Vật chất - Ý thức, khái niệm căn bản của Triết học

Tống Minh Tuấn
(TuanCominglate)

Điều hành viên
Có bao giờ, bạn tự hỏi, liệu rằng cuộc sống của chúng ta đang đi về đâu? Con người đang đấu tranh, sống, phấn đấu về cái gì? Những thứ mà có vẻ chúng ta đang vật lộn với nó hằng ngày, thực ra chỉ là một điểm, một khoảnh khắc rất nhỏ trong cái chuỗi vô tận, đầy những điều mới mẻ lý thú khác. Với những cái hằng ngày đó, ta có cảm tưởng như tất cả mọi thế giới này, dường như là của con người, mọi yêu hờn ghét bỏ, mọi hành phúc khổ đau thế gian, sung sướng bi thảm đều chỉ tồn tại trên cái thế giới loài người này. Mọi vật xung quanh tồn tại như chỉ để tô điểm thêm cho cuộc sống loài nguời, muôn cây hoa lá, bình minh, mây trời, dường như chúng ta đã hiểu hết chúng, chúng trở thành nguồn cảm hứng, chúng phụ thuộc vào chúng ta, và chúng ta, những con người, đang là tất cả...

Nhưng sự thật lại không phải thế. Đôi khi tôi ngồi tự hỏi, tại sao lại có con người, con người tồn tại để làm gì, rốt cuộc sống để làm gì, sinh ra, rồi tự mang khổ đau, rồi cuối cùng đằng nào chả chết. Đứng tách mình ra khỏi thế giới, từ xa nhìn vào, tất cả thế giới loài người của chúng đang tồn tại trên trái đất, một hành tinh khá nhỏ trong tầm ảnh hưởng của một ngôi sao cũng khá nhỏ, chẳng có gì đặc biệt so với thế giới vũ trụ bao la cả. Chúng ta có hoàn toàn cảm nhận hết thế giới không? Để đi đến ngôi sao láng giềng chúng ta nhất, trong nền văn minh chúng ta, chúng ta cần vượt qua khoảng cách gần 4 năm ánh sáng, mà đi bằng tàu vũ trụ thông thường một cách lý tưởng nhanh nhất như bây giờ, chúng ta cần cỡ 40.000 năm, có nghĩa là thời gian, một ý niệm tồn tại theo tư duy con người là dòng chảy các sự kiện, để tinh cầu chúng ta chạy 40.000 vòng quanh ngôi sao của nó, chúng ta mới tới được láng giềng thân cận nhất đó. Nhưng rồi sẽ tự hỏi, liệu sau tần đấy thời gian, văn minh con nguời trên trái đất liệu còn tồn tại không, và nếu không, rõ ràng chúng ta vẫn còn quá nhỏ bé so với thế rồi. Hay nói khác đi, nếu đứng về khái niệm vật chất mà nói, đứng về toàn thể vũ trụ vật chất trong thiên hà bao la này, chúng ta, con người đang tồn tại đây, chả là cái gì cả....
Đôi khi, chúng ta nói đến sự "ý nghĩa của cuộc sống", vậy thì ý nghĩa ở đâu ra, nó cũng bắt nguồn từ loài người, mọi khổ đau hanh phúc, mọi thứ, tất tần tật, âm nhạc, khoa học, nghệ thuật, sự thù ghét, yêu thương... những cái mà chỉ có trong "ý thức" mọi người, cũng đều được con người khai sinh ra, hay nói khác đi, nó là sản phẩm của con người. Vậy ta hãy thử nhảy ra ngoài thế giới của chúng ta, đứng cách mặt trời chúng ta hàng triệu cây số, khi mà xung quanh ta chỉ là một khoảng rỗng tuếch, lanh lẽo và vô nghĩa, rồi nhìn về trái đất, rồi tự hỏi, sao cái nơi vớ vẩn đó, lại tồn tại cái mà người ta gọi là "ý thức con người". Rõ ràng cái điểm đó chỉ là một điểm rất bình thường, như bao cái khác. Nhưng nó quan trọng ở một chỗ là, nếu không có cái điểm đó, thì chẳng có cái "ý thức" kia, để mà "cảm nhận" được cái tồn tại của vũ trụ. Và rõ ràng là, nếu không có cái đó, mọi thứ trở nên vô nghĩa, chúng ta không thể biết được sự tồn tại của bất cứ thứ gì, và rồi chỉ cần nghĩ tới điều đó, đầu óc chúng ta sẽ vỡ tung ra với một thứ bùng nhùng khó diễn tả: vậy thì cái gì là quan trọng, cái gì quyết định cái kia, cái gì có trước, chỉ cần trả lời được câu hỏi đó, mọi thứ sau này sẽ trở nên dễ dang phán xét...

Đến đây, tôi mới hiểu được là tại sao, ngày xưa khi học triết học, người ta lại đi tranh luận với nhau về vật chất và ý thức dã man đến thế, tại sao nó lại quan trọng thế đối với triết học, vì rõ ràng nó là sự căn bản của mọi cái căn bản. Nói triết học là môn học của mọi môn khoa học, quả là chính xác. Vì nó xem xét bản chất của tất cả mọi vấn đề. Có người nói rằng, nơi nào có nền văn minh phát triển, nơi ấy sẽ có nền triết học phát triển.

Vật chất, ý thức, rõ ràng là 2 cái căn bản, ý nghĩa của chúng là: Hiện nay, ta đang chịu ảnh hưởng nhiều của chủ nghĩa duy vật, mà theo Mác, ông thích dùng triết học duy vật biện chứng. Nếu theo đó, ta có vẻ dễ dàng coi vật chất là mọi thứ của sự sống, vật chất sinh ra ý thức từ bộ não con người. Coi vật chất là cái quyết định trước, có thể lập luận rằng tất tần tật mọi thứ vũ trụ được tạo nên đều từ cái đó, từ vụ nổ Big Bang mà khỏi điểm là khối vật chất điểm tích tụ, rồi sinh ra thế giới. Nhưng nếu nói rằng, nếu không có cái "cảm nhận vật chất" (ý thức), thì liệu rằng co mọi thứ khái niệm không, có sự thật là vật chất đang tồn tại không, vì rõ ràng ta chỉ biết đến nó khi ta có ý thức, nói rằng nếu không có loài người, không có ý thức thì vật chất vẫn tồn tại, có nghĩa là vụ nổ Big Bang vẫn cứ xảy ra, các ngôi sao vẫn cứ hình thành và tàn lụi, là một điều không được thuyết phục lắm. Vì ngay chính bản thân ta, ta cũng hay tự hỏi, tại sao ta lại tồn tại, khái niệm tồn tại là thế nào, vũ trụ có tồn tại mãi không, và nếu không tồn tại mãi thì sau đó là cái gì, cái không tồn tại đó là thế nào, có nghĩa là chẳng có gì, chẳng có cái gì tất tần tật, sao mà khó hiểu thế... rõ ràng không có cái gì để biết về cái "sự trôi lơ lửng" của vũ trụ khi không có ý thức. Ta có thể tự hỏi, vậy từ trước khi con người, hay ý thức được sinh ra (tức là chưa có cảm nhận), vũ trụ vật chất có thực sự tồn tại được bao nhiêu dị bản rồi, rồi còn có cái gì đó khác thường nữa xảy ra không (vì không có cảm nhận của ai về sự tồn tại), ta có dám khẳng định rằng nó tồn tại hay không, hay khái niệm tồn tại cái gì đó chỉ có khi có "ý thức". Và nếu như vậy, trong một chừng mực nào đó, ý thức lại có trước, quyết định vật chất mất rồi :D
.....
..thôi đi ngủ, không khéo điên :D.....
 
Đề nghị mod move ra board Tâm sự, đọc lên chả có tính chiết học hóc xương tẹo nào.

chiết ra đã viết:
Với những cái hằng ngày đó, ta có cảm tưởng như tất cả mọi thế giới này, dường như là của con người, mọi yêu hờn ghét bỏ, mọi hành phúc khổ đau thế gian, sung sướng bi thảm đều chỉ tồn tại trên cái thế giới loài người này. Mọi vật xung quanh tồn tại như chỉ để tô điểm thêm cho cuộc sống loài nguời, muôn cây hoa lá, bình minh, mây trời, dường như chúng ta đã hiểu hết chúng, chúng trở thành nguồn cảm hứng, chúng phụ thuộc vào chúng ta, và chúng ta, những con người, đang là tất cả...

...

Đôi khi tôi ngồi tự hỏi, tại sao lại có con người, con người tồn tại để làm gì, rốt cuộc sống để làm gì, sinh ra, rồi tự mang khổ đau, rồi cuối cùng đằng nào chả chết.

(vân vân)
 
Đấy là "vào đề", bí kíp võ lâm tuyệt mật của sư phụ ;), mà ai bảo con sư phụ đang nói lời triết học :D, mà ai bảo con là triết học lại không có mấy thứ đó
 
:) Đọc bài viết của bác em có một số ý kiến mạo muội:
+ Về câu hỏi vật chất hay ý thức cái nào có trước cũng tương tự như câu hỏi con gái có trước hay con trai có trước vậy, em nghĩ là tương đối hài hước vì thực chất đây chỉ là một thể loại câu hỏi mang tính ngộ nhận , áp dụng tư duy logic, nhân/quả, trước/sau không đúng chỗ, đúng lúc. Và theo em nghĩ thì đây cũng là một trong những sai lầm rất cơ bản và nghiêm trọng của triết học duy vật đó là quá ước vọng vào tư duy logic, critical reasoning, vào khả năng suy nghĩ và nhận biết tự nhiên của loài người. Chắc bác cũng công nhận với em là logic là một trong những phương pháp luận cơ bản và gần như là duy nhất để con người cố gắng tìm cách khám phá nguồn gốc của vạn vật. Vậy trước tiên hãy thử đặt câu hỏi logic là gì? Theo nhận định của em thì logic là một thứ tư duy được sản sinh sau hàng triệu năm sinh tồn của sinh vật trên trái đất, bắt đầu từ những hình thức sơ khai nhất thông qua các phản xạ sinh tồn của các sinh vật bậc thấp cho đến tư duy logic cao cấp của loài người. Và cho dù đã trải qua hàng triệu năm tiến hóa, trải qua rất nhiều biến cố với một quá trình tích lũy lâu dài (hàng triệu năm so với gần trăm năm đời người theo cảm nhận của mình thì là quá dài rồi :D) để có thể đạt đến đẳng cấp như ngày nay thì đa số chúng ta đều tin rằng khả năng tư duy của chúng ta đủ để có thể đặt ra những câu hỏi theo kiểu vật chất hay ý thức cái gì có trước và đi tìm câu trả lời mặc dầu vậy thì chúng ta lại không nhận ra một điều rằng tuy đã trải qua hàng triệu năm nhưng chúng ta thực chất vẫn chỉ đang ở trong một cái lồng nhỏ, tất cả những phương pháp tư duy mà chúng ta có được cũng chỉ đúng trong cái lồng đó mà thôi. Cái lồng đó có thể mô tả một cách khái quát là thời gian và không gian. Hàng triệu năm đã trôi qua nhưng không gian thì không lớn lên được là mấy, trái đất vẫn là trái đất, có phình lên hay xẹp đi được thì cũng chỉ là chút ít, thời gian thì gần như không thay đổi, 1 giây vẫn chỉ là một giây điều này bác có thể thấy một cách rõ ràng trong tất cả các suy nghĩ, suy luận va nhận định của con người, tất cả đều xoay quanh cái mà chúng ta gọi là "sự kiện" (event). Con người sẽ không thể suy nghĩ được gì, tư duy logic sẽ bị phá sản, loài người sẽ trở nên ngu hơn côn trùng nếu như không tồn tại các sự kiện. Hay nói cách khác sự kiện là những điểm nhấn của thời gian làm cho thời gian trở nên rời rạc và khiến cho chung ta cảm nhận được sự vật xung quanh chúng ta. Hay có thể nói cách khác thực chất cái mà chúng ta gọi là "ý thức" hay "vật chất" bản thân nó chưa chắc đã tồn tại một cách physically mà có khi nó chỉ là một sản phẩm của tư duy logic, một "virtual concept" sản sinh ra bởi sự cảm nhận một chuỗi các sự kiện rời rạc. Bản thân tốc độ, tần số cảm nhận các sự kiện ở mỗi người, trong từng khoảng thời gian cũng khác nhau, có thể tham khảo một mệnh đề sau : Tần số cảm nhận và xử lý các sự kiện càng nhanh, khả năng cảm nhận được vật chất sẽ càng nhiều hơn, khả năng cảm nhận ý thức sẽ ít đi và ngược lại Hay nói cách khác tùy thuộc vào tốc độ cảm nhận và xử lý sự kiện, một cái được coi là sản phẩm của vật chất trong tư duy của người này có thể được coi là sản phẩm của ý thức trong tư duy của một người khác . Điều này cũng đã được thưc tế chứng minh rất rõ ràng vì sao con người ngày càng tin vào chủ nghĩa duy vật hơn là chủ nghĩa duy tâm như hàng trăm năm trước đây, lý do rất biện chứng của nó là tốc độ cảm nhận và xử lý các sự kiện của con người sau hàng ngàn năm ngày càng được tăng lên qua quá trình thich nghi và tích lũy kinh nghiệm do vậy con người ngày càng cảm nhận được vật chất nhiều hơn là ý thức, thiên về duy vật nhiều hơn là duy tâm. Hơn thế chúng ta mới chỉ bàn đến vật chất và ý thức trong một trường thời gian mà chúng ta đã tồn tại trong nó vài triệu năm qua, chúng ta chưa hề biết đến và trải nghiệm ở các trường thời gian rất khác biệt (ví dụ như trường thời gian trong các lỗ đen vũ trụ) xung quanh chúng ta. Tại đó tùy thuộc vào đặc điểm của trường thời gian, cái mà chúng ta và vật lý học hiện đại gọi là "vật chất" sẽ thay đổi cơ bản tính chất, từ đó dẫn đến cơ cấu, tần xuất, trình tự các sự kiện cũng sẽ bị thay đổi hay đảo lộn, từ đó sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là tư duy logic mà chúng ta đang có hiện nay sẽ hoàn toàn trở nên vô dụng, chúng ta sẽ không còn khả năng cảm nhận các sự kiện trong một môi trường mới và tại môi trường đó sẽ có thể xuất hiển một loại tư duy "phản logic" trong đó quan sát vật chất là ý thức và ý thức là vật chất hoặc thậm chí xuất hiện thêm 1 hoặc nhiều "thực thể" khác bên cạnh cái gọi là "ý thức" và "vật chất" có thể gọi nó là "siêu ý thức" hoặc "siêu vật chất" chả hạn. Và như vậy thì đối với họ cái "triết học" mà chúng ta ngày đêm ngưỡng mộ và vùi đầu vào nghiên cứu chỉ tương tự như thứ triết học "không gian 2 chiều" của loài kiến mà thôi.
Tóm lại có thể thấy rằng ngay cả sự phân biệt giữa vật chất và ý thức của triết học hiện đại cũng là rất mơ hồ mà thực chất đó là một khái niệm hoàn toàn tương đối, bản chất không khác nhau và hoàn toàn là một sản phẩm của sự tưởng tượng, của tư duy logic. Hay nói cách khác triết học là một bộ môn mang tính phản khoa học vì cái đích của nó là đi tìm và đưa ra những kết luận tuyệt đối cho thực tế tương đối, sai ngay từ phương pháp tiếp cận và từ những cách đặt vấn đề tại những nền tảng cơ bản nhất. Mặc dầu vậy, triết học duy vật hiện đại vẫn được con người coi là đúng đắn và coi là một bộ môn khoa học sâu sắc và thiêng liêng vì 2 lý do :
+ Tuy bản chất là sai lầm nhưng vẫn có thể coi là đúng đắn và vẫn có thể áp dụng một cách rất hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta chỉ đơn giản là vì nó chỉ sai khi một trong những nguyên lý nền tảng mang tính hằng số/tiên đề của nó thay đổi (ví dụ như sự thay đổi về trường thời gian hay không gian dẫn đến sự sai lệch trong phương pháp luận) mà những nhân tố này có thể coi là không thay đổi trong suốt quá trình sinh diệt của loài người hoặc có thể nói rộng hơn là trong quá trình sinh diệt của trái đất hay hệ mặt trời.
+ Ngoài tính khoa học, cũng như một thứ tôn giáo, triết học duy vật hiện đại đem lại cho con người những đức tin, sự hưng phấn về mặt tinh thần, làm động lực thúc đẩy sự phát triển. Triết học hiện đại thực chất là một thứ tôn giáo mà trong đó tiên đề và những quan niệm nền tảng của nó là tổng quát và hiển nhiên nhất(hiển nhiên và bao quát hơn rất nhiều các loại tôn giáo khác), chính điều này đã tạo nên sức mạnh để biến triết học hiện đại vuợt ra ngoài phạm vi của một tôn giáo đơn thuần.

Tuy vậy nó cũng tạo ra một số hiệu ứng tiêu cực và cản trở sự nhận thức, phat triển của con người khi đăt mình ở vị trí đối chọi với các trường phái duy tâm, phủ nhận các giả định tiên đề của duy tâm và tự gán cho mình cái mác "khoa học" và gán cho duy tâm cái mác "phản khoa học". Hiệu ứng này cũng đã thể hiện những hậu quả hết sức rõ ràng mà chúng ta đang được chứng kiến đó là con người ngày càng cuồng tín hơn đối với cái gọi là "khoa học" và xem thường, coi nhẹ cái gọi là "duy tâm", "tâm linh". Sự cuồng tín đối với cái gọi là "khoa học" được thể hiện ngay trong tiềm thức của mỗi cá nhân ngay cả với cụm từ "khoa học" đối với chung ta "khoa học" đồng nghĩa với sự đúng đắn với sự chuẩn mực, với nền văn minh nhân loại, ngay cả khi chung ta cảm thấy cảnh giác dè chừng với các thực tế phi khoa học chúng ta vẫn luôn tự an ủi, bao che, ngụy biện cho tính đúng đắn của cái gọi là "khoa học" bằng xu thế tìm mọi cách để lý giải những hiện tượng phi khoa học bằng ngôn ngữ "khoa học" thậm chí khi phải đẻ ra những giả định, luận thuyết có khi còn ngu ngốc và phi lý hơn gấp vạn lần cái gọi là "phi khoa học". Sự cuồng tín này có thể ví như sự cuồng tín vào thiên chúa giáo trong thời kỳ phát triển cao độ của nó vậy. Và thực tế là loài người đang phải trả giá rất đắt cho sự cuồng tín này, thế giới ngày càng trở nên "khoa học" và "hiện đại" hơn nhưng mâu thuẫn và mối đe dọa hủy diệt không hề giảm đi mà đang tăng lên nhanh chóng và loài người thì ngày càng bế tắc với cái gọi là "khoa học" của mình mà không nhận ra được một thực tế rằng khoa học thực chất cũng chỉ là một thứ tương đối và nó không phải là thứ đúng đắn để có thể giải quyết mọi vấn đề.

(Còn tiếp)
 
Anh rất đồng ý với quan điểm cho rằng chính sự tương đối mới là tuyệt đối. Thực sự nếu đi tìm khoa học tuyệt đối trong cái thế giới bao la này có lẽ sẽ điên mất. Con người vẫn mãi chỉ là sản phẩm của vật chất và cái lồng đó vẫn còn quá bé. Có lần anh đã bị thằng bạn hỏi cho câu này mà mình suy nghĩ kĩ thì đúng là không thể tìm được câu trả lời :"bây giờ mày có tin rằng tất cả mặt đất, mặt trời, vả cả hệ thiên hà này có khi lại chỉ là nằm trong một nguyên tử của một vật chất của một nền văn minh "vĩ mô" khác chẳng hạn, rõ ràng chẳng có gì có thể không xảy ra, vì khái niệm "to, nhỏ" cũng mãi chỉ là "khái niệm của con người", do vậy con người cũng vẫn cứ ở trong cái lồng của mình thôi.
................
lâu lắm Board này mới có bài tranh luận hay như của chú Minh, keep continuing nhé...
 
:))
Anh thật các chú, nói đừng buồn chứ mới cái này trẻ con thật đấy. Chú Tuấn, trẻ con nếu bình thường khoảng 10tuổi nó sẽ có những suy nghĩ như chú bây giờ. Em gái anh khi nó học lớp 4 nó cũng hỏi anh liệu trên giời có người khổng lồ không? Liệu họ có đang nghịch trái đất này như chơi quả bóng không? Liệu động đất có phải là do họ đánh rơi không? :)) Đấy là nó chưa biết về nguyên tử phân tử như chú nên nó hỏi theo tư duy trẻ con thế. Nhưng bản chất thì không khác cái mà chú hỏi, đúng không? Nếu chú có em nhỏ, chơi với nó không khéo học được nhiều đấy.

Chú MInh. anh nghĩ chú viết đựoc dài thế thật là hay nhưng anh nói cái này này. Chú bảo tư duy con người bị nhốt trong "lồng" (anh dùng chữ của chú nhé), rồi chú lại bảo nó dek lớn lên mấy vì trái đất vẫn k0 lớn lên
tuy đã trải qua hàng triệu năm nhưng chúng ta thực chất vẫn chỉ đang ở trong một cái lồng nhỏ, tất cả những phương pháp tư duy mà chúng ta có được cũng chỉ đúng trong cái lồng đó mà thôi. Cái lồng đó có thể mô tả một cách khái quát là thời gian và không gian. Hàng triệu năm đã trôi qua nhưng không gian thì không lớn lên được là mấy, trái đất vẫn là trái đất, có phình lên hay xẹp đi được thì cũng chỉ là chút ít, thời gian thì gần như không thay đổi, 1 giây vẫn chỉ là một giây

Thế hóa ra chú ví tư duy với vật chất à? Uh huh, trái đất phình lên thật à? Anh chịu :-&, ặc ặc, thời gian thay đổi...ặc ặc đúng là chiết ra nước, kinh quá.

Tư duy con người thay đổi chứ chú của anh, nó mở rộng ra chóng cả mặt. Giới hạn của tư duy ngày càng bị đẩy lùi, có thể lúc này người ta phải công nhận một nghịch lí khoa học để giải thích 1 hiện tượng nhưng rồi tương lai sẽ có câu trả lời đúng hơn. Sợ chú nhỉ, liệu nó có bum 1 phát không? À nếu là cái lồng thì vô tư nhỉ? Nó chui tọt ra ngoài :))

Khong biết chú copy ở đâu hay xào xáo thế nào chứ đọc phát sợ :-&

Về câu hỏi vật chất hay ý thức cái nào có trước cũng tương tự như câu hỏi con gái có trước hay con trai có trước vậy

:)):)) con gà và quả trứng đựoc đổi thành giai gái thì hay vãi :)):)), con lưỡng tính có trước chú ạ. :lol:
loài người sẽ trở nên ngu hơn côn trùng nếu như không tồn tại các sự kiện
Những câu như này rất đáng yêu đấy.

Bài viết của chú theo thầy giáo anh thì như cái áo vải rách lại đựoc vá vài mảnh gấm vào khiến cho nó thật sang trọng mà rẻ tiền biết bao.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Vũ Anh Vũ đã viết:
:))
Anh thật các chú, nói đừng buồn chứ mới cái này trẻ con thật đấy. Chú Tuấn, trẻ con nếu bình thường khoảng 10tuổi nó sẽ có những suy nghĩ như chú bây giờ. Em gái anh khi nó học lớp 4 nó cũng hỏi anh liệu trên giời có người khổng lồ không? Liệu họ có đang nghịch trái đất này như chơi quả bóng không? Liệu động đất có phải là do họ đánh rơi không? :)) Đấy là nó chưa biết về nguyên tử phân tử như chú nên nó hỏi theo tư duy trẻ con thế. Nhưng bản chất thì không khác cái mà chú hỏi, đúng không? Nếu chú có em nhỏ, chơi với nó không khéo học được nhiều đấy...

Con người ta có thể khám phá, sáng tạo được chính là nhờ không coi thường những câu hỏi trẻ con như vậy đó, bé Vũ ạ.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nói nhiều quá chả thấy giải quyết được cái con khỉ gì cả(các đc triết học dỏm- toàn thể loại mới qua được triết học cua đầu).
Có vài câu hỏi cho các bậc đàn anh triết học đây là các câu hỏi thử trình độ các đc xem là các đc có kiến thức trong đầu thật hay là chỉ tán phét là giỏi:
Các đc toàn lấy duy vật ra tương thế tại sao trên thế giới chỉ có 700 triệu không theo một tôn giáo nào và có hàng loạt nhà khoa học là người có đạo?
CNCS là 1 cái đạo- tại sao có nhiều chú dùng logic duy vật theo vậy?
Các đc nhớ đọc lại các bài học về các hình thức tư duy thì sẽ tự trả lời được những thắc mắc của lòng mình(cái này là theo duy vật). Còn đc nào theo duy tâm thì cứ việc cầu chúa nhé. Cái kết quả quan trọng là các đc có giải quyết được các mâu thuẫn trong đầu mình không.
 
Vũ Anh Vũ đã viết:
:))
.

Bài viết của chú theo thầy giáo anh thì như cái áo vải rách lại đựoc vá vài mảnh gấm vào khiến cho nó thật sang trọng mà rẻ tiền biết bao.

VaV rom hoc thay Tu'c a`?
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Đùa chứ anh đọc cái giọng anh anh chú chú của VAV nghe phò vãi. :mrgreen: Thôi ra đây mà dạy dỗ này, anh vểnh tai lên ngay đây.
 
Các cô chú còn nhỏ tuổi, nếu phán xét phải xem xét rõ hiện tượng, ít nhất là phải biết quan sát, hiện tượng xung quanh, hiểu xem thế giới nó đang diễn ra các gì, hiểu xem người khác nói gì, không có lại giống lai bản tính các cụ khốt nhà mình: lúc nào cũng thích ngồi rung đùi lý sự phán này phán nọ, rốt cục thế giới quan các cụ đã bị thế giới nó bỏ xa hàng vạn dặm...

Ừ thì cứ cho là tán phét, thích thì tán, không thích thì thôi :D
 
CHú Hưng lịch sự chút, anh đang tu nhân tích đức.

Em My, uh, bác Túc em ạ, anh viết gì điều thêm nguồn vào chứ không phải cái kiểu lập lờ xào xáo văn như bọn rởm đời.

Chú Tuấn, anh em mình tâm sự nhé vì anh đâu có biết gì chiết học với lại cái khỉ gió gì đó nhưng anh hiểu chú lắm qua mấy dòng mà chú gọi là chiết học í. Bởi vì bản thân anh cũng trải qua những lúc như vậy, những lúc mà anh no cơm chán chè. Hết trò để làm rồi, cộng thêm tí tác nhân thời tiết mặt giăng mặt giời nữa, anh cũng ngồi ngắm nghía thiên nhiên hệt như chú, thấy sao mình bé nhỏ (có lẽ còn nhỏ hơn cả chú :lol:). Những cảm xúc này đến rồi đi thôi, lâu dần chú sẽ quen với nó, sẽ chẳng thấy gì đặc biệt nữa (mà nếu chú vẫn thấy đặc biệt thì chú nên biết ai cũng trải qua điều đó hết). Cúng như tuổi dậy thì thôi chú ạ.

Khi mà chú đang thỏa mãn, chú bỗng lo sợ sự thỏa mãn sẽ chấm dứt, chú sẽ đau khổ, tiếp đó tìm mọi cách tự xoa dịu, bằng lí lẽ cũng không đủ để làm chú nhẹ lòng nên chú vin đến những cái xa vời hơn, như là vũ trụ hay một vũ khí hạng nặng như triết học. Chú cảm thấy mình bất lực không thể chống lại đựoc những điều sắp xảy ra, càng cố tìm hiểu cái gì chi phối mình chú càng nghĩ đến những điều viển vông. (Sau đó, giai đoạn cuối cùng sẽ là chấp nhận sự thật :D). Quá trình này cũng giống như người cổ đại sáng tạo ra các vị thần để lí giải các hiện tượng thiên nhiên. Bởi vì vũ khí của chú còn quá yếu nên những gì chú viết ra rất luẩn quẩn. Anh khuyên chú đọc thêm ít sách vở, sách triết học cũng tốt (nếu chú hiểu được và thích). Còn không thì cứ làm việc vui chơi đi, những suy nghĩ tưởng như sâu sa bây giờ sẽ được thay thế.

Mà có thể chú chứng minh đựoc sự tồn tại của hệ mặt trời thực ra là một nguyên tử có nhân là mặt trời, còn trái đất là một trong các electron trong thế giới vĩ mô nào đó ( anh nói trúng í chú đúng không? )

THân ái.
 
Hehe em Linh sao lại lôi đời tư anh vào đây thế...:d

Thứ nhất: chê anh biết dài mà cũng loằng ngoằng không kém.

Thứ 2: anh không chã đến nỗi nói đây là triết học, anh nghĩ gì nói nấy, viết trên cơ sở của một thằng yêu thích tự nhiên, yêu thích thiên nhiên, thế nên mới viết nó ở Board kĩ thuật, thế thôi, anh chưa từng bao giờ yêu thích triết và cũng chưa bao giờ thích đọc nó nên đừng nói lung tung dở hơi biết bơi thế nữa...

Thứ 3: Em thì biết quái gì về khoa học kĩ thuật :D, anh chỉ muốn nói là trước khi em viết linh tinh hay tưởng tượng ra cái gì đó thì em phải hiểu là đây là board nào và những người này họ đang nói cái gì :p, thế thôi...

Thứ 4: Dân việt nam mình hay có cái thói tự ti, cứ động gặp Tây là phải vồn vã, giống như các cô chú ở đây cứ ai nói động một cái gì khang khác một chút thì các cô chú cho là "ngứa mắt", là tinh tướng, khó chấp nhận. Ví dụ như cái này thì gắn cho nó cái gọi là "triết học cao siêu", rồi thế nào cũng hay nhạo báng cái thằng nảy ra những cái khang khác đó, rồi đủ ba thứ từ như rẻ tiền, múa rìu ..... Cần phải dẹp bỏ ngay tư tưởng đấy nếu không cũng chỉ là những thứ rẻ tiền đi chọc càn mà thôi...
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Chú Tuấn của anh, thứ 1,2,3... anh không động đến đời tư của chú nhé. Tất cả chỉ là anh hiểu chú anh thông cảm cho chú nên anh viết vậy thôi. Chú không cần thì tống mẹ nó ra thùng rác, hết chuyện. Anh không í kiến.

Thứ nữa, sao chú lại phang vào bài của chú không phải chiết học thế cái đề bài nó là cái quái gì kia? Uh thôi, có lẽ đầu óc chú vẫn quay cuồng. Mà để không phải chiết học thì là tâm sự, mà là tâm sự thì anh mói khuyên răn:)). Chú yêu thiên nhiên ngây thơ trong sáng lại không muốn rẻ tiền nên ngụy trang thế này.

Thế nhé, chú đọc lại bài anh rồi lấy sách ra học đi, hay chơi bời gì đó đừng nghiên cứu thiên nhiên nữa kiểu mai anh lại thấy chú bi bô là trái đất nằm trên lưng con voi khổng lồ, nó đứng trên mai 4 con rùa nổi trên mặt biển là gay lắm.:lol:

A quên, anh biết KHKT đủ để bật máy tính mà không bị giật thôi.

Anh quên chưa thân ái chú. Dù gì, anh cũng hiểu chú nhất nhể? Đặc biệt là vụ trái đất :))đúng là ngày xưa anh cũng yêu thiên nhiên thế đấy.

Thân ái,
Anh của chú
Vũ Anh Vũ.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Chỗ này không phải chỗ bỉ nhau, muốn bỉ ra chỗ khác. Anh chỉ muốn góp ý là cái lối anh anh chú chú của em nói thẳng ra nó như con c.. ý. Đời việc gì phải bắt chước bố con thằng nào cho nó khổ thế hả em.
 
Anh nói rồi anh tâm sự với chú bỉ cái nỗi gì? Anh cũng nói luôn là chú thích thì move. Thế nhé, phọt ra vài câu chửi chả hay ho gì.

Coi như anh rỗi hơi tíếp chiện chú từ đầu đến giờ. Chào! Anh ngược.

Dek thân ái đuợc nữa.
 
À quên anh bai bai sớm quá chú lại không hiểu lòng anh, có bỉ bai gì đâu
cái 1 vụ con voi là anh lấy từ truyện Ông già Khốt ta bít, hình như triết học Ấn độ đấy hay phết ( phải ghi nguồn)
cái 2

Đây, ai thích thì đọc

vnequation.com

Anh copy đoạn này, còn muốn đọc toàn bộ thì vào đó chọn tiểu luận KH tự nhiên.... ( khỉ gió link không đuợc) họăc PM cho anh, sẽ send cho.

Posted by nguyenducquyzen
VAI TRÒ CỦA LOGIC HÌNH THỨC TRONG KHOA HỌC
VÀ CUỘC SỐNG CÙNG VỚI NHỮNG GIỚI HẠN SỬ
DỤNG CỦA NÓ
---oOo---​

I. VAI TRÒ CỦA LOGIC HÌNH THỨC TRONG KHOA HỌC VÀ CUỘC SỐNG.

1/Logic hình thức là gì ?

Logic hình thức được bàn ở đây là logic cổ điền. Nó được hình thành từ thời kỳ cổ Hy Lạp, do Aristote sáng lập ra. Nhưng rồi nó biến hóa mãi đi, tùy theo sự phát triển khoa học qua các thời đại.

Vậy logic hình thức là gì?

Theo các luận lý của trường Port Royal (TK 17 tại Pháp): ”logic học là nghệ thuật tư tưởng, nghĩa là một khoa học qui tắc , dạy ta cách suy nghĩ trong khi đi tìm chân lý “. Còn A. F. Consemin thì định nghĩa như sau:”logic học là khoa học về những qui luật và hình thức cấu tạo chính xác của sự suy nghĩ”. Tóm lại logic học nghiên cứu và tìm ra những hình thức và qui luật tư duy sao cho chính xác , hợp với chân lý .

2/Vai trò của logic hình thức trong khoa học và cuộc sống:

Hình thức biểu hiện bên ngoài của tư duy là ngôn ngữ. Trong trường tư duy theo logic hình thức, thì đó là ngôn ngữ tự nhiên (còn gọi là ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ giao tiếp). Vậy ngôn ngữ tự nhiên chính là đối tượng phải tuân thủ logic hình thức. Nếu ta dùng ngôn ngữ tự nhiên mà thiếu hiểu biết về logic hình thức sẽ dể dàng dẫn tới chổ lập luận và nhận thức sai lầm. Tuy rằng hiện nay, tùy theo những đặc thù riêng của mình, mỗi một ngành khoa học đều áp dụng một loại logic riêng phù hợp với nó. Trong lảnh vực khoa học tự nhiên, ngôn ngữ toán học và logic toán học đã hoàn toàn ngự trị. Nhựng ngôn ngữ toán học, cùng với những thứ ngôn ngữ khác đều có những nhược điểm riêng của mình. Chúng không có khả năng bao quát hết mọi lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội. Ngôn ngữ tự nhiên với bản chất sẳn có của mình, có khả năng tác động trực tiếp vào thế giới quan của mỗi con người, do nó phản ánh trực tiếp hình ảnh trực quan, của thế giới tự nhiên, qua đó tác động đến nhân sinh quan và lối sống của con người. Vì vậy, ngôn ngữ tự nhiên, chiếm một vị trí rất quan trọng trong khoa học và đời sống xã hội, mà không một ngôn ngữ nào khác có thể thay thế được.

Thật vậy, dù ngay trong một ngành khoa học cụ thể , mà nó đã dùng một ngôn ngữ riêng , theo một logic riêng phù hợp với nó. Thì ở đó cũng không lọai bỏ hoàn toàn ngôn ngữ tự nhiên được. Bởi vì, không có bất kỳ một ngành khoa học nào mà lại tồn tại độc lập, cô lập và tách biệt với đời sống xã hội và các ngành khác. Mà chúng tồn tại trong mối liên hệ khắng khít với nhau, tác động qua lại lẫn nhau , thúc đẩy nhau cùng phát triển. Những kết quả thu được từ một ngành khoa học này, phải phổ biến ra ngoài, để cho các ngành khoa học khác và đời sống xã hội thu nhận. Ngược lại nó cũng có nhu cầu tiếp thu những thành quả đạt được trong các ngành khoa học khác, để phát triển, Nhưng thực tế mỗi một ngành khoa học lại chỉ có một ngôn ngữ của mình, mà những nhà khoa học trong các ngành khác, và người dân bình thường trong xã hội khó mà hiểu nổi. Từ lý do đó , việc yêu cầu có một ngôn ngữ chung thống nhất , đảm bảo có khả năng bao quát hết mọi lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội. Chính vì vậy, không thể phế bỏ việc sử dụng logic hình thức trong mọi ngành khao học và đời sống xã hội, Việc thiếu hiểu biết về logic hình thức, cũnc như khả năng sử dụng nó , sẽ dẫn tới chổ tư duy không chinh xác, cho ra kết qủa sai lầm, làm cản trở sự tiến bộ của khoa học và đời sống xã hội.

Ví dụ: vào năm 1887, nhà vật lý người anh Maikenson đã làm những thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng. Tất nhiên để kiểm nghiệm kết quả thực nghiệm của mình, ông phải đối chiếu với kết quả lý thuyết . Kết quả lý thuyết của ông được rút ra từ những lập luận, tư duy theo ngôn ngữ tự nhiên. Nhưng do thiếu hiểu biết về logic hìng thức , nên ông , nên ông đã phạm những sai lầm không đáng phạm phải:vi phạm tính chân xác của luận cứ, áp dụng không đúng phép suy luận loại tỷ. Bởi vậy nó đã dẫn đến những kết quả sai lầm, mà bản thân ông vẫn không biết. Do sự mâu thuẩn giữa kết quả sai lầm, mà bản thân ông vẫn không biết. Do sự mâu thuẩn giữa kết quả lý thuyết và kết quả thực nghiệm. Làm cho ông rơi vào bế tắc , không thể lý thuyết và kết quả thực nghiệm. Làm cho ông rơi vào bế tắc , không thể lý giải nổi. Rồi cũng chính những vi phạm về logic hình thức đó, mà người ta đã phủ nhận sự tồn tại của môi trường ête - một thực thể tồn tại thực sự duy nhất trong thế giới. Chính vì vậy làm cho các nhà vật lý buộc phải sáng chế ra những khái niệm khôn tuân theo logic hình thức , làm cho không ai có thể hiểu nổi như “lưỡng tính sóng - hạt “chẳng hạn. Mà những sự rắc rối đó, cùngvới việc thống nhất các hiện tượng trong tự nhiên vào một đầu mối, ta có thể giải quyết để dể dàng nếu chấp nhận sự tồn tại của môi trường ête. Tiếc rằng, chỉ từ một sự lập luận sai lầm của Maikenson và các nhà vật lý thời đó, do thiếu hiểu biết về logic hình thức, mà sự thống nhất các hiên tượng trong tự nhiên, vào một đầu mốt, đã bị dẩm chân tại chổ hàng mấy trăm năm qua, và cho đến ngày nay.

Mặt khác, để phổ biến các kết qủa khoa học mới , trong một lĩnh vực nào đó, sang các lĩnh vực khoa học khác và đời sống xã hội, các nhà khoa học phải làm một nhiệm vụ là chuyển đổi các kết qủa từ ngôn ngữ chuyên môn sang ngôn ngữ tự nhên. Việc làm này, không những đòi hỏi họ phải nắm vững một cách sâu sắc lĩnh vực chuyên môn của mình, mà còn phải nắm vững một cách sâu sắc các kiến thức của logic hình thức, cùng với khả năng sử dụng chúng một cách nhuần nhuyễn. Điều đó càng cho ta thấy vai trò quan trọng của logic hình thức, trong khoa học và đời sống xã hội.

Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mọi người dân, logic hình thức cũng có một giá trị sử dụng rất lớn . Bởi vì con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tự nhiên. Mà ngôn ngữ tự nhiên là hình thức biểu hiện bên ngoài, của tư duy tuân theo logic hình thức. Cho nên cuộc sống sinh họat hằng ngày của mỗi người, nằm trong phạm vi bị chi phối của logic hình thức. Nếu áp dụng logic hình thức trong cuộc sồng, trong giao tiếp hằng ngày, thì chúng ta sẽ suy nghĩ, nói năng mạch lạc, hợp lý hơn. Nhờ vậy truyền đạt ý kiến, tư tưởng của mình cho người khác một cách ngắn gọn hơn , dể hiểu hơn, đồng thời nâng cao khả năng nhận thức của mình, thấy được những sai lầm trong phán đoán , suy luận của đối phương, không bị đối phương mê hoặc, lôi kéo. Ngoài ra, nhờ tư duy một cách logic, nên ta tránh được những nhận thức sai lầm trong cuộc sống, trong giao tiếp , đầu mối của những phiền tóai, những phiền não, lo âu trong cuộc sống . Nhờ đó làm cho cuộc sống của mình trở nên nhẹ nhàng thoải mái hơn.

Tóm lại, việc hiểu biết và áp dụng logic hình thức có một vai trò rất quan trọng trong khoa học và đời sống xã hội. Tiếc rằng hầu hết mọi người dân, kể cả nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực khác nhau, đều thiếu kiến thức, và khã năng sử dụng nó, dù là ở một mức độ sơ đẳng nhất.
 
II. GIỚI HẠN SỬ DỤNG CỦA LOGIC HÌNH THỨC:

Như ta đã biết logic hình thức có một vai trò rất quan trọng trong khoa học và đời sống . Việc hiểu biết và sử dụng nó sẽ đem lại nhiều lợi ích trong khoa học và đời sống xã hội. Nhưng chỉ có hiểu biết về nội dung của nó không thôi, thì việc sử dụng nó sẽ không tránh khỏi những sai lầm. Để việc sư dụng tránh khỏi những sai lầm, thì ta phải sử dụng nó một cách biện chứng, phải biế t sư dụng những chổ cần sử dụng, và không sử dụng những chổ không sử dụng; phải biết chổ nào những kết quả của nó chỉ có tính tương đối, chổ nào các kết quả của nó đúng một cách tuyệt đối, điều đó có nghĩa là ta phải biết được giới hạn của nó, và phải biết vận dụng nó một cách nhuần nhuyễn. Để xác định được giới hạn của logic hình thức, trước hết ta phải tìm nguyên nhân gây ra những giới hạn đó, nghĩa là ta phải bắt đầu từ nguồn gốc tạo ra tư duy.

1/Nguồn gốc tạo ra tư duy:

Như đã biết , thế giới khách quan tồn tại trong 2 mặt đối lập của nó . Thứ nhất, nó tồn tại trong sự vận động và phát triển theo những qui luật xác định. Thứ nhì nó tồn tại trong sự đứng im, ổn định và bền vững tuyệt đối của nó (không có sự thay đổi về chất và lượng - định luật bảo toàn vạt chất). Những qui luật vận động xác định tương đối của vật chất . Những mối liên hệ này được phản ánh vào trong óc nảo con người thành những sự vật, hiên tượng, cùng với những mối liên hệ giữa chúng với nhau. Như vậy, ở giai đoạn này, sự phản ánh những mối quan hệ của vật chất trong thế giới khách quan, vào bộ óc não con người được phân thành hai trường hợp, trường hợp thứ nhất , chúng trở thành những sự vật, hiện tượng có hình dáng màu sắc . . . ở đây tính ổn định, bền vững tương đối , của các mối liên hệ , của vật chất, trong thế giới khách quan. Trong trường hợp này ta thấy có sự biến đổi sự không trung thực nhất định, trong quá trình phản ánh. Trong trường hợp thứ 2 chúng trở thành mối những mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng với nhau. Trong trường hợp này , tự phản ánh diễn ra hoàn toàn trung thực và chính xác. Qúa trình phản ánh thứ nhất này không chỉ có riêng ở con người, mà là một quá trình phản ánh chung, có ở mọi loài vật. Chỉ có điều, tùy theo từng loài, có những đặc trưng cấu tạo vật chất khác nhau, mà các qúa trình phản ánh cũng có những đặc trưng cấu tạo vật chất khác nhau, mà các quá trình phản ánh cũng có những chở khác biệt nhất định. Quá trình phản ánh này được gọi là cảm gíac. Riêng ở con người sống trong xã hội còn một qúa trình phản ánh thứ hai nữa , được gọi là giai đoạn nhận thức lý tính. Đó là quá trình phản ánh các sự vật, hiện tượng, cùng vơí những mối liên hệ giữa chúng vào trong ý thức của con người.

Trong giai đoạn nhận thức lý tính , những sự vật, hiện tượng, cùng với những mối liên hệ của chúng , được phản ánh vào trong ý thức con người thành những khái niệm, phán đóan, và suy luận - gọi là tư duy. Ở đây , các sự vật , hiện tượng được phản ánh vào trong ỳ thức con người, trở thành những khái niệm. Còn mối liên hệ giữa chúng phản ánh vào trong ý thức con người trở thành những phán đóan , suy luận . Sự phản ánh trong giai đọan thứ 2 này, tuy dựa trên nền tảng là thế giới khách quan, nhưng nó lại phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Nếu trình độ nhận thức , ý thức của con người càng cao , thì sự phản ánh càng chính xác càng trung thực. Vì vậy, muốn nâng cao sự chính xác, sự trung thực của qúa trình phản ánh này, thì phải nâng cao kiến thức, trình độ nhận thức của mỗi con người. Đây lầ quá trình tự phát. Ngoài quá trình tự phát nói trên còn có một cách , để con người nâng cao sự chính xác, sự trung thực của phản ánh này, đó là nâng cao một cách tự giác, có sự chủ động tác động có ý thức của mỗi con người. Bằng cách tìm ra các qui tắc, qui luật mà nếu tuân thủ chúng thì quá trình phản ánh này sẽ diễn ra một cách chính xác , và trung thực. Môn để tím ra những qui tắc, qui luật đó gọi là logic học. Kết quả của nó chính là những hình thức và qui luật của tư duy.

Trong hình thức của tư duy có khái niệm, phán đoán , sụy luận. Các qui luật của tư duy là những qui luật mà hình thức tư duy phải tuân theo , để phản ánh được chính xác. Nó gồm có bốn qui luật là:qui luật đồng nhất , qui luật không mẫu thuẩn, qui luật triệt tam(loại trừ cái thứ 3)và qui luật lý do đầy đủ.

Hình thức tư duy chính là sự phản ánh các sự vật , hiên tượng và các mối liên hệ của chúng ta vào ý thức con người. Mỗi một hình thức lại có một đặc điểm riêng, các khái niệm chỉ phản ánh các sự vật, hiên tượng. Phán đóan là mối liên kết giữa cac khái niệm với nhau. Nó phản ánh mối liên kết giữa các sụ vật, hiện tượng nhất định lại với nhau. Suy luận là một quá trình biến đổi từ một, hay một số phán đóan đã biết , để cho ra một phán đoán chưa biết . Nó được thực hiện dựa trên những mối liên kết giứa các phán đóan với nhau. Như vậy, suy luân phải được thực hiện dựa trên nến tảng của nó , là sự phản ánh các mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng với nhau, nhưng trong một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, so với phán đóan . Trong suy luận lại có 3 hình thức là:suy luận diễn dịch(trực tiếp và gián tiếp), suy luận qui nạp (hoàn toàn và không hoàn toàn), suy luận loại tỷ. Suy luậ diễn dịch phản ánh chính xác mối liên hệ có tính tất yếu giữa các sự vật , hiện tượng và các mối liên hệ khác nhau của vật chất trong thế giới khách quan một cách tuyệt đối, suy luận qui nạp hoàn tòan cũng giống như suy luận diễn dịch. Suy luận qui nạp không hoàn toàn phản ánh chính xác mối liên hệ giữa các sự vât, hiện tượng, và các mối liên hệ khác nhau của vật chất, trong thế giới khách quan . Nó chỉ đúng một cách tương đối mà thôi , nghĩa là có thể đúng trong mọi trường hợp, nhưng cũng có thể đúng trong một phạm vi giới hạn nào đó về không gian và thời gian, mà ta không thể kết luật chắc chắn được . Suy luận loại tỷ cũng phản ánh các mối liên hệ giữa các sự vật với nhau. Nhưng kết qủa của nó chỉ mang tính chất giả thuyết, cần phải được kiểm nghiệm lại , bằng thực nghiệm , hoặc các phương pháp khác. Nhưng nó lại có tác dụng rẩt lớn để dẫn tới những phát min khoa học. Ta có thể dùng nó làm phương pháp suy nghĩ mở rộng sự hiểu biết . Bởi vì nó có một ưu điểm rất lớn so với các loại suy luận khác, là nó có thể áp dụng phương pháp mô hình hóa, gần với sựvật , hiện tượng hơn, dể tìm ra đưọc những cái mới hơn.

Các qui luật tư duy chỉ phản ánh các mối liên hệ của các sự vật, hiên tượng, sự ổn định bền vững và tính xác định tương đối của chúng. Chúng không thể phản ánh những mối liên hệ của vật chất trong thế giới khách quan trong quá trình vận động và phát triển liên tục của nó.

2/ Giới hạn sử dụng của logic hình thức:

Giới hạn sử dụng của logic hình thức phụ thuộc vào bản chất của nó ;vào các hình thức biểu hiện bên ngoài của nó là ngôn ngữ tự nhiên, cùng bản chất của mối liên hệ giữa chúng với nhau.

Về những giới hạn liên quan đến bản chất của logic hình thức nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành của tư duy ta thấy:các khái niệm và qui luật của tư duy chỉ phản ánh được các sự vật , hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa chúng. Nghĩa là chúng chỉ phản ánh thế giơí tự nhiên trong trạng thái tĩnh , ổn định và bền vững tương đối của nó . Chúng không thể phản ảnh thế giới khách quan, trong trạng thái vận động liên tục, và trong trạng thái tĩnh tại, bền vững, ổn định tuyệt đối của nó . Các phán đóan đối với trường hợp phản ánh các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, nghĩa là phản ánhthế giới tự nhiên trong trạng thái tỉnh, ổn định, xác định và bền vững tương đối của nó thì chính xác. Nhưng đối với trường hợp phản ánh các mối liên hệ của vật chất, trong sự vận động của nó, trong thế giới khách quan thì chưa gõ ràng. Nghĩa là nó có thể chính xác hoặc không chính xác. Ta phải kiểm tra lại sự chính xác của nó bằng thực nghiệm, hay các công thức tóan học. Đối với suy luận thì phức tạp hơn, suy luận qui nạp không hoàn toàn thì độ chính xác của nó cũng không rõ ràng, có trường hợp nó chính xác một cách tuyệt đối , mà cũng có trường hợp nó chính xác trong phạm vi nào đó trong không gian và thời gian, chúng ta không có một cân cứ nào kết luận được. Còn đối với suy luận diễn dịch và suy luận qui nạp hòan tòan, thì sự chính xác của chúng là tuyệt đối trong mội trường hợp. Riêng đối với suy luận lọai tỷ tuy nó chỉ cho ta những giả thuyết, chứ không cho ra các kết luận(nhưng ta có thể kiểm chứng các kết quả của nó, bằng phương pháp khác như thực nghiệm. . . )nhưng vai trò của nó rất là rộng lớn trong khoa học, và nhờ nó ta có thể mở rộng phạm vi sử dụng của logic hình thức, trong một số điều kiện nhất định. Bởi vì nó liên quan mặt thiết với phương pháp mô hình hóa, để từ những cái đã biết rồi, suy ra cái chưa biết. Nhờ nó ta có thể tạm thời dùng ngôn ngữ tự nhiên, để mô tả mối quan hệ của vật chất rong thế giới khách quan, trong sự vận động liên tục của nó, cùng với những quá trình vận động, xãy ra trong thế giới khách quan. Thậm chí ta có thể dùng nó để diễn tả trạng thái tỉnh lặng, ổn định, bền vững tuyệt đối của thế giới khách quan, mà không có một phương pháp thực nghiệm nào, một công thức tóan học nào, một ngôn ngữ nào, có thể mô tả được điều đó. Mà việc nắm vững bản chất của thế giới khách quan, nắm vừng thuộc tính tỉnh lặng, ổn định, bền vững tuyệt đối của nó sẽ mở ra một cánh cổng lớn, một tương lai sáng lạn cho sự phát triển của khoa học. Nó là chìa khóa mở ra cánh cửa cho phép ta giải thích được nhiều sự bí ẩn trong khoa học và trong tự nhiên, mà cho tới nay giới khoa học vẫn phải bó tay.

Những giới hạn liên quan đến ngôn ngữ ít quan trọng hơn. Đầu tiên do ngôn ngữ tự nhiên phụ thuộc vào từng vùng địa phương, cho nên nó không thống nhất cho tát cả mọi người. Những kết quả khoa học thuộc quốc gia này, muốn phổ biến vào dân chúng của quốc gia khác rất khó khăn, ngoaị trừ một số người có trình độ ngoại ngữ. Thứ nữa là do mối quan hệ bản chất giữa tư duy và ngôn ngữ qui định. Tư duy thì phản ánh thế giới khách quan, còn ngôn ngữ thì hòan tòan phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người, từ đó mà dẫn đến hiện tượng đồng âm khác nghĩa, làm cho ngôn ngữ tự nhiên trỡ nên thiếu rõ ràng, thiếu chích xác. Mặt khác, vì ngôn ngữ tự nhiên mang tính bao quát thiếu rõ ràng nên nó không thể diễn tả một cách chi tiết từng qui luật, như các công thức tóan học. Nhưng nó lại có mặt mạnh là: phản ánh một cách trực tiếp, các hình ảnh trực quan thuộc thế giới tự nhiên, nên nó có khả năng tác động trực tiếp vào thế giới quan của mỗi người, qua đó tác động vào nhân sinh quan, và lối sống của họ.
 
III/ BÀN VỀ VIỆC SỬ DỤNG LOGIC HÌNH THỨC:

Như ta đã biết , logic hình thức có một vai trò rất quan trọng và to lớn trong khoa học và đời sống xã hội . Việc sư dụng nó sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học và cuộc sống của mỗi con người. Nhưng do giới hạn của nó mà việc sử dụng nó phải khéo léo , trong phạm vi sử dụng nó. Việc đề cao logic hình thức tuyệt đối hóa nó sẽ dẫn ta tới chổ vượt ra ngoài phạm vi sử dụng nó, dẫn đến kết quả sai lầm , những sự bảo thủ trì trệ, cản trở sự phát triển của khoa học. Vì các nhân tố mới sẽ không có cơ hội nẩy nở và phát triển(như ở thời trung cổ Châu Âu). Việc hạ thấp nó , coi thường nó , tức là không dùng nó ngay trong phạm vi sử dụng nó , cũng sẽ là một sai lầm . Vì điều đó sẽ dẫn ta tới chổ suy luận không chính xác, không phù hợp với thế giới khách quan . Ðiều này sẽ làm cho ta mất đi một phương tiện đắc lực để thúc đẩy khoa học phát triển ;tách rời khoa học với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mỗi người dân . Mặt khác nó cản trở sự nâng cao trình độ nhận thức của mỗi người dân trong xã hội. Chúng ta không nên đề cao nó mà cũng nên hạ thấp nó mà phải sử dụng nó một cách hài hòa, biện chứng , tùy theo từng trường hợp cụ thể. Ðiều này đòi hỏi mỗi người , ngoài việc nắm vững các kiến thức về nội dung của nó , mà phải nắm vững kiến thức về giới hạn sử dụng của nó . Phân biệt được trong đó cái nào có tính chấ t tương đối, cái nào có tính chất tuyệt đối . . . Ðồng thời phải có kỷ năng điêu luyện trong việc sử dụng nó . Nhờ vậy , ta có thể dể dàng trong việc sử dụng nó , chổ nào đúng , chổ nào sai, chổ nào kết quả chính xác tuyệt đối , chổ nào kết quả cần phải kiểm nghiệm, trong trường hợp mâu thuẫn, thì phải tìm lỗi ở đâu. . .

Ví dụ: Người ta hay than phiền là, trong thời trung cổ của Châu Âu, thay vì phải làm thực nghiệm để xác định vấn đề, đối phương lại dùng tam đoạn luận để trói buộc họ. Họ kết tội tam đoạn luận nhưng nếu nắn vững giới hạn của logic hình thức , họ sẽ nhận ra rằng :tam đoạn luận chẳng có lổi gì cả. . . Vấn đề là phải xem xét lại các khái niệm, phán là yếu tố kém chính xác hơn, độ tin cậy kém hơn. Ðể được một kỷ năng sử dụng logic hình thức một cách điêu luyện như đã nói trên, đòi hỏi người sử dụng nó, mà họ cần phải có một thời gian khổ công rèn luyện mới thành, chứ không phải ngày một ngày hai mà có được.

Ðể nâng cao trình độ của nhân dân , nâng cao sự phát triển của khoa học. . . Chúng ta không những trang bị cho họ những kiến thức về khoa học tự nhiên và xã hội, mà cần phải trang bị cho họ những kiến thức về logic hình thức , và rèn luyện kỷ năng sử dụng nó, cho họ một cách nhuần nhuyễn. Việc này phải được thực hiện ngay từ những lớp đầu tiên , của chương trình giáo dục phổ thông, và nâng cao dần cho đến những năm đầu của chương trình đại học.
 
Anh không hiểu em trích bài trên của thằng nào, nhưng mà anh đọc thấy cái thằng tác giả này viết hơi ngu ở cái ví dụ về Maikenson. Nó nói ông ta vi phạm logic hình thức nên quẫn bách sai lầm. Viết thế thì oan cho Mikenson quá, cái thằng này mới chính là cái thằng dùng luận lẽ logic hình thức rẻ tiền để cố biện minh cho cái kết quả Maikenson, mà bản thân nó chưa chắc đã hiểu hết. Ở đây anh chỉ xin nói lại một số điều có liên quan đến sự khủng hoảng của Vật ly đầu thế kỷ:
Tác giả đã không hiểu rằng trong Vật lý học chính Maikenson mới là con người đầu tiên cứu được sự khủng hoảng vật lý của đầu thế kỷ 20, khi mà con người đang đẻ ra một đống lý thuyêt bầy nhầy để giải thích cho thuyết "ete" tưởng tượng. Dựa vào lý thuyết bầy nhầy đó nhà vật lý này đã cho làm một thí nghiệm thế kỉ (một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất của nhân loại) là đo vận tốc ánh sáng dựa trên sự giao thoa do tác dụ lệch pha của ete khi trái đất ở vào các vị trí quỹ đạo khác nhau. Và kết quả của ông ta chính là cơ sở để từ đó Anhstanh rồi Plang mới đẻ ra Vât lý hiện đại. Ông tuyên bố rằng "chả có vận tốc gió vũ trụ ete nào hết", ánh sáng chẳng hề bị lệch. Và rồi người ta cười cho rằng thí nghiệm ông đã phạm sai lầm. Nhưng khi được xem và chứng kiến thí nghiệm của ông thì nguời ta phải trầm trồ và thán phục mà thốt lên rằng: đó là thí nghiệm của thế kỉ và không thể sai được nữa, và lần đầu tiên con người dám bác bỏ lý thuyết để tin rằng thí nghiệm của Maikenson là "không thể sai", từ đó, vật lý mới đi vào khủng hoảng. "Cái logic hình thức" đó là cái mà nguời ta đã tin vào khoa học của Newton hàng thế kỉ nay, đã bị chính thí nghiệm của Mikenson phủ nhận hoàn toàn. Rồi từ đó, Anhstanh đã gạt phăng thế giới của Newton, biến Newton trở thành hệ quả riêng, bằng việc đưa ra 2 tiên đề quan trọng. Dựa vào tiên đề đó, Loren đã biến đổi băng tọa độ, rồi ra một loạt hệ quả mà chúng ta biết bây giờ đó là công thức khổi lượng tăng theo vận tốc, thời gian co giãn, kích thước co giãn.....

Vì vậy, không thể nói ông sai lầm trong công nhận lý thuyết cũ, mà ông đã dùng thí nghiệm của mình phủ nhận sai lầm, làm nền tảng cho một loạt lý thuyết mới. Chính Anhstanh khi đã thành danh, còn kính cẩn nghiêng mình truớc Michenson, ông nói :"Khi tôi còn là một đứa trẻ, ngài đã miệt mài với những thí nghiệm của mình rồi, và nhờ chúng, ngài đã tóm được gió ete dừng lại"
 
Back
Bên trên