會 員 请 點 名

Em dẫn chứng cho anh xem từ lộc có nghĩa là tiền anh xem nào
hihi, để anh trình bày hiểu biết về từ Lộc cho em nghe nhé, nếu sai thì chỉ thêm cho anh nhé
Từ Lộc là từ để chỉ ơn mưa móc của nhà vua đối với các quần thần, vì ngày xưa Phú quý và Công danh là 2 thứ trói buộc các sỹ tử thời đó, dưới triều đại phong kiến thì chỉ có con đường đỗ đạt làm quan mới là con đường của các sỹ tử thôi vì thế ai cũng muốn " quan cao lộc hậu", chứng minh ngày từ quyển sách của các cậu học trò nhỏ học là quyển ấu học ngũ ngôn thi
Vạn ban giai hạ phẩm
Duy hữu độc thư cao
Mọi nghề trên đời đều là kém hết
Duy chỉ có đọc sách là hơn cả
Chính vì lý do thoe đạo Khổng mà giai cấp phong kiến đã lấy Lộc ra làm mồi nhử và đặt các chế tài quy điinhj cho xã hội. Và từ Lộc được gọi là 禄饵 với nghĩa là mồi câu mà người ta thường dịch cho thuận là bả vinh hoa phú quý
hihi, vậy từ Lộc theo nghĩa tiền của em là nghĩa thế nào, nói anh nghe với nhé
--> anh ơi bây h cách đặt tên nó khác lạ lắm, người ta ko quá chú trọng đến từng cái tiểu sử thế đâu anh ;))
Chậc, kiến thức uyên sâu, bao h mình đc như vầy :-/
Thế nếu tên em thì có nghĩa là j ạ ?

@Châu: đấy, mình cũng post đc thành 2 bài như Mẩu rồi :)) =)) \:d/
 
Chỉnh sửa lần cuối:
--> anh ơi bây h cách đặt tên nó khác lạ lắm, người ta ko quá chú trọng đến từng cái tiểu sử thế đâu anh ;))
Chậc, kiến thức uyên sâu, bao h mình đc như vầy :-/
Thế nếu tên em thì có nghĩa là j ạ ?
Uh, cách đặt tên bây giờ thì khác, đơn giản hơn nhiều, ví dụ họ bố+ họ mẹ+ tên con hoặc họ bố+ tên mẹ+ tên con hoặc lấy vần đầu của tên mẹ/bố ghép với vần sau của tên mẹ/ bố ra tên con hihi hoặc đặt tên theo kiểu Miền Nam: Nguyễn thị Huyền Diệu, Trần thị Mộng Mơ=)) hay tên na ná kiẻu TQ như BảoThi hihi
ví dụ người tq thì tên có 4 chữ trở lên là người thiểu số như Ái Tân Giác La trừ những họ kép như Công Tôn , Lệnh Hồ, Tư Mã .... còn tên người Tq thường có 3 ký tự thôi hihi, ở Việt nam họ kép khá ít ví như Công tằng tôn nữ, Tôn thất còn lại chỉ là họ đơn hihi
Ngày xưa đặt tên con là gủi gắm ước mơ và đặt tên có cả 1 môn nghiên cứu về nó hihi, nói ra thì dài dòng văn tự
Kiến thức uyên thâm gì em, mấy cái kiến thức đấy người ta cho vào hòm chôn xuống đất ròi em ah, có ai dùng đâu8-X:
Tên em chả nói ở phía trước rồi còn gì, Anh là loại đá đẹp như ngọc còn Ngọc là ngọc thôi, tóm lại nghĩa là quý giá hihi, vì tên thường lấy theo sự vật : như đá , gỗ,,, hiện tượng thiên nhiên: mây, vũ, ,,,,,,cây cỏ: lan huệ,,,,,,,,rồi trích dẫn từ câu thơ hay nhân vật trong lịch sử ,,,,,, nhiều lắm , lại lan man rồi;;)
Nếu các em thích thì hôm nào anh tìm 1 bài về đặt tên cho xem, để tham khảo , hihi, chỉ sợ lại không đọc
 
ko phải em ko trả lời mấy cái nghĩa bóng bổ ngữ xu hướng :D mà em lười đánh lắm :D nhiều lắm anh ạ , mấy cái mỗi cái lại thêm mấy nghĩa nữa :-j
anh cho 1 bài về đặt tên đi anh Long ơi , em cũng đang xem về mấy cái đấy , để đặt tên cho con =))

@ e.Châu : cô Thúy đi đâu hả em , sao cô kín tiếng thế nhờ :|
 
Chuyện về cái tên cái họ thì dài dòng và khá nhiều và cũng khá thú vị, ví dụ nói về sự chuyển họ nhé, có 1 số họ do sợ bị trả thù hay muốn mai danh ẩn tích thì đổi họ để kẻ thù không biết được hihi, như họ Lý 李 có thể đổi sang họ Quý 季, họ Mạc 莫 của bên mình đổi thành họ Hoàng 黄, lý do vì sao thi các em đều biết, học tiếng Trung thì nhìn thấy ngay là chỉ thêm nét là sửa được dễ dàng, ngoài ra còn do Đàng trong và Đàng ngoài nên họ cũng có sự thay đổi hay đọc khác đi vì phạm húy ngay cả tên cũng thế ví dụ Phúc- Phước, Hoàng- Huỳnh, Võ - Vũ, Hoa - Huê - Bông, Thì - Thời hihihi, thế thôi nhỉ
Ngoài ra có thêm thông tin về các họ cho các em tham khảo
Danh sách các họ dân tộc kinh

(Theo ABC)

An, Âu, Bá, Bạch, Bì, Bồ, Bông, Bùi, Ca, Cái, Cam, Can, Càng, Cao, Cấn, Công, Cù, Cung, Chan, Chân, Chim, Chu (Châu), Chử, Diệc, Diệp, Diêu, Doãn, Dư, Dương, Đái, Đàm, Đan (Đơn), Đào, Đặng, Đầu, Đậu, Địch, Điền, Điêu, Đinh, Đình, Định, Đoái, Đoàn, Đỗ, Đối, Đôn, Đồng, Đống, Đức, Đường, Gương, Giản, Giang, Giáp, Hà, Há, Hạ, Hàn, Hán, Hầu, Hê, Hinh, Hoàng, Hồ, Hồng, Hứa, Kiều, Kim, Khiếu, Khu, Khúc, Khưu, La, Lã (Lữ), Lại, Lâm, Lê, Lều, Lý, Lộ, Lục, Lư, Lương, Lưu, Ma, Mã, Mạc, Mai, Man, Mạnh, Mao, Mị, Ninh, Ngạc, Ngọ, Ngọc, Ngô, Ngũ, Ngụy, Nguyễn, Nghê, Nguyên, Nhang, Nhâm, Nhữ, Ô, Ông, Phạm, Phan, Phàn, Phó, Phù, Phú, Phùng, Phương, Quách, Quan, Quản, Quang, Sầm, Sĩ, Sở, Sử, Sưu, Tạ, Tán, Tào, Tăng, Tân, Tần, Tiên, Tiến, Tiêu, Tô, Tôn Thất (Tôn Nữ), Tốn, Tống, Tuyên, Tờ, Thái, Thành, Thẩm, Thân, Thềm, Thôi, Trang, Trầm, Trần, Trân, Triệu, Trình, Trừ, Trực, Trương, Tưởng, Ủ, Ung, Uông, Ưng, Văn, Vi, Vu, Vũ (Võ), Vương, Xa, Xuân.

Tỷ lệ các họ
Nguyễn (38,4%), Trần (11%), Lê (9,5%), Huỳnh (Hoàng) (5,1%), Phạm (5%), Phan (4,5%), Vũ (Võ) (3,9%), Đặng (2,1%), Bùi (2%), Đỗ (1,4%) Hồ (1,3%), Ngô (1,3%), Dương (1%)...
Ngoài ra cung cấp thêm về lịch sử các họ để hiểu thêm, sau khi tìm hiểu xong họ sẽ xử lý đến cái tên , lằng nhằng phết :D
Nghiên cứu tất cả hệ thống tên họ các dân tộc trên thế giới cho thấy người Việt có lẽ là một dân tộc đầu tiên, cùng với người Trung Hoa và Ðại Hàn, có một hệ thống tên họ đơn giản và hợp lý nhất. Người Nhật mãi đến năm 1872 mới được quyền có họ, trước đó chỉ có các ngài đại danh (samourais) là có đặc quyền đó.

Theo lịch sử Trung quốc, việc đặt họ tên bắt đầu từ năm 2852 trước Công nguyên, khi vua Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng phải có một "gia tính" hay "tộc tính" để dễ phân biệt các hệ phái gia đình và định phép tắc hôn nhân. Ðến thế kỷ thứ V trước Công nguyên ở Trung quốc đã có hai loại "gia tính" được dùng: "tính" là họ gốc, do cha truyền con nối hoặc do vua ban, và dành cho nam giới; "thị" là họ cành, tức tên đặt khi mới sanh dùng cho cả nam lẫn nữ. Giới quý tộc vừa có Tính vừa có Thị, dân giả thì chỉ có tính. Từ đó phát xuất thành ngữ "bá" hoặc "bách tính". Con trai đàn ông xưng "thị" để phân biệt sang hèn, con gái đàn bà xưng "tính" để phân biệt hôn nhân.

Theo huyền thoại, Lạc Long Quân và các vua Hùng đều rất gần dân chúng, biết hết sự tình của con dân. Như Lạc Long Quân chỗ ở là thủy phủ nhưng khi dân cần đến, đứng trên bờ gọi là ngài sẽ lên giúp dân. Nhân số bành trướng, lãnh thổ Bách Việt cũng thiên di từ phía nam sông Dương-tử xuống đồng bằng sông Hồng, hội nhập văn hóa và đồng hóa người Mường và các sắc dân địa phương.

Tuy nhiên văn hóa nông nghiệp nền tảng của Việt tộc vẫn luôn trội bật. Do đó hơn hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra "sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm hoặc theo một thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng nương thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận từng nóc gia. Với họ và tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người trong mỗi gia đình. Về sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ tịch từng cá nhân và gia đình. Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một sổ riêng, ghi chú tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Ðó là nguồn gốc của gia phả.

Nếu lịch sử là quá khứ và nền tảng của một dân tộc thì gia phả là lịch sử hình thành và phát triển của gia tộc. Gia phả phát xuất từ Trung quốc dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu (111-256 trước Công nguyên) trong khi ở Việt Nam có thể gia phả đã có từ trước, nhưng theo lịch sử biên chép thì gia phả xuất hiện từ năm 1026 vào thời vua Lý Thái Tổ, gia phả đầu tiên được gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp. Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia đình làm gia phả ở đấy còn được gọi là "gia phổ" và biến thái thành "tông chi" tức tờ "tông chi tông đồ" cốt để phân phối gia tài hơn là để phân chia ngành ngọn của gia đình. Theo ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ, lý do là để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp (1).

Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng (trưởng họ, trưởng tộc) có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền từ đời cha tới đời con. "Họ" theo nghĩa gốc có liên hệ với nhà và dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một mái nhà, một gia đình, một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.

Họ tên của người Việt thông thường gồm có theo thứ tự: họ, chữ lót hoặc tên đệm, và tên gọi. Trừ một vài ngoại lệ, người Việt thường gọi nhau bằng tên gọi: bà Nhị, cô Yến, ông Khanh, cụ Mục, cháu Khuê, v.v.

Họ:

Số họ người Việt rất hạn chế, có khoảng 140 họ khác nhau - chúng tôi ghi lại trong danh sách ở cuối bài. Do đó có thành ngữ "trăm họ" (bách tính, còn đọc là "bá tánh") thời xưa thường dùng để chỉ dân chúng cả nước. Ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ trong cuốn Gia Phả đã dẫn có nói đến ba trăm họ tối đa có thể có nhưng ông đã không lập danh sách (2). Cũng theo ông, người Trung quốc cũng chỉ có ba trăm họ trong khi người Nhật Bản xử dụng đến một trăm ngàn tên họ khác nhau. Người Pháp gọi "họ" là "nom de famille" và "patronyme", người Anh Mỹ, "family name" và "patronym".

Những họ Việt Nam thường gặp nhất là Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê, Vũ/Võ, Trương, Huỳnh/Hoàng. Nhiều người mang cùng một họ không có nghĩa là họ có cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là ở nhà quê, người ta phân biệt nhau bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên Ðiền", "họ Nguyễn làng Tây Sơn", v.v. Trong nhiều làng thôn, tất cả mọi người cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa là vì vào thời lập quốc, người Việt chỉ có một tổ tiên chung là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ðến thời hiện đại, những người Việt này chứng minh mỗi dòng họ một tổ tiên riêng.

Từ khi bị người Tàu đô hộ, người Việt chính thức theo chế độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Theo dân luật, con phải lấy họ cha, không có vấn đề tự do lựa chọn. Họ không thể cho người ngoài họ dùng và trên nguyên tắc không thể thay đổi. Có hẳn cả một hiệp ước quốc tế năm 1959 về thay đổi họ. Tuy nhiên trong Nam từ thời Pháp thuộc có khuynh hướng dùng cả họ cha và họ mẹ mà đặt cho con, thí dụ con đầu lấy họ cha thì con thứ lấy họ mẹ, anh chị em ruột mà họ khác nhau là vì vậy!


Họ kép:

Nhiều gia đình mang họ kép, như Vũ-Ðỗ Thìn, Ðặng-Trần Huân, Trần-Lê Quang, v.v.. Tuy nhiên cần phân biệt hai loại họ kép:

- Họ + tên đệm: Các họ Ðặng-Xuân, Ðặng-Vũ và Ngô-Vi, Ngô-Thời, xuất phát từ một gia đình gốc họ Ðặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi nhánh nên đã thêm tên đệm vào họ. Yếu tố này không phải là họ, nhưng giữ nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên. Nhưng những họ đi kèm với tên đệm "Bá, Thúc" phải được coi như họ đơn, vì những tên lót này chỉ là những chữ lót chung.

- Họ kép hợp bởi hai họ: Ðây là những họ kép chính thức. Thường thấy có: Vũ-Ðỗ, Nguyễn-Trần, Trần-Lê, Hồ-Ðặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm, Ðặng-Trần. Vì một lý do nào đó, một người xử dụng họ kép và truyền lại cho các thế hệ sau. Trước hết là trường hợp người con nuôi, y thêm họ gia đình cha mẹ nuôi vào họ gốc. Họ mới đi trước họ gốc. Ðó là hoàn cảnh của nhà thơ Ðặng-Trần Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đình họ Ðặng, ông vốn tên là Trần Côn. Con cháu thường vẫn tiếp tục giữ họ kép đó. Nhưng có trường hợp có người con lấy lại họ cũ, như con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn của cha họ Vũ nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm, nhưng đa số lấy lại họ gốc là Phạm vì ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một trong chín người con.

Một lý do khác thông thường hơn. Vua chúa ngày xưa thường cho phép một số quan lại có công với triều đình hoặc đỗ đạt cao được đổi tên và có khi cho phép theo họ của vua (quốc tính), xem đó là một cách tưởng thưởng trọng hậu. Có người bỏ hẳn họ gốc để lấy họ vua như Mạc Cảnh Vinh được chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn-Phúc Vinh. Nhưng thường người được đổi họ được phép giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành ra họ kép. Huỳnh Ðức, quan triều đại Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Ðức. Các con ông là Nguyễn-Huỳnh Thành, Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên con gái vẫn giữ họ gốc Huỳnh vì con gái không mang quốc tính. Chỉ có thời Tống Nho mới có những phân biệt nam nữ như vậy!

Hiện nay người ta thấy có nhiều họ kép loại nhưng thường gồm hai họ của vợ chồng dùng đặt cho con cái. Các họ kéo mới này không thể trường tồn vì không được mọi người và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa, những người con của họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ kép đặt cho con, họ kép của người phối ngẫu mới có thể là một họ khác.
Nguồn gốc họ người Việt

- Họ các triều đại: Ða số người Việt mang một họ trong số 16 dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên đại, đó là những họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Ðinh, Lê, Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng họ kể trên, hoặc họ xử dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó nhưng khác họ thật.

Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều để chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc đổi tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Một số khác bị bắt buộc phải đổi họ của triều đại vừa bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung thành với triều đại mới. Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ họ gốc để lấy quốc tính để tránh những nhóm phản động có ý lật đổ triều đình hay làm loạn đưa người họ triều triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính trị (ý trời, "thuận thiên"). Nhà Nguyễn thời Gia Long và MInh Mạng đã bắt những người họ Lê đổi họ thành Nguyễn chỉ vì thời đó những kẻ cầm đầu những phong trào phản động mang họ Lê: Lệ

Riêng họ Nguyễn, còn là họ triều đại quân chủ cuối cùng, có thêm một lý do khác khiến họ này trở nên thông dụng nhưng lại khó hiểu dưới mắt người Tây phương. Ðời Trần Thái-Tông (1232), sau khi đã đoạt ngôi nhà Lý, Trần Thủ Ðộ lấy lý do tổ nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ dòng vua vừa bị hoán vị, lẩn dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy nhiên ý đồ thật sự là khai tử dòng vua Lý để sẽ không còn ai nhớ đến dòng họ Lý nữa.

Ngoài ra, có người cải đổi tên họ vì trốn sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương triều vì ông cha bị tội hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi đi thí phải khai họ ba đời. Có người đổi họ vì một lý do riêng tư khác. Như Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, được vua Trần ban cho họ Hàn vì ông làm bài văn ném xuống sông khiến cá sấu bỏ đi, như chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó. Và vì Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm nên về sau các nhà văn học sử có khi gọi thơ văn chữ Nôm là thơ văn "Hàn luật". Hoặc như Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang (Trung Hoa) sang nước ta định cư, đến tổ tiên đời thứ tư là Hồ Liêm làm con nuôi nhà họ Lê nên đổi lấy họ Lê. Nhưng khi Hồ Quý Ly dấy nghiệp, ông lấy lại họ Hồ và đặt cả quốc hiệu là Ðại Ngu vì ông nhận làn dòng dõi nhà Ngu.

Hoặc vì kiên tên húy của vua chúa, nhiều người phải đổi họ, như ông trạng Hoàng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải đổi ra họ Trần; đến đời Trần Khắc Minh mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn. Cùng trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngô Quyền.

Hoàng-tộc nhà Nguyễn

Chúng tôi mở dấu ngoặc bàn về họ gia đình vua nhà Nguyễn (1802-1945) vì các họ thuộc về gia đình này không khỏi gây thắc mắc cho nhiều người, nhất là đối với người nước ngoài, như làm sao họ có thể hiểu cha họ Bửu mà con họ Vĩnh. Dòng chúa Nguyễn đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) mới dùng chữ lót "phúc". Con cháu gia đình họ Nguyễn này, từ đời Minh Mạng (1820-1841) trở đi, đã phân biệt nhau theo dòng và thế hệ bằng nhiều "họ mới" khác nhau. Theo thứ tự, con cháu cùng một đời mang cùng một họ riêng nhưng luôn hiểu ngầm là họ Nguyễn. Cứ mỗi "họ mới" là một đời, bắt nguồn từ bài Ðế-hệ thi của vua Minh Mạng, dùng cho "chánh hệ" (primary royal branch) tức dòng vua Gia Long:

Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh

Bảo Quý Ðịnh Long Trường

Hiền Năng Khang Kế Thuật

Thế Thoại Quốc Gia Xương

Thí dụ: Miên Tông (Thiệu Trị), Miên Thẩm Tùng Thiện Vương, Miên Trinh Tuy Lý Vương

Hồng Nhậm (Tự Ðức), Hồng Bảo (nổi loạn năm 1848 ), Hồng Dật (Hiệp Hòa)

Ưng Trình, Ưng Quả, Ưng Kỳ, Ưng Lịch (Hàm Nghi), Ưng Thuyên Bửu Ðảo (Khải Ðịnh), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu Lộc, Bửu Hội Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Ðại), Vĩnh Lộc Bảo Long, Bảo Quốc, v.v.

Như sẽ trình bày trong phần tiếp về chữ lót, cách định họ trước này bị ảnh hưởng người nhà Thanh (Mãn Châu) lúc đó đang cai trị Trung Hoa. Vua Minh Mệnh là vị vua nhà Nguyễn chịu nhiều ảnh hưởng của Trung quốc. Theo phong cách của những người trong giới vua chúa và quan lại nhà Thanh, một ông tổ dụng công nghĩ ra đặt saûn chữ lót cho nhiều thế hệ nối tiếp, có khi cho là do thần truyền mộng. Ðó là nguồn gốc của nguyên tắc "hệ thi" có thể dùng cho nhiều đời liên tiếp.

Tuy nhiên các họ từ bài "đế-hệ thi" nói trên chỉ được dùng cho hậu duệ dòng vua Minh Mạng, vì ngoài "dế-hệ thi" vua còn làm mười bài "phiên-hệ thi" nhắm cho mười ông hoàng anh em của vua. Tưởng cũng cần biết, vua Gia Long có cả thảy 13 hoàng nam; vua Minh Mạng tên Nguyễn-Phúc Ðãm là hoàng tử thứ tư và trưởng nam là hoàng tử Cảnh đã qua đời lúc trẻ tuổi. Sau khi phổ biến 10 bài "phiên-hệ thi" thì Quang-Oai Công, ông hoàng thứ 10 cũng chết trẻ, còn một số ông hoàng khác cũng tuyệt tự sớm hoặc từ đời thứ hai. Ðó là lý do tại sao đến nay trong thực tế chỉ có bốn bài "phiên-hệ thi" được dùng cho hậu duệ bốn ông hoàng kể sau:

- Anh Ðuệ Hoàng Thái-tử (Nguyễn-Phúc Cảnh, hoàng trưởng-tử của vua Gia Long):

Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng

Liên Huy Phát Bội Hương

Linh Nghi Hàm Tấn Thuận

Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang

Hoàng-tử Cảnh mất khi 22 tuổi, ông có hai con trai: Mỹ Ðường bị chú là Minh Mạng kết tội và giáng làm dân đinh, con cháu chỉ được phụ chép vào sau tôn-phả, và người con thứ hai Mỹ Thùy mất sớm. Kỳ-Ngoại Hầu Cường Ðể và các con ông là Tráng Cử, Tráng Liệt, Tráng Ðinh thuộc nhánh (phòng) này.

- Kiến-An Vương (hoàng tử thứ năm):

Lương Kiến Ninh Hòa Thuật

Du Hành Suất Nghĩa Phương

Dưỡng Dĩ Tương Thức Hảo

Cao Túc Thể Vi Tường

Kiến-An quận-công Lương Viên cũng như ông Hòa Giai và con Thuật Hanh, Thuật Hy thuộc phòng này.

- Ðịnh-Viễn Quận-vương (hoàng tử thứ sáu):

Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái

Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha

Nghiêm Khắc Do Trung Ðạt

Liên Trung Tập Bát Da

Ông Tĩnh Cơ cũng như Chiêm Nguyên và các con Viễn Ngô, Viễn Cẩm, Viễn Tống hay ông Chiêm Tân và con Viễn Bào đều thuộc nhánh này.

- Từ-Sơn Công (hoàng tử thứ mười ba):

Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm

Phu Văn Ái Diệu Dương

Bách Chi Quân Phụ Dực

Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương

Từ Ðàn, Thể Ngô cũng như giáo sư Dương Kỵ và con là Quỳnh Trân, ông Dương Thanh và con Quỳnh Nam đều là hậu duệ con trai út của vua Gia Long.

Các bài "phiên-hệ thi" và "đế-hệ thi" đồng thời là những bài thơ chữ Hán đúng niêm luật và có ý nghĩa; tài của "tác giả" là ở đó, không một chữ trùng điệp. Ở mười một bài tứ tuyệt! Người ta vẫn tương truyền là "ngự chế" do thần mộng! Các bài này năm 1823, được vua Minh Mạng ra lệnh cho khắc lên một cuốn sách kim-loa.i ("kim sách") bằng vàng ròng cho bài "đế-hệ thi" và muời cuốn bằng bạc ("ngân sách") cho mười bài "phiên-hệ thi". Các kim và ngân sách này được bảo trì kỹ lưỡng cho đến thời Tự Ðức thì phần lớn phải nấu ra kim loại để trả nợ chiến phí bốn triệu đồng cho Pháp và Tây-ban-nha theo hiệp ước Nhâm-tuất (1962). Không ai biết sự thật ra sao vì đến ngày Bảo Ðại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này đã biến mất!

Vua Minh Mạng cũng quyết định rằng hậu duệ của Triệu-tổ Tịnh Hoàng-đế Nguyễn Kim mà không phải là hậu duệ ngành vua Gia Long, tức hoàng tộc "tiền hệ", thì chỉ dùng họ "Tôn-thất". Riêng về nữ giới hậu duệ của vua Minh Mạng thì dùng các cách gọi sau đây, thay đổi theo thứ tự thế hệ:

Công-chúa : chị em vua Minh Mạng

Công-nữ : con của vua

Công tôn-nữ: cháu của vua

Công-tằng tôn-nữ : chắt của vua

Công-huyền tôn-nữ: chít của vua

Lai-huyền tôn-nữ : con của chít của vua MM.

Người trong hoàng tộc thuộc "đế-hệ thi" thường không để "Nguyễn-phúc" hay "Tôn-thất" phía trước họ mới như Bảo Long, Bửu Dưỡng, Ưng Quả,... trong khi những người thuộc "phiên-hệ thi" thì lại hay dùng "Tôn-thất" trước họ mới như Tôn-thất Viễn-Bào, Tôn-thất Dương Kỵ,...

Nói chung, các "họ mới" này giúp đoán biết người nào thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn và là hậu duệ của ngành Gia Long, Minh Mạng hay Nguyễn Kim. Tuy nhiên, các "họ" này không thật là "họ" theo nguyên nghĩa, do đo chúng tôi sẽ không ghi vào danh sách các họ ở cuối bài. Riêng con cháu dòng nhà Lê cũng có một hệ thống tên lót "Cam, Hồng, Phước" để phân biệt thế hệ, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm được tài liệu (*) để có thể xác nhận.

Họ dân gian

Trong số "trăm họ" hiện được dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc. Chúng tôi nói "họ" Việt mà không nói "người" Việt vì đến nay, mấy ai có thể chứng minh là thuần "len" hay "máu" Việt.

Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ đồng bằng phía Nam sông Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống phía Nam và lập quốc ở vùng đồng bằng sống Hồng, Bắc Việt. vào khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên. Từ năm 1069, người Việt nam tiến chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm 1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759. Cuộc Nam tiến đã dừng lại khi người Pháp chiếm đóng và thành lập Ðông dương thuộc địa. Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó đô hộ cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình sanh con đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa đến tị nạn hoặc di trú. Ðáng kể nhất là quần thần nhà Minh tới định cư ở Nam Việt ta sau khi bị người Mãn Châu (Thanh) xâm chiếm nước họ.

Ðó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu, Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc gốc Miên như Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện gọi là "dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Ðèo, Kha, Diêu, Vi, Quách, Nông, Chữ, Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, sầm, v.v.


Ý NGHĨA HỌ NGƯỜI VIỆT

Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại mà mỗi bộ tộc có một tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những tên biểu hiệu tượng vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số khác biểu tượng nghề nghiệp như họ Ðào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc, như họ Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là họ bộ tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân biệt với "nom de famille / family name".

Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau thêm chữ Nôm rồi "quốc ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu được ý nghĩa sơ nguyên của họ. Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc một chữ đã gợi lên cùng một ý nghĩa, như các họ Ðinh hiện được hiểu là "công dân", "người". Quách nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng có nghĩa là "lớp thành ngoài". Họ Lê vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.

Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi chép lại, được hiểu là phải viết như một danh từ chung, nhưng không nên hiểu là có cùng một ý nghĩa như danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher, Boulanger ... có thể từ nguyên gốc để chỉ những nghề của tổ tiên họ. Các chữ không nhất thiết phải gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ, nhất là từ khi có chữ quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như không có ý nghĩa chắc chắn, vì thế ta không thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa là thế này hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.

----------

Sao anh biết? :eek: :eek: :eek:
Mà họ em thì nổi tiếng mà.:">
khổ, anh biết 1 chút thôi mà, vô tình lại đúng:D
 
Hix, trong các dòng họ đổi tên thì dòng họ Mạc bị đổi nhiều nhất, và nhiều chi nhất, post ít tài liệu sưu tầm để các em đọc cho vui, nếu em nào biết thêm thì chia sẻ nhé
Hậu Duệ Nhà Mạc


Biên soạn theo Hợp biên thế phả họ Mạc (NXB Văn hoá dân tộc - 2001) và Gương sáng dòng họ, 2 tập (NXB Lao Động - 2002, 2004)

350 con cháu nhà Mạc bị nhà Thanh giao cho triều Lê về sau trở thành người dân tộc thiểu số, sống rải rác khắp các tỉnh vùng Việt Bắc, mang họ Mạc, Mai, Ma, Bế... Nhưng hậu duệ nhà Mạc ở những tỉnh đó không chỉ là con cháu 350 người này vì rất nhiều người đã không theo Mạc Kính Vũ chạy sang Trung Quốc. Họ ở lại và thay tên đổi họ nên hiện nay nhiều người Tày ở đây lại mang những họ của người Kinh như: Lê, Đàm, Nguyễn...


ở trang Hùng Khê, nay là thôn Câu Tử, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng có một chi họ Mạc ngay khi họ Mạc bị săn lùng ráo riết vẫn được yên ổn và giữ nguyên họ Mạc từ đấy đến nay. Ninh vương Mạc Phúc Tư là thuỷ tổ của chi họ này. Nguyên là năm 1573, con Mạc Phúc Tư là Mạc Đạo Trai theo quân vào đánh Thanh Hoa chẳng may bị bắt. Trịnh Tùng muốn dùng ông để đánh đòn tâm lý vào nhà Mạc nên gả con gái là Trịnh Thị Nhân cho. Tuy nhiên Đạo Trai đã tự sát. Trịnh Thị Nhân giữ tiết không tái giá, vì không có con nên xin người cháu gọi chồng là chú làm con nuôi; người này về sau đưa mẹ về Hùng Khê phụng dưỡng, con cháu do vậy vẫn được giữ họ Mạc và hậu duệ còn đến ngày nay.

Con cháu nhà Mạc quyết chiêu tuyết cho nỗi oan lịch sử của hàng triệu con người nên đã đề ra nguyên tắc “biến dị nhi đồng” và nghĩ ra những quy định để sau hàng trăm năm dù ở đâu và mang những họ khác nhau, vẫn nhận ra nhau cùng chung nguồn gốc:


- Do chữ Mạc có bộ “thảo đầu” nên họ quy định “Khử túc bất khử thủ” (bỏ chân không bỏ đầu), từ đó đổi sang những họ trong chữ Hán cũng có “thảo đầu” như: Hoàng, Cát, Lê, Thái, Phạm, Lều...

- Hoặc giữ lấy chữ “Đăng” làm tên lót, hình thành các họ Lê Đăng, Hoàng Đăng, Phạm Đăng, Phan Đăng, Bùi Đăng, Thạch Đăng...

- Hoặc lấy theo họ mẹ, như Bùi ( tổ là Mạc Phúc Đăng - con Mạc Phúc Hải và Quý phi Bùi Thị Ban), họ Đặng (tổ là Mạc Mậu Giang - con Mạc Mậu Hợp và Quý phi Đặng Thị Xuân) ...

Họ Phạm ở phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định tổ là Mạc Đăng Thận, cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung đổi thành Phạm Đình Trú, ra đi từ Cổ Trai đã mang theo thanh đao của Mạc Thái Tổ, hiện còn thờ ở từ đường họ. Mạc Bia, hậu duệ của Mạc Kính Điển hiện sống ở Mỹ còn giữ được quả ấn của nhà Mạc.

Họ Vũ Tiến ở xã Đồng Xuân, huyện Đông Hưng, Thái Bình vào năm 1994 tu tạo từ đường, khi cạo lớp vôi tường đã vô tình làm lộ ra đôi câu đối chữ Hán, đại ý: “Gia thế cho hay rằng là con cháu của Trạng nguyên họ Mạc đời Trần (Mạc Đĩnh Chi) / Tộc phả lưu truyền rằng vốn quê ở Đông Hải, quận Thanh Hà dời san”. Họ Nguyễn Phương ở Thanh Chương, tỉnh Nghệ An thờ tổ là Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Mậu Hợp có đôi câu đối truyền đời: “Phúc khánh Đại Đồng, thực lạc nhất thành Chân Cảm / Gia đình Yên Lạc, toàn bằng tiên tổ Chí Linh”, nội dung khá bí hiểm nhưng điều chính là ghi lại những nơi Mậu Gang đã đi qua trên đường lánh nạn, từ đó muốn con cháu lần về gốc: Đại Đồng, Chân Cảm, Yên Lạc và quê gốc là Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Dương Bá Cung, người đã viết thế phả họ Lều vào năm Tự Đức thứ 6 (1853) nói: “Tổ tiên họ Mạc đến đầu thời Lê trung hưng đôỉ thành họ Lều, giữ lại bộ thảo đầu để khỏi lẫn với họ khác”. Gia phả họ Phạm ở Cao Sơn, xã Thái Hoà, huyện Thái Thuỵ, Thái Bình đã viết sự tích dòng họ mình thành thơ cho dễ nhớ: “Tổ tiên ta xưa kia là họ Mạc/ ở huyện Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Yên...Để giấu che tung tích tránh nguy cơ/ Bỏ họ Mạc đổi thành họ Phạm...”. Gia phả họ Trần ở xã Tạ Xá, tổng Cao Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương nay câu đầu có viết: “Xưa họ Mạc đến Hiển tổ ta bắt đầu đổi sang họ Trần cho theo đó chưa đổ lại họ. Người có gốc như cây có gốc, nước có nguồn. Cái lý đó há nỡ lòng quên...”. Tộc phả Lê Đăng ở thôn Phương La Đông, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở đầu: “Gốc họ Lê Đăng chính là Mạc Đăng”...

Có những người để ra hàng chục năm trời đi khắp nơi để “vấn tổ tầm tông” vào những năm đường sá, xe cộ còn hết sức khó khăn; có những cụ già cuối đời dứt khoát tìm về Cổ Trai viếng thăm đất tổ rồi mới chịu nhắm mắt xuôi tay...

Con cháu nhà Mạc nhờ vậy sau hàng trăm năm vẫn nhận ra nhau và hàng năm cứ đến ngày 22 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Mạc Thái Tổ, lại từ khắp nơi về thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng lễ tổ và họp mặt và cứ 5 năm lại là đại giỗ. Bên cạnh đó, dịp kỷ niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, 28 tháng 11 âm lịch, cũng là dịp con cháu nhà Mạc trên Cao Bằng xuống xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng dâng hương tỏ lòng biết ơn Trạng đã giúp họ tồn tại đến ngày nay.

Điều kỳ diệu nhất là đôi câu đối tương truyền là sấm Trạnh Trình:“Tứ bách niên tiền chung phục thuỷ/ Thập tam thế hậu dị nhi đồng” (Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu/ Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn chung). Tính ra, từ năm 1592 khi Mạc Mậu Hợp bị bắt, đến năm 1992 là năm các nhà khoa học lịch sử bắt đầu có những ý kiến đánh giá lại nhà Mạc một cách công bằng hơn, thoát khỏi sự lệ thuộc vào quan điểm của sử thần nhà Lê và Trần Trọng Kim, đúng là tròn 400 năm. Đặc biệt, sau cuộc Hội thảo khoa học về Vương triều Mạc tổ chức tại huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, ngày 18/7/1994, việc sưu tầm tài liệu về họ Mạc được các Ban liên lạc họ Mạc ở nhiều nơi quan tâm.

Đến ngày 30/6/2000, Ban liên lạc họ Mạc ở Hà Nội đã lập được danh sách 369 chi họ Mạc và chi họ gốc Mạc ở 25 tỉnh, thành phố (xếp theo A,B,C):

1. Bắc Giang 11 chi họ: Mạc, Hoàng, Nguyễn, Đào Đăng, Đặng, Phạm, Trần.

2. Bắc Ninh 5 chi họ: Lê Đăng, Đoàn, Hán, Mậu, Lê Đăng.

3. Bình Định 3 chi họ: Mạc.

4. Bình Thuận 1 chi họ: Huỳnh Công Triều.

5. Cao Bằng 15 chi họ: Mạc, Hoàng, Bế, Vương, Phạm Đăng, Mai, Đinh, Mạc Ngọc.

6. Đồng Nai 1 chi họ: Bùi Thái.

7. Hà Nam 3 chi họ: Hoàng, Mạc, Văn.

8. Hà Nội 5 chi họ: Thạch, Phương Đình, Phương Văn.

9. Hà Tây 13 chi họ: Bùi Trần, Lều, Cát, Mạc, Liêu, Hoàng, Phùng, Lê, Chu, Phương (gồm Phương Văn, Phương Đăng, Phương Đình, Phương Công), Nguyễn Đăng, Trần Đăng.

10. Hà Tĩnh 28 chi họ: Phạm Công, Phạm, Phạm Bá, Thái Văn, Phạm Viết, Phạm Văn, Bùi, Hoàng Văn, Thái, Phan, Thái Xuân, Thái Khắc, Thái Văn, Phạm Quốc, Phạm Cao, Phan Đình, Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Xuân, Phan Đăng, Phan Văn, Phan Viết, Bùi Đình.

11. Hải Dương 25 chi họ: Mạc (18 chi họ), Nguyễn, Trần, Đặng, Nguyễn Thế.

12. Hải Phòng 4 chi họ: Mạc, Khoa (tức Hoa), Phạm, Hoàng.

13. Hưng Yên 3 chi họ: Mạc, Phạm.

14. Nam Định 11 chi họ: Hoàng, Bùi, Phạm.

15. Ninh Bình 4 chi họ Phạm.

16. Nghệ An 182 chi họ: Với 5 phái hệ chính:

(1) Phái hệ Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng 8 chi họ: Hoàng Trần, Hoàng Văn, Hoàng Bá, Hoàng Sĩ, Hoàng Văn, Lê Đăng.

(2) Phái hệ Thế tử Mạc Mậu Giang 14 chi họ: Nguyễn Phương, Hoàng Văn,

Nguyễn Trọng, Phạm Đình, Phan, Phan Văn, Phan Sĩ, Phan Văn, Phan Đăng.

(3) Phái hệ Thế tử Mạc Đăng Bình 38 chi họ: Thái Doãn, Thái Khắc, Thái Hồng,

Thái Văn, Thái Bá, Thái Đắc, Thái Đình, Thái Đạo, Thái Duy, Thái Bá, Thái Huy

.

(4) Phái hệ hậu duệ Mạc Kính Vũ 6 chi họ: Phạm Ngọc, Phạm Văn, Phạm Bá.

(5) Các phái hệ khác 117 chi họ: Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Đăng,

Hoàng Thế, Hoàng Đức, Hoàng Đình, Hoàng Khắc, Hoàng Ngọc, Hoàng Duy,

Hoàng Như, Hoàng Kim, Thái, Thái Hữu, Thái Văn, Phạm, Phạm Hồng, Phạm

Viết, Phạm Văn, Phạm Đình, Phạm Bá, Phạm Xuân, Phạm Hữu, Phạm Trọng,

Phan, Phan Đình, Phan Hữu, Bùi Đình, Bùi Văn, Bùi, Bùi Gia, Bùi Thái, Bùi

Công Trần, Lê, Lê Đức, Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân, Nguyễn Quốc, Mạc, Cao

Thái, Hồ Đăng.

17.Quảng Bình 2 chi họ: Hoàng, Phạm Bá.

18. Quảng Nam 5 chi họ: Hoàng, Huỳnh, Huỳnh Phương, Nguyễn Trường, Mạc Nguyễn Trường.

19. Quảng Ngãi 4 chi họ: Huỳnh, Phạm, Bùi.

20.Quảng Ninh: 3 chi họ Mạc.

21. Thái Bình 22 chi họ: Hoàng, Phạm Văn, Phạm Ngọc, Phạm Đăng, Phạm, Phạm Đình, Phạm Ngụ, Phạm Xuân, Phạm Chi, Thái Văn, Bùi Đăng, Bùi Đình, Lều Văn, Khổng, Nguyễn Doãn, Nguyễn Công, Vũ Tiến, Vũ Như, Tô, Đỗ, Lê Đăng.

22. Thái Nguyên 4 chi họ: Mạc, Nông, Đoàn.

23. Thanh Hoá 10 chi họ: Hoàng, Hoàng Viết, Hoàng Trịnh, Lê Đăng, Đỗ, Tô, Phạm.

24. Vĩnh Phúc 4 chi họ: Chữ, Hoàng, Nguyễn, Nguyễn Đăng.

25. Yên Bái 1 chi họ Mạc.

*

Rất nhiều người họ Mạc và gốc Mạc là những nhân vật nổi tiếng, như:

- Hoàng Diệu (1829 – 1288), Tổng đốc Hà Nội 1880 - 1882, hy sinh tuẫn tiết khi Pháp đánh thành Hà Nội năm 1882.

- Đốc Tít (1855 – 1912), còn gọi là Đốc Tích, Đốc Tiết, tên thật là Mạc Đăng Tiết, một trong những thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Năm 1889 bị Pháp bắt đưa đi đày ở Angiêri.

- Mạc Đĩnh Phúc (? – 1897), còn gọi là Nguyễn Khắc Tỉnh, cùng Kỳ Đồng chống Pháp, bị giặc bắt và tử hình năm 1896.

- Phạm Hồng Thái (1895 – 1924), mưu giết toàn quyền Meclanh tại khách sạn Victoria, Quảng Châu, ngày 19/6/1924 không thành, nhảy xuống sông tự vẫn, mộ đặt ở nghĩa trang Hoàng Hoa Sơn cùng 72 liệt sĩ Cách mạnh Tân Hợi. Thuộc phái hệ Mạc Mậu Giang (con thứ 17 của Mạc Phúc Nguyên), đổi sang họ Phạm từ thời Mạc Mậu Linh.

- Lê Hồng Sơn (1899 – 1933), người được giao nhiệm vụ bảo vệ cho Phạm Hồng Thái. Sau là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bị Tưởng Giới Thạch bắt giao cho Pháp và bị kết án tử hình năm 1933. Cháu 11 đời của Mạc Đăng Lượng.

- Phan Đăng Lưu (1902 – 1941), một trong những lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, bị bắt cùng Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập... trong khởi nghĩa Nam Kỳ và hy sinh năm 1941. Cháu 14 đời của Mạc Huyền Nhai.

- Lều Thọ Nam (1909 – 1934), cùng Trường Chinh tham gia Thành uỷ lâm thời Hà Nội trước năm 1930, phụ trách giới học sinh. Bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, vượt ngục và hy sinh năm 1934. Thuộc phái hệ Mạc Phúc Trì (cháu Mạc Mậu Hợp). Nhà Mạc thất thế, Phúc Trì chạy về phủ Thường Tín, trấn Sơn Tây và đổi thành họ Lều.

- Phạm Kiệt (1910 – 1975), chỉ huy đội du kích Ba Tơ, sau là trung tướng CAND Việt Nam. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Dinh.

- Chu Thiên (1913 – 1992), nhà sử học, nhà văn, tác giả tiểu thuyết Bóng nước hồ Gươm.

- Mai Trung Lâm (1914 – 2000), dân tộc Tày, vào Đảng từ 1932, tiểu đội trưởng trong Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau là thiếu tướng QĐND Việt Nam.

- Hoàng Kiện (1915 – 2001), tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Huế, sau là Trung tướng QĐND Việt Nam.

- Dương Mạc Thạch (1915 – 1979), dân tộc Tày, vốn họ Mạc (cha là Mạc Văn Tân), vì ở rể nên theo họ Dương, giữ chữ Mạc làm tên đệm. Chính trị viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bí danh Xích Thắng; Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang (1951- 1971). Con là Dương Mạc Thăng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Cao Bằng, Đại biểu Quốc hội khoá 10.

- Mạc Thị Bưởi (1927 – 1951), Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp.

- Hoàng Hanh (1893 – 1963), Anh hùng Lao động trong kháng chiến chống Pháp. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng.

- Phạm Thiều (1904 – 1986), cùng với Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy là những người đầu tiên được Nhà nước phong học hàm Giáo sư, từ năm 1946.

- Hoàng Tụy (sinh 1927), giáo sư toán học, Viện trưởng Viện toán học Việt Nam.

- Hoàng Phê (sinh1932), giáo sư ngôn ngữ học, Viện trưởng Viện ngôn ngữ; em ruột Hoàng Tuỵ.

- Hoàng Lê (sinh 1932), giáo sư, tiến sĩ. Trưởng ban liên lạc họ Mạc tại Hà Nội, chủ biên bộ sách “Gương sáng dòng họ”. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Khuê.

- Vũ Đình Cự, giáo sư, tiến sĩ vật lý, nguyên Phó chủ tịch quốc hội.

- Mạc Đường, giáo sư.

- Hồng Đăng (sinh 1936), nhạc sĩ. Tên thật là Phan Đăng Hồng, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, cháu ruột Phan Đăng Lưu.

- Phan Đăng Nhật, giáo sư, tiến sĩ.

- Hoàng Trần Cương (sinh 1948), nhà văn.

Hải Phòng, tháng 8 - 2006

tháng 4 - 2007

Bùi Mạnh Quỳnh (Theo Tiểu thuyết lịch sử của Lưu Văn Khuê)
 
em bái phục anh đấy ^:)^ ^:)^
đặt tên lằng nhắng mới thấy bama quan tâm đến baby thế nào 8->

@ e.n.anh : cô Thúy đi bắc kinh , thâm quyến hay thượng hải hả em , chị còn chưa kịp trả cô sách 8-}

a.Long đi làm có làm việc , hợp tác vs Đài loan hay t quốc ko ạ? mọi người dọa họ làm ăn ki bo lắm :| em thấy hơi nản :|
 
ko phải em ko trả lời mấy cái nghĩa bóng bổ ngữ xu hướng :D mà em lười đánh lắm :D nhiều lắm anh ạ , mấy cái mỗi cái lại thêm mấy nghĩa nữa :-j
Hơ, em phải khai sáng cho anh với chứ, để anh dốt là em có 1 phần trách nhiệm đó8-X:
Em đánh đi để anh xem lai phần ngữ pháp của anh hồi học đại học, quả thật lần đầu anh nghe thấy nghĩa bóng của bổ ngữ xu hướng, cũng muốn xem nó phân tích ngữ pháp thế nào hihi, lâu lại ngứa nghề;;)
 
em bái phục anh đấy ^:)^ ^:)^
đặt tên lằng nhắng mới thấy bama quan tâm đến baby thế nào 8->

@ e.n.anh : cô Thúy đi bắc kinh , thâm quyến hay thượng hải hả em , chị còn chưa kịp trả cô sách 8-}

a.Long đi làm có làm việc , hợp tác vs Đài loan hay t quốc ko ạ? mọi người dọa họ làm ăn ki bo lắm :| em thấy hơi nản :|
bái phục cái gì hả em, anh nói rồi mấy cái kiến thức này bây giờ chả ai quan tâm và đem vào hòm chôn rồi, mới cả như anh bây giờ còn cảm thấy ngượng vì toàn vào đây bắt nạt các em hixx, cậy lớn bắt nạt bé hihi, nên 1 số thông tin phải nói sai đi 1 chút như đã học đại học mà bảo học trung tâm chẳng hạn, nên mấy em lượng thứ nhé
Có câu này tặng em về việc mượn sách
Tá thư ngu, hoàn thư cánh ngu
hihi nghĩa là hihi cho mượn sách đã là ngu, trả sách lại còn ngu hơn=))
tùy em thôi, nếu sách hay thì cho anh mượn cũng ko sao :D
Anh đang thiếu sách đây, em nào có sách nào hay cho anh mượn thì đội ơn lắm lắm hihi
Anh có làm việc với TQ và ĐL, làm ăn thì chả ai hào phóng cả, vì ai chả muốn bỏ ít nhất và thu về nhiều nhất ( trừ đứa nào bị thần kinh mới làm ngược lại 8-} ), còn dĩ nhiên làm với người Việt Nam là dễ nhất:D , em mới đỗ DH mà đã nghĩ đi làm sớm thế, khẹc quên không hỏi em đỗ trường gì. lại ngoại thương hả, anh đấy đa phần dân Ams đều thi ngoại thương giống như bọn anh ngày xưa là thành 1 seri trường học từ cấp 1 đến đại học hihi
Hôm nay tìm hiểu họ Việt Nam đến thế đã nhé, còn tên thì tiếp tục sau
Muốn biết chi tiết về tên thế nào
Xem hồi sau sẽ rõ nhé
 
Chỉnh sửa lần cuối:
@aLong: hix, thôi ko nói bái phục nữa, khổ thân anh :D Mai em sẽ đọc anh ạ :D còn bây giờ, em đi ngủ :D
@cThảo: cô đi chốn nào của TQ em chịu :D nhưng cuối tháng cô mới đi, nếu chị muốn trả sách thì chắc vẫn đc ạ :D
@Chuối: làm thế nào post 2 bài đấy ;;)
 
Nhưng có trường hợp có người con lấy lại họ cũ, như con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn của cha họ Vũ nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm, nhưng đa số lấy lại họ gốc là Phạm vì ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một trong chín người con.
Họ em chính là họ Phạm này.:">
Ông Vũ Phạm Hàm tương đương với cụ em.:p Vẫn còn lăng và nhà ở quê đó, con cháu làm to lắm.8->
30 này có hội thảo lịch sử công nhận cụ em có đóng góp lớn cho phong trào Đông Du và là đồng chí của ông Nguyễn Thượng Hiền.;)) Phải về xem cho biết.
 
Họ em chính là họ Phạm này.:">
Ông Vũ Phạm Hàm tương đương với cụ em.:p Vẫn còn lăng và nhà ở quê đó, con cháu làm to lắm.8->
30 này có hội thảo lịch sử công nhận cụ em có đóng góp lớn cho phong trào Đông Du và là đồng chí của ông Nguyễn Thượng Hiền.;)) Phải về xem cho biết.
OH, vậy nhà em là danh gia vọng tộc rồi;))
 
Thế mà con cháu nghèo rớt mùng tơi thế này.:((

ối xời, nghèo tình nghèo nghĩa thì lo, chứ nghèo tiền nghèo bạc ai cho là nghèo, mới lại em bây giờ chưa kiếm tiền thì nghèo chứ giàu kiến thức thì lo gì không giàu
Mà hình như thầy Nguyện Thượng Võ dạy toán trường mình là cháu cụ Nguyễn Thượng Hiền thì phải, hồi trước nghe thế không biết đúng không hihi
 
@aLong: hix, thôi ko nói bái phục nữa, khổ thân anh :D Mai em sẽ đọc anh ạ :D còn bây giờ, em đi ngủ :D
@cThảo: cô đi chốn nào của TQ em chịu :D nhưng cuối tháng cô mới đi, nếu chị muốn trả sách thì chắc vẫn đc ạ :D
@Chuối: làm thế nào post 2 bài đấy ;;)

Ấy post 1 bài + quote 1 bài hoặc quote 2 bài là ok :)) 8->
@chị Thảo: chắc là Bắc Kinh chị ạ 8-| hình như thực tập j đấy ? Cô đi bất ngờ, kiểu như đánh du kích, chưa kịp hỏi han j.
À cô bảo, ai mượn sách cô, nếu mà ko đi du học, thì cứ cầm lấy, còn nếu định đi du học thì mang trả cô ;))
 
Nào tiếp tục về cái tên lằng nhằng nào
Một con người có thẻ có ngần này cái tên sau:danh, tự, hiệu, nghệ danh
Danh 名: là tên người do bố mẹ đặt hay nhờ người đặt cái này ai cũng biết nhỉ
Tự 字: có thể căn cứ theo tên của mình để đặt 1 tên khác. Con trai 20 tuổi, con gái 15 tuổi bắt đầu đặt "tự" để biểu thị đã trưởng thành hoặc đã có thể lấy chồng ( cái này các em gái chú ý nhé:D ). Tự này thì thường chỉ có các trí giả mới có còn thường dân thì không, lý do miễn bàn vì ai cũng biết;)), ví dụ như có người tên Thọ lấy Tự là Nam Sơn là lấy từ câu thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng hoặc như Khổng Tử tự là Trọng Ni vì ngài là con thứ 2 trong gia đình mà theo chứ Trung Quốc Manh, T2ọng, Quý là 1,2,3 ví dụ như tháng 2 của mùa xuân gọi là trong xuân hihih:-?? . Tự của cổ nhân thường có ý nghĩa mật thiết với tên, tự để bổ sung giải thích cho tên, 2 cái như là bên ngoài và bên trong vậy. Theo “Nhan thị gia huấn " thì " tên la fchisnh thể, tự là biếu đạt Đức "
Hiệu: là tên gọi khác ngoài tên gọi của mình, thường mang màu sắc nghệ thuật, người Nho Nhã lấy hiệu thường gọi là " Nhã hiệu" ví dụ thì Thủy hử nhiều lắm<:p , sau khi chết đi người khác đặt thì tên cho thì gọi là Thụy hiệu谥号 hay ngupwif ta gọi nôm na là tên hòm hay tên hèm. Ngoài ra hoàng đế chết đựoc thờ trong miếu đường thì có Miếu hiệu là cái gì tổ, cái gì tông đó hihi, ví dụ nhé Tống thái tổ hihi
Nghệ danh là tên khi đi diễn như cái gì Ưng Hoàng Phúc đó, có thể gồm cả bút danh
cách đặt tên thì như anh đã nói:
1-Theo sự kỳ vong của bố mẹ như sau này muốn con mình sẽ ra sao , khí chất thế nào, tính cách thế nào, về phương diện đạo đức sẽ có những cái gì muốn phát triển
2- Đặt tên theo năm sinh, ngày xưa thường thế, sinh năm chó đặt tên là Tuất ví dụ thế
3- Đặt tên cho xấu để ma quỷ khỏi bắt, cái này chỗ nào tìm cũng có , khỏi ví dụ
4- Đặt tên theo người nổi tiếng thời xưa như: Cao Bá Quát cùng người anh song sinh là Cao Bá Đạt nổi tiếng thông minh, học giỏi từ nhỏ.Thân sinh của hai ông là Cao Cửu Chiêu, một nhà nho hay chữ, có ước vọng khi lớn lên, các con mình sẽ trở thành quan đại thần của triều đình nên lấy tên của hai học sĩ đời Chu cũng là hai anh em sinh đôi để đặt tên cho hai con.
Ngày nay thì dã man hơn, đã thấy tên như Lê Quý Đôn, Đinh Bộ Lĩnh hixx
5- Đăt tên ghép chữ bố mẹ hoặc tên mẹ thành đẹm của con như anh đã nói cái này miễn trình bày
6- Đăt rên theo các sự việc hiên tương thiên nhiên những cái quý hiếm , tứ linh rồi theo phong trào của thơi fbấy giờ chuộng tên gì như hồi 75 thì toàn Chiến với Thắng , rồi Thống Nhất, Hoà Bình ....
Đến đay chỉ tạm đưa ra chút ý kiến thổ thiển, mong đựoc sự góp ý của các em để anh cóp nhặt về còn đi loè đứa khác nhé, nói nhỏ , đừng cho đưa khác biết;)
 
Back
Bên trên