (sẽ) đào những tờ tiền này lên và sẽ không còn thất nghiệp nữa.
(Keynes 1971-89, quyển 7, tr. 129)
Và trong một đoạn bị chê trách rất nhiều, Keynes (1971-89, Q. 7, tr. 378) kêu gọi "một cái gì đó kiểu như xã hội hoá toàn diện hoạt động đầu tư." Trong khi nhiều người cho rằng Keynes có ý ủng hộ việc chính phủ kiểm soát tất c các quyết định đầu tư tư nhân, thì cái mà Keynes thực sự muốn nói tới lại là các chính sách chi tiêu của chính phủ nhằm ổn định tổng mức đầu tư trong nền kinh tế quốc dân (Pressman 1987). Keynes tin rằng chi tiêu của người tiêu dùng là tưng đối ổn định, và thay đổi không nhiều theo thời gian. Tuy nhiên, đầu tư của doanh nghiệp lại bị chi phối bởi "độngtính" (animal spirit) rất dễ thay đổi. Những thay đổi trong niềm tin kinh doanh hay kỳ vọng về tưng lai của nền kinh tế sẽ thay đổi mức đầu tư và sẽ có một tác động đáng kể tới nền kinh tế. Hn nữa, những phỏng đoán mà bn thân chúng biến chúng thành hiện thực rất có nhiều kh năng gây tác động. Khi các hãng tin tưởng vào nền kinh tế, họ sẽ đầu tư nhiều hn và nền kinh tế sẽ tăng trưỏng. Sự tăng trưởng này sẽ làm tăng thêm kỳ vọng vào mức lợi nhuận và dẫn tới một sự lạc quan và đầu tư thậm chí lớn hn. Mặt khác, những dự tính về một nền kinh tế m đạm sẽ hạ thấp mức đầu tư, làm chậm hoạt động kinh tế và làm tăng thêm sự bi quan về lợi nhuận trong tưng lai. Kết qu là, khi có sự lạc quan, nền kinh tế tăng trưởng, tuy nhiên khi bắt đầu có sự bi quan có thể sẽ xy ra sự suy gim đột ngột trong đầu tư và thất nghiệp sẽ tràn lan.
Gii pháp của Keynes là phi để chính phủ ổn định mức đầu tư. Khi đầu tư tư nhân thấp, chính phủ nên vay tiền (có nghĩa là tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào các dự án đầu tư công cộng như xây dựng đường sá, cầu cống mới, chi tiêu nhiều hn vào các trường học và vào giáo dục có chất lượng cao hn. Việc này sẽ khiến nền kinh tế tăng trưởng cũng như tăng thêm tính lạc quan của các kỳ vọng. Ngược lại, khi đầu tư doanh nghiệp cao do sự lạc quan, chính phủ nên ngừng vay tiền và cắt gim đầu tư công cộng của mình.
Trong những năm 40, Keynes lại tiếp tục làm việc cho chính phủ Anh. Ông cũng quay trở lại với những vấn đề chính sách xung quanh việc chuẩn bị cho chiến tranh. Ông đã giúp đàm phán các khon vay của Anh từ nước Mỹ để tham gia Thế chiến II; và ông đã xây dựng một bn đề xuất nhằm giúp nước Anh tài trợ cho sự chuẩn bị này. Thay vì tăng thuế (việc sẽ làm gim thu nhập của nước Anh), và thay vì không làm gì để tài trợ cho chi tiêu chiến tranh (việc sẽ làm phát sinh lạm phát do thiếu hàng hoá cộng với nhu cầu cao), Keynes đề xuất một kế hoạch tiết kiệm bắt buộc hay tr chậm, ý tưởng của ông là tất c các công dân Anh có thu nhập cao hn một mức tối thiểu nào đó sẽ phi lấy bớt tiền của họ ra khỏi chi tiêu thường ngày và cho vào các tài khon của ngân hàng để tài trợ cho chiến tranh. Những tài khon này sẽ được tr lãi trong suốt thời gian chiến tranh, tuy nhiên tiền trong đó sẽ không được rút ra trừ những trường hợp khẩn cấp. Những khon tiết kiệm này sau đó có thể được dùng để cho chính phủ vay và sử dụng để tài trợ cho việc chuẩn bị chiến tranh. Sau chiến tranh, tiền trong những tài khon này có thể được tự do rút ra và sử dụng cho các nhu cầu tiêu dùng. Khon chi tiêu thêm này, với vai trò như lợi ích tăng thêm sẽ giúp tránh được một cuộc đại suy thoái khác.
Khi Đại chiến thế giới thứ II kết thúc, Keynes đã tham gia gii quyết trật tự tiền tệ quốc tế mới do các nước thắng trận đề xướng và thực hiện. Ông tin rằng một nguyên nhân chính của cuộc đại suy thoái thế giới trong những năm 30 là tất c các quốc gia đã cố gắng xuất khẩu thất nghiệp của mình cho các bạn hàng. Bằng cách để cho cán cân thưng mại thặng dư, mỗi quốc gia có thể sn xuất nhiều hn và tạo ra nhiều công ăn việc làm trong nước hn; các bạn hàng của nó sẽ nhập khẩu hàng hoá thay vì sn xuất trong nước. Kết qu là, sẽ cần ít công nhân hn ở nước ngoài và thất nghiệp sẽ tăng ở nước ngoài.
Hầu hết các quốc gia đều cố gắng tạo ra thặng dư thưng mại thông qua phá giá đồng tiền của họ. Bằng cách làm cho ngoại tệ và hàng hoá nước ngoài đắt hn, các chính phủ hiểu rằng công dân của họ sẽ mua ít hàng hoá của nước ngoài hn và mua nhiều hàng hoá được sn xuất bởi các hãng nội địa hn. Tưng tự như vậy, bằng cách làm cho tiền nội địa và hàng hoá nội địa rẻ hn cho mọi người ở các quốc gia khác, phá giá sẽ làm tăng xuất khẩu. Vấn đề là ở chỗ mỗi khi một quốc gia phá giá đồng tiền của nó nhằm tạo ra xuất khẩu và việc làm cho các công dân của nó, các quốc gia khác cũng làm như vậy. Kết qu là một loạt các cuộc phá giá sẽ không đem lại lợi ích cho bất kỳ quốc gia nào.
Nhằm ngăn chặn các cuộc phá giá có tính chất cạnh tranh, Keynes đề xuất một hệ thống các tỷ giá cố định một cách tưng đối. Hệ thống này được các nước thuộc phe Đồng minh chấp thuận tại Bretton Woods, New Hampshire vào năm 1944 và được gọi là hệ thống Bretton Woods. Hệ thống này yêu cầu mỗi quốc gia cố định đồng tiền của mình vào một aox vàng và duy trì tỷ lệ đó. Vì tất c các đồng tiền quốc gia đều được neo vào vàng, giá trị của các đồng tiền được cố định với nhau. Nếu chính phủ Mỹ tuyên bố rằng mỗi đôla có giá trị 0.1 aox vàng, và nếu chính phủ Anh quyết định mỗi Bng có giá trị 0.2 aox vàng thì 2 đô la sẽ tưng đưng với một Bng, bởi vì c hai lượng tiền này đều tưng đưng 0.2 aox vàng.
Hệ thống Bretton Woods hoạt động trong khong 25 năm. Trong suốt thời gian này nền kinh tế thế giới tăng trưởng với những tốc độ chưa từng có và thất nghiệp ở các nước phát triển đạt các mức thấp nhất trong thế kỷ XX.
Tuy nhiên các vấn đề khó khăn đã ngấm ngầm xuất hiện. Tại các mức tỷ giá cố định được tho thuận, vàng đã nhanh chóng chy ra khỏi nước Mỹ và nước Mỹ lo sợ về việc hết vàng. Cần phi làm gì đó để ngăn chặn việc này. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ vào tháng 8 năm 1971 khi tổng thống Nixon chấm dứt kh năng chuyển đổi đô la thành vàng, và sau đó tuyên bố rằng ông sẽ để cho giá trị đồng đô la được th nổi tưng đối so với một aox vàng. Hệ thống tỷ giá biến đổi và linh hoạt hiện đang hoạt động ra đời từ đó.
Một cách nữa để ngăn chặn tác động gim phát của một quốc gia đang cố gắng thực hiện thặng dư thưng mại là thiết lập một c chế quốc tế nhằm giúp xoá bỏ các mất cân đối thưng mại. Keynes muốn thiết lập một hệ thống cho phép các nước có thâm hụt cán cân thưng mại vay tiền, và phạt các quốc gia thường xuyên duy trì thặng dư thưng mại. Giống như các chính sách tiền tệ và tài khoá trong Lý thuyết tổng quát, điều này sẽ khuyến khích các quốc gia chi tiêu vào hàng nhập khẩu, do đó sẽ ngăn bất kỳ xu hướng nào dẫn tới một cuộc đại suy thoái khác. C chế xoá bỏ mất cân bằng và việc cho vay dễ dàng mà Keynes muốn cũng đã được thiết lập tại Bretton Woods; đó chính là Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới. Tuy nhiên nước Mỹ đã kỳ vọng rằng nó sẽ có thặng dư thưng mại vì năng lực sn xuất công nghiệp của nó không bị tàn phá trong Thế chiến II; vì vậy nước Mỹ đã từ chối ủng hộ bất kỳ một hệ thống nào trừng phạt các quốc gia có thặng dư liên tục. Keynes đã rất nỗ lực vận động cho đề xuất chính sách này; tuy nhiên Mỹ có lợi thế áp đo trên mọi phưng diện trong đàm phán do số tiền nó đã cho Anh vay và Mỹ quyết không nhượng bộ (xem Block 1977). Trong quá trình đàm phán những chi tiết cho tho hiệp cuối cùng, Keynes bị những cn đau tim nguy kịch hành hạ. Và ông đã mất tại nhà riêng ở Cambridge.
Rõ ràng là không một nhà kinh tế nào của thế kỷ XX lại có nh hưởng lớn lao như Keynes. Trên phưng diện lý thuyết, Keynes đã phát triển các phân tích kinh tế vĩ mô, và kinh tế học vĩ mô như vẫn được ging dạy tại các trường đại học và cao đẳng ngày nay đều dựa trên những khái niệm và cách thức phân tích do Keynes phát triển. Thậm chí các nhà kinh tế học vĩ mô dưng đại phn đối các ý tưởng của Keynes (xem thêm LUCAS và FRIEDMAN) cũng nhận thấy là cần thiết phi bắt đầu với lý thuyết Keynes và từ đó gii thích những hạn chế và các vấn đề trong lý thuyết của ông. Trên phưng diện chính sách, rất nhiều công cụ được các ngân hàng và các chính phủ trung ưng sử dụng để giúp kiểm soát chu kỳ kinh doanh, cũng như các c chế quốc tế hiện hành được dùng nhằm gii quyết những mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế đều bắt đầu từ Keynes.

Ghi chú:
Bài viết này trước đây đã được đăng trong Encyclopedia of Political Economy (Bách khoa thư về Kinh tế Chính trị), ed. Phil O’Hara et al., New York and London, Routledge, 1998.

Những tác phẩm của Keynes
The Collected Writings of John Maynard Keynes, ed, D. Moggridge, 30 vols., London, Macmillan, 1971-89, Paperback editions of Essays in Biography and Essays in Persuasion are published by Norton, Harcourt, Brace & World publishes a paperback edition of The General Theory of Employment, Interest and Money
Những tác phẩm viết về Keynes
Dillard, Dudley, The Economics of J.M. Keynes, New York, Prentice Hall, 1948
Hansen, Alvin, A Guide to Keynes, New York, McGraw Hill, 1953
Harrod, Roy, The Life of John Maynard Keynes, New York, Norton, 1951
Lekachman, Robert, The Age of Keynes, New York, Random House, 1966
Moggeridge, Donald, Maynard Keynes: An Economist’s Biography, London and New York, Routledge, 1992
Pressman, Steven, “The Policy Relevance of The General Theory,” Journal of Economic Studies, 14 (1987), pp. 13-23
Skidelsky, Robert, John Maynard Keynes, 2 vols, New York, Viking, 1983 and 1992
Tài liệu tham kho khác
Block, Fred L., Origins of the International Economic Order, Berkeley, California, University of California Press, 1977
 
bác Tuấn lấy nguồn ở đâu để viết mấy cái này thế? không thấy bác đưa ref gì cả. Em muốn ké với bác một tẹo tại vì em cũng thích cái trò lịch sử kinh tế này. có mấy cuốn hay hay mà em thấy bác nào đang học ở nước ngoài thì nên tìm đọc nếu thích lskt.
1. A history of economic thought : the LSE lectures, của (Lord) Lionel Robbins, bác này là giáo sư nổi tiếng của LSE, được phong làm Baron thì phải :mrgreen: Cuốn này là tập hợp các bài giảng về lịch sử kinh tế của bác này tại LSE (dành cho sv năm cuối vào sinh viên cao học.) mặc dù đối tượng của bài giảng là upper classmen nhưng sách đọc dễ hiểu và rất hay vì giống như đang nghe giảng vậy.

2. History of Economic Analysis của Schumpeter... đây là một trong những cuốn kinh điển về lskt. đại khái là đi sâu hơn vào phân tích khía cạnh kinh tế của các thuyết so với cuốn của Lord Robbins. hay nhưng mà cũng khó đọc hơn.

3. Economic Theory in Retrospect của Mark Blaug: cuốn này là cuốn advanced nhất trong 3 cuốn. đưa ra nhiều phân tích toán học cho các học thuyết. người đọc nói chung nên có một nền tảng kinh tế học nhất định + biết một ít toán giải tích thì đọc mới ngấm.

3 cuốn này đều đi từ Smith đến Keynes (cuốn của Robbins còn có cả pre-smith nữa: PLato, Aristotle có cả.) tốt nhất là nên đọc cuốn Robbins đầu rồi sau đấy tùy mà chọn giữa Schumpeter hay Blaug. Từ Keynes trở đi em chưa đọc nhiều, đại khái thấy cũng có mấy cuốn nhưng mà chưa có thời gian, chắc từ từ rồi đọc. có đọc mấy cái này mới hiểu được những cái mình đang học nó xuất phát từ đâu, mới thấy kinh tế học cũng phê ra phết :D
 
Chân dung nhà kinh tế học nhận giải Nobel năm 2001 : Joseph E. Stiglitz

Joseph E. Stiglitz sinh ra tại Gary , Indiana năm 1943, tốt nghiệp Amherst College, ông nhận bằng Tiến sĩ năm 1967 và trở thành giáo sư chính tại Yale năm 1970. Năm 1979, ông được trao tặng huân chương John Bates Clark do tổ chức những nhà kinh tế học Hoa Kì trao cho những nhà kinh tế học dưới 40 tuổi nhưng có nhiều cống hiến trong lĩnh vực này.

Ông tiếp tục giảng dạy tại Princeton, Stanford, MIT, và sau đó trở thành một giáo sư nổi tiếng tại All Souls College, Oxford. Hiện nay ông là chủ tịch hội đồng giáo sư của Columbia University ở New York.

Ông từng là thành viên của Hội đồng cố vấn kinh tế Mỹ từ 1993-1995, dưới thời của Tổng thống Bill Clinton, và giữ cương vị chủ tịch hội đồng này từ 1995-1997. Ông cũng từng là chuyên viên kinh tế trưởng và phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới từ 1997-2000.

Điều đặc biệt là Joseph E. Stiglitz mới đến thăm VN tháng 11/2004 và đi qua một số tỉnh thành trên cả nước, để lại nhiều ý kiến đóng góp quí báu cho các nhà cải cách Kinh tế VN trong thời điểm giao lưu mở cửa với nền Kinh Tế Hoa Kì.

Giáo sư kinh tế học Joseph E. Stiglitz, ngày 21-11 đã có buổi đối thoại với lãnh đạo các sở ngành chức năng và doanh nghiệp TP.HCM về những vấn đề mà VN đang quan tâm giải quyết trong quá trình hội nhập kinh tế.
Buổi đối thoại của ông Stiglitz có nội dung chính sau:

VN đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế rất tốt trong những năm qua. Quan trọng hơn, sự tăng trưởng đó được chia sẻ đồng đều cho tất cả người dân trong xã hội, cụ thể là mức nghèo khổ của VN đã giảm một cách đáng kể. Chúng ta đều biết rằng mục tiêu của sự phát triển không phải là tăng GDP mà là cải thiện chất lượng cuộc sống của từng người dân.

Nếu GDP tăng mà môi trường ngày càng ô nhiễm thì sự tăng trưởng này không thật ý nghĩa. Phải làm sao để một thành phố lớn như TP.HCM có một môi trường dễ sống cho tất cả mọi người. Ngoài ra, phải xây dựng được một hệ thống giao thông công cộng hiệu quả. Điều này nếu làm càng muộn thì cái giá phải trả càng đắt.

TP.HCM cũng như một số địa phương khác đã được Chính phủ phân cấp, phân quyền để thử nghiệm một số công việc. Dĩ nhiên, lợi thế của việc này là các chính quyền địa phương có thể tiến hành những thử nghiệm khác nhau và nếu thành công thì có thể được ứng dụng ở địa phương khác. Khi các địa phương cạnh tranh với nhau thì dịch vụ cung cấp sẽ tốt hơn và cái lợi cuối cùng là cho cả nền kinh tế. Tuy nhiên, có một số hạn chế trong việc phân quyền này.

Khi các địa phương cạnh tranh giảm thuế cho doanh nghiệp (DN) để thu hút đầu tư thì nên cân nhắc kỹ, vì làm như vậy có lợi cho DN nhưng chưa chắc đời sống người dân ở đó đã khá hơn. Do đó, ở cấp độ quốc gia nên có sự thống nhất các chính sách cạnh tranh về thuế và các ưu đãi. Ở Hoa Kỳ, khi các địa phương cạnh tranh thu hút đầu tư bằng mọi giá, chỉ tập trung vào sự tăng trưởng mà không để ý đến yếu tố nghèo khổ, chúng tôi gọi nôm na đó là cuộc chạy đua để cùng lôi nhau xuống đáy.

Theo hiểu biết của tôi về VN, Chính phủ vẫn đang cấp ngân sách cho nhiều địa phương. Vấn đề đặt ra là tính trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn ngân sách này như thế nào. Lưu ý là trong lĩnh vực tài chính công, tiền có được một cách dễ dàng thì sẽ được sử dụng khác so với số tiền mà họ có thể thu được một cách khó khăn thông qua các chính sách về thuế.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế, sự ảnh hưởng của các tập đoàn đa quốc gia đối với VN là không tránh khỏi.
- Các tập đoàn đa quốc gia vừa đóng vai trò tích vực vừa có tác động tiêu cực. Một mặt, họ là một kênh chuyển giao công nghệ, cấp vốn và hỗ trợ DN trong nước tiếp cận thị trường bên ngoài. Trong nền kinh tế toàn cầu, giá trị họ tạo ra nhiều khi lớn hơn cả GDP của một quốc gia.

Chính vì thế, với qui mô và quyền lực của mình, họ có thể tạo ảnh hưởng để giành được sự đối xử ưu đãi của các chính phủ, dẫn đến tham nhũng và hối lộ. Công ty dầu khí BP từng đưa ra sáng kiến công bố công khai các khoản chi trả tại các nước mà mình hiện diện; có chính phủ đồng tình có chính phủ từ chối. Dĩ nhiên có những tập đoàn thích những chính phủ từ chối việc công khai này hơn.

Khi nói về mối liên hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế thì giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế và tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nói về phát triển giáo dục để phát triển nguồn nhân lực thì hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi là nên tập trung cho cấp lớp nào.

Các tổ chức quốc tế thường khuyến cáo các quốc gia nên đầu tư cho bậc tiểu học; nhưng để rút ngắn khoảng cách tri thức với các quốc gia khác, theo tôi, VN nên chú trọng vào cấp II và giáo dục đại học. Song vấn đề không phải là học bao nhiêu năm mà là dạy cái gì mới là quan trọng, tức cải cách giáo trình đóng vai trò then chốt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
hehehe, Gary là ở bang Indiana thuộc Mỹ chứ không phải là Ấn Độ :D một bác nữa cũng được nobel kinh tế học cũng đến từ cái town bé tí này, đấy là Paul Samuelson (bác này thì còn nổi bằng mấy Stiglitz.)
Stiglitz không tốt nghiệp Yale mà tốt nghiệp MIT (sau đó làm Fulbright scholar ở Cambridge.) ông ấy chỉ dậy ở Yale thôi.
 
Back
Bên trên