Chân dung các nhà KTe học mọi thời đại

Tống Minh Tuấn
(TuanCominglate)

Điều hành viên
Trong phần này tôi xin giới thiệu đến các bạn chân dung của một số nhà Kte học tiêu biểu, nhằm giúp cho chúng ta có đôi giây phút thư giãn thú vị khi đọc về cuộc đời của họ. Chắc ai từng học kinh tế đều đã từng quen thuộc với cuốn sách Macro Economics và Micro Economics ngày nay tại các University. Và toàn bộ những gì lý thuyết chúng ta biết được từ 2 cuốn sách cơ bản đấy đã được xây dựng nên bỏi công sức của nhiểu nhà nghiên cứu kte, những ngừoi mà chúng ta có thể ít biết đến họ ngoài những cái tên quen thuộc như Adam Smith, Keynes, David Ricardo....

Jan Tinbergen (1903-94)
tinbergen.jpg

Jan Tinbergen là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế lượng và mô hình kinh tế. Chính ông đã xây dựng nên những mô hình thống kê đầu tiên, và sau đó đã sử dụng những mô hình này để nghiên cứu chu kì kinh doanh và tác động của những chính sách kinh tế lên nền kinh tế quốc giạ Nhưng Jan Tinbergen không chỉ là người chỉ biết cặm cụi với những con số. Mà hơn thế, theo như cách nói của Baum, là tất cả các công trình thống kê của Jan Tinbergen đều được nghiên cứu gắn liền với những mối quan tâm sâu sắc đối với lợi ích của con người và nó trở nên thuyết phục hơn bao giờ hết với những phân tích toán học, khoa học có thể được kết hợp với những tiếp cận mang tính nhân văn thiết thực hơn.
Jan Tinbergen sinh năm 1903 tạii The Hague, nơi tiếp giáp với Biển Bắc, thuộc Hà lan. Cha của ông là một giáo viên ngôn ngữ, là người luôn đề cao việc diễn tả những ý tưởng phức tạp bằng những lời lẽ súc tích đơn giản. Mặc dù phần nào bị ảnh hưởng bởi người cha, nhưng Jan Tinbergen đã hướng con đường của ông thiên về toán học và khoa học ngay từ thời còn là học sinh trung học thay vì nghiên cứu ngôn ngữ, như cha ông.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Jan Tinbergen theo học tại trường đại học Leiden để nghiên cứu Vật lý. Trong suốt thời gian này (khoản giữa những năm 20), nhà bác học Anhstanh (Einstein) thường có những bài giảng hàng năm tại Leiden và cùng sống với giáo sư Paul Ehrenfest, người mà Jan Tinbergen đang theo học. Jan Tinbergen thậm chí còn có vài dịp được gặp gỡ Einstein. Tuy nhiên sau đó ông đã không còn hứng thú nhiều với việc nghiên cứu Vật lí và bắt đầu chuyển mối quan tâm của mình sang toán và thống kê, và sau đó là kinh tế. Một trong những lí do của sự chuyển hướng đó là tình trạng kinh tế tại Leiden trong suốt những năm 20 là một trong những nơi trở nên tồi tệ nhất tại Hà lan. Nạn thất nghiệp và đói nghèo đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng mà gần như không có một sự hỗ trợ cộng đồng nàọ Tinbergen cảm thấy như mình phải có trách nhiệm giúp đỡ cải thiện những cuộc sống khó khăn của nhân dân Hà lan và chính kinh tế học sẽ là lựa chọn hợp lý cho ông thực hiện mục đích của mình. Tinbergen cũng đã nghiên cứu mối quan tâm của con người đến hoà bình, công bằng và phúc lợi xã hộị Ông đã trở thành một thành viên năng nổ của Đảng dân chủ lao động xã hội Hà lan và là người hoạt động theo lương tâm. Ông từ chối phục vụ cho quân đội, thay vào đó ông sẵn sàng đồng ý làm các công việc khác cho đất nước như việc quản lý nhà lao ở Rotterdam.
Sau khi hoàn thành bài luận về việc giảm thiểu những tiêu cực trong lĩnh vực kinh tế học và vật lý học vào năm 1929, Tinbergen tham gia làm việc cho Tổng Cục thống kê Hà lan. Ông đã làm việc ở đó hơn 16 năm sau đó và dành phần lớn thời gian nghiên cứu về chu kỳ kinh doanh, ngoại trừ đôi khi phải dành thời gian làm việc cho hội Quốc liên. Từ năm 1945 đến 1955, Tinbergen là giám đốc của Tổng cục kế hoạch của chính phủ Hà lan. Trong suốt thời gian này ông đã dành cả tâm huyết cho việc hoạch định các kế hoạch kinh tế. Một năm sau khi tham gia giảng dạy tại trường Đại học danh tiếng Harvard, Tinbergen trở thành giáo sư kinh tế của trường kinh tế Hà lan (bây giờ là trường Đại học Erasmus). Vào năm 1969 Tinbergen cùng với Ragnar Frisch đã nhận Nobel đầu tiên về kinh tế học. Giải Nobel này được dành cho những cống hiến đóng góp của họ trong việc phát triển toán kinh tế, kinh tế lươ.ng.
Tinbergen đã có nhiều đóng góp quan trọng trong kinh tế lươ.ng. Trong đó đáng nói nhất là những đóng góp về thống kê tự nhiên. Tinbergen là người đã phát triển những mô hình kinh tế đầu tiên trong cả một nền kinh tế, ông sử dụng những mô hình này để nghiên cứu và giải thích những sự thay đổi bất thường trong nền kinh tế Hà lan. Ông cũng đã có công trong việc sáng tạo và phát triển kinh tế lươ.ng. Kinh tế lượng là một tập hợp những kĩ năng toán học dùng để ước lượng những mối quan hệ đã được lượng hoá giữa hai hay nhiều biến kinh tế. Ví dụ: bằng việc xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và tiết kiệm trong quá khứ, các nhà kinh tế có thể ước lượng được số lượng dân chúng muốn dành để tiết kiệm thêm nếu lãi suất tăng. Biểu diến lãi suất trên trục X và tỉ lệ tiết kiệm trên trục Y, chúng ta có thể xây dựng được đồ thị hai chiều diễn tả mối quan hệ giữa hai biến nàỵ
Mỗi điểm trên đồ thị này diễn tả tỉ lệ tiết kiệm (đó là tổng số tiền tiết kiệm trên thu nhập khả dụng của hộ gia đình) và lãi suất ở một năm cụ thể. Phân tích hồi quy là một công cụ thống kê có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường diễn tả tốt nhất của quan hệ giữa tỉ lệ lãi suất và tiết kiệm. ở đây thuật ngữ “tốt nhất” có nghĩa là sẽ có sự sai lệch tối thiểu giữa những điểm riêng biệt đối với đường diễn tả đó, sao cho các điểm này nằm càng gần đường càng tốt. Nói theo toán học, phân tích hồi quy có thể cho phép các nhà kinh tế tìm được đường biểu diễn dưới dạng phường trình: y = a + bx, với a là hệ số chặn trên trục y và b chính là độ dốc (hệ số góc) của đường. Hệ số hồi quy b cho ta biết y sẽ thay đổi bao nhiêu nếu như x thay đổi một đơn vị, hay các hộ gia đình sẽ tăng bao nhiêu tiết kiệm nếu như lãi suất tăng lên 1%.
Mô hình kinh tế vĩ mô chính chẳng qua chỉ là những tập hợp lớn những phương trình hồi quỵ Trong đó mỗi phương trình sẽ diễn tả mối liên quan của một phần đối với các phần còn lại trong nền kinh tế.
Năm 1936 Tinbergen tiến hành xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của Hà lan với hai mươi tư phương trình biểu diễn. Những phương trình này đã diễn tả những mối quan hệ kinh tế vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế Hà lan; đó là cái gì quyết định chi tiêu của người tiêu dùng, đầu tư của doanh nghiệp, đến xuất khẩu .v.v.. Trong rất nhiều trường hợp, các biến trễ được đưa vào sao cho chi tiêu (và cả các biến vĩ mô khác) không thể ngay lập tức thay đổi mỗi khi thu nhập tăng lên; đúng hơn là chi tiêu sẽ (và những biến khác) sẽ từ từ thay đổi khi thu nhập tăng, và sẽ tăng lên mức tương ứng với mức thu nhập cao chỉ có được sau một vài năm. Nói theo toán học, có nghĩa là chi tiêu sẽ phụ thuộc vào giá trị trung bình gia quyền của thu nhập hiện tại và cả thu nhập trước đây (chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại).
Không lâu sau khi xây dựng những mô hình kinh tế về nền kinh tế Hà lan, Tinbergen (1939) đã bắt tay vào phát triển mô hình nền kinh tế Hoa Kỳ trong giai đoạn 1919 –32 bao gồm bốn mươi phương trình. Trong thời gian Đại chiến II ông cũng xây dựng một mô hình kinh tế tương tự cho nền kinh tế Anh.
Công trình về thống kê này đã dẫn đến một cuộc tranh luận sôi nổi giữa Tinbergen và Keynes về bản chất và vai trò của kinh tế lươ.ng. Xem xét kĩ lưỡng một cuốn sách của Tinbergen, Keneys nhận xét rằng kinh tế lượng chỉ đưa ra những đúng đắn về mặt lượng đối với những gì đã được biết là đúng về mặt định tính của các quan hệ kinh tế. Tinbergen đã trả lời lại rằng chính các hệ số hồi quy sẽ giúp ta kiểm tra sự sự đúng đắn của các lý thuyết kinh tế mà từ đó có thể gợi ý cho ta xây dựng những lý thuyết mớị Để chứng minh lập luận của mình, Tinbergen đã sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô của ông trong việc nghiên cứu sự bất ổn định trong nền kinh tế, và từ đó ông đã xây dựng được lý thuyết về chu kỳ kinh doanh.
Trong những năm 1930, các nhà kinh tế vĩ mô đã nghiên cứu những thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanhvà đưa ra những giải thích khác nhau cho mỗi thời kỳ đó. Tuy nhiên, họ lại tập trung quá nhiều vào việc xem xét xem nền kinh tế sẽ dịch chuyển đến điểm cân bằng như thế nào mà lại ít tập trung vào việc xem xét nền kinh tế sẽ tăng trưởng và lên xuống đu đưa như thế nào theo thời gian. Chính Tinbergen đã đưa ra một sự giải thích duy nhất, thống nhất về chu kỳ kinh doanh. Ông cũng đã chứng minh tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian và chúng biến đổi như thế nàọ Ông xây dựng lý thuyết của mình dựa trên cảm hứng của định lý về mạng nhện, cái mà Tinbergen đã phát hiện ra từ năm 1930.
Những lý thuyết kinh tế truyền thống thường giả thiết rằng giá cả và thị trường sẽ dịch chuyển một cách thẳng tuột đến điểm cân bằng (hay điểm nghỉ). Có nghĩa là nếu giá quá cao, thị trường sẽ trở nên thừa hàng hóạ Điều này sẽ đẩy giá xuống và cung trên thị trường sẽ giảm. Ngược lại, nếu giả trở nên quá thấp, sự thiếu hụt về hàng hóa sẽ lại đẩy giá cả lên sẽ tăng cung ứng trên thị trường. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, trong nhiều thị trường nông sản, sự dịch chuyển ngược chiều giữa giá cả và lượng hàng hóa không phải là không phổ biến – giá hạ và nhiều hàng hóa lại được sản xuất ra để bán.
Tinbergen đã đưa ra sự giải thích cho hiện tượng nàỵ Lập luận của ông cho trường hợp này đó là sản lượng trong thị trường nông sản phản ứng theo giá cả với một độ trễ. Nông dân cần thời gian để có thể phản ứng lại với những thay đổi trên thị trường và những thay đổi về hình thức sản xuất; ví dụ như nuôi lợn cần một khoảng thời gian đáng kể. Nếu như có quá nhiều lợn được mang ra thị trường, giá của chúng sẽ ha.. Nhưng bởi vì với giá cả thấp, người nông dân sẽ nuôi ít lợn hơn ở năm sau đó. Cùng lúc đó, do giá hạ nên cầu về lợn lại tăng cao, vì người tiêu dùng đã quen với việc tiêu thụ thịt lơn, thị hun khói và các sản phẩm khác của lợn. Sự kết hợp đồng thời giữa cầu tăng và cung ứng giảm này sẽ đẩy giá của thịt lợn tăng caọ Để phản ứng lại, người nông dân lại đẩy mạnh chăn nuôi lợn vào năm sau đó, và lại dẫn đến một sự thừa thịt lợn khác.
Định lý về mạng nhện đã cung cấp nền tẩng cho các phân tích của Tinbergen trong chu kỳ kinh doanh. Ông đã xây dựng hai mươi hai phương trình thống kê, mỗi phương trình diển tả phản ứng của cung và cầu đối với sự thiếu hụt và thặng dư của cung ứng theo thời gian. Mỗi phương trình cũng mô hình hoá sự thay đổi diễn ra tại những lĩnh vực kinh tế khác nhaụ Từ những phương trình này Tinbergen có thể chứng minh được tại sao nền kinh tế lại dao động theo thời gian, nó cũng giống như ví dụ về chăn nuôi lợn của nông dân.
Sau khi xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô của mình về hoạt động của nền kinh tế. Tinbergen đã hướng sự quan tâm của mình sang những vấn đề về chính sách. Ông chỉ ra rằng các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng các mô hình kinh tế để ước lượng được những tác động của mỗi chính sách được đề xuất. Do đó ông nêu lên việc các mô hình kinh tế của ông có thể giúp ích cho các chính trị gia ra được những chính sách khi phải đối mặt với những mục tiêu kinh tế trái ngược và xung đột lẫn nhaụ Trước khi có công trình của Tinbergen, nhiều chính sách kinh tế đã được nghiên cứu một cách tách biệt và không có một phương pháp nào cho việc giải quyết những chính sách đa mục tiêụ Tinbergen đã chỉ ra rằng những mục tiêu đó đòi hỏi phải có đa chính sách. Do vậy nếu ai muốn giảm thất nghiệp và nâng cao giá trị của đồng tiền quốc gia, sẽ phải cần có hai chính sách khác nhau để đạt được hai mục đích trên. Nói chung nếu một nhà lập chính sách đã có một số mục tiêu định lượng nào đấy, họ sẽ phải có được ít nhất số các công cụ chính sách bằng số các mục tiêu tương ứng.
Timbergen cũng đã giải thích làm thế nào mà các phân tích kinh tế có thể trợ giúp chính phủ trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch để cải thiện tình hình kinh tế. Thứ nhất, các nhà hoạch định cần phải xác định được mong muốn chung của dân chúng đối với các mục tiêu kinh tế. Sau họ cần phải điều chỉnh các công cụ chính sách để thỏa mãn tốt nhất sở thích chung đó của dân chúng. Những sở thích chung này dẫn đến các mục tiêu kinh tế có thể là cố định hay linh đô.ng. Các phương cách đưa ra có thể là khó đạt được sự cải thiện trong cách mà các nền kinh tế đâng vận hành (như ví dụ về việc đề xuất luật an ninh xã hội, bảo đảm việc làm, các chính sách thu nhập), các thay đổi về mặt lượng ảnh hưởng đến cơ cấu của nền kinh tế (như những thay đổi trong luật về độc quyền và cạnh tranh, và các dạng thuế mới), hay như các thay đổi về mặt chất - liên quan tới việc vận hành các công cụ chính sách như cung tiền, tỉ giá hối đoái, hay mức chi tiêu của chính phủ.
Trong những năm 1970, Timbergen lại chuyển sự tập trung nghiên cứu của ông từ các chính sách kinh tế sang nghiên cứu về vấn đề phân phối thu nhập. Có lẽ đã có nhiều lý do cho sự chuyển hướng nàỵ Đầu tiên có thể là sự quan đi sâu vào nghiên cứu chính sách kinh tế đã trở uể oải hơn trên khắp thế giớị Thứ hai, khoảng cách về thu nhập đã trở nên lớn và ngày càng chênh lệch trong cùng một quốc gia và giữa các quốc gia với nhaụ Điều này đã trở nên mâu thuẫn đối với mong muốn của Timberger là làm tăng công bằng xã hội và phúc lợi kinh tế.
Cũng giống như các công trình khác của mình, Timberger đã tiếp cận sự phân phối thu nhập theo một cái nhìn đô.ng. Thay vì tìm nguyên nhân của việc thể hiện phân phối thu nhập bất bình đẳng, Timberger đã đi tìm nguyên nhân sâu xa của những thay đổi trong phân phối thu nhập theo thời gian. Ông đã đặt những nguyên nhân này lên những nhân tố mà chúng có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu lao đô.ng. Hai nhân tố quan trọng nhất mà theo Timberger, chúng có thể ảnh hưởng đến cung và cầu lao động, chính là giáo dục và sự phát triển công nghê.. Các phân tích của ông đã dựa trên giả thuyết về thị trường lao động kép, các phân tích này xem xét hai thị trường lao động khác nhau vận hành trong các nước phát triển chứ không phải là xem xét trên một thị trường lao động rộng lớn. Theo lý thuyết về thị trường lao động kép này, một thị trường lao động tồn tại cho các công nhân có tay nghề cao trong khi một thị trường riêng biệt khác lại tồn tại cho những công nhân thiếu lành nghề và giáo dục hướng nghiệp đầy đủ. Các công nhân này không thể dễ dàng chuyển đổi từ thị trường này sang thị trường kia, và các ông chủ cần các công nhân ở cả hai thị trường.
Với cái nhìn như vậy, nâng cấp giáo dục có vẻ như sẽ làm giảm bất bình đẳng về thu nhập vì chúng sẽ làm cân bằng khả năng của mỗi cá thể trong một đất nước. Hơn nữa, càng nhiều giáo dục sẽ cân bằng các khoản lương nhận được của hai nhóm công nhân nàỵ Sự cung ứng lớn hơn các công nhân được giáo dục đào tạo sẽ làm giảm lương của ho.. Cùng lúc đó, nâng cấo giáo dục sẽ làm giảm cung ứng bởi các công nhân ít được giáo dục hơn. Điều đó có nghĩa sẽ làm cho các công nhân ít giáo dục còn lại nhận được một khoản lương cao hơn.
ở một phương diện khác, những tiến bộ về công nghệ có vẻ như sẽ làm tăng bất bình đẳng trong thu nhập. Công nghệ cao đòi hỏi phải có những nhân công tay nghề cao được đào tạo tốt, do đó cầu về lao động đối với họ sẽ tằng cao, và như vậy thu nhập của họ cũng sẽ được cải thiện tốt hơn. Công nghệ cao cũng sẽ đào thải những ai không đáp ứng đủ yêu cầu cao hơn của nó. Điều này sẽ làm giảm cầu đối với những công nhân không lành nghề và do đó thu nhập của họ sẽ giảm xuống.
Timbergen đã nhìn nhận sự dịch chuyển của bất bình đẳng thu nhập như là một cuộc đua giữa sự phát triển của giáo dục đào tạo và công nghê.. Nếu sự cải thiện trong giáo dục tỏ ra nhanh hơn công nghệ, bất bình đẳng sẽ giảm. Ngược lại, nếu công nghệ tiến xa hơn phát triển giáo dục, bất bình đẳng sẽ trở nên lớn hơn.
Có ba điều sẽ rút được ra từ phân tích trên đâỵ Thứ nhất, chính phủ hỗ trợ cho giáo dục cần phải tích cực ở mức mà sự phát triển của giáo dục phải nhanh hơn sự phát triển của công nghê.. Thứ hai, các chính sách phải hướng sự tiến bộ của công nghệ theo hướng mà nó cần nhiều lao động ít khéo léo hơn. Tăng cầu về lao động kỹ năng thấp sẽ làm tăng mức lương của họ, những người có mức lương thấp nhất trong sự phân bổ, và sẽ làm giảm bớt xu hướng phát triển công nghệ theo hướng làm tăng bất bình đẳng thu nhập. Cuối cùng, Timberger đã đề xuất việc sử dụng các chính sách về thuế như là một công cụ làm giảm bất bình đẳng. Do vậy ông đã chủ trương tán thành việc đánh thuế cao vào sự giàu có, lợi tức vốn, và thừa kế.
Ngày nay, hầu như mọi quốc gia phát triển trên thế giới đều đã xầy dựng cho mình một mô hình kinh tế vĩ mô với gần 1000 phương trình. Các mô hình này thường được dùng để nghiên cứu các hoạt động kinh tế để dự báo hướng đi của nền kinh tế trong tương laị Chúng cũng được các chính phủ và ngân hàng trung ương sử dụng để hoạch định các chính sách kinh tế. Sự tồn tại của những mô hình kinh tế này có được chính là nhờ đến những công trình đầu tiên của Timberger. Những công trình của ông đã khiến Timberger trở thành một trong số ít các nhà kinh tế quan trọng nhất của thế kỷ 20.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
JOHN HICKS (1904-89)
hicks.jpg

John Hicks được biết đến nhiều nhất nhờ việc xây dựng các biểu đồ trong việc chứng minh các quy luật và kỹ năng kinh tế trong việc phân tích. Ngày nay chúng đóng một vai trò rất c bn đối với kinh tế học được thời, đặc biệt là cho việc ging dạy các sinh viên đại học.
Hicks sinh tại Warwick nước Anh vào năm 1904trong một gia đình trung lưu. Bố của ông là một phóng viên và là chủ bút của một tờ báo. Hicks đã có được một sự giáo dục tốt từ khi còn là một học sinh trung học tại một trường tư ở Anh, và sau đó ông nhận được học bổng theo học Đại học tại trường Balliol, Oxford. Tại Oxford Hicks đã bắt đầu nghiên cứu toán học, sau đó ông đã nhanh chóng chuyển ngay sở thích của mình sang lĩnh vực kinh tế. Ông đã nhận được các bằng học vị từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, và kinh tế vào năm 1926.
Sau khi tốt nghiệp, Hicks đã tham gia ging dạy tại London, trường Đại học Cambridge, và sau đó còn tham gia ngắn hạn tại Nam phi. Nhưng ông không thích Cambridge, c môi trường vật chất và học gi của nó (điều này đã gây kha nhiều tranh cãi), nhưng ông cũng công nhận London là ni rất thích hợp để làm việc và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế học. Hugh Dalton, một người thuộc trường phái kinh tế học London, đã yêu cầu Hicks đọc cuốn sách của Pareto, một sự kiện rất quan trọng mà nó nh hưởng đến cuộc đời của Hicks sau này. Khi đọc phần phụ lục toán học của cuốn sách, Hicks đã nhận ra rằng Pareto vẫn kết thúc phần việc của mình, đó là làm cho các phân tích kinh tế trở nên rõ ràng hn, và chính xác hn nhờ áp dụng toán học. Ngay lúc đó Hicks hiểu rằng ông sẽ dành toàn bộ sự nghiệp của mình để hoàn thành nốt những gì mà Pareto đề xướng nhưng còn đang dang dở.
Năm 1938 Hicks được bổ nhiệm chức vị giáo sự ging dạy tại trường đại học Manchester. Tám năm sau đó ông đã trở lại Oxford, ging dạy tại đó cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1965. Ông đã được phong tước hầu vào năm 1964, tức là trở thành “ngài John Hicks”. Năm 1972 ông đã cùng với Kennth Arrow nhận chung gii Nobel kinh tế học.
Hicks đã có những đóng góp quan trọng trong c hai lĩnh vực toán học và kinh tế học – một kì công hiếm có trong thế kỷ hai mưi này, khi mà kinh tế và toán vẫn còn là hai lĩnh vực riêng biệt tách rời, và khi mà sự chuyên môn hoá đã đi rất sâu trong tất c các vấn đề học thuật ở hai lĩnh vực này. Với tư cách là một nhà kinh tế học vĩ mô, Hicks đã được biết đến nhiều nhất trong việc định hình các lý thuyết kinh tế của Keynes. Trong một trong tất c các bài báo kinh tế được trích dẫn nhiều nhất mọi thời đại, Hicks đã xem xét lý thuyết tổng quát của Kenes như là một tập hợp quan hệ của hai đường.
Các lý thuyết chuẩn của Keynes chưa bao giờ cho thấy mối quan hệ giữa thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ một cách rõ ràng. Trên thị trường hàng hóa, các doanh nghiệp sn xuất sn phẩm và bán những thứ này cho người tiêu dùng, chính phủ, và các doanh nghiệp khác, các nước khác. Sự cân bằng trên thị trường hàng hóa đòi hỏi rằng cung trên thị trường hàng hóa phi bằng với cầu về hàng hóa trên thị trường này. Trên thị trường tiền tệ, dân chúng và các doanh nghiệp cầu một lượng tiền định trước được ấn hành bởi Ngân hàng trung ưng. Cân bằng trên thị trường tiền tệ cũng đòi hỏi cung về tiền phi cân bằng với cầu về tiền trên thị trường này.
Tuy nhiên hai thị trường này lại có mối tưng tác với nhau chứ không phi là tồn tại độc lập. Nếu cung tiền trên thị trường tiền tệ tăng lên, nó sẽ làm gim lãi suất. Nhưng với một lãi suất thấp, đầu tư sẽ tăng và điều này sẽ làm tăng cầu về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường hàng hóa. Tât nhiên là với nhiều hàng hóa và dịch vụ được sn xuất, dân chúng sẽ cần nhiều tiền hn để mua sắm. Nhưng với sự cầu tiền lớn hn này sẽ đẩy lãi suất lên cao, điều này lại khiến đầu tư gim, và do đó sn lượng cũng gim, và sau đó lại gim về cầu về tiền.
Tưng tác giữa thị trường tiền tệ và hàng hóa có thể kéo dài mãi mãi, và sẽ chẳng thể có được kết qu ổn định cuối cùng. Mô hình IS – LM đã chứng tỏ rằng thị trường hàng hóa và tiền tệ sẽ có được có được sự cân bằng đồng thời. Ngày nay đồ thị này đã được sử dụng như là một công cụ c bn trong việc ging dạy các sinh viên Đại học về kinh tế học vĩ mô. Và nó làm cho IS – LM đồng nghĩa với trường phái Keynes trong tiềm thức của hầu hết các sinh viên kinh tế.
Đường IS trên hình 12 diễn t các điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa. IS diễn t cho trường hợp khi mà trên thị trường hàng hóa đầu tư (I) cân bằng với tiết kiệm (S). Đường IS dốc xuống có nghĩa là khi lãi suất gim, sn lượng kinh tế sẽ gia tăng để đạt được điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa. Bởi vì lãi suất thấp sẽ làm tăng đầu tư, nhưng nó sẽ làm gim tiết kiệm. Để duy trì được tiết kiệm cân bằng với đầu tư, nền kinh tế sẽ phi sn xuất thêm nhiều hàng hóa và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm hn, và do đó thu nhập cao hn.
Đường LM lại diễn t các vị trí cân bằng có thể trên thị trường tiền tệ. LM diễn t hiện tượng mà cầu về tiền (L) phi cân bằng với cung về tiền (M) trên thị trường tiền tệ. Hình 12 nói với chúng ta rằng khi lãi suất tăng lên thì nền kinh tế sẽ phi ở mức sn lượng cao hn để duy trì được sự cân bằng trên thị trường tiền tệ. Đó là bởi vì lãi suất cao hn sẽ gim về cầu đối với tiền, bởi vì giữ tiền cũng đồng nghĩa với việc người ta sẽ mất đi khon lãi mà người ta có thể có được bằng việc giữ những gì có lãi suất thay vì giữ tiền. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế khuyếch trưng ra, dân chúng sẽ muốn giữ nhiều tiền hn để họ có thể mua được nhiều hàng hóa. Với nhiều hàng hóa hn được sn xuất, cầu về tiền sẽ tăng và sẽ tăng lên để cân bằng với cung tiền.
Sự cân bằng đồng thời sẽ có được tại điểm là giao điểm giữa đường IS và đường LM. Vì thị trường hàng hóa sẽ dịch chuyển dọc theo đường IS còn thị trường tiền tệ sẽ dịch chuyển dọc theo đường LM, toàn bộ nền kinh tế sẽ phi dịch chuyển đến một điểm cân bằng duy nhất tại đó hai đường giao nhau.
Hicks sau đó tiếp tục nêu lên sự khác nhau như thế nào giữa các nhà kinh tế học trường phái Keynes và các nhà kinh tế học trường phái cổ điển dựa trên những gi thiết kinh tế khác nhau về hai đường trên. Nếu như đường LM trở nên thoi hn chứ không phi dốc, một chính sách tài khóa (dịch chuyển đường IS) sẽ là trở nên cần thiết để làm tăng việc làm và chúng ta đang sống trong thế giới được miêu t bởi các nhà kinh tế học trường phái Keneys. Tuy nhiên, nếu như đường IS là thoi, một chính sách tiền tệ (làm dịch chuyển đường LM) sẽ cần thiết để làm tăng sn lượng và việc làm, và chúng ta đang đứng trên quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển.
Đóng góp lớn thứ hai của Hicks đối với kinh tế học vĩ mô đó là ông đưa ra khái niệm c cấu về lãi suất. Thông thường các nhà kinh tế học thường hay nói đến “tỉ lệ lãi suất” như thể là chỉ có duy nhất một loại lãi suất tồn tại trong nền kinh tế. Tuy nhiên như chúng ta đều biết có rất nhiều loại lãi suất khác nhau tại mỗi thời điểm khác nhau. Lãi suất đối với các thẻ tín dụng lớn hn các lãi suất đối với các vaatj cầm cố, và lãi suất đối với các vật cầm cố cố định cũng cao hn so với các vật cầm cố lưu động. Lý thuyết về lãi suất đã có gắng gii thích mối quan hệ giữa tất c những lãi suất khác nhau này.
Các nhà kinh tế đã nghĩ ra hai phưng cách để làm rõ ý nghĩa mng rộng lớn này của lãi suất. Một là tập trung vào độ rủi ro của việc cho vay và phía kia tập trung vào độ độ dài của thời hạn cho vay. Rủi ro càng cao thì lãi suất cho vay cũng phi càng cao. Lãi suất cao hn là cần thiết đối với người cho vay để nó có thể bù đắp được rủi ro trong kh năng khon cho vay không thể hoàn tr lại lớn hn.
Đường lợi tức là một công cụ đồ thị cho phép ta xác định được các khon lãi suất khác nhau đối với các thời hạn cho vay khác nhau. Các khon vay thường tồn tại dưới dạng là các khon mua bán của doanh nghiệp và dân chúng đối với trái phiếu của chính phủ. Một đường lợi tức có thể cho ta thấy rằng một khon vay 3 tháng của chính phủ Mỹ sẽ phi tr là 4,4% lợi tức, khon vay 2 năm sẽ phi tr 5,5%, lãi suất 10 năm sẽ là 7% và khon vay 30 năm sẽ nhận được lãi suất là 8% (xem hình 13)
Một câu hỏi được đặt ra liên quan đến đường lợi tức đó là liệu rằng sẽ có mối liên hệ nào giữa lãi suất và các tài sn có các thời điểm đáo hạn khác nhau hay không – ví dụ như các trái phiếu 6 tháng và trái phiếu 1 năm của chính phủ. Hicks đã tr lời câu hỏi này với sự khẳng định “có”, và đã phát triển gi thuyết về kì vọng để gii thích mối liên hệ giữa các tài sn có thời điểm đáo hạn khác nhau.
Hicks đã lập luận rằng nếu một trái phiếu 6 tháng hiện tại phi tr lãi suất là 5% và một trái phiếu 1 năm phi tr lãi suất là 5,5%, thì nhà đầu tư sẽ kì vọng rằng 6 tháng sau lãi suất đối với trái phiếu 6 tháng sẽ là 6%. Vì để đằng nào thì nhà đầu tư cũng có lãi là 5,5%. Họ có thể kiếm được 5,5% trong suôt c năm bằng việc mua một trái phiếu 1 năm ngay bây giờ; hay bằng cách khác, họ có thể kiếm được 5% trong 6 tháng đầu tiên, và 6% trong 6 tháng tiếp theo của năm. Kết qu lợi tức trung bình thu được đều là giống nhau và bằng 5,5% kiếm trong 1 năm. Nói chung, gi thuyết về kì vọng ngụ ý rằng lợi tức thu được đối với các tài sn có mức đáo hạn dài sẽ bằng với trung bình lợi tức hiện hành của tất c các tài sn ngắn hạn và lợi tức kỳ vọng của chúng trong tưng lai.
Hicks sau đó tiếp tục gii thích tại sao gi thuyết về kì vọng phi trở nên đúng đắn. Sự gii thích của ông c bn đã dựa trên kết luận của việc buôn chứng khoán. Nếu như một trái phiếu 1 năm (đáo hạn 1 năm) có 5,5% lãi suất trong khi một trái phiếu 6 tháng có lãi suất 5% sẽ được kì vọng là sẽ có lãi suất 5,5% trong 6 tháng tiếp sau đó, thì sẽ chẳng có ai dại gì muốn giữ loại trái phiếu 6 tháng này, và ch ai muốn mua chúng. Sau một năm, hai trái phiếu 6 tháng mới cho ra lợi tức trung bình khong 5,25%. Do đó dân chúng sẽ thích loại trái phiếu 1 năm với lãi suất 5,5% hn, vì vậy họ sẽ bán trái phiếu 6 tháng và mua về loại trái phiếu 1 năm này. Sự chuyển hướng trái phiếu này sẽ làm cho giá của loại trái phiếu 6 tháng này gim xuống và nâng giá của loại trái phiếu 1 năm lên. Bởi vì quan hệ giữa giá trái phiếu và lãi suất của chúng là quan hệ tỉ lệ nghịch nên lãi suất trên loại trái phiếu 6 tháng sẽ tăng và lãi suất trên trái phiếu 1 năm sẽ gim. Quá trình này sẽ tiếp diễn cho tới khi điều kiện cân bằng được xác định bởi gi thuyết về kì vọng được thiết lập – lãi suất trên trái phiếu 1 năm sẽ bằng trung bình các lãi suất trái phiếu 6 tháng và lãi suất kì vọng của trái phiếu 6 tháng sau đó.
Trong khi Hicks đã có đóng góp rất nhiều vào kinh tế học vĩ mô, nhưng chính với kinh tế học vi mô mới là lĩnh vực lần đầu tiên làm ông trởi nên nổi tiếng. Mặc dầu Edgeworth là người đã xây dựng các đường bàng quan đầu tiên, nhưng chính Hicks là người đã sát nhập các phân tích về đường bàng quan với các lý thuyết vi mô c bn. Ông đã nêu lên việc các đường bàng quan có thể được sử dụng như thế nào để xây dựng được một đường cầu dốc xuống đối với mọi loại hàng hóa. Sau đó ông đã dùng các đường này để phân biệt các nh hưởng thu nhập và nh hưởng thay thế đối với mỗi sự thay đổi của giá c.
Mấu chốt trong phân tích này là việc xuất hiện của đường ngân sách. Đường này nói lên số lượng hàng hóa mà người tiêu dùng có thể mua được đối với một khon thu nhập xác định nào đó của họ và với giá c thị trường cho trước. Ví dụ, với 10$ khi mà giá của bánh bích quy và beer là 1$ mỗi loại, người tiêu dùng khi đó có thể chọn lựa để mua nhiều kiểu kết hợp giữa bánh và bia sao cho tổng số bia và bánh là 10. Đường này được biểu diễn bằng một đường dốc xuống có hệ số góc âm như trên hình 14. ở một trường hợp đặc biệt người tiêu dùng có thể chọn mua toàn bộ 10 đn vị bia mà không mua một đn vị bánh nào. Trong trường hợp đặc biệtkhác, người tiêu dùng cũng có thể chọn mua toàn bộ đn vị bánh mà không mua một đn vị bia nào c. Tất c những kh năng kết hợp như vậy của số lượng bánh và bia mà người tiêu dùng có thể mua được được biểu diễn bằng đường ngân sách.
Hicks ngay sau đó đã phát triển thêm lý luận về đường ngân sách và vẽ nó thêm vào trong đồ thị này để gii thích hành vi của người tiêu dùng. Chắc chắn rằng người tiêu dùng sẽ chọn các kh năng có thể của tổ hợp bánh và bia sao cho với nó họ có được độ tho dụng tốt nhất, hay nói cách khác họ sẽ chọn tiêu dùng ở điểm cao nhất trên đồ thị, điểm A.
Hicks sau đó đã xem xét tác động của sự thay đổi trong giá c. Gi sử rằng giá của một đn vị bia bây giờ tăng lên là 2$. Với giá mới này người tiêu dùng sẽ gim lượng tiêu thụ bia xuống và tăng lượng tiêu dùng bánh lên. Đó chính là nh hưởng thay thế – sự tăng giá của một đn vị hàng hóa này sẽ dẫn đến gim cầu về lượng hàng hóa đó và tăng cầu của hàng hóa thay thế nó (đối với các hàng hóa không phi là hàng hóa bổ sung lẫn nhau). Tuy nhiên, còn có một nh hưởng nữa của giá, đó là nh hưởng thu nhập. Khi mà bia có giá cao hn, với thu nhập ban đầu của người tiêu dùng c hai hàng hóa sẽ được mua ít hn. Sự chi tiêu trên c hai loại hàng hóa này sẽ gim do nh hưởng của thu nhập. C hai nh hưởng này cùng một lúc làm thay đổi sự tiêu dùng của người tiêu dùng từ 5 bia 5a bánh trở thành 1,5 bia và 7 bánh. nh hưởng này đã được diễn t bằng sự quay của đường ngân sách. Do sự quay này, điểm C giờ đây sẽ là điểm mà người tiêu dùng có độ tho dụng cao nhất.
Hicks sau đó đã khéo léo chỉ ra cách tách biệt nh hưởng thu nhập và nh hưởng thế. Độ dốc của đường ngân sách diễn t giá tưng đối của hai loại hàng hóa. Nếu như có nh hưởng thay thế xy ra, nhưng không có nh hưởng thu nhập, chúng ta sẽ tiếp tục ở trên đường bàng quan của chúng ta, nhưng sẽ lựa chọn các kết hợp khác nhau giữa bia và bánh dựa trên mức giá mới 2$ của bia, hay tức là dựa trên đường ngân sách mới. Hicks cũng nói rằng chúng ta có thể thấy rõ được nh hưởng thu nhập bằng sự dịch chuyển của đường ngân sách ban đầu sao cho nó bắt đầu tiếp với đường bàng quan ban đầu. Nó được diễn t như trên hình 15. Tại điểm B giá tưng đối giữa hai hàng hóa là không đổi. Do vậy nó cho thấy rằng sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng phi là sự thay đổi bởi chỉ riêng tác động của thu nhập.
Bởi vì nh hưởng thế và nh hưởng thu nhập đều dẫn đến gim tiêu thụ bia, do đó có thể kết luận khi mà giá bia tăng thì người tiêu dùng sẽ mua ít bia hn. Đường cầu về bia khi đó phi có độ dốc xuống dưới, để diễn t được đúng hiện tường; khi giá bia tăng, lượng tiêu thụ gim và khi giá gim, lượng tiêu thụ bia sẽ tăng.
Cuối cùng, Hicks chính là người đã đưa ra khái niệm về độ co giãn của thay thế, một sự phát triển thêm về bn chất đối với khái niệm co giãn của Marshall. Marshall đã áp dụng khái niệm về co giãn đối với cầu người tiêu dùng và đối với cung nhà sn xuất, để xem xét người tiêu dùng và nhà sn xuất sẽ thay đổi hành vi ra sao nếu có một sự thay đổi về giá. Hicks đã áp dụng khái niệm co giãn này vào trong các quyết định mà các doanh nghiệp phi tiến hành trong sn xuất.
Với quan điểm của một hãng sn xuất, hàng hóa có thể được sn xuất theo nhiều cách khác nhau, mỗi cách sử dụng những sự kết hợp khác nhau giữa lao động và vốn. Một dây chuyền sn xuất sử dụng nhiều lao động sẽ dùng ít vốn hn, và một dây chuyền sn xuất chú trọng vốn sẽ thuê ít lao động hn. Nói chung, hãng sẽ phi đối mặt với một sự đánh đổi trong sn xuất – mỗi công nhân được thuê thêm sẽ có ít phưng tiện lao động hn, và mỗi máy móc được sử thêm trong sn xuất sẽ có ít công nhân hn. Sự co dãn thay thế sẽ đo xem bao nhiêu máy móc có thể không cần đến nếu được thay thế bởi một công nhân trong sn xuất, hay là bao nhiêu công nhân có thể được thay thế bởi việc mua thêm và sử dụng thêm một máy móc.
Hicks sau đó chỉ ra rằng các công nhân không nên nhất thiết phi phn đối sự thay đổi công nghệ theo hướng gim bớt lao động bởi vì sự thay đổi này có thể dẫn đến lưng phi tr cho công nhân sẽ cao hn. Điều này sẽ xy ra nếu như độ co giãn thay thế giữa lao động và vốn là lớn. Với nhiều vốn hn, công nhân sẽ trở nên ngày càng năng suất và do đó họ được tr lưng cao hn.
Hicks xứng đáng với tên gọi “nhà kinh tế của các nhà kinh tế”. Khi viết bài phục vụ cho công tác ging dạy của mình ở trường đại học, ông đã xây dựng rất nhiều công cụ và đồ thị cho phép các nhà kinh tế có thể miêu t các nguyên lý kinh tế một cách chính xác và rõ ràng hn. Hicks đã chỉ ra cách kết hợp phân tích thị trường tiền tệ đối với việc phân tích thị trường hàng hóa, làm thế nào để hiểu được mối quan hệ giữa lãi suất và các mức đáo hạn khác nhau, và làm thế nào để kết hợp giữa lý thuyết về độ tho dụng với lý thuyết về cầu. Với những đóng góp lớn lao của mình trong rất nhiều lĩnh vực, Hicks đã được xem như một trong số ít những nhà kinh tế học xuất sắc nhất thế kỉ 20.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
OSKAR LANGE (1904 – 65)
lange_oskar.jpg

Oskar Lange được biết đến nhiều nhất bởi những công trình về kinh tế kế hoạch và kinh tế học xã hội chủ nghĩa. Các công trình này của ông đã gii thích các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể phân bổ nguồn lực hiệu qu như thế nào mặc cho giá c được quyết định bởi các nhà hoạch định quan liêu chứ không phi qua thị trường. Chúng cũng làm rõ tại sao các nước kém phát triển có thể sử dụng các công cụ kinh tế kế hoạch để phát triển nhanh hn và hiệu qu hn. Công trình được biết đến ít hn đó là công trình của ông viết về nền kinh tế tư bn. Công trình này cũng đã gii thích tại sao nền kinh tế thị trường thường xy ta các biến động có chu kỳ, và tài sao các chính sách được đưa ra để gii quyết tình hình thất nghiệp cao là chưa đủ.
Lange sinh năm 1904, tại thị trấn Tomaszow Mazowieki, thuộc miền tây Balan. Cha của ông là chủ một xưởng dệt, thường sn xuất hàng để bán sang các vùng Tây Âu. Xuất xứ từ một gia đình kinh doanh đã cho phép Lange có thể sống một cuộc sống đàng hoàng trung lưu cho đến gần chiến tranh thế giới thứ nhất; lúc này hầu hết mọi công việc kinh doanh đều bị phá sn và hoàn cnh kinh tế gia đình đã trở nên khó khăn.
Lange đã bắt đầu có những đam mê trong sinh học, toán học và khoa học xã hội khi ông bắt đầu trưởng thành. Khi đến tuổi phi chọn lựa ngành học chính của mình, Lange đã bắt đầu cm thấy khó khăn trong việc lựa chọn giữa một bên là sinh học, một bên là khoa học xã hội. Sau nhiều đêm dằn vặt trăn trở, ông đã chọn khoa học xã hội, và đã xin theo học tại trường đại học Krakow để theo học các môn toán, thống kê, luật và kinh tế học. Ông đã có học vị tiến sỹ vào năm 1928 vì đã có công trong việc nghiên cứu chu kỳ kinh doanh tại Balan, và sau đó ông đã có được một vị trí ging dạy thống kê tại trường.
Suốt những năm 1930 và đầu những năm 1940 Lange đã đến Anh, sau đó là Mỹ với tư cách là nghiên cứu sinh của quỹ Rockerfeller. Trong thời gian này ông đã làm việc với Joseph Schumpeter tại trường Havard; sau đó ông đã giữ vị trí ging dạy tại các trường đại học Michigan, trường đại học Standford, và trường đại học Chicago. Trong những năm sau chiến tranh Lange đã làm việc chủ yếu để giúp thành lập chính quyền Balan mới. Sau đại chiến II ông phục vụ cho chính phủ Balan với tư cách là một đại sứ tại Hoa kỳ, đại biểu của Balan tại Hội đồng bo an liên hợp quốc, đại biểu quốc hội, và cũng là thành viên của Uỷ ban trung ưng đng lao động Balan. Năm 1948 Lange lại trở lại với cuộc sống học thuật, ging dạy tại trường kế hoạch và thống kê trung ưng tại Warsaw và sau đó là dạy tại trường đại học Warsaw.
Các công trình kinh tế của ông chủ yếu quan tâm tới những vấn đề lý thuyết và thực tiễn của một nền kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa. Ông thường quan tâm tới những câu hỏi đại loại như liệu một nền kinh tế kế hoạch tập trung có thể vận hành tốt hn một nền kinh tế thị trường hay không, và làm thế nào để cung cấp đủ nhiệt huyết cho các nhà qun lý dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, và làm thế nào để tìm một sự cân bằng đúng đắn giữa tập trung hóa và phân quyền hóa. Trong tất c các công trình của ông, Lange đã cố gắng sử dụng những phân tích toán học và thống kê để gii quyết các vấn đề kế hoạch.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đó là làm thế nào để phân bổ nguồn lực một cách hiệu qu. Trong nền kinh tế tư bn chủ nghĩa chức năng này đã được thực hiện thông qua thị trường. Những hàng hóa được người tiêu dùng cầu cao sẽ dẫn đến giá cao hn, do vậy nó báo hiệu cho các nhà sn xuất các mặt hàng này rằng họ cần phi mở rộng sn xuất. Ngược lại, đối với các hàng hóa mà người tiêu dùng không muốn tiêu dùng chúng thêm nữa, các doanh nghiệp sẽ tạm dừng việc sn xuất đối với những mặt hàng hóa này và thay vào đó chuyển sang sn xuất những hàng hóa có cầu cao hn. Lange đã có công trong việc chỉ ra rằng việc chỉ thiểu vai trò của thị trường không có nghĩa rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hiệu qu - nghĩa là sn xuất quá nhiều hàng hóa mà người tiêu dùng không cần trong khi nhiều hàng hóa cần lại không được sn xuất đủ.
Năm 1908 nhà kinh tế học người ý Enrico Baronne đã cố gắng chứng minh rằng đối với một nền kinh tế hiệu qu thì thị trường là không cần thiết. Ông đã dùng hàng loạt các phưng trình toán học, mỗi phưng trình diễn t một đường cung hay một đường cầu đối với một loại hàng hóa nhất định. Barone đã sử dụng một loạt các phưng trình này để chứng minh rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể áp đặt giá c một cách hiệu qu và đúng đắn trong việc phân bổ hàng hóa. Tất c các việc mà các nhà kế hoạch phi làm đó là gii các phưng trình nói trên và tìm ra mức giá cân bằng cho mỗi loại hàng hóa, mức giá mà tại đó cung của hàng hóa đó bằng đúng cầu của nó. Bằng cách đặt giá như vậy, các nhà kế hoạch có thể đm bo rằng nền kinh tế đang sn xuất hàng hóa theo mong muốn của người tiêu dùng.
Trong những năm 1930, Friedrich Hayek và Lionel Robbins, hai nhà kinh tế học ging dạy tại học viên kinh tế học London, đã nêu ra quan điểm phn bác khá gay gắt đối với hệ thống kinh tế trên. Họ đã tranh luận rằng viễn cnh kinh tế theo Barone tuy rằng có kh thi trong lý thuyết, nhưng lại không thể trong thực tế; vì trước khi đưa ra quyết định, chính phủ hay các bộ ngành trong nền kinh tế kế hoạch buộc phi thu thập một khối lượng thông tin khổng lồ, và phi gii quyết hàng trăm nghìn, thậm chí là hàng triệu phưng trình. Tất c các phưng trình đó đều phi được gii để tìm ra một bộ các mức giá c cân bằng đối với tất c các loại hàng hóa. Hn nữa, như Robbins đã chỉ ra năm 1934, rằng trong lúc các phưng trình toán học đang được gii quyết thì nền kinh tế có thể đã thay đổi, và do đó các thông tin được dùng để phân tích có thể đã trở nên lỗi thời. Các nhà kế hoạch do đó sẽ phi ước lượng lại các phưng trình và sẽ gii lại bộ phưng trình mới này. Tuy nhiên, trong lúc ước lượng lại này, nền kinh tế vẫn tiếp tục dịch chuyển, và do đó các kết qu về bộ giá c được đưa ra lại một lần nữa trở nên lỗi thời.
Năm 1938 Lange đã đáp tr những ý kiến phn bác nói trên bằng cách chứng minh rằng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiệu qu là có thể kh thi. Ông đã chỉ ra rằng việc các nhà kinh tế kế hoạch phi biết hàng nghìn các phưng trình toán học là không cần thiết, và cũng không cần thiết khi phi gi tất c các phưng trình nói trên để tìm ra các giá cân bằng. Theo Lange điều cần thiết hn đối với các nhà kế hoạch là phi đi theo một phưng pháp thử và sai (trial and error) đn gin. Nếu như có một sự thiếu hụt tồn tại trong nền kinh tế thì các nhà kế hoạch sẽ tăng giá; và khi có lượng thặng dư, thì sẽ gim giá. Bằng việc áp dụng quy tắc này, các nhà kế hoạch sẽ hoạt động với một chức năng giống như thị trường trong nền kinh tế tư bn chủ nghĩa, và do vậy nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có thể phân bổ hàng hóa một cách có hiệu qu. Việc tạo ra các việc làm thậm chí còn dễ dàng hn, các nhà kế hoạch sẽ phi bắt đầu quá trình thử và sai của họ từ đầu. Hn nữa, học sẽ bắt đầu với các bộ giá c hiệu qu được xác định trước đó bởi thị trường.
Lange cũng đã cho rằng viễn cnh trên sẽ dẫn đến một hệ thống kinh tế cao cấp hn nhiều so với nền kinh tế tư bn. Nền kinh tế sẽ có được mức giá c cân bằng một cách nhanh chóng, bởi vì các nhà kinh tế kế hoạch sẽ có được một kiến thức tốt hn về nền kinh tế so với từng doanh nghiệp riêng lẻ trong nền kinh tế tư bn. Nhiều năm sau đó Lange đã biết rằng với sự trợ giúp của một máy tính, việc gii quyết hàng ngàn phưng trình để tìm ra các mức giá là có thể thực hiện được chỉ trong một vài giây, nhỏ hn nhiều so với thời gian mà một thị trường cần để có được mức giá c cân bằng. Bằng việc có được giá c cân bằng nhanh chóng, các chu kỳ kinh doanh do đó sẽ gim và yếu hn, do đó nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ ít đối mặt với vấn đề thất nghiệp hn so với nền kinh tế tư bn.
Cũng theo Lange, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ có nhiều ưu điểm khác. Nó là nền kinh tế cao cấp hn nền kinh tế tư bn bởi vì nó tồn tại sự phân bổ thu nhập công bằng hn. Hn nữa, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không bị phiền nhiễu nhiều bởi vấn đề về độc quyền. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa các hãng không thể mưu cầu thêm lợi nhuận bằng cách hạn chế sn lượng, và do vậy họ không thể nắm được một quyền lực chính trị đáng kể nào.
Mặc dù Lange đã có rất nhiều nỗ lực trong việc chứng minh rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể hiệu qu hn so với nền kinh tế tư bn chủ nghĩa, đối với Lange đó vẫn chưa phi là nền kinh tế lý tưởng cuối cùng. Ông cũng đã nhận ra được “mối hiểm họa thực sự từ tệ quan liêu trong đời sống kinh tế” . Và ông cũng lo ngại thực sự về việc các nhà kế hoạch sẽ hành động theo lợi ích riêng của họ chứ không phi theo lợi ích của quốc gia. Thế nhưng theo Lange những vấn đề như vậy cũng tồn tại trong xã hội tư bn như vấn đề về độc quyền – các nhà qun lý các hãng cũng trở nên quan liêu và không hành động theo nhu cầu của người tiêu dùng. Lange cho rằng việc phân cấp các quyết định và các nhà kế hoạch có trình độ sẽ giúp cho các vấn đề trên được gim thiểu.
Các phân tích của Lange về các vấn đề kinh tế tồn tại trong xã hội tư bn chính là sự đóng góp lớn thứ hai của ông đối với kinh tế. Theo Lange, trong nền kinh tế tư bn thị trường không đóng vai trò theo như các ký thuyết kinh tế đã gán cho nó vì hiện tượng độc quyền sẽ phá nát các quy tắc thị trường đối với sự cạnh tranh tự do. Với độc quyền xã hội sẽ không thể qun lý được giá c, sẽ loại bỏ sự cạnh tranh, và nó sẽ nh hưởng đến c người tiêu dùng và các nhà chính trị gia. Do vậy Lange xem nền kinh tế xã hội chủ nghĩa như là một phưng cách duy nhất để duy trì được giá c hiệu qu và tự do cạnh tranh, cũng như là một cách để làm cho các quyết định kinh tế trở nên dân chủ hn. Sự qun lý kinh tế sẽ được thực hiện bởi các nhà viên chức công, người sẽ được tín nhiệm làm đại diện cho sự qun lý dân chủ, chứ không phi bởi những nhà cầm đầu của những tập đoàn lớn có quyền lực.
Cũng theo Lange một vấn đề thứ hai đối với nền tư bn chủ nghĩa đó là các nhà kinh tế có vẻ như thường đau đầu bởi vấn đề thất nghiệp. Vấn đề này đã có trùng quan điểm đối với Keynes. Lange nói rằng sẽ có hai tác động xy ra trong suy thoái, chỉ một trong các tác động đó sẽ dẫn đến sự tăng trưởng trong việc làm. Thứ nhất, suy thoái có thể làm cho giá c gim xuống, nhưng lại có rất ít nh hưởng lên lượng tiền trong lưu thông. Với giá c thấp như vậy, lượng cung tiền đang tồn tại trên thị trường sẽ cho phép người tiêu dùng mua thêm được nhiều hàng hóa và dịch vụ, còn các doanh nghiệp thì có thể mua sắm thêm được nhiều trang thiết bị máy móc hn. Mức giá c linh động sẽ làm cho nền kinh tế dịch chuyển về trạng thái toàn dụng nhân công của nó. Đó chính là sự phân tích theo kiểu truyền thống về việc nền kinh tế sẽ phn ứng như thế nào đối với tình trạng thất nghiệp cao.
Nhưng Lange lại tranh luận rằng lượng cung tiền cũng sẽ có thể gim nhanh hn sự gim giá c. Để hiểu xem tại sao nó lại xy ra như vậy chúng ta cần biết rằng trong một nền kinh tế hoàn thiện thì lượng tiền sẽ được tạo thêm ra khi các ngân hàng thực hiện cho vay tiền. Tuy nhiên trong suy thoái, các ngân hàng lại lo sợ về việc họ không thể thu hôi được các khon cho vay. Nếu như họ thu hồi các khon nợ lại và từ chối việc cho vay, lượng cung tiền do đó sẽ gim và sẽ đẩy lãi suất lên cao. Trong trường hợp này chúng ta sẽ có thậm chí ít đầu tư hn, và thất nghiệp sẽ lại tăng hn.
C hai viễn cnh trên đều có thể trở thành hiện thực trong thực tế. Do đó một nền kinh tế tiền tệ sẽ không thể có được quá trình tự điều chỉnh, giống như các mức giá linh động, để đm rằng nó có thể trở về trạng thái cân bằng toàn dụng nhân công. Thêm vào đó, Lange còn tranh luận rằng nếu tăng những yếu tố độc quyền dưới chế độ tư bn thì sẽ làm cho giá c bớt trở nên linh động hn, và do vậy viễn cnh thứ hâi lại trở nên thiết thực hn.
Thậm chí đi xa hn nữa, Lange lại nghi ngờ rằng các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng của Keynes cũng không thể gii quyết tốt được vấn đề thất nghiệp. ở đây chúng ta sẽ thấy các nhà tư bn độc quyền cũng sẽ hành động như vậy. Các nhà độc quyền có vẻ như phn ứng lại sự tăng lên của cầu bằng cách tăng giá chư không phi bằng cách tăng sn lượng và thuê thêm nhân công. Do vậy rõ ràng là điều này sẽ làm hạn chế kh năng tạo ra thêm nhiều việc làm của các hàng hóa có cầu lớn hn. Gii pháp duy nhất đối với nạn thất nghiệp đó là sự tồn tại của một nhà nước để hạn kh năng của độc quyền. Trong các mối quan tâm của quá trình thực hiện kinh tế, nhà nước phi đm bo được tính dân chủ trong qun lý. Theo Lange chủ nghĩa tư bn độc quyền chính là con đường để di đến chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Lange coi chủ nghĩa xã hội không phi là sự phủ nhận chủ nghĩa tư bn mà là sự phát triển lên của chúng. Ông cũng tin rằng sự phát triển thái quá của độc quyền và độc quyền tập đoàn sẽ tiêu diệt thị trường và tính cạnh tranh tự do của nó. Thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ là con đường để duy trì sự cạnh tranh và dân chủ.
Lange không chỉ phê phán chủ nghĩa tư bn, mà ông còn thậm chí phê phán c hệ thống kinh tế Xô viết. Phủ nhận đó là một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Lange đã cho rằng Liên bang Xô viết là một “nền kinh tế độc tài được dẫn dắt bởi các mục tiêu chính trị.” Các mục đích chính trị của nó là muốn trở thành một trong những nước công nghiệp hàng đầu và được trang bị đầy đủ cho hệ thống an ning quốc phòng của mình. Do vậy Liên bang Xô viết không thể nào tồn tại được một thị trường xã hội chủ nghĩa dân chủ. Hn thế nữa chính phủ lại hướng việc sử dụng nguồn lực sang việc chi tiêu và đầu tư vào ngành chế tạo quốc phòng với quy mô lớn. Việc này chỉ được làm bằng cách cắt gim lượng hàng hóa ở các lĩnh vực khác. Người tiêu dùng trở nên đói hàng hóa và phi xếp hàng hàng giờ để có thể mua chúng. Nông nghiệp bị cn để phát triển công nghiệp chế tạo. Và nguyên liệu luôn bị ở trong tình trạng thiếu hụt cung ứng. Cũng theo cách ấy, việc các nhà kế hoạch Xô viết chạy theo sn lượng (chứ không phi theo mức giá cân bằng thị trường) đã làm hại đến chất lượng. Để đáp ứng được yêu cầu về sn lượng của các nhà kế hoạc, các hãng đã làm ra các sn phẩm rẻ nhất có thể. Bởi vì hàng hóa luôn ở tình trạng thiếu, nên hàng kém chất lượng cũng chẳng có ý nghĩa lắm, nó sẽ luôn được bán hết bởi một ai đó sẽ mua nó.
Chúng ta nên xem xét công trình của Lange như là một sự cố gắng kết hợp các khía cạnh tốt nhất của chủ nghĩa xã hội (tính dân chủ trong các quyết định kinh tế) với các khía cạnh tốt nhất của chủ nghĩa tư bn. Ông cũng tán thành việc chính phủ sở hữu những hãng sn xuất lớn, có tính độc quyền và cũng ủng hộ c chế giá c để đm bo rằng hệ thống kinh tế sẽ sn xuất hàng hóa để tho mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ông đã kiếm tìm để kết hợp giữa kế hoạch tập trung và sự qun lý phân cấp, và cũng kiếm tìm gii pháp để làm cho các nhà kế hoạch hoạt động hiệu qu hn thông qua giáo dục và cung cấp cho họ đủ những phưng tiện phân tích và dự báo hiện đại. Nếu các nước Trung và Tây âu bắt đầu tìm kiếm một sự lựa chọn ở giữa chủ nghĩa tư bn thích nghi và chủ nghĩa với nền kinh tế bị chính phủ chi phối, thì các ý tưởng của Lange sẽ càng trở nên quan trọng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
WASSILY LEONTIEF (1906-1999)
leontief.gif

Wassily Leontief được biết đến nhiều nhất nhờ việc xây dựng phép phân tích đầu vào - đầu ra. Kỹ thuật này miêu tả được mối tưng quan giữa những lĩnh vực khác nhau hoặc những ngành sản xuất khác nhau của nền kinh tế, có nhiều ứng dụng quan trọng và cung cấp cái nhìn bao quát về hoạt động của nền kinh tế. Sử dụng kỹ thuật trên để tìm hiểu vì sao những điều cn trở sn xuất có thể gia tăng khi nền kinh tế phát triển, và làm sao quá trình lạm phát có thể phân bổ và tràn lan khắp toàn bộ nền kinh tế. Kỹ thuật này còn sử dụng trong kinh tế xã hội học và kinh tế phát triển sau Đại chiến II phục vụ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế trong 5 năm.
Leontief sinh trưởng trong một gia đình trí thức giàu có ở thành phố St. Petersburg nước Nga năm 1906. Bố ông dạy môn kinh tế lao động tại trường đại học St. Petersburg, mẹ ông là giáo viên môn lịch sử nghệ thuật. Là một đứa trẻ thần đồng, Leontief vào đại học khi 15 tuổi. ở đây, ông nghiên cứu Triết học, Xã hội học và Kinh tế học. Leontief thường xuyên gặp rắc rối đến mức phi vào tù vài lần do chỉ trích chính quyền thực dân mới trong khi theo học tại trường đại học.
Năm 1925, ở tuổi 18, Leontief bo vệ Thạc sĩ khoa học xã hội với luận án “Nhà kinh tế thông thái”. Sau đó, gia đình Leontief rời khỏi nước Nga tới định cư tại Đức do những bất đồng với chính quyền thực dân. Leontief đăng ký theo học đại học Berlin tiếp tục nghiên cứu kinh tế, đến năm 1928, ông chạm trán với một vị khách Trung Quốc trong một quán cà phê và ngay sau đó lao vào cuộc thử sức mới với tư cách cố vấn của Bộ trưởng Bộ Đường sắt Trung Quốc. ở cưng vị này, Leontief dành một năm đi khắp đất nước Trung Quốc thu thập tư liệu nhằm hoạch định kế hoạch phát triển mạng lưới đường sắt Trung Quốc. Công việc cung cấp cho Leontief một tầm nhìn về mối tưng quan kinh tế cùng một c hội để vạch ra những mối quan hệ đó qua những dữ kiện sống thu thập được.
Năm 1931, Leontief đến Mỹ. Đầu tiên, ông làm việc cho Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia ở NewYork, sau đó ging dạy ở đại học Harvard, ni mà ông xây dựng mô hình đầu vào - đầu ra cho kinh tế Mỹ. Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Leontief không ngừng ci tiến và mở rộng mô hình trên cũng như tìm ra cách áp dụng mô hình này trong việc nghiên cứu những vấn đề kinh tế thế giới. Leontief rời đại học Harvard năm 1975 tham gia làm việc tại Viện Nghiên cứu Kinh tế thuộc đại học NewYork.
Trong những năm sau này, Leontief nhận được nhiều sự cổ vũ và phần thưởng lớn. Vào năm 1970, ông là Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Mỹ. Ông nhận gii thưởng Nobel Kinh tế năm 1973 với những đóng góp xây dựng phép phân tích đầu vào - đầu ra. Không nghi ngờ một điều rằng lý thuyết trên là đóng góp lớn nhất của ông đối với kinh tế học.
Toàn bộ nền kinh tế được coi là tập hợp những lĩnh vực có quan hệ mật thiết với nhau, vì lĩnh vực này sử dụng sn phẩm của lĩnh vực khác và vì tiền cũng được lưu thông giữa các lĩnh vực trước khi quay trở lại. Lý thuyết này được khởi xướng bởi Cantillon và Quesnay, Leontief đã kế thừa và đưa những mối quan hệ đó vào thuật ngữ toán học, tập hợp dữ liệu cần thiết để xây dựng bng đầu vào - đầu ra. Cũng chính Leontief là người tho ra chính sách thực hiện từ những biểu diễn toán học về kinh tế mà ông đã xây dựng. Công cụ này cho phép một nhà phân tích lý gii vì sao thay đổi của một hay nhiều ngành sn xuất lại nh hưởng đến những ngành còn lại của nền kinh tế. Hn nữa, phép phân tích đầu vào - đầu ra còn tính đến những kế hoạch toàn diện của chính phủ, cái mà Leontief coi là giai đoạn tiếp theo của phát triển tư bản.
Điều chính yếu của phép phân tích đầu vào - đầu ra là: nếu nền kinh tế sn xuất nhiều hn một loại hàng, như ô tô chẳng hạn, chắc chắn sẽ cần có thêm “đầu vào” hoặc các phần để làm những chiếc xe khác. Thí dụ như lốp xe, nắp tròn đậy trục bánh xe, trục xe, kính xe, v. v…phi cần đến. Kế tiếp, sản xuất một bộ phận sẽ kéo theo những bộ phận khác. Sn xuất lốp cần cao su, máy móc. Hiểu phức tạp hn, làm thêm bộ phận máy, nắp tròn đậy trục bánh xe hoặc trục xe, nền kinh tế sẽ sn xuất thêm nhiều ô tô hn, vì xe cần nguyên liệu. Để làm những chiếc ô tô truyền thống, dĩ nhiên, sẽ đòi hỏi thêm nhiều “đầu vào” cần thiết cho công nghiệp ô tô.
Đầu vào về lao động dễ dàng điều chỉnh hn trong c cấu này. Người công nhân lắp ráp ô tô được coi là một đầu vào đòi hỏi nhiều đầu vào khác. Có ông nhân, do đó sẽ cần thức ăn, quần áo, một chỗ để trú ẩn và vâng, những chiếc ô tô đưa đón họ đến ni làm việc, nếu như họ giúp cho việc chế tạo ra ô tô. Và tất c những gì áp dụng cho công nhân lắp ráp đều đúng với công nhân ngành khác của toàn bộ nền kinh tế.
Qua việc mở rộng nghiên cứu sn xuất và nhu cầu kỹ thuật của một số ngành công nghiệp Mỹ, năm 1941, Leontief có thể biểu diễn được mối quan hệ giữa kỹ thuật và sn xuất cho những ngành công nghiệp quan trọng bằng Toán học. Sự gii thích này, như c cấu sn xuất, chỉ rõ tất c những hàng hoá khác của nền kinh tế đều để sn xuất những hàng hoá riêng biệt. Điều này đem đến cho Leontief một tập hợp phưng trình Toán học, trong đó mỗi một phưng trình biểu thị một loại hàng hoá. Với sự giúp đỡ của máy tính, Leontief đã gii được tập hợp phưng trình này. Kết qu gii phưng trình cho ông biết cần sn xuất thêm bao nhiêu hàng hoá khác để tạo thêm một chiếc ô tô. Nếu những hàng hoá không đủ, “nút cổ chai” của sn xuất sẽ xuất hiện, ví dụ như sn xuất thiếu lốp xe, máy móc, kính xe thì không làm thêm được xe đáp ứng nhu cầu. Nói cách khác, nếu tất c những “đầu vào” được sn xuất đủ số lượng, sẽ có đủ các phần nguyên liệu sn xuất thêm những chiếc xe khác.
Mô hình đầu vào - đầu ra không đn thuần chỉ mối quan hệ kỹ thuật, chúng còn cho phép các nhà hoạch định chính sách xác định những hậu qu của việc thay đổi chính sách. Ví dụ, việc chính phủ gim chi đối với quốc phòng sẽ nh hưởng xấu tới ngành công nghiệp sn xuất quân trang, những nhà cung cấp nguyên liệu cho ngành sn xuất quân trang và c những người cung cấp cho các nhà cung cấp này. Ngược lại, việc chi nhiều cho c sở hạ tầng (như đường sá, cầu, tàu) sẽ hậu thuẫn cho ngành công nghiệp xây dựng phát triển, và c các nhà cung cấp. So sánh hai tập hợp những thay đổi này cùng lúc giúp cho chính phủ thâu tóm toàn bộ nh hưởng của những thay đổi quân sự trên từng vùng địa lý và trên những lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Leontief tập trung vào cách sử dụng phép phân tích “đầu vào - đầu ra” để kiểm nghiệm các học thuyết kinh tế khi ông nghiên cứu những mối quan hệ thưng mại giữa Mỹ với các quốc gia khác. Thật bất ngờ, ông phát hiện ra rằng xuất khẩu củaMỹ sử dụng ít vốn và nhiều lao động hn so với nhập khẩu. Điều này trái với học thuyết thưng mại truyền thống, khi cho rằng một đất nước có tiềm lực vốn dồi dào như Mỹ cần xuất khẩu hàng hoá đòi hỏi vốn lớn và nhập hàng hoá đòi hỏi lao động lớn. Những khám phá trên đã làm thành cuốn “Nghịch biện Leontief”, góp thêm nỗ lực sửa đổi thuyết thưng mại nhằm gii thích cho những khám phá mới về thế giới thực.
Một ứng dụng nữa của phép phân tích đầu vào - đầu ra bắt nguồn từ công việc mà Leontief làm cho Mỹ từ năm 1973. Công việc này nhằm phát triển mô hình đầu vào - đầu ra của thế giới mà khi sáp nhập với môi trường, hoàn cnh tạo thành “ khu vực kinh tế”. Có thể hình dung rằng các khu vực kinh tế không chỉ sn xuất ra những “đầu vào” thông thường, như ô tô, mà còn một loạt các chất gây ô nhiễm. Tưng tự, với một khu vực ít ô nhiễm hn thì đầu ra lại gây ô nhiễm đối với khu vực khác. Khu vực này cần thủ tiêu những chất gây ô nhiễm và trở về môi trường có trạng thái ban đầu. Leontief sử dụng mô hình này để nghiên cứu nh hưởng đối với môi trường khi mở rộng sn xuất cũng như cái giá của tăng trưởng kinh tế so với việc hạn chế ô nhiễm môi trường.
Từ những năm 1940 đến 1960, phép phân tích đầu vào - đầu ra thu hút sự quan tâm lớn trên toàn thế giới. Sự phát triển như vũ bão của máy tính cho thấy tính thực tế và phức tạp của mô hình đầu vào - đầu ra cũng tăng theo ở mỗi quốc gia. Trong Đại chiến II, các chính phủ đã sử dụng phép phân tích này để quyết định khu vực nào của nền kinh tế bị cắt gim theo kinh nghiệm, qua đó có chính sách mở rộng sn xuất ở những khu vực trên. V lại, sau Đại chiến II, các quốc gia quan tâm đến trách nhiệm đối với tưng lai nền kinh tế hn là phó mặc nó cho những nh hưởng bất thường của thị trường. Vấn đề quy hoạch các c quan và bộ máy công chức nổi lên ở c quốc gia phát triển lẫn đang phát triển, và mô hình đầu vào - đầu ra đã cung cấp một công cụ đn gin hữu ích để hỗ trợ cho nỗ lực này.
Tuy vậy, trong những năm 70, mối quan tâm đối với phép phân tích đầu vào - đầu ra gim sút. Nguyên nhân thứ nhất là khi có sự thay đổi từ việc hoạch định sang việc cho phép thị trường quyết định tốc độ và định hướng phát triển. Nguyên nhân thứ hai là do nhiều hạn chế của phép phân tích đã bộc lộ. Bởi vì sẽ rất khó khăn và tốn kém để ước tính tất c các mối quan hệ đầu vào - đầu ra thực tế cho toàn bộ nền kinh tế phức tạp, khiến chính quyền nhà nước phi thường xuyên sửa đổi mô hình đầu vào - đầu ra. Vì vậy, phưng pháp phân tích sử dụng công cụ đầu vào - đầu ra tất sẽ dựa nhiều vào những dữ liệu không cập nhật.
Nguyên nhân thứ ba quan trọng nhất, trong thế giới thực, tăng trưởng và phát triển gắn liền với khoa học kỹ thuật và công cụ sn xuất. Những ci tiến về khoa học kỹ thuật cho phép quá trình sn xuất thay thế được một vài đầu vào (đặc biệt là yêu cầu về lao động). Điều này có nghĩa là mối quan hệ đầu vào - đầu ra thường xuyên thay đổi. Tuy thế, phép phân tích này vẫn ấn định mối quan hệ đầu vào - đầu ra.
Bên cạnh phép phân tích trên, Leontief còn quan tâm đến phưng pháp luận của khoa học kinh tế và những thực nghiệm hàng ngày của các kinh tế gia đưng thời. Thật vậy, Leontief đã thay đổi từ một người xây dựng mô hình các quan hệ kinh tế trên c sở thiết lập các mối quan hệ theo kinh nghiệm trở thành một nhà phê bình sắc bén trên nền tng thực tế. Bài phê bình đầu tiên về phưng pháp luận kinh tế công kích phái Keynes về việc xây dựng những mô hình trừu tượng, giáo điều, khi mà những kết luận của họ hoàn toàn dựa trên c sở tiền đề của mô hình. Leontief cho rằng nếu thiếu những ước tính kinh nghiệm khá chính xác về hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, như việc xây dựng mô hình quan hệ kinh tế, sẽ không thể thắp lên ánh sáng soi rọi những vấn đề nền kinh tế phi đối mặt.
Trên cưng vị Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Mỹ, năm 1971, Leontief tiếp tục phê phán về cách mà những đồng nghiệp nghiên cứu kinh tế học. Thời gian này, Leontief tập trung phê phán sự thống trị của chủ nghĩa hình thức toán học đối với khoa học kinh tế. Ông chứng minh rằng các nhà kinh tế đang ngấm ngầm xây dựng những mô hình máy móc, sau đó suy diễn ra đặc điểm hoặc thuộc tính của những mô hình này, lờ đi việc cân nhắc, tự hỏi sự suy diễn trên có thực tế hay không. Những kết luận của phép lấy đạo hàm toán học là không thích hợp, Leontief qu quyết, bởi vì họ đã bắt đầu với những gi thuyết sai sự thật.
Leontief cũng chỉ trích những ông bạn kinh tế gia của mình khi biểu diễn phép phân tích thống kê phức tạp trên c sở những dữ liệu có ý nghĩa và giá trị đáng ngờ. Tích cực hn, Leontief khuyên họ nên cống hiến thời gian và sự quan tâm đến việc thu thập dữ liệu và dành ít thời gian hn vào việc xây dựng những kỹ thuật kiểm tra tinh vi. Cuối cùng, Leontief cnh báo rằng những mối quan hệ kinh tế không giống các mối quan hệ của khoa học tự nhiên mà sẽ thay đổi theo thời gian, bởi vì những hành vi cá nhân khiến quan hệ kinh tế phụ thuộc cũng luôn thay đổi. Việc nghiên cứu Toán kinh tế thừa nhận các mối quan hệ kinh tế là bất biến, do vậy mà không chính xác, thậm chí giúp che đậy những yếu kém của các tập hợp dữ kiện và một thực tế rằng quan hệ kinh tế luôn biến đổi. Lý lẽ này của Leontief đã lường trước sự ra đời của cái gọi là “ Nghệ thuật phê bình của Lucas” về mô hình nghiên cứu kinh tế vĩ mô.
Tiếp theo nguồn cm hứng phê phán, Leontief cố thuyết phục các kinh tế gia cam kết một loạt điều như “khám phá thực tế một cách hệ thống, bắt gánh chịu một cách truyền thống và chấp nhận bởi các đồng nghiệp trong khoa học tự nhiên và khoa học lịch sử”. Ông cũng kêu gọi các nhà kinh tế về tính nghiên cứu liên ngành bằng cách làm việc với nhiều nhà xã hội học, kỹ sư, và nhà khoa học qun lý. Những lĩnh vực trên cung cấp thêm giá trị về kinh nghiệm và thực hành, và những người đang hành nghề của họ có nhiều hiểu biết cùng kỹ năng trong thu thập dữ liệu, phân tích. Những “môn học” khác, vì thế, có thể dạy cho các kinh tế gia nhiều điều về công dụng và tầm quan trọng của thu thập dữ liệu cũng như kiểm nghiệm học thuyết.
Trong khi sự chỉ trích tưng tự vẫn không ngừng nhằm vào các kinh tế gia đưng thời, không ai trong số các phê bình gia này có uy tín bằng Leontief, người có bề dày kinh nghiệm từ nhiều năm nghiên cứu kinh tế thực nghiệm. Nhưng thật không may, những chỉ trích này đã ri vào quên lãng. Tệ hn nữa, rất nhiều chuyên gia kinh tế không hề ý thức về những cnh báo của một người đáng kính nể như Leontief.
Chủ đề thống nhất trong các công trình của Leontief là: khoa học kinh tế cần được nghiên cứu trên c sở kiểm nghiệm thực tế và khoa học thực hành. Các nhà kinh tế cần dành thời gian công sức cho việc thu thập dữ liệu và gii quyết những vấn đề gặp phi khi sử dụng các công cụ phân tích xử lý dữ liệu thực. Phép phân tích đầu vào - đầu ra cho biết diễn biến vận hành của c thể kinh tế và vận dụng kết qu đạt được vào ci thiện nền kinh tế. Những phê phán có hệ thống của Leontief không được các nhà kinh tế sau này áp dụng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
NICHOLAS KALDOR (1908 – 1986)
kaldor.jpg

Nicholas Kaldor dành phần lớn cuộc đời vào hoạch định chính sách cải thiện tình hình kinh tế. Ông đấu tranh cho việc bội chi thuế và cho rằng thuế phi là món quà tặng và là động lực thúc đẩy sn xuất đối với khu vực sn xuất của nền kinh tế phát triển. Kaldor cũng phn đối chính sách tiền tệ chặt chẽ, vốn được sử dụng như một công cụ điều khiển lạm phát; thay vào đó chủ trưng điều khiển chính sách tiền lưng theo chiều tăng dần vì đây là nguyên nhân gây áp lực lạm phát.
Kaldor sinh ở Budapest, Hungary năm 1908. Bố ông là luật sư và nhà tư vấn luật, mẹ ông xuất thân từ một gia đình thưng nhân giàu có, kinh doanh ngân hàng. Do đó, Kaldor lớn lên trong môi trường khá đầy đủ và được hưởng chế độ giáo dục ưu việt. Ông theo học một trường cao học nổi tiếng về sử dụng phưng pháp ging dạy Socrat ở Budapest.
Mặc dù bố Kaldor muốn ông kế nghiệp luật sư, ông vẫn hướng mình theo kinh tế. Phần nào đó, gốc của kinh tế cũng là chính trị, nhưng quyết định lựa chọn kinh tế của Kaldor là khi bị mê hoặc bởi sự siêu lạm phát ở Đức năm 1932, điều mà chính ông trực tiếp chứng kiến trong một kỳ nghỉ ở Bavarian.
Năm 1925, Kaldor đăng ký học ở Đại học Berlin. Hai năm sau, ông chuyển đến Học viện Kinh tế London (London School of Economics), ni ông nghiên cứu dưới hướng dẫn của Friedrich Hayker. Tốt nghiệp năm 1930, Kador ở lại ging dạy cho đến năm 1947, sau đó làm Giám đốc Phân khu Nghiên cứu và Kế hoạch cho Uỷ ban Kinh tế châu Âu . Kaldor chuyển về ging dạy năm 1949 tại Trường Cao đẳng Hoàng đế ở Cambridge như những người học trò của Keynes. Trong những năm 50 và 60, Kaldor làm việc với tư cách cố vấn cho nước Anh và các chính phủ nước khác. Ông trở thành cố vấn đặc biệt cho Thống chế Ngân hàng Anh từ năm 1964 – 1968 và các năm 1974 – 1976.
Khi bắt đầu ging dạy tại Cambridge, Kaldor chuyển trọng tâm nghiên cứu từ các học thuyết kinh tế sang chính sách kinh tế. Ông loại bỏ những quan điểm trước đây cho rằng nền kinh tế hoạt động tốt nhất khi không bị kiểm soát bởi chính phủ và làm theo sự định hướng chính sách mang tính xã hội khác. Đặc biệt, ông xây dựng một vài chính sách thuế nhằm ci thiện toàn bộ diễn tiến nền kinh tế. Vào thập kỷ 70 và đầu những năm 80, Kaldor chủ trưng ủng hộ sự can thiệp tích cực của chính phủ để điều chỉnh giá lạm phát.
Năm 1951, Kaldor được triệu tập bởi Uỷ ban hoàng gia về thuế thu nhập và lợi nhuận. Uỷ ban được giao trọng trách kiểm tra hệ thống thuế nước Anh và tiến cử những biện pháp ci thiện tình hình. Kaldor nhận thấy bn thân mình đối lập với quan điểm của Uỷ ban, đặc biệt là những biện pháp nêu ra. Ông đã viết một bn báo cáo dài, bn này về sau được bổ sung trong một cuốn sách mà nội dung là đề xuất một kế hoạch toàn diện gim thiểu tối đa việc bội chi thuế. Trong suốt những năm 50, Kaldor đẩy mạnh đề xuất việc đánh thuế tiêu dùng áp dụng cho các nước phát triển và đang phát triển, trong đó có ấn Độ, Sri Lanka, Guyana, Iran, Venezuela và Ghana.
Năm 1955, Kaldor phn đối thuế thu nhập vì nhiều lý do. Thứ nhất, thu nhập không phi là thước đo tưng xứng với kh năng đóng thuế của một cá nhân. Một minh chứng hiển nhiên: tiền lãi tư bn chính là thuế khi và chỉ khi bán được tài sn, lợi nhuận tư bn chưa nhìn thấy đồng nghĩa với thu thuế không thực hiện và do đó không có thu nhập. Kết qu, lợi tức không thu được từ tài sn trốn thuế và thuế thu nhập là một cách hành xử đầy khoan dung đối với những ông chủ giàu có. Hn thế, những người giàu phần lớn do thừa hưởng, không do tự kiếm từ nguồn thu thông thường. Thuế thu nhập tạo lỗ hổng cho hầu hết thành phần này trốn thuế.
Thứ hai, Kaldor nhấn mạnh nhiều yếu điểm nghiêm trọng về kinh tế của thuế thu nhập. Bởi vì lợi nhuận và tiền lãi là đối tượng của thuế nên thuế thu nhập không khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, một yếu tố mà thuế thu nhập đòi hỏi đối với các cá nhân có mức thu lớn. Thêm vào đó, nếu quay trở về với nguồn thu rủi ro hn nhưng có mức lãi suất cao, thuế thu nhập sẽ không khuyến khích được c chế quan trọng này để tăng trưởng kinh tế.
Để đối phó, Kaldor đề xuất biến đổi thuế thu nhập thành thuế đánh vào số lượng tiêu dùng. Có người cho rằng thuế tiêu dùng là một dạng thuế thu nhập đánh thuế vào các khon dành dụm mới từ những thu nhập có thể đánh thuế. Những khon dành dụm mới này dễ dàng đo bằng khon cộng thêm vào ở danh mục đầu tư chứng khoán và cán cân ngân hàng. Nếu một cổ đông tiêu xài tiền dành dụm, hoặc sử dụng khon tiền dành dụm chi cho tiêu dùng hàng ngày, cổ đông đó sẽ bị đánh thuế (khon dành dụm chi cho tiêu dùng). Thuế khấu trừ vào tiền tiết kiệm mới cho phép những khon dành dụm hàng năm trốn thuế và chỉ số tiền chi tiêu bị đánh thuế. Tất nhiên, thuế khấu trừ vào dành dụm sẽ khiến thuế thu nhập gim trừ khi mức thuế cao hn bị lạm dụng. Mặt khác, để giữ thuế thu nhập luôn là thuế luỹ tiến, cho dù thuế này thất thoát lớn khi truy thu từ những những khon tiền gửi của các gia đình giàu có, một mức thuế rất cao sẽ được áp dụng cho sự tiêu dùng ở cấp cao tưng ứng. Bn thân Kaldor đề xuất mức thuế cao nhất đánh vào tiêu dùng sẽ là 100% và có thể lên tới 300%.
Lợi ích lớn nhất khi đánh thuế tiêu dùng thay cho thuế thu nhập chính là khuyến khích các khon tiền gửi. Người ta sẽ dành dụm tiền nhiều hn vì khi chi tiêu sẽ bị phạt bằng cách đánh thuế nặng, đặc biệt là những khon dành dụm trốn thuế. Nhiều tiền gửi hn, vì thế, sẽ dẫn đến ci tiến kỹ thuật, tăng trưởng sn xuất, tăng thu nhập và đầu tư.
Kaldor làm việc với tư cách cố vấn kinh tế cho hai c quan chính phủ về lao động của Anh và cố vấn cho nhiều nước khác, rất nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách thuế của ông nhưng nước Anh không bao giờ chấp nhận thuế chi tiêu và những quốc gia đang phát triển bất đắc dĩ phi đi theo điều này. Ngoài nước Anh, Kaldor cũng đã thuyết phục hai nước khác là ấn Độ và Sri Lanka nhưng không thành công.
Sau những thất bại trên, Kaldor quan tâm về chính sách thuế. Ông đề nghị chính sách thuế phi được cấu trúc để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp riêng biệt hoặc các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Kaldor muốn phát triển các ngành sn xuất trong c cấu kinh tế Anh, một ý tưởng nhằm quay trở lại lý thuyết của Quesnay về sự khác biệt giữa khu vực sn xuất và phi sn xuất của nền kinh tế. Kaldor đánh giá tầm quan trọng của sự tăng trưởng tiền lãi như một yếu tố đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Tăng tiền lãi có nghĩa là khi một công ty tăng sn lượng một vài loại hàng hoá, mỗi công nhân trở nên hữu ích hn. Ci tiến năng suất khuyến khích mở rộng kinh tế quốc nội và tăng tính cạnh tranh trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế.
Kaldor cho rằng tăng trưởng tiền lãi chi phối nhiều đến các lĩnh vực sn xuất của nền kinh tế. Sự tin tưởng này ny sinh từ 3 quy tắc có tính kinh nghiệm mà ông đã tìm ra trong khi nghiên cứu tăng trưởng thực tế của nền kinh tế nhiều quốc gia. Trước tiên, Kaldor nhận thấy sự tưng quan giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng đầu vào sn xuất của 12 nước công nghiệp trong những năm 1950 đến 1960. Ông chỉ rõ tổng mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào mức tăng trưởng sn xuất, điều này có thể gii thích bằng mức tăng trưởng tiền lãi đếm được trong hoạt động các ngành công nghiệp.
Thứ hai, Kaldor tìm ra mối tưng quan ở mức độ cao giữa tăng năng suất và tăng đầu vào trong các ngành sn xuất. Về điểm này, Kaldor lập luận rằng năng suất tăng phụ thuộc vào đầu vào tăng. Người tiêu dùng muốn có thêm nhiều hàng hoá, các công ty phi mở rộng sn xuất đáp ứng nhu cầu đó. Nhờ có cán cân c cấu kinh tế, việc tăng năng suất được thúc đẩy và chi phí gim vì nhu cầu tiêu dùng lớn hn cho sn xuất hàng hoá.
Thứ ba, theo Kaldor, tăng đầu vào sn xuất có mối tưng quan lớn với tăng năng suất trong nhiều lĩnh vực kinh tế. Khi một khu vực kinh tế phát triển sẽ thu hút thêm nhiều lao động nông nghiệp khiến năng suất và mức sống đều tăng trong khu vực sn xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá hướng tới mục tiêu thúc đẩy tốc độ thay đổi công nghệ, không chỉ trong một lĩnh vực mà toàn bộ nền kinh tế. Vì lý do đó, năng suất của tất c các lĩnh vực kinh tế đều tăng và mức sống của người dân trong nước được ci thiện.
Từ những chứng minh này, Kaldor kết luận tăng trưởng kinh tế phụ thuộc đầu tiên và trên hết vào tăng trưởng các ngành công nghiệp. Một khu vực sn xuất giàu có thịnh vượng bao hàm ý nghĩa tăng trưởng kinh tế mau lẹ và mức sống người dân cao. Qua những phân tích trên, Kaldor cho rằng chính phủ cần ủng hộ phát triển công nghiệp sn xuất trong nước bằng cách tác động vào quá trình trao đổi hàng hoá trực tiếp, hoặc bằng các biện pháp gián đoạn thuế, điều chỉnh trợ cấp cùng nhiều hình thức khuyến khích hỗ trợ khác.
Một chính sách khác được Kaldor đề nghị từ những nghiên cứu của ông là thuế lao động có tuyển chọn. Kaldor đề xuất nên đánh thuế các công ty hoạt động trong khu vực dịch vụ dựa trên số lao động mà họ sử dụng. Điều này sẽ khuyến khích lao động trong các ngành công nghiệp sn xuất và gim khuyến khích đối với các ngành phi sn xuất.
Trong thập kỷ 70, khi lạm phát trở thành vấn đề bức xúc của nền kinh tế thế giới, Kaldor đổi trọng tâm nghiên cứu cùng những nỗ lực về chính sách. Mục tiêu đầu tiên của ông là đấu tranh với xu hướng dùng phưng pháp kiểm soát sự cung ứng tiền tệ để ổn định nền kinh tế.
Phưng pháp kiểm soát hiện đại này có nghĩa là những thay đổi trong cung ứng tiền chính là nguyên nhân gây tăng giá. Vì thế biện pháp điều chỉnh lạm phát chính là tăng cung ứng tiền theo một hằng số không đổi với tốc độ chậm, khong 3 đến 5% mỗi năm. Điều này tưng ứng với sự tăng đầu vào kinh tế từng năm.
Kaldor đã xây dựng nhiều luận cứ phn đối lại phưng pháp kiểm soát trên. Trước hết, ông nhận thấy: theo phưng trình trao đổi MV = PQ, lạm phát tăng khi biến tiền tăng khi và chỉ khi tốc độ của biến tiền (V)ổn định. Kaldor phủ định V là bất biến và đưa ra bằng chứng thực tế chỉ rõ V biến đổi khác nhau theo thời gian và theo từng quốc gia cụ thể.
Thứ hai, Kaldor chỉ rõ chiều hướng kết qu thường trái ngược với những kết luận của phưng pháp kiểm soát trên. Theo Kaldor, một hoạt động kinh tế hoặc giá c tăng sẽ khiến cung ứng tiền tăng theo. Trong kinh tế học hiện đại, tiền được tạo thành khi các nhà băng thực hiện cho vay. Khi hoạt động kinh tế mở rộng, các công ty, các tổ chức và cá nhân muốn vay tiền, chính điều này khiến việc cung ứng tiền tăng. Trái lại, khi hoạt động của nền kinh tế chậm lại, sẽ có ít nhu cầu vay vốn để đầu tư. Các ngân hàng ngừng việc cho vay, và nhu cầu về tiền ngưng lại.
Cuối cùng, Kaldor nhận thấy việc tăng trưởng tiền chậm sẽ tạo nhiều thất nghiệp. Ông phn đối quyết liệt thói nhai đi nhai lại về lạm phát của các nhà nghiên cứu tiền tệ. Kaldor nhấn mạnh rằng thậm chí các vị này cũng phi tr một vài phí tổn khá lớn vì lạm phát, bởi vì lạm phát rõ ràng là sự tăng toàn thể của mức giá. Trong khi nếu giá c và thu nhập tăng mạnh mẽ cùng một tỷ lệ, sẽ chỉ có thiệt hại không đáng kể đối với nền kinh tế, về c bn là thời gian và phí tổn phi có khi tăng giá (những phí tổn này đôi khi được gọi là “ thực đn thay đổi giá phi tr”). Một bất hợp lý nữa, việc gây ra thất nghiệp như phưng pháp trên sẽ tạo nhiều thử thách khốc liệt để gii quyết. Vì vậy, chủ trưng thất nghiệp để tránh những thiệt hại gây bởi lạm phát, như những người ủng hộ phưng pháp kiểm soát tiền tệ để ổn định nền kinh tế trên rõ ràng là một chính sách tồi.
Bác bỏ chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm điều khiển lạm phát, Kaldor đưa ra chính sách về thu nhập để thay thế hệ thống tiền lưng tho thuận như hiện tại. Theo Kaldor, lạm phát không do có quá nhiều tiền mà do chi phí sn xuất và giá c nh hưởng qua lại cùng tăng theo chiều xoắn ốc. Công nhân sẽ yêu cầu tăng lưng sao cho thu nhập của họ theo kịp với việc giá c tăng thường xuyên. Tuy nhiên, nếu tăng lưng cho công nhân, kinh doanh sẽ bị nh hưởng khiến doanh nghiệp phi tăng giá, cuối cùng người tiêu dùng phi gánh chịu thiệt hại, một vòng xoắn ốc nữa lại bắt đầu.
Kaldor đề nghị chính phủ nên tập trung gii quyết chính sách lưng tho thuận hiện tại để đối phó với vòng trôn ốc lạm phát. Có thể tiến hành song song hai biện pháp làm ổn định giá c và tiền lưng, hoặc ngược lại khiến người lao động và doanh nghiệp cùng thoái lui việc hợp tác cùng nhau gii quyết lạm phát. Ví dụ, người lao động sẽ đồng ý để được tăng lưng tưng ứng với ci thiện năng suất (bởi vì điều này không làm tăng phí tổn), đến lượt các công ty phi cam kết không tăng giá.
Kaldor xây dựng danh tiếng và uy tín bn thân bằng việc lập các đề xuất chính sách nhằm ci tạo thị trường có sử dụng các biện pháp khuyến khích kinh tế. Nếu tiết kiệm tốt cho nền kinh tế thì chi tiêu rõ ràng không có lợi, vì chi tiêu bị cn trở bởi mức thuế cao hn. Tưng tự, vì khu vực dịch vụ của nền kinh tế làm chậm lại tăng trưởng kinh tế, trong khi khu vực sn xuất thúc đẩy kinh tế nên chính phủ cần tăng cường đánh thuế khu vực dịch vụ và gim thuế đối với khu vực sn xuất. Chính vì những đóng góp tập trung vào xây dựng các chính sách kinh tế nhằm ci thiện thành tựu kinh tế đã khiến Kaldor và người đồng sự Joan Robinson trở thành những người đầu tiên đặt nền móng cho trường phái Kinh tế hậu Keynesian.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Paul Samuelson (1915-)
samuelson.gif

Paul Samuelson là một hình tượng đầy nghịch lý. Ông có thiên hướng toán kinh tế hn bất kỳ ai trong cuối thế kỷ 20. Nhưng Samuelson nổi tiếng, và có rất nhiều tiền, nhờ vào việc viết thành công rất nhiều sách ging dạy về kinh tế học c bn. Nhưng ông lại viết mọi khía cạnh trong kinh tế học. Đối với một người có kh năng toán học như vậy thì viết rộng được như thế rất đáng chú ý và hiếm có.
Samuelson sinh năm 1915 ở Gary, Indiana; nhưng cha mẹ ông chẳng bao lâu sau đó chuyển đến Chicago, do vậy Samuelson được giáo dục trong hệ thống trường công của Chicago. Sau đó ông vào học tại trường đại học Chicago. Với dự định học chuyên ngành toán học, Samuelson học qua một khoá kinh tế học và ngay lập tức nhận ra rằng toán học có thể cách mạng hoá kinh tế học như thế nào.
Nhờ vào việc đạt được học bổng của Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội, Samuelson đã có tiền trang tri cho học sau đại học; nhưng cũng phi tr giá. Theo qui định học bổng thì ông không thể tiếp tục học tại trường Chicago, Samuelson chọn học tại trường Harvard, và ông nhận bằng tiến sĩ vào năm 1941 tại đây. Hầu hết các nhà kinh tế học đều nhìn nhận luận án tiến sĩ của ông đã cung cấp những nền tng toán học cho kinh tế học đưng thời.
Samuelson thích đại học Harvard và ông muốn trường dành cho ông một vị trí ging dạy chính thức tại đây. Nhưng trường Harvard đã quyết định không giữ ông ở lại. Quyết định ở lại Cambridge, ông đồng ý một vị trí ging dạy tại Học viện công nghệ Massachusetts. Ông ging dạy ở lại đây cho đến khi nghỉ hưu, và trở thành một giáo sư ở tuổi 32. Vào năm 1947 ông nhận huy chưng John Bates Clark của Hiệp hội kinh tế học Mỹ, gii thưởng hàng năm dành cho những nhà kinh tế học triển vọng nhất dưới tuổi 40. Trong suốt năm 1951 ông làm Chủ tịch Hiệp hội kinh tế lượng, và năm 1961 ông làm Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Mỹ. Vào năm 1970 Samuelson nhận gii thưởng Nobel kinh tế.
Trong tất c các tác phẩm của mình, Samuelson tìm cách đưa ra c sở toán học cho những ý tưởng kinh tế, ông tin rằng lý thuyết kinh tế mà không được công thức hoá thì sẽ không có tính hệ thống và không rõ ràng. Không như Marshall, người cm thấy rằng chuyển từ các câu chữ thành các phưng trình toán học chỉ làm mất thời gian, Samuelson cho rằng điều ngược lại nghĩa là chuyển từ các phưng trình toán học thành các câu chữ mới là lãng phí thời gian. Đối với Samuelson thì dùng các công thức toán học sẽ làm sáng tỏ bn chất của mô hình và các luận cứ, và tạo nên giá trị của lý thuyết kinh tế học. Thông qua nh hưởng của Samuelson, các bài ging kinh tế ở bậc sau đại học đã ngày càng có hướng sử dụng các công cụ và kỹ thuật đaị số tuyến tính cùng với các phép tính vi phân và tích phân, và giao tiếp giữa các nhà kinh tế học ngày càng mang tính toán học.
Nhưng Samuelson đã không ủng hộ tính chặt chẽ chỉ vì mục đích chặt chẽ, hay dùng công thức chỉ cho mục đích công thức. Thay vào đó, ông nhìn nhận toán học như một công cụ. Toán học làm sáng tỏ các luận cứ và chứng minh những lý thuyết kinh tế mà có thể kiểm định thực tiễn.
Mối quan tâm trong những liên quan và kh năng kiểm định các lý thuyết kinh tế học đã ẩn chứa một cuộc tranh luận về mặt phưng pháp luận giữa Samuelson và Milton Friedman trong những năm hậu chiến. Friedman cho rằng tính đúng đắn của các gi thuyết kinh tế là không quan trọng; điều duy nhất quan trọng đó là liệu các dự đoán từ các gi thuyết này có đúng không. Samuelson phn ứng lại rằng tính không chính xác về mặt thực tiễn trong các gi thuyết sẽ không bao giờ có ích trong khoa học. Ông cũng chỉ ra rằng sự phân biệt giữa những gi thuyết và dự đoán không bao giờ quá rõ ràng; cái được coi là một gi thuyết và cái được coi là kết qu của gi thuyết nào đó là ngẫu nhiên. Do vậy, các gi thuyết không thực tế mà Friedman ca ngợi có thể được coi là những dự đoán không thực hay gi dối xuất phát từ một tập hợp các gi thuyết khác nhau. Cuối cùng, Samuelson chỉ ra rằng theo những nguyên lý lôgíc thì những tiền đề đúng có thể chỉ tạo ra kết luận đúng, nhưng tiền đề sai sẽ có thể tạo ra c hai, và điều mà người ta mong muốn trong kinh tế học là kết luận đúng.
Mặc dù cuộc tranh luận về phưng pháp luận này có lẽ dường như trừu tượng, nhưng các vấn đề thực tế quan trọng lại đang bị lâm nguy. Trong nhiều năm, Friedman đã sử dụng mô hình kinh tế cạnh tranh hoàn ho để lập luận rằng không có bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước sẽ tạo ra kết qu kinh tế tốt nhất. Ngược lại, Samuelson là người ủng hộ kinh tế học của Keynes và đã ủng hộ mạnh mẽ hn sự can thiệp của nhà nước nhằm ci thiện kinh tế. Do vậy, cuộc tranh luận Friedman – Samuelson không chỉ về vấn đề kinh tế học nghiên cứu như thế nào mà còn về c sở lý luận cho việc sử dụng chính sách của nhà nước nhằm nâng cao hoạt động kinh tế. Trong khi bo vệ gi thuyết cạnh tranh hoàn ho, Friedman phn đối can thiệp của nhà nước; bằng việc lập luận rằng các gi thuyết kinh tế phi mang tính thực tiễn, Samuelson mở ra cánh cửa cho các chính sách kinh tế học vĩ mô của Keynes.
Tuyển tập bài viết khoa học gồm 5 cuốn của Samuelson có 388 bài luận viết trong vòng trên 50 năm, và chứa đựng tất c mọi chủ đề trong kinh tế học. Các bài viết trong tuyển tập này có nhiều tiến bộ vững chắc trong kinh tế học. Trong khối lượng đồ sộ này, ba lĩnh vực nổi lên mà Samuelson để lại dấu ấn nhất đó là lựa chọn tiêu dùng, thưng mại quốc tế, và kinh tế học vĩ mô.
Tác phẩm của Samuelson về lựa chọn tiêu dùng cố gắng làm cho các gi thuyết kinh tế học vi mô mang tính thực tế và có thể kiểm định được. Do vậy nó đi từ các nhận thức về phưng pháp luận của ông. Samuelson muốn loại bỏ lý thuyết cầu khỏi phạm vi hồi tưởng tâm lý và loại bỏ gi thuyết không thể kiểm định được rằng người tiêu dùng tối đa hoá lợi ích. Ông cũng nhận thấy rằng lý thuyết truyền thống về hành vi tiêu dùng là lặp thừa. Theo định nghĩa người tiêu dùng mua hàng hoá họ mong muốn nhất; do vậy, bất cứ cái gì người tiêu dùng mua đều tối đa hoá độ tho dụng của họ.
Kết qu là hành vi tiêu dùng được gii thích trên giác độ ưa thích, mà đến lượt nó lại được xác định chỉ bởi hành vi. Kết qu có thể rất dễ lặp lại, và trong nhiều công thức thì nó là như vậy. Thông thường thì không có gì được nói hn kết luận rằng người ta hành động như họ hành động, một định lý mà không có gợi ý gì về mặt thực tiễn, vì nó không chưa đựng gi thuyết nào và nó thống nhất với tất c các hành vi nhận thức được, trong khi đó thi không ai bác bỏ được.
Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, Samuelson lập luận rằng có thể sử dụng chi tiêu tiêu dùng quan sát được để phát hiện ra những ưa thích của người tiêu dùng về độ tho dụng mà họ nhận được từ các hàng hoá khác nhau. Sau đó dữ liệu này có thể được sử dụng để kiểm định các gi thuyết khác nhau về hành vi của người tiêu dùng. Ví dụ, lý thuyết kinh tế học cho rằng những ưa thích của người tiêu dùng là nhất quán và có tính bắc câù. Xem xét một người tiêu dùng có 3 hàng hoá với cùng một mức chi phí. Nếu người tiêu dùng mua hàng hoá A hn là hàng hoá B, và hàng hoá B hn là hàng hoá C, khi đó có nghĩa rằng người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá A hn là hàng hoá C. Đây là điều mà có thể kiểm định được về mặt thực tiễn, và thực sự đã kiểm định được. Hầu hết các kiểm định đã cho thấy sự ưa thích của người tiêu dùng là nhất quán và có tính bắc cầu, và do vậy khẳng định các gi thuyết mà các nhà kinh tế đưa ra về sự ưa thích của người tiêu dùng.
Lĩnh vực thứ hai mà Samuelson có đóng góp quan trọng đó là lý thuyết thưng mại quốc tế. Tác phẩm này xem xét các hậu qu kinh tế của thưng mại tự do và chủ nghĩa bo hộ. Samuelson chỉ ra rằng thậm chí khó có thể để cho người ta di cư hay để cho vốn di chuyển trên thế giới nhằm tìm kiếm được lợi tức cao nhất , nhưng thưng mại tự do sẽ làm cho thu nhập của các yếu tố sn xuất ở các quốc gia khác nhau trở nên bằng nhau hn. Nếu lưng ở Mỹ cao hn nhiều lưng ở Pháp, công nhân Pháp sẽ có thể làm ra khoai tây chiên ở mức giá thấp hn. Khi có thưng mại tự do giữa Mỹ và Pháp, khoai tây chiên của Pháp sẽ được xuất khẩu và bán sang Mỹ. Cầu tăng sẽ làm tăng giá mà người sn xuất khoai tây chiên của Pháp nhận được và, theo lý thuyết năng suất cận biên của phân phối thì điều này làm tăng lưng của công nhân Pháp làm khoai tây chiên. Ngược lại, người làm khoai tây chiên ở Mỹ, gặp phi cạnh tranh lớn hn từ nước ngoài, sẽ buộc phi gim giá và gim lưng công nhân. Do vậy lưng của công nhân Pháp và Mỹ có xu hướng trở nên bằng nhau hn vì thưng mại tự do.
Kết qu này, mà nó đã được biết đến là” định lý cân bằng giá các yếu tố”, đã có những gợi ý chính sách quan trọng đối với nền kinh tế ngày càng mang tính toàn cầu. Một kết qu của đinh lý đó là thực hiện thưng mại tự do giữa Mỹ và Mexico sẽ có xu hướng cân bằng lưng của công nhân Mexico và công nhân không có kỹ năng của Mỹ. Do vậy, NAFTA sẽ có xu hướng làm tăng lưng của công nhân Mexico và gim lưng của công nhân Mỹ.
Định lý Samuelson – Stolper xem xét tác động của việc đánh thuết quan lên một hàng hóa nhập khẩu nào đó. Samuelson và Stopler chỉ ra rằng thuế quan sẽ làm tăng thu nhập của các yếu tố sử dụng trên phạm vi rộng trong các ngành nội địa cạnh tranh với hàng nước ngoài bị đánh thuế. Tuy nhiên thuế quan sẽ làm gim thu nhập của người khác. Ví dụ thuế quan đánh lên ôtô ngoại sẽ làm tăng giá của ôtô ngoại. Đến lượt nó, điều này sẽ làm tăng giá của ôtô sn xuất trong nước, vì giá hàng nhập cao hn làm cho cầu đối với xe trong nước lớn hn. Đối tượng hưởng lợi nhiều nhất ở Mỹ từ thuế quan này sẽ là những nhân tố sn xuất hay đầu vào được sử dụng nhiều nhất trong ngành sn xuất ôtô. Nếu sn xuất ôtô có cường độ vốn cao ( ví dụ nó sử dụng tưng đối nhiều máy móc), thì người chủ kinh doanh sẽ hưởng lợi; nhưng những người khác sẽ bị thua thiệt vì họ phi tr giá ôtô cao hn. Tuy nhiên, nếu sn xuất ôtô sử dụng nhiều lao động kỹ năng, khi đó những công nhân có tay nghề sẽ hưởng lợi từ thuế quan trong khi đó những người khác thì bị thất thiệt.
Samuelson cũng đã có nh hưởng trong việc đưa kinh tế học Keynes vào Mỹ. Một phần điều này được thực hiện thông qua các cuốn sách ging dạy phổ biến về kinh tế học c bn của ông, mà nó giới thiệu cho các nhà kinh tế học và sinh viên Mỹ về các khái niệm của Keynes như hàm tiêu dùng, số nhân, và chính sách tài khoá. Samuelson cũng viết nhiều bài cho các báo và tạp chí trong đó gii thích về Keynes cho những độc gi không theo ngành kinh tế học. Và ông làm cố vấn kinh tế cho Tổng thống Kenedy và Johnson, gii thích cho họ về tầm quan trọng của các chính sách kinh tế vĩ mô bành trướng nhằm làm gim thất nghiệp.
Trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô thời đó, có nhiều tranh luận về tính hiệu qu tưng đối của các chính sách tài khoá và tiền tệ. Các nhà tiền tệ do Milton Friedman dẫn đầu lập luận rằng chỉ có chính sách tiền tệ nh hưởng tới hoạt động kinh tế. Họ nhìn nhận chính sách tài khoá như một đường vòng để ngân hàng tạo ra nhiều tiền hn. Khía cạnh khác của cuộc tranh luận, các nhà kinh tế học theo phái Keynes như John Kenneth Galbraith miêu t chính sách tiền tệ như một cái dây. Họ lập luận rằng cho dù chúng ta có cố đẩy sợi dây này thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể tạo ra thêm việc làm. Samuelson đứng ở lập trường giữa, khẳng định rằng c chính sách tài khoá và tiền tệ sẽ có hiệu qu trong việc mở rộng nền kinh tế Mỹ và lập luận rằng c hai chính sách phi được sử dụng cho mục đích ổn định hoá. Ông cũng đứng ở lập trường giữa về cách thức mà chính sách tài khoá mở rộng thực hiện. Trong khi Galbraith thúc ép Tổng thống Kenedy tăng chi tiêu chính phủ, và trong khi các nhà kinh tế học bo thủ phái Keynes thúc ép cắt gim thuế thì Samuelson lập luận ủng hộ c mở rộng các chưng trình của chính phủ và cắt gim đáng kể thuế.
Samuelson cũng có những đóng góp vào phát triển kinh tế học Keynes. Keynes chỉ ra rằng phần chi tiêu thêm có tác động số nhân đối với toàn bộ nền kinh tếvà ông cho rằng đầu tư được dẫn dắt bởi kỳ vọng của nhà kinh doanh. Nhưng Keynes đã không phân tích những tưng tác giữa số nhân và đầu tư. Samuelson đã phát triển khái niệm gia tốc để chỉ ra rằng khi nền kinh tế mở rộng thì những người ra quyết định kinh doanh sẽ trở nên lạc quan hn và sẽ tăng tốc, hay làm tăng, chi tiêu đầu tư của họ.
Samuelson lập ra khái niệm gia tốc và rút ra về mặt toán học tác động kinh tế kết hợp của số nhân và quá trình tăng tốc – với số nhân mở rộng sn lượng, và với việc sn lượng tăng lên sẽ dẫn tới việc ci thiện kỳ vọng, đầu tư nhiều hn, và một quá trình nhân mới. Ông cũng chỉ ra những điều kiện chính thức mà theo đó quá trình gia tốc – số nhân sẽ dẫn tới bất ổn định kinh tế ( hoặc là tăng trưởng quá cao hoặc suy gim mạnh hoạt động kinh tế khi chi tiếu ít hn sẽ làm gim mong muốn đầu tư). Cuối cùng, ông rút ra những gợi ý chính sách về gia tốc – vì nó làm cho nền kinh tế trở nên bất ổn định hn, do vậy thậm chí cần nhà nước can thiệp nhiều hn để ổn định hoá nền kinh tế.
Trong một đóng góp khác vào kinh tế học vĩ mô Keynes, Samuelson và đồng nghiệp của mình Robert Solow tại Học viện công nghệ Massachuset đã phát triển mối quan hệ đường cong Phillips nổi tiếng. A.W. Phillips, trong một nghiên cứu mở rộng về tăng lưng và thất nghiệp ở Anh đã phát hiện ra rằng sự tăng nhỏ trong lưng tiền có mối quan hệ với tỷ lệ thất nghiệp cao và ngược lại. Samuelson và Solow lập luận rằng vì lưng là yếu tố chính trong chi phí ( 60% đến 70% đối với hầu hết các nước phát triển) và vì chi phí cao hn sẽ được phn ánh trong mức giá cao hn, tỷ lệ lạm phát phi quan hệ nghịch với tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ lạm phát càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng thấp; và tỷ lệ lạm phát càng thấp thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao. Xem xét dữ liệu của Mỹ từ năm 1933 đến 1958, Samuelson và Solow thực sự đã phát hiện ra mối quan hệ đánh đổi đó, và để tỏ lòng tôn kính với Phillips, họ đặt tên đó là “đường cong Phillips”.
Samuelson nhìn nhận đường cong Phillips như một công cụ có thể xác định các lựa chọn chính sách cho chính phủ. Nếu quan tâm tới thất nghiệp, chính sách kinh tế vĩ mô có thể mở rộng nền kinh tế; nhưng cũng sẽ dịch chuyển nền kinh tế dọc theo đường cong Phillips và dẫn tới tỷ lệ lạm phát cao hn. Tuy nhiên nếu các nhà hoạch định chính sách quan tâm tới lạm phát, họ có thể làm chậm lại nền kinh tế nhưng phi chịu thất nghiệp cao hn. Do vậy, lập ra chính sách thích hợp trở thành công việc lựa chọn điểm tốt nhất trên đường cong Phillips, hoặc thực hiện sự đánh đổi tốt nhất giữa lạm phát – thất nghiệp.
Như Linbeck đã nói, Samuelson đã “tạo ra phong cách” cho bài ging kinh tế học chuyên nghiệp trong nửa cuối thế kỷ 20. Nhưng Samuelson cũng đã có nhiều đóng góp vững chắc mang tính kỹ thuật, và ông đã đóng góp vào mọi lĩnh vực của kinh tế học. Những đóng góp quan trọng nhất của ông là trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô và thưng mại quốc tế. Chúng liên quan đến việc gii thích các nền kinh tế trong nước vận hành như thế nào và các nền kinh tế đó bị tác động như thế nào khi tham gia vào thưng mại với các quốc gia khác, và sử dụng các chính sách kinh tế như thế nào để ci thiện họat động kinh tế. Vì nhiều lý do, Samuelson trở thành một trong hai hay ba nhà kinh tế học nổi tiếng và được kính phục nhất trong nửa cuối thế kỷ 20.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Milton Friedman
friedman.gif

Hai chủ đề chính trong tác phẩm của Friedman đó là vấn đề tiền tệ và vấn đề tự do. Tiền tệ là vấn đề vì chỉ những thay đổi trong cung tiền mới có thể nh hưởng đến hoạt động kinh tế. Tiền tệ cũng là vấn đề vì lạm phát gây ra từ việc có quá nhiều tiền trong nền kinh tế. Tự do là vấn đề vì các nền kinh tế vận hành tốt hn khi chính phủ không cố gắng kiểm soát giá c, tỷ giá hay việc gia nhập ngành. Và tự do cũng quan trọng như một mục tiêu trong bn thân nó.
Friedman sinh năm 1912 trong một gia đình Do thái nghèo nhập cư ở Brooklyn, New York. Cha mẹ ông là những người nhập cư từ thời đế chế áo-Hungary. Chỉ ngay sau khi ông sinh ra, cha mẹ ông đã chuyển đến Rahway, New Jersey, và Friedman lớn lên tại ni này. Khi học tại trường trung học Rahway, Friedman yêu thích toán học và dự định làm chuyên gia bo hiểm. Nhưng trong khi học tại trường cao đẳng Rutgers ( khi đó là một trường tư nhỏ và hiện nay là một trường đại học quốc gia lớn tại New Jersey), ông đã trở nên ham thích kinh tế học, và quyết định học chuyên ngành c kinh tế học và toán học.
Sau khi nhận bằng cử nhân vào năm 1933, Friedman vào trường đại học Chicago để học tiến sĩ về kinh tế học. Tuy nhiên, một suất học bổng giá trị đã làm ông chuyển sang học tại trường đại học Columbia trong năm sau đó. Khi Friedman đã hoàn tất khoá học của mình tại Columbia, ông trở lại trường Chicago, tại đây ông làm trợ giúp nghiên cứu cho Henry Schultz. Sau đó ông làm việc tại Washington, lần đầu tiên đưa ra thống kê tiêu dùng như một phần trong chính quyền New Deal của Roosevelt và sau đó làm việc cho Uỷ ban nghiên cứu kinh tế quốc gia. Tại đây, Friedman cùng với Simon Kuznets nghiên cứu thị trường của những nghề nghiệp độc lập như luật sư, bác sĩ và kế toán. Nghiên cứu này cuối cùng đã trở thành luận án tiến sĩ của ông ở trường Columbia và trở thành một cuốn sách. Một phát hiện của tác phẩm này - đó là bác sĩ kiếm được thu nhập cao do nghề y có thể đặt ra rào cn vào ngành lớn và làm gim cung về bác sĩ - điều đó đã gây tranh cãi rất nhiều và làm trì hoãn việc xuất bn sách của Friedman.
Sau khi ging dạy thời gian ngắn ở trường Minnesota, Friedman quay lại trường Chicago vào năm 1946, tại đây ông cùng với George Stigler phát triển trường phái kinh tế học Chicago. Các mục báo trên Newsweek đều đặn từ 1966 đến 1984, một cuốn sách kinh tế bán chạy nhất, một chưng chình vô tuyến gồm 10 phần, đã làm cho cái tên “Milton Friedman” trở nên quen thuộc trong khon thời gian trên 30 năm.
Vào năm 1967, Friedman trở thành Chủ tịch Hiệp hội kinh tế học Mỹ, và vào năm 1976 ông nhận gii Nobel về kinh tế học. Uỷ ban gii thưởng đã lựa chọn ra 3 khía cạnh trong tác phẩm của Friedman để đặc biệt nhắc tới – nghiên cứu của ông về hàm tiêu dùng, các luận cứ của ông về những khó khăn và vấn đề trong sử dụng chính sách ổn định hoá, và đóng góp của ông trong lý thuyết và lịch sử tiền tệ. Friedman nghỉ hưu vào năm 1977 và trở thành một học gi cao cấp cho Viện Hoover ở California.
Trong số các nhà kinh tế học thì Friedman nổi tiếng vì cuộc vận đống chống lại Keynes của ông. Điều này liên quan tới lập luận phn đối sử dụng các chính sách ổn định hoá nhằm kiểm soát lạm phát hoặc thất nghiệp. Vì nhiều lý do, Friedman cho rằng chính sách tài khoá sẽ không vận hành và chính sách tiền tệ tích cực sẽ làm cho chu kỳ kinh doanh tồi tệ thêm và dẫn tới lạm phát cao hn. Tác phẩm của Friedman về hàm tiêu dùng, vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế, và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tất c đều có nh hưởng chống lại quan điểm can thiệp của Keynes và nh hưởng đối với những người theo ông. Nó cũng ủng hộ quan điểm của chính ông về một nền kinh tế vận hành tốt nhất khi không có sự can thiệp của bên ngoài bởi những nhà hoạch định chính sách kinh tế.
Lý thuyết đn gin về tiêu dùng do Keynes đưa ra cho rằng chi tiêu tiêu dùng chủ yếu chịu nh hưởng bởi thu nhập hiện tại. Lý thuyết của Friedman được biết đến với cái tên gi thuyết về thu nhập vĩnh cửu cho rằng người tiêu dùng hướng chi tiêu theo kỳ vọng về thu nhập của họ trong khong thời gian dài. Friedman đưa ra luận cứ thực tiễn vững chắc cho gi thuyết này. Chính bn thân gi thuyết cũng cho phép Friedman gii quyết được nhiều vấn đề xuất phát từ hàm tiêu dùng đn gin của Keynes. Một ám chỉ trong lý thuyết đn gin của Keynes đó là phần thu nhập tiêu dùng sẽ gim xuống và phần thu nhập tiết kiệm tăng lên khi thu nhập tăng lên. Nghiên cứu về thu nhập, tiêu dùng, và tiết kiệm trong nền kinh tế Mỹ do Kuznets thực hiện cho thấy điều này không đúng. Phần thu nhập tiết kiệm vẫn ở mức ổn định qua nhiều thập kỷ trong nền kinh tế Mỹ, mặc dù thu nhập tăng lên nhiều.
Việc nhận ra rằng chi tiêu phụ thuộc vào thu nhập kỳ vọng trong tưng lai giúp gii thích điều này. Bất cứ khi nào thu nhập của tôi tăng lên, tôi sẽ kỳ vọng thu nhập sẽ tăng lên nữa trong tưng lai. Kết qu là hiện tại tôi cần tiết kiệm ít tiền hn cho tiêu dùng tưng lai.
Gi thuyết thu nhập vĩnh cửu cũng gii thích tại sao một vài nhóm như những người chủ doanh nghiệp nhỏ thỉnh thong tiết kiệm phần lớn thu nhập của họ và có khi lại gim tiết kiệm. Điều này sẽ không xy ra nếu tiết kiệm phụ thuộc vào thu nhập hiện tại, nhưng lại có thể xy ra nếu chi tiêu thực tế phụ thuộc vào thu nhập trung bình trong nhiều năm.
Hn thế nữa, gi thuyết thu nhập vĩnh cửu có những gợi ý chính sách quan trọng mà đối lập với các phưng thức chính sách của Keynes. Keynes ủng hộ chính sách tài khoá để tạo ra chi tiêu thêm và việc làm trong thời kỳ suy thoái. Nhưng nếu những nỗ lực của nhà nước để tạo thêm thu nhập dẫn đến chi tiêu thêm rất ít (vì người ta coi thu nhập thêm chỉ là hiện thời chứ không phi vĩnh cửu), nên chính sách tài khoá sẽ có tác động rất ít về mặt kinh tế.
Ngược lại với việc nhấn mạnh vào chính sách tài khoá của các nhà kinh tế học phái Keynes, Friedman lập luận rằng tiền tệ và chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong quyết định hoạt động kinh tế. Lập luận ủng hộ cho tầm quan trọng của tiền tệ xuất phát từ lý thuyết về lượng tiền (MV = PQ), mà nó cho rằng lượng tiền trong nền kinh tế (M) nhân số lần mỗi đồng đôla được sử dụng trong một năm để mua hàng hoá (V) phi bằng với sn lượng kinh tế bán ra trong năm (PQ).
Ngược lại với các nhà lý thuyết tiền tệ cổ điển, họ coi tốc độ của tiền (V) được quyết định về mặt thể chế, Friedman cho rằng tốc độ của tiền có thể phụ thuộc vào các nhân tố kinh tế như lãi suất và lạm phát kỳ vọng. Ngoài ra, Friedman nhận thấy rằng người ta có thể muốn giữ tiền vì nhiều lý do hn là chỉ để mua hàng hoá, như vì lý do an toàn hay vì họ nghĩ rằng giá cổ phiếu và tài sn khác có thể gim. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Friedman phát hiện ra rằng những nhân tố kinh tế này chỉ có nh hưởng nhỏ tới tốc độ của tiền và tác động của chúng có xu hướng gim qua thời gian. Vì tốc độ của tiền tưng đối ổn định, nên lượng tiền chủ yếu nh hưởng tới mức độ hoạt động kinh tế.
Tiến xa hn, Friedman cho rằng trong khi tiền tệ có thể nh hưởng tới hoạt động kinh tế trong ngắn hạn, thì về dài hạn tiền tệ chỉ đóng vai trò trung tính và không có tác động kinh tế. Tiền tệ nhiều hn sẽ nh hưởng tới mức sn lượng với độ trễ khong 6 đến 9 tháng. Nhưng 6 đến 9 tháng sau đó, tiền tệ sẽ chỉ tác động đối với giá c. Do vậy, 12 đến 18 tháng sau khi có bất cứ sự gia tăng nào trong cung tiền, giá c sẽ bắt đầu tăng và lạm phát sẽ trở thành vấn đề. Trong khi các nhà kinh tế học thường phân biệt giữa lạm phát chi phí đẩy với lạm phát cầu kéo, Friedman đã lập luận rằng tất c lạm phát xuất phát từ việc cầu về hàng hoá quá nhiều, và rằng có cầu quá nhiều khi có quá nhiều tiền được tạo ra.
Vì lạm phát đối với Friedman chỉ đn thuần là hiện tượng tiền tệ, gii phát duy nhất cho vấn đề lạm phát là phi kiềm chế tăng trưởng cung tiền. Để đạt được mục tiêu này, Friedman đã đề xuất ngân hàng trung ưng buộc phi tăng cung tiền khong 3% đến 5% hàng năm, mức tăng trưởng thông thường của nền kinh tế Mỹ. Điều này sẽ cung cấp tiền tệ cần cho mua hàng hoá tăng thêm, nhưng không quá nhiều tiền đến mức nó sẽ gây ra lạm phát.
Friedman chỉ ra rằng các c quan tiền tệ đã gây ra suy thoái, lạm phát, và các kết qu kinh tế không đáng mong muốn khác do những chỉ dẫn sai trong qun lý cung tiền. Ông đổ lỗi cuộc Đại suy thoái cho Dự trữ liên bang, chỉ ra ban đầu họ thắt chặt cung tiền như thế nào vì họ sợ đầu c thị trường cổ phiếu, sau đó họ không làm gì từ năm 1930 đến 1931 khi những người gửi tiền đến ngân hàng để rút tiền, và cuối cùng họ tăng lãi suất khi nước Anh từ bỏ bn vị vàng vào tháng 9 năm 1931. Tất c những hành động này dẫn tới sự gim sút đột ngột trong cung tiền của Mỹ, làm gim chi tiêu, và gây ra suy thoái. Friedman lập luận rằng vì ngân hàng trung ưng không đáng tin cậy trong việc thực thi các chính sách thích hợp, nên ngân hàng trung ưng buộc phi đi theo quy luật tiền tệ hn là được phép liên tục qun lý sai lệch cung tiền.
Friedman cho rằng chính sách tiền tệ thường sai vì độ trễ kéo dài và biến động giữa các vấn đề kinh tế hiện tại và khi bất cứ thay đổi nào trong cung tiền sẽ nh hưởng tới nền kinh tế. Friedman xác định ra 3 độ trễ như vậy. Sẽ cần có thời gian cho ngân hàng trung ưng nhận ra rằng tồn tại vấn đề kinh tế. Sẽ mất thời gian để thay đổi thực sự cung tiền. Và sẽ cần có thời gian cho bất cứ thay đổi nào trong cung tiền nhằm nh hưởng tới nền kinh tế. Kết qu của những độ trễ này là chính sách tiền tệ ít có kh năng ở liều lượng thích hợp. Nó cũng không phi là chính sách hợp lý vì vào thời điểm bất cứ chính sách nào bắt đầu nh hưởng tới nền kinh tế thì vấn đề mà chính sách hướng tới rất có thể không còn tồn tại nữa.
Friedman cũng cho rằng c quan tiền tệ chịu nh hưởng không thích đáng từ c quan tài khoá và kho bạc quốc gia. Người đứng đầu ngân hàng nhà nước do người đứng đầu chính phủ bổ nhiệm và do c quan tư pháp chấp thuận. Bất cứ khi nào các quan chức nhà nước muốn mở rộng cung tiền và gây lạm phát đối với nền kinh tế thì ngân hàng trung ưng bao giờ cũng bị ri vào áp lực chính trị. Đến lúc đó gii pháp lại là cột chặt những người làm ngân hàng trung ưng và buộc họ tăng cung tiền khong 3% đến 5% hàng năm.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là một ý tưởng mà Friedman đưa ra trong bài diễn văn nhậm chức Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Mỹ. Ông cho rằng có một tỷ lệ thất nghiệp cân bằng trong nền kinh tế. Mọi người sẽ không phi luôn có việc làm. Sẽ luôn có một số người nằm giữa công việc, và những người mới gia nhập lực lượng lao động sẽ không tìm được công việc ngay. Friedman cho rằng tỷ lệ thất nghiệp cân bằng hay tự nhiên phụ thuộc vào những đặc điểm c cấu khác nhau của lực lượng lao động và thị trường lao động mà để cho một số người không có việc làm. Ví dụ những lợi ích có được do thất nghiệp và các chưng trình xã hội khác cho phép người ta có nhiều thời gian để tìm kiếm công việc hn. Có một người trong gia đình làm việc sẽ cho phép việc tìm kiếm công việc được lâu hn. Theo Friedman, bất cứ nỗ lực nào nhằm gim thất nghiệp dưới mức cân bằng hay tự nhiên chẳng bao lâu sẽ gây ra lạm phát gia tăng. Nhưng với giá c hàng hoá cao hn, người ta sẽ có thể mua được ít hn Khi chi tiêu gim, sn xuất và việc làm cũng sẽ như vậy. Điều này cuối cùng lại dẫn tới thu hẹp kinh tế và trở lại mức thất nghiệp tự nhiên.
Gi thuyết về thất nghiệp tự nhiên cũng thách thức một quan điểm rất quan trọng của kinh tế học Keynes - đó là sự tồn tại đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp hay đường cong Phillips. Friedmand cho rằng không có sự đánh đổi như vậy trong dài hạn. Những nỗ lực để gim thất nghiệp sẽ gây ra lạm phát cao hn, nhưng thất nghiệp luôn trở lại mức thất nghiệp tự nhiên. Do đó, về dài hạn, đường cong Phillips thực tế là một đường thẳng đứng tại mức thất nghiệp tự nhiên. Những nhà hoạch định chính sách chỉ làm được rất ít hoặc không làm được cái gì để gim được thất nghiệp mãi; nhưng trong ước muốn phù phiếm nhằm gim thất nghiệp, hõ sẽ chỉ làm tăng lạm phát.
Đưa luận điểm này tiến thêm một bước, Friedman công nhận rằng lạm phát cao hn sẽ làm cho tỷ lệ lạm phát biến động lớn hn và do đó dẫn tới sự bất trắc về kinh tế nhiều hn. Ông cho rằng điều này thậm chí có thể làm cho tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cao hn. Do đó không chỉ không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp mà chúng còn vận động với nhau theo cùng một hướng. Những nỗ lực của Keynes nhằm gim tỷ lệ thất nghiệp không chỉ sẽ không thực hiện được, và không chỉ góp phần gây ra lạm phát, mà chúng còn có thể có nh hưởng sai lầm làm tăng thất nghiệp. Do vậy Friedman cuối cùng đổ lỗi tình trạng đình trạng đình trệ và lạm phát cao trong những năm 1970 cho những ý tưởng sai lầm về chính sách kinh tế xuất phát từ kinh tế học Keynes.
Trong lĩnh vực quốc tế cũng như trong nước, Friedman đặt quan điểm của mình đối lập với quan điểm chính thống Keynes. Keynes như chúng ta đã biết, ủng hộ tỷ giá cố định hn là tỷ giá linh hoạt, và đm nhận việc thiết lập hệ thống tỷ giá cố định sau chiến tranh thế giới II. Ngược lại, Friedman lập luận rằng tỷ giá linh hoạt đáng được ưa thích hn tỷ giá cố định vì một số lý do. Thứ nhất, với tỷ giá cố định, các nước sẽ phi sử dụng chính sách tiền tệ để giữ cho tiền tệ quốc gia ở tỷ giá cố định của nó. Ngân hàng trung ưng sẽ buộc phi tạo ra quá nhiều tiền nhằm mua ngoại tệ và duy trì tỷ giá cố định. Ngược lại, tỷ giá th nổi cho phép c quan tiền tệ tập trung vào chính sách tiền tệ mà không phi lo về giá trị của bn tệ.
Thứ hai, Friedman lập luận rằng tỷ giá th nổi giúp thúc đẩy thưng mại giữa các quốc gia. Với tỷ giá cố định, những hạn chế thưng mại trở thành một phn ứng chung đối với các vấn đề thưng mại; với tỷ giá th nổi, tỷ giá điều chỉnh tự động nhằm phn ứng lại thâm hụt thưng mại.
Cuối cùng, tỷ giá linh hoạt làm cho lạm phát không bị xuất khẩu từ nước này sang nước khác. Trong chế độ tỷ giá cố định, các nước tri qua lạm phát sẽ mua nhiều hàng hoá nước ngoài hn vì nó rẻ hn. Điều này sẽ làm tăng chi tiêu cho hàng hoá ở nước khác và sẽ dẫn tới lạm phát gia tăng ở nước khác. Với tỷ giá linh hoạt, điều này sẽ không thể xy ra. Các nước tri qua lạm phát sẽ thấy đồng tiền của họ bị gim giá, và do đó hàng hoá nước ngoài sẽ không trở nên rẻ hn chút nào.
Ngoài những đóng góp này trong kinh tế học vĩ mô, Friedman đã có một vài đóng góp quan trọng khác trong kinh tế học. Ông có tham gia vào một trong số hai cuộc tranh luận quan trọng về phưng pháp luận hay mang tính triết học trong lịch sử kinh tế học. Một chỉ trích thường thấy đối với các nhà kinh tế học đó là họ luôn đưa ra các gi thuyết không thực tế khi nghiên cứu nền kinh tế. Và một câu chuyện vui về các nhà kinh tế học được mọi người ưa thích liên quan đến một vài người làm nghề khác nhau bị mắc kẹt trong một hòn đo hoang với nhiều đồ hộp, nhưng không có cách để mở. Sau khi tất c mọi người không thể sử dụng bí quyết nghề nghiệp của họ để mở hộp, nhà kinh tế học đã dũng cm bước ra nói:” hãy gi thuyết rằng chúng ta có một dụng cụ mở hộp”.
Trong một bài viết gây tranh luận, Friedman bo vệ phưng pháp luận này và lập luận rằng hiện thực hoá các gi thuyết không quan trọng trong phân tích khoa học. Theo Friedman thì tất c lý thuyết đều liên quan tới trừu tượng, và do vậy theo một nghĩa nào đó thì tất c các gi thuyết của lý thuyết phi không mang tính hiện thực. Theo ông điều quan trọng duy nhất đó là liệu các gợi ý về chính sách có đúng hay không; nghĩa là liệu lý thuyết có đưa ra được dự đoán đúng hay không. Nếu lý thuyết được dữ liệu ủng hộ thì không quan trọng là liệu các gi thuyết của lý thuyết có hoàn toàn chính xác không. Tuy nhiên nếu dữ liệu không hợp với lý thuyết thì lý thuyết phi bị loại bỏ thậm chí nó sử dụng các gi thuyết hiện thực. Mặc dù nhiều nhà kinh tế đã phn đối điều này nhưng Boland đã lập luận một cách thuyết phục rằng Friedman đã đúng khi tranh luận rằng lý thuyết có nghĩa là công cụ và các gi thuyết kinh tế có thể không thực tế miễn là chúng vận động đúng và giúp dự đoán hoạt động kinh tế.
Như đã đề cập ban đầu, tác phẩm của Friedman không chỉ hướng vào các nhà kinh tế học theo ông. Ông cũng đã viết rất nhiều cho đối tượng độc gi rộng hn. Tác phẩm này đã ủng hộ tự do cá nhân và chống lại tất c những dạng can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Friedman lập luận rằng chủ nghĩa tư bn là hệ thống kinh tế tốt nhất vì nó thúc đẩy tự do chính trị, và vì thị trường có thể giúp đánh đổi quyền lực chính trị.
Các bài viết được biết đến rộng rãi hn của Friedman cũng có một thiên hướng chính sách rõ ràng. Ông đã phn đối tất c các chưng trình của nhà nước gây ra phiền toái cho quyết định cá nhân. Friedman đã lập luận phn đối kiểm soát giá c và tiền lưng, phn đối luật về tiền lưng tối thiểu, an ninh xã hội ( vì nó phá vỡ gắn kết gia đình và thực sự chuyển nhượng từ người ít giàu có hn sang người giàu có, người có xu hướng sống lâu hn và do đó nhận được phúc lợi lâu hn), và phn đối hỗ trợ của nhà nước đối với giáo dục đại học ( vì tiền chủ yếu mang lại lợi ích cho người giàu). Tuy nhiên, ông đã ủng hộ quân đội tình nguyện và ủng hộ rằng tất c ông bố bà mẹ được trao phiếu được tr tiền và cho phép chọn trường học để gửi con cái họ.
Milton Friedman là một nhà kinh tế học hiếm hoi đã bao trùm hai lĩnh vực rất khác nhau. Một mặt ông được coi là người khổng lồ trong ngành kinh tế học, và là một trong hai hay ba hình tượng kinh tế được sùng bái và đề cập đến nhiều nhất trong thế kỷ 20. Tác phẩm về lĩnh vực này đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tiền và thị trường trong việc nâng cao phồn vinh kinh tế. Cùng lúc đó Friedman đã viết rất nhiều về công chúng. Tác phẩm về vấn đề này nhấn mạnh tầm quan trọng của quyết định cá nhân và tự do, và đã làm cho Friedman trở thành một trong hai hay ba nhà kinh tế nổi tiếng nhất trong cuối thế kỷ 20.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Anh Tuấn à, mấy bài này hay quá k0 biết anh lấy từ nguồn nào vậy?
Mà em thấy toàn các nhà kinh tế lạ quá. Anh có biết nhà kinh tế nào gây nhiều ảnh hưởng đến khu vực châu Á và Đông Nam Á k0?

Em thấy mấy thuyết kinh tế rất fức tạp, nhất là về fát triển với lạm fát, thất nghiệp:oops:

Anh có thể giải thích thêm 1 số thuật ngữ trong bài posts được k0?
 
Tư liệu trên đây là do anh lấy từ trong thư viện của trường anh, cuốn "50 nhà kinh tế học". Cuốn này do nhà xuất bản bên Anh sản xuất. Anh và 2 thằng bạn nữa thấy hay nên quyết định dịch cuốn sách này sau đó nhờ xuất bản và hiện đã liên hệ được nguồn xuất bản ở Việt nam, và sẽ in ra trong nay mai. Em cứ chờ mà mua không phải tìm nguồn nữa đâu:D
Thực ra 50 ông anh định post lên đây là hay vì các ông này xây dựng đựoc hết các lý thuyết kinh tế học mà chúng ta học ở 2 cuốn vi mô và vĩ mô ở truờng, có điều nhiều khi ta học của các ông ấy mà ta không biết.
Em thấy lạ là vì anh chưa post hết đó thôi, sẽ có rắt nhiều ông quen, mà 2 ông cuối cũng quen đấy chứ, Friedmen và Samuelson là rất quen đúng không?
Anh ở nhà dịch bằng font .Vntime nên khi đổi font có một số chữ không đuợc hiện đúng, bọn em đọc thông cảm nhé :)
 
Anh làm kinh tế giỏi thật đấy cần gì học nữa nhỉ:D :D ?
Thôi anh cho em biết tên cả 50 ông ấy được k0? Cám ơn nhiều:)
 
Hay thiệt đó anh Tuấn ơi, thế anh có ý tưởng tuyệt chiêu nào về xây dựng kinh tế VN không? Cho bọn em nghe dùm với!!!!
 
To bác Tuấn : Nếu dịch sách của nước ngoài để nguyên xì xì như của nó cũng chả sao, nhưng nếu cho thêm một vài dòng thêm thắt cũng chả sao. Ví dụ: Milton Friedman còn là cố vấn kinh tế chính cho tên độc tài Pinoche ;)
 
Quên mất, em thì chửa đọc hết, nhưng anh mà có mấy cái ảnh của các ông ấy mà post lên thì nhất...tưởng tượng ra các bác là cứ phải visualize...thế này khó bỏ xừ
 
Em hỏi vài câu. Hình như có cả 1 thế hệ bao nhiêu nhà kinh tế nổi tiếng toàn ở Anh thời của Keynes phải không ạ? Pigou cũng là người Anh đúng không ạ? Còn ai nữa nhỉ?

John Hicks có phải là cái ông đưa ra khái niệm Hicksian Demand không ạ?

To anh TMTuan: Còn nhớ em không? Sao anh ở VN luôn rồi à? Bài này anh viết nghiêm túc lạ thường :)
 
Tiếp nhá, bà con mệt với những cái này chưa. Cái này post lên đọc cho đỡ buồn. Hehe mà đọc cũng in ít thôi không có đọc xong lại chán chẳng muốn học ktế nữa

Joan Robinson ( 1903 – 1983)
robinson2.jpg

Joan Robinson đã đóng góp chủ yếu vào hai lĩnh vực kinh tế học. Khi mới bắt đầu, bà tập trung sự chú ý chủ yếu vào các dạng thị trường giữa cạnh tranh hoàn ho và độc quyền. Sau này bà đã thường xuyên bo vệ và mở rộng các lý thuyết của Keynes, và trở thành một trong những người sáng lập ra kinh tế học hậu Keynes.
Robinson sinh năm 1903 ở vùng Surrey, nước Anh. Gia đình bà thuộc tầng lớp thượng lưu và đã dành nhiều tiền cho việc học hành và tạo điều kiện cho suy nghĩ độc lập của con cái. Cha bà là một đại tướng quân đội, một nhà văn, và vào cuối đời, làm hiệu trưởng của một trong số những trường học hình thành lên Đại học London. Mẹ bà là con gái của một giáo sư trường Đại học Cambridge. Robinson theo học ở trường St Paul, một trường nổi tiếng ở London dành cho con gái, tại đó bà nghiên cứu lịch sử; sau đó bà vào học tại trường Girton, thuộc Đại học Cambridge, tại đây bà nghiên cứu kinh tế học. Bà trở nên quan tâm tới kinh tế học để biết được tại sao nghèo đói và thất nghiệp lại tồn tại trên thế giới, và vì bà nghĩ rằng kinh tế học có thể gii quyết được những vấn đề này.
Trừ một ít năm sinh sống ở ấn độ cùng với chồng ( nhà kinh tế học Austin Robinson), bà đã dành suốt thời gian dài khong 50 năm sau khi tốt nghiệp vào năm 1925 để dạy và ging tại trường Cambridge. Tuy nhiên vì là phụ nữ nên mãi đến năm 1948 bà mới trở thành thành viên đầy đủ của trường Cambridge.
Trong những năm 1930, Robinson là một người tích cực tham gia vào nhóm “Cambridge”, một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học giúp Keynes phát triển “Lý thuyết tổng quát”. Sau đó bà đã giúp bo vệ Keynes khỏi nhiều chỉ trích và mở rộng những tư tưởng của Keynes. Vào năm 1974, Robinson làm Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế học Mỹ, trở thành người nữ chủ tịch đầu tiên, và là một trong số rất ít các chủ tịch không phi là người Mỹ. Bà là người phụ nữ đầu tiên được liệt vao danh sách những người ứng cử gin Nobel kinh tế.
Khi mới tốt nghiệp đại học, Robinson nghiên cứu Các nguyên lý kinh tế học của Marshall, một cuốn sách ging dạy chuẩn thời đó. Điều mà bà đặc biệt thấy không hài lòng là kết luận của cuốn sách này – nó nói rằng người sn xuất và tiêu dùng cùng tối đa hoá lợi ích của mình. Kết luận này dường như không phù hợp với thực tế nền kinh tế Anh trong những năm 1920, bị tình trạng thất nghiệp cao và các ngành hoạt động ở mức công suất thấp. Robinson cũng không hài lòng với thực tế rằng Marshall và các nhà kinh tế học khác đã chỉ tập trung vào hai dạng thái cực của ngành – cạnh tranh hoàn ho và độc quyền. Bà nghĩ rằng thế giới thực tế nằm giữa hai thái cực này. Tác phẩm Kinh tế học cạnh tranh không hoàn ho đã phân tích các ngành nằm giữa cạnh tranh rất hoàn ho với nhiều hãng nhỏ và một ngành chỉ có một hãng. Để gii thích việc hãng đưa ra quyết định, Robinson đã sử dụng khái niệm doanh thu cận biên , doanh thu có thêm được khi hãng sn xuất thêm 1 sn phẩm. Đối với các hãng cạnh tranh, doanh thu biên sẽ bằng với giá bán, vì các hãng luôn có thể bán nhiều hàng hoá hn mà không phi hạ thấp giá bán. Nhưng trong cạnh tranh không hoàn ho, các hãng phi đối mặt với đường doanh thu biên dốc xuống. Để bán được nhiều hn, hàng hoá phi gim giá; nhưng khi hàng bán hàng thì một số khách hàng sẽ tr ít hn trong trường hợp đáng ra họ phi tr. Hãng bị mất doanh thu. Tính đến c giá c thấp hn và doanh thu nhiều hn, hãng phi cắt gim giá để bán nhiều hn nhưng không nhận được thêm doanh thu( ví dụ doanh thu biên từ việc bán thêm hàng hoá sẽ bằng không hoặc âm). Ngược lại, các hãng có thể nhận được doanh thu nhiều hn nếu họ tăng giá, sn xuất và bán ít hn.
Bằng việc chỉ ra rằng làm tăng giá và sn xuất ít đi có thể tạo ra thêm doanh thu cho các hãng lớn, Robinson có thể gii thích tại sao cạnh tranh không hoàn ho lại được đặc trưng bởi sn xuất không đủ và nguồn lực không được tận dụng hết. Do vậy cạnh tranh không hoàn ho có thể gii thích mức thất nghiệp cao lan tràn ở Anh trong những năm 1920 và trong suốt thời kỳ Đại suy thoái vào những năm 1930 ( trong khi đó thì lý thuyết cạnh tranh hoàn ho không thể gii thích điều đó).
Kinh tế học cạnh tranh không hoàn ho cũng đã chỉ ra rằng trong cạnh tranh không hoàn ho, công nhân nhận được mức lưng thấp hn giá trị cái mà họ sn xuất ra. Kết qu là năng suất cận biên không còn đúng trong cạnh tranh không hoàn ho. Với cạnh tranh không hoàn ho, công nhân bị bóc lột bởi các người chủ đầy quyền lực. Để gii thích được điểm này, Robinson đã phát triển khái niệm độc quyền mua, trường hợp trong đó chỉ có một người chủ duy nhất trong một khu vực điạ lý nhất định hoặc một người chủ với rất nhiều người công nhân với những kỹ năng nhất định. Khi chỉ có một người chủ duy nhất, và với nhiều người tìm kiếm việc làm, khi đó người lao động sẽ bị ở thế bất lợi. Họ buộc phi chấp nhận mức lưng do người chủ duy nhất đưa ra. Robinson nhận thấy rằng thế giới không gồm có thị trường lao động độc quyền nữa, mà gồm các thị trường độc quyền sn phẩm. Tuy nhiên khái niệm độc quyền mua giúp hướng chú ý tới yếu tố quyết định mức lưng; đó là quá trình tho thuận và bóc lột công nhân do họ không có quyền tho thuận đối với một số ít hãng lớn.
Một đóng góp quan trọng khác trong kinh tế học cạnh tranh không hoàn ho đó là phân tích tình trạng phân biệt giá c. Các nhà kinh tế học biết rằng các hãng lớn có sức mạnh độc quyền đặt giá khác nhau đối với những người khác nhau, nhưng Robinson là người đầu tiên gii thích các nguyên lý và kết qu của điều đó. Robinson chỉ ra rằng phân biệt giá c chỉ có thể đối với tình trạng độc quyền hoặc cạnh tranh không hoàn ho. Thông qua phân biệt giá, các hãng độc quyền có thể tăng doanh thu và lợi nhuận của mình.
Để thực hiện phân biệt giá c, các hãng cần phân đoạn thị trường sn phẩm của họ thành hai phần – những người tiêu dùng bằng lòng và có thể tr giá cao và những người tiêu dùng nhậy cm về giá. Sau đó hãng cần có một cách thức nào đó để đặt giá cao đối với nhóm đầu. Một cách để làm điều này là đặt giá khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong ngày. Do đó, các công ty điện thoại đưa ra mức giá thấp hn vào buổi tối và cuối tuần. Người kinh doanh nói chung không nhạy cm với giá, sẽ tr mức giá ngày cao hn; và các cá nhân thì tr mức giá gim. Các phiếu chiết khấu cũng giúp cho việc phân đoạn thị trường và cho phép phân biệt giá c. Những người có ý thức về giá c sẽ nhận phiếu gim giá và mua hàng với mức giá thấp hn, còn những người không chú ý sẽ phi tr giá đầy đủ. Tưng tự như vậy, thực hiện định giá thông qua mặc c, như trong mua bán ôtô, sẽ dẫn tới việc phân biệt giá c. ở đây, người mặc c giá, không bằng lòng tr giá cao hn, sẽ mua xe với giá thấp hn so với người không muốn mặc c về giá lâu.
Một thế giới kinh tế được đặc trưng bởi cạnh tranh không hoàn ho cũng dẫn tới lý thuyết mới về phân biệt giá c, một luận điểm do Robinson đưa ra và sau đó được phát triển bởi các nhà kinh tế học hậu Keynes. Trong thị trường cạnh tranh, các hãng đều là những người chấp nhận giá. Họ phi đặt mức giá bằng với mức giá của thị trường và các hãng khác trong ngành. Tuy nhiên, với cạnh tranh không hoàn ho, người sn xuất định giá, họ cộng phần lợi nhuận vào chi phí c sở của họ. Ngành cạnh tranh càng ít thì lợi nhuận sẽ càng lớn.
Mặc dù có nhiều bước tiến trong Kinh tế học cạnh tranh không hoàn ho nhưng Robinson ngày càng không hài lòng với nó ngay khi bà vừa viết xong. Sự không hài lòng xuất phát từ nhiều vấn đề bà nhận thấy trong phân tích kinh tế học vi mô. Trên phưng diện lý thuyết, Robinson phát hiện ra các vấn đề logic trong phân tích cung cầu. Về mặt thực tế, cuộc Đại suy thoái và tác phẩm của Keynes làm cho bà không còn quan tâm tới các quyết định về giá và sn lượng của các hãng.
Một vấn đề trong phân tích cung cầu theo Robinson đó là nó đã không tính tới yếu tố thời gian và kỳ vọng; thay vì vậy, một khái niệm không liên quan tới thời gian, khái niệm “cân bằng”, đã được đặt ở vị trí trung tâm. Robinson nghĩ rằng khái niệm ổn định trong phân tích cân bằng là không phù hợp đối với nguyên lý như kinh tế học mà nó liên quan tới các nền kinh tế tăng trưởng và luôn thay đổi. Ngược lại với lý thuyết kinh tế học chuẩn mực, người tiêu dùng và các hãng kinh doanh không phn ứng với giá c hiện hành theo cách chuyển nền kinh tế tới một mức giá cân bằng. Thay vì thế, người tiêu dùng và các hãng kinh doanh phn ứng với giá c hiện tại dựa trên c sở mức giá mà họ nghĩ trong tưng lai. Hn thế nữa, giá c thay đổi có thể làm thay đổi kỳ vọng. Giá c thấp hn có thể dẫn tới kỳ vọng về mức giá c sẽ thậm chí thấp hn trong tưng lai, điều đó làm cho người tiêu dùng ít muốn mua hàng hoá nào đó mặc dù giá c của hàng hoá đó gim mạnh. Trong những tình huống đó, sẽ không có cân bằng giá c, hay thị trường cân bằng; và phân tích cung cầu không thể làm sáng tỏ điều gì đang thực tế diễn ra. Để hiểu được những nền kinh tế thực tế, cần phi có một định hướng lý thuyết mới; nó sẽ tập trung vào xem xét giá c sẽ thay đổi thế nào qua thời gian thay vì vào việc xem giá c chuyển tới giá cân bằng hiện tại như thế nào.
Một vấn đề thứ hai trong phân tích cung cầu mà Robinson quan tâm đó là về bn chất của vốn. Robinson bắt đầu bằng cái gọi là Luận chiến Cambridge , mà trong đó bà chỉ trích lý thuyết phân phối của trường phái cận biên. Theo lý thuyết này, tỷ lệ lợi nhuận do năng suất cận biên của vốn quyết định. Vấn đề mà Robinson đưa ra là làm thế nào để đo lường vốn để tìm ra sn phẩm cận biên. Vấn đề khá đn gin và bình thường này đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi giưã Cambridge, Anh và Cambridge, Massachusetts về kh năng đo lường vốn khi không biết về tỷ lệ lợi nhuận.
Robinson chỉ ra rằng lý thuyết phân phối năng suất cận biên đòi hỏi chúng ta phi biết cầu về vốn để đo lường năng suất cận biên. Xây dựng những đường cầu như vậy đòi hỏi phi đặt mối quan hệ tỷ lệ lợi nhuận với lượng vốn. Vấn đề là vốn thì không phi là một cái gì đó thuần nhất ( như công nhân) mà có thể dễ dàng đo đếm. Vốn bao gồm các nhà máy lớn và nhà máy nhỏ, các dây truyền lắp ráp, búa và tuốclvít, máy tính và phần mềm. Những hàng hoá này không có cái gì chung mà có thể sử dụng để tìm ra “ số lượng” vốn; nên cần phi sử dụng một cách tiếp cận khác.
Cách thức truyền thống để đo lường vốn là đo lường giá trị của vốn, hay kh năng sinh lời trong tưng lai. Cách này phù hợp khi đó là vấn đề thực tế hoặc để hạch toán, nhưng không phù hợp khi một phần lý thuyết đó gii thích cái gì quyết định tỷ lệ lợi nhuận. Như Robinson chỉ ra, nếu lý thuyết kinh tế là để gii thích tỷ lệ lợi nhuận thì nó không thể gi định biết được kh năng sinh lời của vốn để đo lường số lượng vốn. Do vậy, đây là vòng luẩn quẩn; cần phi bỏ đi lý thuyết phân phối năng suất cận biên.
Trỉ chích của Robinson đối với lý thuyết kinh tế học vi mô cũng đã ủng hộ cách tiếp cận kinh tế học vĩ mô của Keynes. Nếu chúng ta không coi năng suất cận biên là lý thuyết phân phối thì cung và cầu lao động sẽ không quyết định mức lưng và công ăn việc làm. Chúng ta không còn lý do hợp lý để tin rằng thất nghiệp sẽ biến mất khi mức lưng hạ xuống. Tưng tự như vậy, nếu khái niệm cân bằng không có ích trong phân tích các nền kinh tế thực tế thì sẽ không có lý do để gi thuyết rằng thị trường lao động sẽ cân bằng tại mức công ăn việc làm đầy đủ.
Robinson cũng đã có đóng góp tích cực trong mở rộng kinh tế học Keynes trên phạm vi quốc tế. Về mặt truyền thống, các nhà kinh tế học cho rằng thay đổi trong tỷ giá hay luồng tiền sẽ xoá đi những mất cân bằng trong thưng mại. Những nước có thặng dư thưng mại sẽ gặp phi tình trạng luồng tiển đổ vào trong nước hay lên giá đồng tiền. Điều này làm cho hàng hoá của họ trở nên đắt đỏ hn đối với công dân của nước khác và làm gim xuất khẩu. Những nước có thâm hụt thưng mại sẽ tri qua tình trạng thay đổi ngược lại – hàng hoá của họ ít đắt đỏ hn ở nước ngoài và họ xuất khẩu nhiều hàng hoá hn. Do vậy, theo lý thuyết kinh tế học truyền thống, giá c thay đổi sẽ làm cho thưng mại trở nên cân bằng.
Ngược lại với quan điểm truyền thống này, Robinson lập luận rằng có một c chế điều chỉnh Keynes. Vấn đề thưng mại sẽ được giaỉ quyết thông qua thay đổi thu nhập thay vì qua thay đổi giá c tưng đối. Các nước có thâm hụt thưng mại không bán đủ hàng hoá cho thế giới. Kết qu là sn xuất sẽ gim và thất nghiệp tăng. Do vậy, người dân của nước này mua ít hàng hoá và dịch vụ hn từ nước ngoài và thâm hụt thưng mại sẽ tiến tới vị trí cân bằng. Nhưng điều này nh hưởng tới các nước thặng dư, những nước này hiện giờ cầu về hàng hoá mà họ sn xuất ra gim xuống. Thặng dư thưng mại sẽ gim nhưng thất nghiệp sẽ tăng lên.
Robinson mở rộng lý thuyết của Keynes bằng cách xem xét thưng mại quốc tế trong trạng thái động, hay cán cân thưng mại thay đổi như thế nào qua thời gian. Thay vì nhìn nhận thưng mại quốc tế là cách tốt nhất đối với các nước để phân chia nhiệm vụ sn xuất các hàng hoá khác nhau, Robinson coi ngoại thưng là một phần trong chiến lược tăng trưởng quốc gia. Thặng dư thưng mại, đặc biệt khi đạt được thông qua chuyên môn hoá trong các ngành chế tạo, sẽ làm tăng tỷ lệ lợi nhuận trong nước và nâng cao mức đầu tư và ci tiến công nghệ. Đến lượt nó, điều này, sẽ tạo ra công ăn việc làm trong nước nhiều hn và làm tăng thu nhập. Do vậy, thặng dư thưng mại có thể dẫn tới nâng cao năng suất và mức sống trong dài hạn. Bằng cách cố gắng tạo ra thặng dư thưng mại, chính sách thưng mại trở thành một trong những công cụ mà chính phủ có thể sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kinh tế học của Joan Robinson luôn quan tâm tới vấn đề thực tế. Nhưng nó cũng chỉ trích các lý thuyết kinh tế học đã được chấp nhận mà không mang tính thực tiễn hay đáng được hoan nghênh. Phân tích cạnh tranh không hoàn ho của bà xem xét các hãng lớn thực sự đưa ra các quyết định về giá c,sn xuất và công ăn việc làm như thế nào. Những đóng góp của bà trong kinh tế học vĩ mô hậu Keynes và lý thuyết thưng mại quốc tế cũng giữ vai trò quan trọng trong việc giúp các nhà kinh tế học hiểu được nền kinh tế thực vận hành như thế nào.
Kinh tế học luôn là một ngành mà đa phần đều là nam giới. Kinh tế học lại có một tỷ lệ nữ giới tốt nghiệp đại học và là tiến sỹ nhỏ hn so với ngành toán học hay khoa học tự nhiên. Trong số đó thì Joan Robinson nổi lên là một nhà kinh tế học nữ xuất chúng nhất.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Friedrich Hayek (1899 – 1992)
hayek.gif

Friedrich Hayek được biết đến như là người chiến thắng về thị trường tự do và là người phn đối sự can thiệp của chính phủ trong quyền của các cá nhân tham gia trao đổi tự do thông qua thị trường. Tác phẩm của ông đã đưa ra c sở chặt chẽ rằng lựa chọn cá nhân, hn là việc chính phủ ra quyết định, sẽ tạo ra c những lợi ích kinh tế (hiệu qu lớn hn) và lợi ích phi kinh tế ( gii phóng và tự do nhiều hn).
Hayek sinh năm 1899 tại Vienna. Ông của Hayek là bạn của nhà kinh tế học người áo Bohm – Bawerk, cha ông là bác sỹ và sau đó trở thành Giáo sư Botany tại trường Đại học Vienna Trong suốt thời kỳ chiến tranh thế giới I, Hayek phục vụ trong quân đội áo trên mặt trận Italia. Trở về sau chiến tranh, ông tham gia học tại trường Đại học Vienna và đạt được 2 bằng tiến sĩ, một về luật và một về khoa học chính trị.
Ludwig von Mises, Viện trưởng viện nghiên cứu kinh tế áo đã tuyển dụng ông. Vào năm 1927, ông đã bổ nhiệm Hayek làm Giám đốc của viện. Bốn năm sau, Lionel Robbins mời Hayek làm Giáo sư kinh tế và thống kê tại trường kinh tế Luân đôn nhằm truyền bá tư tưởng kinh tế từ lục địa châu Âu sang Anh quốc.
Sau khi xuất bn cuốn Con đường đến tự do vào năm Hayek trở thành một nhà lý thuyết xã hội nổi tiếng thế giới. Ông nhận được rất nhiều lời mời dạy và sau đó ông đã đồng ý ging dạy tại trường Đại học Chicago vào năm 1950. Ông nghỉ hưu vào năm 1962 và quay trở về châu Âu, tham gia ging dạy tại trường Đại học Freiburg. Vào năm 1974, Hayek cùng với Gunnar Myrdal đã đoạt gi Nobel về kinh tế học. Uỷ ban đã chọn cách thức đầu tiên của Hayek trong việc ủng hộ các quan điểm chính trị trong công bố gii thưởng.
Trong sự nghiệp ban đầu ( vào những năm 1930 ) Hayek đã có những đóng góp trong lý thuyết tiền tệ và chu kỳ kinh doanh. Sau đó ông bắt đầu tập trung vào các vấn đề lạm phát và thất nghiệp. Vào những năm 1940, Hayek đã phê phán kịch liệt quan điểm về kế hoạch nhà nước và sự can thiệp toàn diện của chính phủ trong nền kinh tế. Ông đổ lỗi cho chính phủ trong việc gây các vấn đề kinh tế và làm cho các vấn đề kinh tế tồi tệ thêm do việc can thiệp vào nền kinh tế thị trường.
Trong cuốn sách quan trọng đầu tiên của mình, ông đã xem xét vai trò của tiền tệ trong mở rộng và thu hẹp nền kinh tế. Tác phẩm này đã cố gắng phát triển và gii thích những động thái trong giá c và lãi suất của Wicksell. Hayek đã lập luận rằng các nhân tố tiền tệ là điều kiện cần cho chu kỳ kinh doanh nhưng thay đổi cung tiền không đủ để gây ra những thay đổi sn lượng. Những thay đổi trong giá tưng đối cũng cần thiết để gii thích chu kỳ kinh doanh.
Tiếp theo sau Bohm – Bawerk, Hayek tin rằng các nền kinh tế tư bn chủ nghĩa sn xuất ra hàng hoá theo một phưng thức gián tiếp hn. Khong thời gian cần có để đưa hàng hoá đến thị trường liên tục tăng vì máy móc và công cụ phi được phát triển trước khi chúng có thể được sử dụng trong sn xuất hàng hoá và dịch vụ.
Khi ngân hàng tạo ra tiền nhưng không có thêm tiết kiệm, khi đó cầu về hàng hoá tiêu dùng lập lức nhiều hn. Điều này sẽ làm tăng giá của hàng hoá tiêu dùng so với các hàng hoá khác. Các nhà kinh doanh, trong khi cố gắng đáp ứng nhu cầu này, sẽ áp dụng phưng thức sn xuất ít gián tiếp hn. Nhưng chỉ sau khi giá c bắt đầu tăng, lãi suất sẽ phi tăng để ngân hàng không mắc phi khon lỗ lớn khi khon vay trong quá khứ của họ được hoàn tr có thể chỉ mua được ít hn so với khi họ cho vay. Đến lượt nó, lãi suất cao hn sẽ làm chậm việc tiêu dùng của khách hàng. Các ngành sn xuất hàng tiêu dùng sẽ trở đình trệ và sa thi công nhân. Lúc này thặng dư trong quá khứ bắt đầu làm cho họ bị thiệt hại. Không thể sn xuất thêm hàng hoá đầu tư có nghĩa rằng các hãng sn xuất hàng hoá đầu tư không thể hấp thụ được lao động không cần thiết cho sn xuất hàng tiêu dùng.
Cách phân tích này về những nguyên nhân của thất nghiệp khác với Keynes. Đối với Hayek, không phi vì thiếu cầu mà gây ra vấn đề thất nghiệp; thay vì thế, thất nghiệp xuất phát từ c cấu của cầu, hay cầu không đúng đối với các loại hàng hoá ( hàng hoá tiêu dùng thay vì hàng hoá đầu tư). Nó chỉ có thể được chữa trị bằng cách gim cầu tiêu dùng để có thêm tiết kiệm cho đầu tư kinh doanh, có thể áp dụng được những dây chuyền sn xuất dài hn.
Vì lý do này, Hayek đã phn đối những cố gắng sử dụng chính sách mở rộng của Keynes đối với việc gii quyết vấn đề thất nghiệp trong thời kỳ Đại suy thoái. Ông phn đối việc kích cầu tiêu dùng, mở rộng các dự án công trình công cộng, hay đẩy giá c lên. Và ông lập luận rằng những chính sách này của Keynes có thể làm cho một cuộc suy thoái nhẹ thành một cuộc đại suy thoái kéo dài. Ngoài ra, do việc gây ra lạm phát, các chính sách của Keynes cuối cùng sẽ làm cho nền kinh tế bị tổn hại.
Hayek chỉ ra một vài hậu qu tai hại của lạm phát. Trước hết, đối với Hayek, một trong những đặc trưng quan trọng nhất của hệ thống thị trường đó là nó cung cấp thông tin. Giá c sẽ mách bo người tiêu dùng loại hàng hoá nào ít đòi hỏi nỗ lực và nguồn lực hn để sn xuất ra; giá c cũng mách bo các nhà kinh doanh loại đầu vào và phưng tiện sn xuất nào có chi phí thấp nhất. Lạm phát làm chệch hướng tín hiệu các chức năng này của giá c. Khi tất c các loại giá c đều liên tục tăng, khi đó rất khó có thể biết rằng sn xuất loại hàng hoá nào thì rẻ hn và cách thức rẻ nhất để sn xuất ra những hàng hoá này. Kết qu là lạm phát làm chệch hướng nền kinh tế do việc chuyển nguồn lực sang ni mà đáng nhẽ không nên sử dụng( các hoạt động không hiệu qu và không được mong muốn). Điều này làm gim hiệu qu kinh tế và do đó là mức sống của quốc gia. Thứ hai là bằng việc làm cho tiêu dùng nhiều hn để đẩy giá c lên, hàng hoá tiêu dùng sẽ được sn xuất nhiều hn và các nhà kinh doanh áp dụng các phưng thức sn xuất ít vòng vo hn. Điều này cũng làm gim tăng trưởng kinh tế.
Trong khi phn đối lạm phát, Hayek thậm chí lại phn đối c việc áp dụng chính sách thu nhập làm công cụ để ngăn chặn lạm phát. Ông nhìn nhận đây như là một bước thụt lùi quay lại nhà nước độc đoán. Ngoài ra, các chính sách thu nhập, giống như chính sách lạm phát, làm hỏng chức năng thông tin của giá c. Cuối cùng, Hayek nhìn nhận chính sách thu nhập như là việc đã quên đi nguyên nhân thực của lạm phát - đó là quá nhiều tiền. Vì lạm phát xuất phát từ việc có quá nhiều tiền, nên phi làm gim việc tạo ra tiền để loại trừ lạm phát. Hayek lập luận, việc tạo ra dư thừa tiền là do độc quyền của chính phủ trong việc in và phát hành tiền. Theo Hayek, kiểm soát độc quyền đối với việc phát hành tiền của chính phủ sẽ dẫn tới lạm phát vì hai lý do. Thứ nhất, chính phủ luôn bị kích thích in thêm tiền để trang tri cho chi tiêu của mình,. Thứ hai, chính phủ bị hấp dẫn trong việc in tiền và tạo ra lạm phát đề hoàn tr số tiền đi vay bằng tiền có giá trị thấp hn rất nhiều vì nó có thể mua được ít hàng hoá hn.
Để ngăn chặn chính phủ gây ra lạm phát một cách tuỳ tiện, Hayek đề xuất cho phép các hãng tư nhân phát hành tiền của chính họ. Mọi người và các hãng kinh doanh chọn nắm giữ các đồng tiền này mà họ kỳ vọng dễ được chấp nhận bời người khác và ít có kh năng bị gim giá trị. Hayek cm thấy tiền do tư nhân phát hành sẽ kiểm soát được lạm phát vì nó giữ cho xu hướng lạm phát của chính phủ trong tầm kiểm soát. Cũng tưng tự như vậy, những người phát hành tiền tư nhân sẽ quan tâm tới danh tiếng và giá trị của tiền mà họ tạo ra. Hayek nghĩ rằng kết qu là họ sẽ không có xu hướng phát hành quá nhiều tiền.
Lập luận cho rằng những vấn đề kinh tế ny sinh do sự can thiệp của chính phủ trở thành một chủ đề nổi bật trong kinh tế học của Hayek từ những năm 1940. Ông liên tục dựa vào những tư tưởng triết học và tâm lý học khi đưa ra các lập luận phn bác lại sự can thiệp của chính phủ vào các vấn đề kinh tế. Ông nhấn mạnh rằng cá nhân hay tổ chức bị giới hạn nhất định về hiểu biết của mình, cũng như là lý trí của con người cũng có giới hạn. Người ta có thể hiểu các quan hệ kinh tế nói chung nhưng không thể hiểu được chính xác những quan hệ đó vận hành vào bất cứ thời gian nào. Hayek cũng nhấn mạnh rằng khoa học xã hội về c bn khác với khoa học tự nhiên. Người ta không tuân theo các quy luật tâm lý hay kinh tế theo cách mà vật chất tuân theo quy luật vật lý, và do đó tất c nỗ lực để kiểm soát xã hội theo cách mà khoa học kiểm soát môi trường là không thể được. C hai lý lẽ này đều có gợi ý đối với kinh tế học, mỗi lý lẽ đều ủng hộ lập luận của Hayek chống lại sự can thiệp của chính phủ vào các vấn đề kinh tế.
Một lập luận ủng hộ kế hoạch hoá kinh tế trong những năm 1930 và 1940 là những nhà lập kế hoạch có thể phác ra cung và cầu của tất c các hàng hoá trong nền kinh tế và điều khiển giá tưng ứng. Tiến xa hn nữa, một số nhà kinh tế học lập luận rằng vì nền kinh tế khá phức tạp, các nhà lập kế hoạch với mô hình toán học chuẩn có thể thực hiện tốt hn thị trường trong việc xác lập giá c. Những người khác lập luận rằng khi các hãng kinh doanh trở nên lớn hn và độc quyền hn, kế hoạch của chính phủ cần phi có để ngăn chặn sức mạnh này.
Hayek đã lật lại những lập luận này. Đối với Hayek, sự phức tạp của nền kinh tế có nghĩa rằng bất cứ một người nào cũng không thể hiểu được những vận hành của toàn bộ nền kinh tế. Kết qu là các nhà lập kế hoạch không thể biết được các phưng trình cung và cầu, và kế hoạch hoá chỉ dẫn tới sự mất hiệu qu. Tưng tự như vậy, qun lý kinh tế học của Keynes có sai sót vì các nhà lập chính sách không thể hiểu được tất c những tính phức tạp và tinh tế trong hệ thống thị trường. Thay vì ci thiện được hoạt động kinh tế, chính sách của chính phủ chỉ làm cn trở hệ thống kinh tế.
Hayek cũng lật lại trường hợp dùng sức mạnh của chính phủ để ngăn chặn sức mạnh độc quyền. Ông cho rằng sức mạnh độc quyền thường là kết qu của những hành động của chính phủ. Ví dụ, các nhà sn xuất nội địa vận động chính phủ không cho nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu vào một ngành hoặc nghề thông qua những yêu cầu giấy phép. Hayek cũng nghĩ rằng thậm chí các hãng lớn có sức mạnh thì khi có cạnh tranh ( mối đe doạ từ những đối thủ mới) sẽ buộc các hãng hoạt động một cách có hiệu qu và sn xuất ra hàng hoá theo nhu cầu của khách hàng của họ với mức chi phí thấp nhất có thể.
Nhưng Hayek thậm chí đi xa hn thế này. Ông lập luận rằng chính sách của chính phủ làm hạn chế tự do cá nhân và đưa chúng ta đến Con đường tới chế độ nông nô . Điều này ám chỉ đến các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng như tư bn thực hiện kế hoạch hoá cho tưng lai hoặc nhằm gim thất nghiệp. Tưng tự, điều đó cũng đúng cho các chính sách của chính phủ nhằm phân phối lại thu nhập dưới cái tên công bằng kinh tế. Hayek cho rằng không thích hợp để miêu t kết qu của c chế thị trường là công bằng hay không công bằng. Phân phối thu nhập là một thực tế trên thế giới. do kết qu của những lực lượng thị trường khách quan. Quan niệmk công bằng không áp dụng cho những tình huống như vậy. Hn thế nữa, cố gắng của chính phủ nhằm phân phối lại thu nhập sẽ có hại nhiều hn là có lợi. Người nghèo sẽ bị nh hưởng xấu vì phân phối lại làm gim các động lực kinh tế và do đó thu nhỏ chiếc bánh kinh tế. Điều đó làm cho c người giầu lẫn người nghèo được hưởng ít hn; do đó c người giầu lẫn người nghèo đều được hưởng ít hn. Người nghèo cũng bị nh hưởng xấu vì người giàu thực hiện các chức năng kinh tế quan trọng như gánh vác rủi ro, hỗ trợ nghệ thuật và giáo dục, và kiểm định các sn phẩm mới đắt tiền mà nếu thành công sẽ được sn xuất hàng loạt ở mức giá thấp.
Đi xa hn nữa, Hayek cũng lập luận chống lại những nỗ lực của chính phủ trong việc đưa ra các c hội kinh tế đồng đều cho tất c các cá nhân để đạt được kết qu công bằng. Ông cho rằng ý tưởng c hội bình đẳng là một sự tưởng tượng. Nếu chính phủ cố gắng trao cho tất c mọi đứa trẻ một điểm xuất phát bình đẳng thì điều này có nghĩa rằng đã phân phối lại của ci của cha mẹ chúng để không có đứa trẻ nào hn đứa trẻ nào. Nó cũng có nghĩa rằng làm cho thu nhập của tất c cha mẹ chúng đều bằng nhau để không có một đứa trẻ nào có sự vượt trội. Đến khi đó, trong việc tìm kiếm để đưa ra các c hội ngang nhau, chính phủ nhất thiết phi trở nên độc tài hn.
Tuy nhiên, Hayek ủng hộ sự công bằng theo một nghĩa khác. Ông nghĩ rằng tất c nam và nữ cần được đối xử công bằng trước luật pháp. Sự công bằng trong luật hay luật công bằng khi áp dụng cho mọi công dân sẽ bo đm sự tự do chống lại sức mạnh ép buộc của chính phủ.
Đóng góp chủ yếu của Hayek với tư cách một nhà kinh tế đó là những lập luận của ông về lợi ích cu thị trường tự do và thông tin do giá c cung cấp. Những luận điểm này đưa đến kết luận rằng cần phi phn đối những nỗ lực để thay đổi hay kiểm soát thị trường vì chúng chắc chắn sẽ hạn chế sự tự do cá nhân, làm gim hiệu qu kinh tế và mức sống. Đối với Hayek thì thị trường tự nó điều tiết các công cụ để thúc đẩy sự thịnh vượng. Chính sách của chính phủ và những nỗ lực khác nhằm cn trở sự vận hành của thị trường sẽ làm cho chúng ta bị thiệt hại về mặt kinh tế và gim đi sự tự do cá nhân.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Simon Kuznets ( 1901 – 1985)
kuznets.gif

Simon Kuznets nổi tiếng vì việc phát triển hệ thống các tài khon thu nhập quốc gia mà tất c các quốc gia áp dụng để đo lường hoạt động kinh tế. Ông cũng đo lường phân phối thu nhập và xem xét phân phối thu nhập ở Mỹ thay đổi như thế nào trong thế kỷ 20. Nhưng tác phẩm của Kuznets không chỉ là việc đo lường hiện tượng kinh tế. Ông cũng đi tìm các nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế và thay đổi bất bình đẳng thu nhập, nghiên cứu các chu kỳ tăng trưởng mà nền kinh tế tri qua, và cố gắng tìm hiểu những tác động của tăng trưởng kinh tế lên phân phối thu nhập.
Kuznets sinh năm 1901 ở Pinsk ( khi đó là một vùng thuộc Liên xô và hiện nay thuộc Belarus). Cha ông là một người bán áo lông thú, và đầu thế chiến I ông đã chuyển gia đình đến Kharkov, một thành phố nổi tiếng về tri thức.Sau khi tốt nghiệp một trường trung học phổ thông công lập, ông vào họctại trường Đại học Kharkov. Tại đó ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế học và tiếp xúc với lý thuyết đổi mới của Joseph Schumpeter và chu kỳ kinh doanh. Khi cuộc cách mạng Nga dẫn tới đóng cửa trường đại học và gây ra nội chiến ở Nga,gia đình Kuznets rời khỏi Nga, lúc đầu đến Thổ Nhĩ Kỳ và cuối cùng là di cư sang Mỹ.
Kuznets tự học tiếng Anh trong một mùa hè và sau đó vào học trường đại học Columbia. Tại Columbia, Kuznets học Wesley Clair Mitchell, người đã dạy ông các phưng pháp kinh tế học thực nghiệm và khuyến khích ông quan tâm tới nghiên cứu chu kỳ kinh doanh. Ông nhận bằng cử nhân vào năm 1923 và tiến sĩ vào năm 1926. Luận văn tiến sĩ của ông ( về các dao động thưng mại bán buôn và bán lẻ) liên quan đến c các vấn đề đo lường kinh tế và biến động chu kỳ trong hoạt động kinh tế.
Sau khi nhận bằng tiến sĩ, Kuznets làm việc 3 năm tại Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia. Sau đó vào năm 1931 ông tham gia ging dạy tại trường Đại học Pennsylvania. Năm 1960 ông sang dạy tại trường Johns Hopkins, và ging dạy tại đây cho tới khi về hưu vào năm 1971. Trong khi tham gia ging dạy như vậy, ông thường xuyên cộng tác cùng Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia.
Trong cuộc đời học thuật của mình, Kuznets đã được nhận rất nhiều vinh dự cao quí. Vào năm 1949 ông làm Chủ tịch Hiệp hội thống kê Mỹ; vào năm 1953 ông trở thành Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ; và vào năm 1971 ông được nhận gii thưởng Nobel Kinh tế.
Trong khi ủy ban gi thưởng Nobel lựa chọn công trình nghiên cứu của ông thuộc lĩnh vực tăng trưởng kinh tế và thay đổi cấu trúc xã hội, nhưng đóng góp quan trọng nhất của ông rất có thể là việc phát triển hệ thống hạch toán thu nhập quốc gia.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu hoạt động tổng thể của nền kinh tế quốc gia. Để kiểm định các gi thuyết về các quan hệ kinh tế vĩ mô, hay để tìm ra những nguyên nhân của hoạt động kinh tế vĩ mô lành mạnh thì cần phi có một thước đo hoạt động kinh tế tổng thể nào đó. Vào thế kỷ 17, William Petty đã có những cố gắng ban đầu trong việc tính toán hoạt động kinh tế ở Anh, và những ước lượng thu nhập quốc gia được thực hiện một vài lần trong công trình khởi đầu cua Petty. Tuy nhiên, không ai cố gắng thực hiện các công việc đo lường như vậy trên cở sở hàng năm, và chỉ có rất ít các ước lượng được tiến hành một cách tỷ mỉ và có hệ thống. Cho đến những năm 1920 cũng vậy, nước Anh đã đi trước nước Mỹ rất nhiều trong việc lập ra dữ liệu thu nhập quốc gia. Kuznets đã gánh vác để thực hiện công việc này. Ông đã đưa Mỹ từ vị trí bị tụt hậu trở thành quốc gia đi đầu trong thống kê thu nhập quốc gia. Tại Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia, Kuznets đã phụ trách việc phát triển mô hình ước lượng đầu tiên về thu nhập quốc gia của Mỹ từ năm 1929 đến 1932. Sau đó ông tiếp tục phát triển việc ước lượng thu nhập quốc gia trong các năm từ 1919 đến 1938, và đưa ra ước lượng cho hoạt động kinh tế Mỹ giai đoạn từ năm 1869.
Kuznets đã miêu t một cách cẩn thận c phưng pháp luận mà ông sử dụng trong thiết lập các đo lường hoạt động kinh tế cũng như một số vấn đề ông gặp phi trong khi tiến hành ước lượng. Như vậy, Kuznets đã đặt ra các tiêu chuẩn cho việc đo lường hoạt động kinh tế và phát triển cách thức mà vẫn được áp dụng cho đến ngày nay.
Ví dụ, Kuznets nhận thức được rằng việc ước lượng thu nhập quốc gia đã loại trừ các hàng hoá và dịch vụ không được mua bán trên thị trường. Khi các hộ gia đình nấu các bữa ăn của họ, tự cắt cỏ ở vườn, và lau nhà, thì họ đã sn xuất ra hàng hoá và dịch vụ; nhưng những hàng hoá này không được tính trong số liệu hoạt động kinh tế do chính phủ thu thập. Tưng tự như vậy, các hoạt động bất hợp pháp như mại dâm hay buôn bán thuốc phiện là rất khó, nếu không nói là không thể đo lường và cũng không thể được tính vào ước lượng hoạt động kinh tế tổng thể.
Kuznets cũng thận trọng khi phân biệt hàng hoá cuối cùng với hàng hoá trung gian, và dùng cách phân biệt này để tránh vấn đề tính trùng. Một chiêc ôtô, hàng hoá cuối cùng được bán cho người tiêu dùng, được lắp ráp từ các hàng hoá trung gian như lốp, kính, máy móc, và phanh. Tính toán giá trị của lốp xe bán cho người sn xuất ôtô và c giá trị của chiếc xe sẽ dẫn tới tính hai lần giá trị của lốp xe. Để có được một thước đo chính xác hn về hoạt động kinh tế thì cần phi trừ đi giá trị của tất c các thành phần khỏi giá trị cuối cùng của chiếc xe bán cho người tiêu dùng. Lấy phần chênh lệch này, hay tính toán giá trị gia tăng của người sn xuất xe ôtô, sẽ cung cấp một nền tng cho việc đo lường thu nhập quốc gia. Thu nhập quốc gia chỉ đn thuần là tổng của giá trị gia tăng của các hãng kinh doanh trong nền kinh tế trong một khong thời gian nhất định. Nó có thể được rút ra từ giá trị báo cáo hàng kỳ của các hãng kinh doanh về doanh thu bán hàng, chi phí cho các bộ phận, và lợi nhuận hàng quý.
Kuznets hiểu rằng đo lường thu nhập quốc gia có những hạn chế nhất định khi dùng làm chỉ số cho giầu có hay phúc lợi quốc gia. Chỉ đn thuần là vì thu nhập quốc gia tăng không nhất thiết có nghĩa rằng nước đó trở nên tốt hn. Thu nhập có thể được phân phối ngày càng không công bằng, bởi vậy mặc dù tổng thu nhập tăng lên nhưng nhiều hộ gia đình lại trở nên khốn khó hn. Kuznets cũng lưu ý rằng chính quá trình tăng trưởng có thể dẫn tới những kết qu không đáng mong muốn như tình trạng đô thị hoá, tắc ngẽn giao thông, và ô nhiễm môi trường. Cuối cùng, hạch toán thu nhập quốc gia không tính đến có bao nhiêu sn lượng đầu ra đi vào ngân sách chính phủ và bị buộc phi tr thuế.
Công trình của Kuznets về đo lường thu nhập quốc gia đưng nhiên đã đưa đến việc nghiên cứu chu kỳ kinh doanh, hay sự bành trướng và thu hẹp theo chu kỳ của hoạt động kinh tế. Trước khi xuất hiện tác phẩm của Kuznets, Nikolai Kondratieff, một nhà kinh tế học người Nga, đã quan tâm đến sự tồn tại của các chu kỳ kinh tế dài hạn kéo dài trong khong 45 và 60 năm. Xem xét dữ liệu giá c hàng trăm năm của Mỹ, Pháp, và Đức ( cùng với dữ liệu về sn xuất sắt, than, và các sn phẩm khác, khắp thế giới ). Kondratieff nhận thấy rằng có các giai đoạn đều đặn khong 20-30 năm mà trong thời kỳ đó giá c gim xuống. Những thay đổi kinh tế dài hạn này kể từ đó được gọi là “ những làn sóng Kondratieff”. Những chu kỳ ngắn hạn hn, khong 10 năm, đã có liên quan tới những thay đổi đầu tư kinh doanh.
Trong nghiên cứu về các dao động kinh tế của mình, Kuznets phát hiện ra các chu kỳ tăng trưởng và suy thoái kéo dài trong khong thời gian 20 năm. Những chu kỳ này đã được gọi là “ chu kỳ Kuznets”. Kuznets nghĩ rằng những thay đổi dân số có thể gii thích cho những chu kỳ 20 năm này. Dân số tăng có thể xuất phát từ làn sóng nhập cư hoặc tỷ lệ sinh tăng do điều kiện kinh tế thuận lợi. Cho dù bất cứ nguyên nhân nào, tăng trưởng dân số đều dẫn tới cầu về hàng hoá tiêu dùng lớn hn, đặc biệt là đối với nhà ở. Cầu tăng thêm sẽ khuyến khích thêm đầu tư kinh doanh. Điều này, cùng với lợi thế của kinh tế học nhờ qui mô, đã góp phần vào tăng trưởng năng suất nhanh hn. Kết qu là mức sống tăng lên khi dân số tăng. Nhưng ngay sau đó những công dân mới trở thành một bộ phận của lực lượng lao động nhiều hn, và điều này dẫn tới áp lực xuống phía dưới đối với tiền lưng. Khi tiền lưng gim xuống, chi tiêu và đầu tư cũng sẽ gim, và giai đoạn suy gim của chu kỳ kinh tế bắt đầu.
Kuznets mở rộng tác phẩm của ông về chu kỳ kinh tế để nghiên cứu những thay đổi cấu trúc kinh tế do tăng trưởng và suy thoái kinh tế gây ra. Trong đó ông nghiên cứu chu kỳ kinh doanh đã nh hưởng như thế nào tới tỷ lệ tiết kiệm và tiêu dùng, năng suất, phân phối thu nhập và các yếu tố khác ( như luồng vốn, hàng hoá, nhân lực quốc tế).
Kuznets cũng xem xét tác động của tăng trưởng kinh tế lên phân phối thu nhập, và đã đi dầu trong việc đo lường phân phối thu nhập. Sử dụng c số liệu thuế thu nhập và số liệu điều tra của Uỷ ban điều tra dân số Mỹ, ông xem xét tỷ lệ của tổng thu nhập mà mỗi nhóm trong 10 nhóm thu nhập nhận được ( 10% những người có thu nhập cao nhất, 10% tiếp theo, 10% nhóm thứ 3....) hàng năm trong khong thời gian từ 1913 và 1948. Kuznets nhận thấy rằng trong những năm chiến tranh, 1% dân số hàng đầu nhận 15% tổng thu nhập quốc gia và 5% nhóm đầu nhận 25% đến 30% tổng thu nhập. Ông cũng phát hiện thấy bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ gim xuống trong và sau thế chiến II, với 1% nhóm đầu chỉ nhận 8,5% tổng thu nhập và 5% nhóm đầu nhận được 18% tổng thu nhập. Kuznets lập luận rằng chu kỳ kinh doanh có thể gii thích cho những thay đổi này. Thất nghiệp thấp trong và sau Thế chiến II làm tăng tỷ phần tổng thu nhập của nhóm có thu nhập thấp hn. Cùng lúc đó, lãi suất thấp hn và thuế thu nhập cao hn đã làm gim tỷ phần thu nhập của nhóm giầu có nhất. Nhìn vào dư liệu trong những khong thời gian dài và ở nhiều quốc gia khác nhau, Kuznets phát hiện ra rằng bình đẳng thu nhập đi theo hình chữ U – nó gim trong những thời kỳ đầu phát triển kinh tế và làm cho người nghèo bị tồi khốn khó hn, nhưng tăng trong những thời kỳ phát triển sau, do đó sẽ mang lại lợi ích cho những người có thu nhập thấp.
Một phát hiện thực tiễn quan trong khác của Kuznets liên quan đến tỷ lệ tiết kiệm ở Mỹ, hay ngược lại là tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập quốc gia. Kuznets nhận thấy tỷ lệ tiết kiệm ở Mỹ khá ổn định và không thay đổi khi nền kinh tế Mỹ tăng trưởng. Điều này ngược với dự đoán trong phưng trình tiêu dùng đn gin của Keynes, C = a + bY, trong đó C là tiêu dùng và Y là thu nhập hiện tại. Nếu gi thuyết này là đúng thì tỷ lệ tiêu dùng sẽ gim khi thu nhập tăng lên. Tỷ lệ tiêu dùng gim có nghĩa là tỷ lệ tiết kiệm tăng lên. Thực chất thì quan điểm đn gin của Keynes chỉ là con người ta sẽ tiết kiệm nhiều hn khi thu nhập tăng lên. Điều mà Kuznets phát hiện ra rằng tỷ lệ tiết kiệm không đổi đã giúp cho Milton Friedman phát triển gi thuyết thu nhập vĩnh cửu và Franco Modigliani phát triển gi thuyết chu kỳ sống nhằm gii thích tỷ lệ tiết kiệm không đổi.
Cuối cùng, Kuznets đã dành nhiều thời gian trong đời để nghiên cứu các yếu tố nh hưởng đến tăng trưởng năng suất. Đây chỉ là việc mở rộng phạm vi tập trung nghiên cứu của ông về tăng trưởng kinh tế, vì tăng trưởng do các nh hưởng kết hợp của tăng năng suất và dân số. Trong hai yếu tố này, tăng trưởng năng suất chắc chắn quan trọng hn, vì như Adam Smith đã chỉ ra rằng tăng năng suất sẽ dẫn tới ci thiện mức sống. Nghiên cứu về tăng trưởng năng suất đã cho phép Kuznets đưa các mối quan tâm nghiên cứu của ông vào trong thay đổi dân số, trong ước lượng thực nghiệm một cách chuẩn xác, và trong việc nâng cao mức sống.
Kuznets nhấn mạnh nhiều vào thay đổi và đổi mới công nghệ để làm phưng tiện cho việc tăng năng suất. Ông đánh giá rằng trong thời kỳ 50 năm thì 3/5 của phần tăng năng suất tại Mỹ là do tiến bộ công nghệ và 2/5 là do phân bố lại lao động từ những khu vực năng suấ thấp hn ( ví dụ như nông nghiệp) sang khu vực năng suất cao hn ( như chế tạo). Vì về mặt lịch sử thì công nghệ là yếu tố quan trọng hn, và vì phân bố lại lao động trở nên ít quan trọng hn qua thời gian khi ít người Mỹ làm trong khu vực nông nghiệp hn nên ông nghĩ rằng nỗ lực nhằm nâng cao năng suất phi tập trung vào những đột phá và tiến bộ công nghệ. Vào cuối thế kỷ 20, hầu hết các tác phẩm kinh tế học mang tính lý thuyết và khá trừu tượng. Các nhà kinh tế học thậm chí coi thường các nghiên cứu thực nghiệm khi tìm cách đo lường các biến số kinh tế và xem các biến số đó thay đổi như thế nào qua thời gian. Kuznets đã đứng vững trong truyền thống thực nghiệm của kinh tế học mà khởi đầu là số học chính trị của Petty. Tác phẩm của Kuznets đã cho phép phát triển một khối lượng kiến thức đồ sộ về tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó cũng tạo ra một lượng lớn dữ liệu cho phép kiểm định các lý thuyết kinh tế. Và nó đã cho phép chính phủ có thể thường xuyên tạo lập và báo cáo dữ liệu kinh tế học vĩ mô. Nếu kinh tế học được coi là nghiên cứu về sự vận hành của các nền kinh tế thực thì Kuznets phi được xem là một trong số ít các hình tượng quan trọng nhất.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
anh Tuấn à, dài thế này có ai đọc sao nổi??????????? hic hic dài quá, đọc mục này chắc mấy năm mới xong mất. hoan hô anh chăm chỉ post cái bài này lên ;D
 
Chủ đề này nội dung rất hay nhưng hơi khó theo dõi. Nếu anh Tuấn có thể high-light những ý chính thì tốt quá. Chờ đọc tiếp ạ.
 
Back
Bên trên