Tống Minh Tuấn
(TuanCominglate)
Điều hành viên
Trong phần này tôi xin giới thiệu đến các bạn chân dung của một số nhà Kte học tiêu biểu, nhằm giúp cho chúng ta có đôi giây phút thư giãn thú vị khi đọc về cuộc đời của họ. Chắc ai từng học kinh tế đều đã từng quen thuộc với cuốn sách Macro Economics và Micro Economics ngày nay tại các University. Và toàn bộ những gì lý thuyết chúng ta biết được từ 2 cuốn sách cơ bản đấy đã được xây dựng nên bỏi công sức của nhiểu nhà nghiên cứu kte, những ngừoi mà chúng ta có thể ít biết đến họ ngoài những cái tên quen thuộc như Adam Smith, Keynes, David Ricardo....
Jan Tinbergen (1903-94)
Jan Tinbergen là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế lượng và mô hình kinh tế. Chính ông đã xây dựng nên những mô hình thống kê đầu tiên, và sau đó đã sử dụng những mô hình này để nghiên cứu chu kì kinh doanh và tác động của những chính sách kinh tế lên nền kinh tế quốc giạ Nhưng Jan Tinbergen không chỉ là người chỉ biết cặm cụi với những con số. Mà hơn thế, theo như cách nói của Baum, là tất cả các công trình thống kê của Jan Tinbergen đều được nghiên cứu gắn liền với những mối quan tâm sâu sắc đối với lợi ích của con người và nó trở nên thuyết phục hơn bao giờ hết với những phân tích toán học, khoa học có thể được kết hợp với những tiếp cận mang tính nhân văn thiết thực hơn.
Jan Tinbergen sinh năm 1903 tạii The Hague, nơi tiếp giáp với Biển Bắc, thuộc Hà lan. Cha của ông là một giáo viên ngôn ngữ, là người luôn đề cao việc diễn tả những ý tưởng phức tạp bằng những lời lẽ súc tích đơn giản. Mặc dù phần nào bị ảnh hưởng bởi người cha, nhưng Jan Tinbergen đã hướng con đường của ông thiên về toán học và khoa học ngay từ thời còn là học sinh trung học thay vì nghiên cứu ngôn ngữ, như cha ông.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Jan Tinbergen theo học tại trường đại học Leiden để nghiên cứu Vật lý. Trong suốt thời gian này (khoản giữa những năm 20), nhà bác học Anhstanh (Einstein) thường có những bài giảng hàng năm tại Leiden và cùng sống với giáo sư Paul Ehrenfest, người mà Jan Tinbergen đang theo học. Jan Tinbergen thậm chí còn có vài dịp được gặp gỡ Einstein. Tuy nhiên sau đó ông đã không còn hứng thú nhiều với việc nghiên cứu Vật lí và bắt đầu chuyển mối quan tâm của mình sang toán và thống kê, và sau đó là kinh tế. Một trong những lí do của sự chuyển hướng đó là tình trạng kinh tế tại Leiden trong suốt những năm 20 là một trong những nơi trở nên tồi tệ nhất tại Hà lan. Nạn thất nghiệp và đói nghèo đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng mà gần như không có một sự hỗ trợ cộng đồng nàọ Tinbergen cảm thấy như mình phải có trách nhiệm giúp đỡ cải thiện những cuộc sống khó khăn của nhân dân Hà lan và chính kinh tế học sẽ là lựa chọn hợp lý cho ông thực hiện mục đích của mình. Tinbergen cũng đã nghiên cứu mối quan tâm của con người đến hoà bình, công bằng và phúc lợi xã hộị Ông đã trở thành một thành viên năng nổ của Đảng dân chủ lao động xã hội Hà lan và là người hoạt động theo lương tâm. Ông từ chối phục vụ cho quân đội, thay vào đó ông sẵn sàng đồng ý làm các công việc khác cho đất nước như việc quản lý nhà lao ở Rotterdam.
Sau khi hoàn thành bài luận về việc giảm thiểu những tiêu cực trong lĩnh vực kinh tế học và vật lý học vào năm 1929, Tinbergen tham gia làm việc cho Tổng Cục thống kê Hà lan. Ông đã làm việc ở đó hơn 16 năm sau đó và dành phần lớn thời gian nghiên cứu về chu kỳ kinh doanh, ngoại trừ đôi khi phải dành thời gian làm việc cho hội Quốc liên. Từ năm 1945 đến 1955, Tinbergen là giám đốc của Tổng cục kế hoạch của chính phủ Hà lan. Trong suốt thời gian này ông đã dành cả tâm huyết cho việc hoạch định các kế hoạch kinh tế. Một năm sau khi tham gia giảng dạy tại trường Đại học danh tiếng Harvard, Tinbergen trở thành giáo sư kinh tế của trường kinh tế Hà lan (bây giờ là trường Đại học Erasmus). Vào năm 1969 Tinbergen cùng với Ragnar Frisch đã nhận Nobel đầu tiên về kinh tế học. Giải Nobel này được dành cho những cống hiến đóng góp của họ trong việc phát triển toán kinh tế, kinh tế lươ.ng.
Tinbergen đã có nhiều đóng góp quan trọng trong kinh tế lươ.ng. Trong đó đáng nói nhất là những đóng góp về thống kê tự nhiên. Tinbergen là người đã phát triển những mô hình kinh tế đầu tiên trong cả một nền kinh tế, ông sử dụng những mô hình này để nghiên cứu và giải thích những sự thay đổi bất thường trong nền kinh tế Hà lan. Ông cũng đã có công trong việc sáng tạo và phát triển kinh tế lươ.ng. Kinh tế lượng là một tập hợp những kĩ năng toán học dùng để ước lượng những mối quan hệ đã được lượng hoá giữa hai hay nhiều biến kinh tế. Ví dụ: bằng việc xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và tiết kiệm trong quá khứ, các nhà kinh tế có thể ước lượng được số lượng dân chúng muốn dành để tiết kiệm thêm nếu lãi suất tăng. Biểu diến lãi suất trên trục X và tỉ lệ tiết kiệm trên trục Y, chúng ta có thể xây dựng được đồ thị hai chiều diễn tả mối quan hệ giữa hai biến nàỵ
Mỗi điểm trên đồ thị này diễn tả tỉ lệ tiết kiệm (đó là tổng số tiền tiết kiệm trên thu nhập khả dụng của hộ gia đình) và lãi suất ở một năm cụ thể. Phân tích hồi quy là một công cụ thống kê có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường diễn tả tốt nhất của quan hệ giữa tỉ lệ lãi suất và tiết kiệm. ở đây thuật ngữ “tốt nhất” có nghĩa là sẽ có sự sai lệch tối thiểu giữa những điểm riêng biệt đối với đường diễn tả đó, sao cho các điểm này nằm càng gần đường càng tốt. Nói theo toán học, phân tích hồi quy có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường biểu diễn dưới dạng phường trình: y = a + bx, với a là hệ số chặn trên trục y và b chính là độ dốc (hệ số góc) của đường. Hệ số hồi quy b cho ta biết y sẽ thay đổi bao nhiêu nếu như x thay đổi một đơn vị, hay các hộ gia đình sẽ tăng bao nhiêu tiết kiệm nếu như lãi suất tăng lên 1%.
Mô hình kinh tế vĩ mô chính chẳng qua chỉ là những tập hợp lớn những phương trình hồi quỵ Trong đó mỗi phương trình sẽ diễn tả mối liên quan của một phần đối với các phần còn lại trong nền kinh tế.
Năm 1936 Tinbergen tiến hành xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của Hà lan với hai mươi tư phương trình biểu diễn. Những phương trình này đã diễn tả những mối quan hệ kinh tế vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế Hà lan; đó là cái gì quyết định chi tiêu của người tiêu dùng, đầu tư của doanh nghiệp, đến xuất khẩu .v.v.. Trong rất nhiều trường hợp, các biến trễ được đưa vào sao cho chi tiêu (và cả các biến vĩ mô khác) không thể ngay lập tức thay đổi mỗi khi thu nhập tăng lên; đúng hơn là chi tiêu sẽ (và những biến khác) sẽ từ từ thay đổi khi thu nhập tăng, và sẽ tăng lên mức tương ứng với mức thu nhập cao chỉ có được sau một vài năm. Nói theo toán học, có nghĩa là chi tiêu sẽ phụ thuộc vào giá trị trung bình gia quyền của thu nhập hiện tại và cả thu nhập trước đây (chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại).
Không lâu sau khi xây dựng những mô hình kinh tế về nền kinh tế Hà lan, Tinbergen (1939) đã bắt tay vào phát triển mô hình nền kinh tế Hoa Kỳ trong giai đoạn 1919 –32 bao gồm bốn mươi phương trình. Trong thời gian Đại chiến II ông cũng xây dựng một mô hình kinh tế tương tự cho nền kinh tế Anh.
Công trình về thống kê này đã dẫn đến một cuộc tranh luận sôi nổi giữa Tinbergen và Keynes về bản chất và vai trò của kinh tế lươ.ng. Xem xét kĩ lưỡng một cuốn sách của Tinbergen, Keneys nhận xét rằng kinh tế lượng chỉ đưa ra những đúng đắn về mặt lượng đối với những gì đã được biết là đúng về mặt định tính của các quan hệ kinh tế. Tinbergen đã trả lời lại rằng chính các hệ số hồi quy sẽ giúp ta kiểm tra sự sự đúng đắn của các lý thuyết kinh tế mà từ đó có thể gợi ý cho ta xây dựng những lý thuyết mớị Để chứng minh lập luận của mình, Tinbergen đã sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô của ông trong việc nghiên cứu sự bất ổn định trong nền kinh tế, và từ đó ông đã xây dựng được lý thuyết về chu kỳ kinh doanh.
Trong những năm 1930, các nhà kinh tế vĩ mô đã nghiên cứu những thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanhvà đưa ra những giải thích khác nhau cho mỗi thời kỳ đó. Tuy nhiên, họ lại tập trung quá nhiều vào việc xem xét xem nền kinh tế sẽ dịch chuyển đến điểm cân bằng như thế nào mà lại ít tập trung vào việc xem xét nền kinh tế sẽ tăng trưởng và lên xuống đu đưa như thế nào theo thời gian. Chính Tinbergen đã đưa ra một sự giải thích duy nhất, thống nhất về chu kỳ kinh doanh. Ông cũng đã chứng minh tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian và chúng biến đổi như thế nàọ Ông xây dựng lý thuyết của mình dựa trên cảm hứng của định lý về mạng nhện, cái mà Tinbergen đã phát hiện ra từ năm 1930.
Những lý thuyết kinh tế truyền thống thường giả thiết rằng giá cả và thị trường sẽ dịch chuyển một cách thẳng tuột đến điểm cân bằng (hay điểm nghỉ). Có nghĩa là nếu giá quá cao, thị trường sẽ trở nên thừa hàng hóạ Điều này sẽ đẩy giá xuống và cung trên thị trường sẽ giảm. Ngược lại, nếu giả trở nên quá thấp, sự thiếu hụt về hàng hóa sẽ lại đẩy giá cả lên sẽ tăng cung ứng trên thị trường. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, trong nhiều thị trường nông sản, sự dịch chuyển ngược chiều giữa giá cả và lượng hàng hóa không phải là không phổ biến – giá hạ và nhiều hàng hóa lại được sản xuất ra để bán.
Tinbergen đã đưa ra sự giải thích cho hiện tượng nàỵ Lập luận của ông cho trường hợp này đó là sản lượng trong thị trường nông sản phản ứng theo giá cả với một độ trễ. Nông dân cần thời gian để có thể phản ứng lại với những thay đổi trên thị trường và những thay đổi về hình thức sản xuất; ví dụ như nuôi lợn cần một khoảng thời gian đáng kể. Nếu như có quá nhiều lợn được mang ra thị trường, giá của chúng sẽ ha.. Nhưng bởi vì với giá cả thấp, người nông dân sẽ nuôi ít lợn hơn ở năm sau đó. Cùng lúc đó, do giá hạ nên cầu về lợn lại tăng cao, vì người tiêu dùng đã quen với việc tiêu thụ thịt lơn, thị hun khói và các sản phẩm khác của lợn. Sự kết hợp đồng thời giữa cầu tăng và cung ứng giảm này sẽ đẩy giá của thịt lợn tăng caọ Để phản ứng lại, người nông dân lại đẩy mạnh chăn nuôi lợn vào năm sau đó, và lại dẫn đến một sự thừa thịt lợn khác.
Định lý về mạng nhện đã cung cấp nền tẩng cho các phân tích của Tinbergen trong chu kỳ kinh doanh. Ông đã xây dựng hai mươi hai phương trình thống kê, mỗi phương trình diển tả phản ứng của cung và cầu đối với sự thiếu hụt và thặng dư của cung ứng theo thời gian. Mỗi phương trình cũng mô hình hoá sự thay đổi diễn ra tại những lĩnh vực kinh tế khác nhaụ Từ những phương trình này Tinbergen có thể chứng minh được tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian, nó cũng giống như ví dụ về chăn nuôi lợn của nông dân.
Sau khi xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của mình về hoạt động của nền kinh tế. Tinbergen đã hướng sự quan tâm của mình sang những vấn đề về chính sách. Ông chỉ ra rằng các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng các mô hình kinh tế để ước lượng được những tác động của mỗi chính sách được đề xuất. Do đó ông nêu lên việc các mô hình kinh tế của ông có thể giúp ích cho các chính trị gia ra được những chính sách khi phải đối mặt với những mục tiêu kinh tế trái ngược và xung đột lẫn nhaụ Trước khi có công trình của Tinbergen, nhiều chính sách kinh tế đã được nghiên cứu một cách tách biệt và không có một phương pháp nào cho việc giải quyết những chính sách đa mục tiêụ Tinbergen đã chỉ ra rằng những mục tiêu đó đòi hỏi phải có đa chính sách. Do vậy nếu ai muốn giảm thất nghiệp và nâng cao giá trị của đồng tiền quốc gia, sẽ phải cần có hai chính sách khác nhau để đạt được hai mục đích trên. Nói chung nếu một nhà lập chính sách đã có một số mục tiêu định lượng nào đấy, họ sẽ phải có được ít nhất số các công cụ chính sách bằng số các mục tiêu tương ứng.
Timbergen cũng đã giải thích làm thế nào mà các phân tích kinh tế có thể trợ giúp chính phủ trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch để cải thiện tình hình kinh tế. Thứ nhất, các nhà hoạch định cần phải xác định được mong muốn chung của dân chúng đối với các mục tiêu kinh tế. Sau họ cần phải điều chỉnh các công cụ chính sách để thỏa mãn tốt nhất sở thích chung đó của dân chúng. Những sở thích chung này dẫn đến các mục tiêu kinh tế có thể là cố định hay linh đô.ng. Các phương cách đưa ra có thể là khó đạt được sự cải thiện trong cách mà các nền kinh tế đâng vận hành (như ví dụ về việc đề xuất luật an ninh xã hội, bảo đảm việc làm, các chính sách thu nhập), các thay đổi về mặt lượng ảnh hưởng đến cơ cấu của nền kinh tế (như những thay đổi trong luật về độc quyền và cạnh tranh, và các dạng thuế mới), hay như các thay đổi về mặt chất - liên quan tới việc vận hành các công cụ chính sách như cung tiền, tỉ giá hối đoái, hay mức chi tiêu của chính phủ.
Trong những năm 1970, Timbergen lại chuyển sự tập trung nghiên cứu của ông từ các chính sách kinh tế sang nghiên cứu về vấn đề phân phối thu nhập. Có lẽ đã có nhiều lý do cho sự chuyển hướng nàỵ Đầu tiên có thể là sự quan đi sâu vào nghiên cứu chính sách kinh tế đã trở uể oải hơn trên khắp thế giớị Thứ hai, khoảng cách về thu nhập đã trở nên lớn và ngày càng chênh lệch trong cùng một quốc gia và giữa các quốc gia với nhaụ Điều này đã trở nên mâu thuẫn đối với mong muốn của Timberger là làm tăng công bằng xã hội và phúc lợi kinh tế.
Cũng giống như các công trình khác của mình, Timberger đã tiếp cận sự phân phối thu nhập theo một cái nhìn đô.ng. Thay vì tìm nguyên nhân của việc thể hiện phân phối thu nhập bất bình đẳng, Timberger đã đi tìm nguyên nhân sâu xa của những thay đổi trong phân phối thu nhập theo thời gian. Ông đã đặt những nguyên nhân này lên những nhân tố mà chúng có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu lao đô.ng. Hai nhân tố quan trọng nhất mà theo Timberger, chúng có thể ảnh hưởng đến cung và cầu lao động, chính là giáo dục và sự phát triển công nghê.. Các phân tích của ông đã dựa trên giả thuyết về thị trường lao động kép, các phân tích này xem xét hai thị trường lao động khác nhau vận hành trong các nước phát triển chứ không phải là xem xét trên một thị trường lao động rộng lớn. Theo lý thuyết về thị trường lao động kép này, một thị trường lao động tồn tại cho các công nhân có tay nghề cao trong khi một thị trường riêng biệt khác lại tồn tại cho những công nhân thiếu lành nghề và giáo dục hướng nghiệp đầy đủ. Các công nhân này không thể dễ dàng chuyển đổi từ thị trường này sang thị trường kia, và các ông chủ cần các công nhân ở cả hai thị trường.
Với cái nhìn như vậy, nâng cấp giáo dục có vẻ như sẽ làm giảm bất bình đẳng về thu nhập vì chúng sẽ làm cân bằng khả năng của mỗi cá thể trong một đất nước. Hơn nữa, càng nhiều giáo dục sẽ cân bằng các khoản lương nhận được của hai nhóm công nhân nàỵ Sự cung ứng lớn hơn các công nhân được giáo dục đào tạo sẽ làm giảm lương của ho.. Cùng lúc đó, nâng cấo giáo dục sẽ làm giảm cung ứng bởi các công nhân ít được giáo dục hơn. Điều đó có nghĩa sẽ làm cho các công nhân ít giáo dục còn lại nhận được một khoản lương cao hơn.
ở một phương diện khác, những tiến bộ về công nghệ có vẻ như sẽ làm tăng bất bình đẳng trong thu nhập. Công nghệ cao đòi hỏi phải có những nhân công tay nghề cao được đào tạo tốt, do đó cầu về lao động đối với họ sẽ tằng cao, và như vậy thu nhập của họ cũng sẽ được cải thiện tốt hơn. Công nghệ cao cũng sẽ đào thải những ai không đáp ứng đủ yêu cầu cao hơn của nó. Điều này sẽ làm giảm cầu đối với những công nhân không lành nghề và do đó thu nhập của họ sẽ giảm xuống.
Timbergen đã nhìn nhận sự dịch chuyển của bất bình đẳng thu nhập như là một cuộc đua giữa sự phát triển của giáo dục đào tạo và công nghê.. Nếu sự cải thiện trong giáo dục tỏ ra nhanh hơn công nghệ, bất bình đẳng sẽ giảm. Ngược lại, nếu công nghệ tiến xa hơn phát triển giáo dục, bất bình đẳng sẽ trở nên lớn hơn.
Có ba điều sẽ rút được ra từ phân tích trên đâỵ Thứ nhất, chính phủ hỗ trợ cho giáo dục cần phải tích cực ở mức mà sự phát triển của giáo dục phải nhanh hơn sự phát triển của công nghê.. Thứ hai, các chính sách phải hướng sự tiến bộ của công nghệ theo hướng mà nó cần nhiều lao động ít khéo léo hơn. Tăng cầu về lao động kỹ năng thấp sẽ làm tăng mức lương của họ, những người có mức lương thấp nhất trong sự phân bổ, và sẽ làm giảm bớt xu hướng phát triển công nghệ theo hướng làm tăng bất bình đẳng thu nhập. Cuối cùng, Timberger đã đề xuất việc sử dụng các chính sách về thuế như là một công cụ làm giảm bất bình đẳng. Do vậy ông đã chủ trương tán thành việc đánh thuế cao vào sự giàu có, lợi tức vốn, và thừa kế.
Ngày nay, hầu như mọi quốc gia phát triển trên thế giới đều đã xầy dựng cho mình một mô hình kinh tế vĩ mô với gần 1000 phương trình. Các mô hình này thường được dùng để nghiên cứu các hoạt động kinh tế để dự báo hướng đi của nền kinh tế trong tương laị Chúng cũng được các chính phủ và ngân hàng trung ương sử dụng để hoạch định các chính sách kinh tế. Sự tồn tại của những mô hình kinh tế này có được chính là nhờ đến những công trình đầu tiên của Timberger. Những công trình của ông đã khiến Timberger trở thành một trong số ít các nhà kinh tế quan trọng nhất của thế kỷ 20.
Jan Tinbergen (1903-94)

Jan Tinbergen là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế lượng và mô hình kinh tế. Chính ông đã xây dựng nên những mô hình thống kê đầu tiên, và sau đó đã sử dụng những mô hình này để nghiên cứu chu kì kinh doanh và tác động của những chính sách kinh tế lên nền kinh tế quốc giạ Nhưng Jan Tinbergen không chỉ là người chỉ biết cặm cụi với những con số. Mà hơn thế, theo như cách nói của Baum, là tất cả các công trình thống kê của Jan Tinbergen đều được nghiên cứu gắn liền với những mối quan tâm sâu sắc đối với lợi ích của con người và nó trở nên thuyết phục hơn bao giờ hết với những phân tích toán học, khoa học có thể được kết hợp với những tiếp cận mang tính nhân văn thiết thực hơn.
Jan Tinbergen sinh năm 1903 tạii The Hague, nơi tiếp giáp với Biển Bắc, thuộc Hà lan. Cha của ông là một giáo viên ngôn ngữ, là người luôn đề cao việc diễn tả những ý tưởng phức tạp bằng những lời lẽ súc tích đơn giản. Mặc dù phần nào bị ảnh hưởng bởi người cha, nhưng Jan Tinbergen đã hướng con đường của ông thiên về toán học và khoa học ngay từ thời còn là học sinh trung học thay vì nghiên cứu ngôn ngữ, như cha ông.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Jan Tinbergen theo học tại trường đại học Leiden để nghiên cứu Vật lý. Trong suốt thời gian này (khoản giữa những năm 20), nhà bác học Anhstanh (Einstein) thường có những bài giảng hàng năm tại Leiden và cùng sống với giáo sư Paul Ehrenfest, người mà Jan Tinbergen đang theo học. Jan Tinbergen thậm chí còn có vài dịp được gặp gỡ Einstein. Tuy nhiên sau đó ông đã không còn hứng thú nhiều với việc nghiên cứu Vật lí và bắt đầu chuyển mối quan tâm của mình sang toán và thống kê, và sau đó là kinh tế. Một trong những lí do của sự chuyển hướng đó là tình trạng kinh tế tại Leiden trong suốt những năm 20 là một trong những nơi trở nên tồi tệ nhất tại Hà lan. Nạn thất nghiệp và đói nghèo đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng mà gần như không có một sự hỗ trợ cộng đồng nàọ Tinbergen cảm thấy như mình phải có trách nhiệm giúp đỡ cải thiện những cuộc sống khó khăn của nhân dân Hà lan và chính kinh tế học sẽ là lựa chọn hợp lý cho ông thực hiện mục đích của mình. Tinbergen cũng đã nghiên cứu mối quan tâm của con người đến hoà bình, công bằng và phúc lợi xã hộị Ông đã trở thành một thành viên năng nổ của Đảng dân chủ lao động xã hội Hà lan và là người hoạt động theo lương tâm. Ông từ chối phục vụ cho quân đội, thay vào đó ông sẵn sàng đồng ý làm các công việc khác cho đất nước như việc quản lý nhà lao ở Rotterdam.
Sau khi hoàn thành bài luận về việc giảm thiểu những tiêu cực trong lĩnh vực kinh tế học và vật lý học vào năm 1929, Tinbergen tham gia làm việc cho Tổng Cục thống kê Hà lan. Ông đã làm việc ở đó hơn 16 năm sau đó và dành phần lớn thời gian nghiên cứu về chu kỳ kinh doanh, ngoại trừ đôi khi phải dành thời gian làm việc cho hội Quốc liên. Từ năm 1945 đến 1955, Tinbergen là giám đốc của Tổng cục kế hoạch của chính phủ Hà lan. Trong suốt thời gian này ông đã dành cả tâm huyết cho việc hoạch định các kế hoạch kinh tế. Một năm sau khi tham gia giảng dạy tại trường Đại học danh tiếng Harvard, Tinbergen trở thành giáo sư kinh tế của trường kinh tế Hà lan (bây giờ là trường Đại học Erasmus). Vào năm 1969 Tinbergen cùng với Ragnar Frisch đã nhận Nobel đầu tiên về kinh tế học. Giải Nobel này được dành cho những cống hiến đóng góp của họ trong việc phát triển toán kinh tế, kinh tế lươ.ng.
Tinbergen đã có nhiều đóng góp quan trọng trong kinh tế lươ.ng. Trong đó đáng nói nhất là những đóng góp về thống kê tự nhiên. Tinbergen là người đã phát triển những mô hình kinh tế đầu tiên trong cả một nền kinh tế, ông sử dụng những mô hình này để nghiên cứu và giải thích những sự thay đổi bất thường trong nền kinh tế Hà lan. Ông cũng đã có công trong việc sáng tạo và phát triển kinh tế lươ.ng. Kinh tế lượng là một tập hợp những kĩ năng toán học dùng để ước lượng những mối quan hệ đã được lượng hoá giữa hai hay nhiều biến kinh tế. Ví dụ: bằng việc xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và tiết kiệm trong quá khứ, các nhà kinh tế có thể ước lượng được số lượng dân chúng muốn dành để tiết kiệm thêm nếu lãi suất tăng. Biểu diến lãi suất trên trục X và tỉ lệ tiết kiệm trên trục Y, chúng ta có thể xây dựng được đồ thị hai chiều diễn tả mối quan hệ giữa hai biến nàỵ
Mỗi điểm trên đồ thị này diễn tả tỉ lệ tiết kiệm (đó là tổng số tiền tiết kiệm trên thu nhập khả dụng của hộ gia đình) và lãi suất ở một năm cụ thể. Phân tích hồi quy là một công cụ thống kê có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường diễn tả tốt nhất của quan hệ giữa tỉ lệ lãi suất và tiết kiệm. ở đây thuật ngữ “tốt nhất” có nghĩa là sẽ có sự sai lệch tối thiểu giữa những điểm riêng biệt đối với đường diễn tả đó, sao cho các điểm này nằm càng gần đường càng tốt. Nói theo toán học, phân tích hồi quy có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường biểu diễn dưới dạng phường trình: y = a + bx, với a là hệ số chặn trên trục y và b chính là độ dốc (hệ số góc) của đường. Hệ số hồi quy b cho ta biết y sẽ thay đổi bao nhiêu nếu như x thay đổi một đơn vị, hay các hộ gia đình sẽ tăng bao nhiêu tiết kiệm nếu như lãi suất tăng lên 1%.
Mô hình kinh tế vĩ mô chính chẳng qua chỉ là những tập hợp lớn những phương trình hồi quỵ Trong đó mỗi phương trình sẽ diễn tả mối liên quan của một phần đối với các phần còn lại trong nền kinh tế.
Năm 1936 Tinbergen tiến hành xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của Hà lan với hai mươi tư phương trình biểu diễn. Những phương trình này đã diễn tả những mối quan hệ kinh tế vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế Hà lan; đó là cái gì quyết định chi tiêu của người tiêu dùng, đầu tư của doanh nghiệp, đến xuất khẩu .v.v.. Trong rất nhiều trường hợp, các biến trễ được đưa vào sao cho chi tiêu (và cả các biến vĩ mô khác) không thể ngay lập tức thay đổi mỗi khi thu nhập tăng lên; đúng hơn là chi tiêu sẽ (và những biến khác) sẽ từ từ thay đổi khi thu nhập tăng, và sẽ tăng lên mức tương ứng với mức thu nhập cao chỉ có được sau một vài năm. Nói theo toán học, có nghĩa là chi tiêu sẽ phụ thuộc vào giá trị trung bình gia quyền của thu nhập hiện tại và cả thu nhập trước đây (chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại).
Không lâu sau khi xây dựng những mô hình kinh tế về nền kinh tế Hà lan, Tinbergen (1939) đã bắt tay vào phát triển mô hình nền kinh tế Hoa Kỳ trong giai đoạn 1919 –32 bao gồm bốn mươi phương trình. Trong thời gian Đại chiến II ông cũng xây dựng một mô hình kinh tế tương tự cho nền kinh tế Anh.
Công trình về thống kê này đã dẫn đến một cuộc tranh luận sôi nổi giữa Tinbergen và Keynes về bản chất và vai trò của kinh tế lươ.ng. Xem xét kĩ lưỡng một cuốn sách của Tinbergen, Keneys nhận xét rằng kinh tế lượng chỉ đưa ra những đúng đắn về mặt lượng đối với những gì đã được biết là đúng về mặt định tính của các quan hệ kinh tế. Tinbergen đã trả lời lại rằng chính các hệ số hồi quy sẽ giúp ta kiểm tra sự sự đúng đắn của các lý thuyết kinh tế mà từ đó có thể gợi ý cho ta xây dựng những lý thuyết mớị Để chứng minh lập luận của mình, Tinbergen đã sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô của ông trong việc nghiên cứu sự bất ổn định trong nền kinh tế, và từ đó ông đã xây dựng được lý thuyết về chu kỳ kinh doanh.
Trong những năm 1930, các nhà kinh tế vĩ mô đã nghiên cứu những thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanhvà đưa ra những giải thích khác nhau cho mỗi thời kỳ đó. Tuy nhiên, họ lại tập trung quá nhiều vào việc xem xét xem nền kinh tế sẽ dịch chuyển đến điểm cân bằng như thế nào mà lại ít tập trung vào việc xem xét nền kinh tế sẽ tăng trưởng và lên xuống đu đưa như thế nào theo thời gian. Chính Tinbergen đã đưa ra một sự giải thích duy nhất, thống nhất về chu kỳ kinh doanh. Ông cũng đã chứng minh tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian và chúng biến đổi như thế nàọ Ông xây dựng lý thuyết của mình dựa trên cảm hứng của định lý về mạng nhện, cái mà Tinbergen đã phát hiện ra từ năm 1930.
Những lý thuyết kinh tế truyền thống thường giả thiết rằng giá cả và thị trường sẽ dịch chuyển một cách thẳng tuột đến điểm cân bằng (hay điểm nghỉ). Có nghĩa là nếu giá quá cao, thị trường sẽ trở nên thừa hàng hóạ Điều này sẽ đẩy giá xuống và cung trên thị trường sẽ giảm. Ngược lại, nếu giả trở nên quá thấp, sự thiếu hụt về hàng hóa sẽ lại đẩy giá cả lên sẽ tăng cung ứng trên thị trường. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, trong nhiều thị trường nông sản, sự dịch chuyển ngược chiều giữa giá cả và lượng hàng hóa không phải là không phổ biến – giá hạ và nhiều hàng hóa lại được sản xuất ra để bán.
Tinbergen đã đưa ra sự giải thích cho hiện tượng nàỵ Lập luận của ông cho trường hợp này đó là sản lượng trong thị trường nông sản phản ứng theo giá cả với một độ trễ. Nông dân cần thời gian để có thể phản ứng lại với những thay đổi trên thị trường và những thay đổi về hình thức sản xuất; ví dụ như nuôi lợn cần một khoảng thời gian đáng kể. Nếu như có quá nhiều lợn được mang ra thị trường, giá của chúng sẽ ha.. Nhưng bởi vì với giá cả thấp, người nông dân sẽ nuôi ít lợn hơn ở năm sau đó. Cùng lúc đó, do giá hạ nên cầu về lợn lại tăng cao, vì người tiêu dùng đã quen với việc tiêu thụ thịt lơn, thị hun khói và các sản phẩm khác của lợn. Sự kết hợp đồng thời giữa cầu tăng và cung ứng giảm này sẽ đẩy giá của thịt lợn tăng caọ Để phản ứng lại, người nông dân lại đẩy mạnh chăn nuôi lợn vào năm sau đó, và lại dẫn đến một sự thừa thịt lợn khác.
Định lý về mạng nhện đã cung cấp nền tẩng cho các phân tích của Tinbergen trong chu kỳ kinh doanh. Ông đã xây dựng hai mươi hai phương trình thống kê, mỗi phương trình diển tả phản ứng của cung và cầu đối với sự thiếu hụt và thặng dư của cung ứng theo thời gian. Mỗi phương trình cũng mô hình hoá sự thay đổi diễn ra tại những lĩnh vực kinh tế khác nhaụ Từ những phương trình này Tinbergen có thể chứng minh được tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian, nó cũng giống như ví dụ về chăn nuôi lợn của nông dân.
Sau khi xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của mình về hoạt động của nền kinh tế. Tinbergen đã hướng sự quan tâm của mình sang những vấn đề về chính sách. Ông chỉ ra rằng các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng các mô hình kinh tế để ước lượng được những tác động của mỗi chính sách được đề xuất. Do đó ông nêu lên việc các mô hình kinh tế của ông có thể giúp ích cho các chính trị gia ra được những chính sách khi phải đối mặt với những mục tiêu kinh tế trái ngược và xung đột lẫn nhaụ Trước khi có công trình của Tinbergen, nhiều chính sách kinh tế đã được nghiên cứu một cách tách biệt và không có một phương pháp nào cho việc giải quyết những chính sách đa mục tiêụ Tinbergen đã chỉ ra rằng những mục tiêu đó đòi hỏi phải có đa chính sách. Do vậy nếu ai muốn giảm thất nghiệp và nâng cao giá trị của đồng tiền quốc gia, sẽ phải cần có hai chính sách khác nhau để đạt được hai mục đích trên. Nói chung nếu một nhà lập chính sách đã có một số mục tiêu định lượng nào đấy, họ sẽ phải có được ít nhất số các công cụ chính sách bằng số các mục tiêu tương ứng.
Timbergen cũng đã giải thích làm thế nào mà các phân tích kinh tế có thể trợ giúp chính phủ trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch để cải thiện tình hình kinh tế. Thứ nhất, các nhà hoạch định cần phải xác định được mong muốn chung của dân chúng đối với các mục tiêu kinh tế. Sau họ cần phải điều chỉnh các công cụ chính sách để thỏa mãn tốt nhất sở thích chung đó của dân chúng. Những sở thích chung này dẫn đến các mục tiêu kinh tế có thể là cố định hay linh đô.ng. Các phương cách đưa ra có thể là khó đạt được sự cải thiện trong cách mà các nền kinh tế đâng vận hành (như ví dụ về việc đề xuất luật an ninh xã hội, bảo đảm việc làm, các chính sách thu nhập), các thay đổi về mặt lượng ảnh hưởng đến cơ cấu của nền kinh tế (như những thay đổi trong luật về độc quyền và cạnh tranh, và các dạng thuế mới), hay như các thay đổi về mặt chất - liên quan tới việc vận hành các công cụ chính sách như cung tiền, tỉ giá hối đoái, hay mức chi tiêu của chính phủ.
Trong những năm 1970, Timbergen lại chuyển sự tập trung nghiên cứu của ông từ các chính sách kinh tế sang nghiên cứu về vấn đề phân phối thu nhập. Có lẽ đã có nhiều lý do cho sự chuyển hướng nàỵ Đầu tiên có thể là sự quan đi sâu vào nghiên cứu chính sách kinh tế đã trở uể oải hơn trên khắp thế giớị Thứ hai, khoảng cách về thu nhập đã trở nên lớn và ngày càng chênh lệch trong cùng một quốc gia và giữa các quốc gia với nhaụ Điều này đã trở nên mâu thuẫn đối với mong muốn của Timberger là làm tăng công bằng xã hội và phúc lợi kinh tế.
Cũng giống như các công trình khác của mình, Timberger đã tiếp cận sự phân phối thu nhập theo một cái nhìn đô.ng. Thay vì tìm nguyên nhân của việc thể hiện phân phối thu nhập bất bình đẳng, Timberger đã đi tìm nguyên nhân sâu xa của những thay đổi trong phân phối thu nhập theo thời gian. Ông đã đặt những nguyên nhân này lên những nhân tố mà chúng có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu lao đô.ng. Hai nhân tố quan trọng nhất mà theo Timberger, chúng có thể ảnh hưởng đến cung và cầu lao động, chính là giáo dục và sự phát triển công nghê.. Các phân tích của ông đã dựa trên giả thuyết về thị trường lao động kép, các phân tích này xem xét hai thị trường lao động khác nhau vận hành trong các nước phát triển chứ không phải là xem xét trên một thị trường lao động rộng lớn. Theo lý thuyết về thị trường lao động kép này, một thị trường lao động tồn tại cho các công nhân có tay nghề cao trong khi một thị trường riêng biệt khác lại tồn tại cho những công nhân thiếu lành nghề và giáo dục hướng nghiệp đầy đủ. Các công nhân này không thể dễ dàng chuyển đổi từ thị trường này sang thị trường kia, và các ông chủ cần các công nhân ở cả hai thị trường.
Với cái nhìn như vậy, nâng cấp giáo dục có vẻ như sẽ làm giảm bất bình đẳng về thu nhập vì chúng sẽ làm cân bằng khả năng của mỗi cá thể trong một đất nước. Hơn nữa, càng nhiều giáo dục sẽ cân bằng các khoản lương nhận được của hai nhóm công nhân nàỵ Sự cung ứng lớn hơn các công nhân được giáo dục đào tạo sẽ làm giảm lương của ho.. Cùng lúc đó, nâng cấo giáo dục sẽ làm giảm cung ứng bởi các công nhân ít được giáo dục hơn. Điều đó có nghĩa sẽ làm cho các công nhân ít giáo dục còn lại nhận được một khoản lương cao hơn.
ở một phương diện khác, những tiến bộ về công nghệ có vẻ như sẽ làm tăng bất bình đẳng trong thu nhập. Công nghệ cao đòi hỏi phải có những nhân công tay nghề cao được đào tạo tốt, do đó cầu về lao động đối với họ sẽ tằng cao, và như vậy thu nhập của họ cũng sẽ được cải thiện tốt hơn. Công nghệ cao cũng sẽ đào thải những ai không đáp ứng đủ yêu cầu cao hơn của nó. Điều này sẽ làm giảm cầu đối với những công nhân không lành nghề và do đó thu nhập của họ sẽ giảm xuống.
Timbergen đã nhìn nhận sự dịch chuyển của bất bình đẳng thu nhập như là một cuộc đua giữa sự phát triển của giáo dục đào tạo và công nghê.. Nếu sự cải thiện trong giáo dục tỏ ra nhanh hơn công nghệ, bất bình đẳng sẽ giảm. Ngược lại, nếu công nghệ tiến xa hơn phát triển giáo dục, bất bình đẳng sẽ trở nên lớn hơn.
Có ba điều sẽ rút được ra từ phân tích trên đâỵ Thứ nhất, chính phủ hỗ trợ cho giáo dục cần phải tích cực ở mức mà sự phát triển của giáo dục phải nhanh hơn sự phát triển của công nghê.. Thứ hai, các chính sách phải hướng sự tiến bộ của công nghệ theo hướng mà nó cần nhiều lao động ít khéo léo hơn. Tăng cầu về lao động kỹ năng thấp sẽ làm tăng mức lương của họ, những người có mức lương thấp nhất trong sự phân bổ, và sẽ làm giảm bớt xu hướng phát triển công nghệ theo hướng làm tăng bất bình đẳng thu nhập. Cuối cùng, Timberger đã đề xuất việc sử dụng các chính sách về thuế như là một công cụ làm giảm bất bình đẳng. Do vậy ông đã chủ trương tán thành việc đánh thuế cao vào sự giàu có, lợi tức vốn, và thừa kế.
Ngày nay, hầu như mọi quốc gia phát triển trên thế giới đều đã xầy dựng cho mình một mô hình kinh tế vĩ mô với gần 1000 phương trình. Các mô hình này thường được dùng để nghiên cứu các hoạt động kinh tế để dự báo hướng đi của nền kinh tế trong tương laị Chúng cũng được các chính phủ và ngân hàng trung ương sử dụng để hoạch định các chính sách kinh tế. Sự tồn tại của những mô hình kinh tế này có được chính là nhờ đến những công trình đầu tiên của Timberger. Những công trình của ông đã khiến Timberger trở thành một trong số ít các nhà kinh tế quan trọng nhất của thế kỷ 20.
Chỉnh sửa lần cuối: