Văn học nước ngoài

Vũ Hải Anh đã viết:
Em My để dành Spring break đưa chị đê...Tiện đây có em Linh, mời em SP có nghỉ ngơi lên Bốt tờn tụ tập cho vui nhể ( mình được cái tự nhiên,nhàkhông có nhưng cứ mời lolz )
QUOTE]

Nhưng chị ơi, em với Mylu đã hẹn gặp lại Sài Gòn ở Philly vào SB rồi. Mà SB của em từ Mar 17 đến Apr 4, em nghĩ là đến chênh mất thôi. Em cũng muốn lên Boston lắm, nhưng Philly cũng hấp dẫn, ít ra là không trắng trời trắng đất như bi giờ nhỉ.
Uất hận quá, hăm hở xin học lớp Modern Chinese History, giờ bà giáo bị làm sao phải cancel lớp rồi :(( . Nhìn đống sách mà buồn. Thôi kì sau em cũng quyết tâm học tiếp để có gì bàn với các chị các em :D
 
Hồ Lê Việt Hưng đã viết:
Chị My: Buồn cười em học lớp Trung Quốc cũng phải xem Phải sống, phim thì hay nhưng mà em chả thấy nó nói được nhiều về CMVH.
Em ơi hay là ở chỗ ấy, tưởng là không nói nhiều nhưng lại nói được rất nhiều.

Khác với nhiều phim cùng đề tài, Phải Sống không tách riêng CMVH ra, mà đặt nó trong bối cảnh lịch sử TQ để thấy được mối quan hệ của nó với các sự kiện khác, cũng như ảnh hưởng lâu dài của CMVH đối với XH Trung Hoa, chứ không chỉ ở một thời điểm nhất định. Ở trong Phải sống, người ta cũng thấy được tác động của CMVH đến nhiều tầng lớp XH, nhiều thế hệ người TQ, chứ không riêng đối với cá nhân nào.

Cái hay nhất của phim này, theo chị, là cách mà Trương Nghệ Mưu nhìn nhận CMVH. Trái với thái độ bi quan, uất ức và bế tắc của Trần Khải Ca trong Bát Vương Biệt Cơ, trong Phải Sống, Trương Nghệ Mưu không cường điệu hóa sự tàn khốc của CMVH, mà, một cách bình thản, giản dị, khẳng định & đề cao sức mạnh trường tồn của con người.

Phân tích hết cái hay trong phim của Trương Nghệ Mưu thì phải để khi nào có nhiều thời gian, nhưng hôm nay thì chỉ nói sơ sơ được thế thôi, kẻo lại lạc đề quá mất rồi...

Lê Diệu Linh đã viết:
Nhưng chị ơi, em với Mylu đã hẹn gặp lại Sài Gòn ở Philly vào SB rồi. Mà SB của em từ Mar 17 đến Apr 4, em nghĩ là đến chênh mất thôi. Em cũng muốn lên Boston lắm, nhưng Philly cũng hấp dẫn, ít ra là không trắng trời trắng đất như bi giờ nhỉ.
Uất hận quá, hăm hở xin học lớp Modern Chinese History, giờ bà giáo bị làm sao phải cancel lớp rồi :(( . Nhìn đống sách mà buồn. Thôi kì sau em cũng quyết tâm học tiếp để có gì bàn với các chị các em :D
Trốn học vào đây để bàn chuyện văn nghệ văn gừng, thế nào lại lan man sang tận đề tài lịch sử chính trị & ăn chơi nhảy múa và... thời tiết. 8-}

Chủ đề Trung Quốc kết thúc tại đây nhé! :D

Chị Hải Anh ơi, cái quyển "De Vinci Code" là bằng tiếng gì thế nhỉ?
 
Tiếng Anglish em, warning là tiểu thuyết hơi giống kiểu Sydney Sheldon ( đọc để lấy kiến thức + enjoy the suspense chứ còn triết ní thì chả có tý gì cả). ( sorry chị Khê ngày xưa vứt cho chị quyển Giời sụp của thừa, hehehe)
Bây giờ mới nhớ ở đây có những hai Linh :D Thôi Linh này không lên Bót tờn được thì còn Linh kia đi vậy?
Hôm nay ở đây tuyết đẹp quá.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tác phẩm văn học cần đọc bây giờ nhớ lại cũng hơi khó, tại lâu lâu ít đọc văn học. Nhớ quyển nào cứ viết ra đây, nhiểu thứ không phải văn học nhưng cũng được gọi là truyện hay sách. Nhiều quyển liên quan nhiều đến văn hóa và các điển tích hay được sử dụng, một số là sở thích cá nhân

1. Thần thoại Hy lạp + Iliat + Ôđixê
2. Truyện cổ Andecxen + Truyện cổ Grim + Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
3. Truyện của Hemingway, Jack London, O.Henry, Remarque, Sienkevik (anh không biết viết thế nào là đúng), Exupery, ....
4. Sử ký Tư Mã Thiên + Đông chu liệt quốc + Tam quốc + Thủy Hử + Tây du ký
5. Kinh Thi + Thơ Đường + Từ Tống + Truyện Kiều + Thi nhân Việt nam + ....
6. Bách gia chư tử
7. Hồi ký các loại, cái này nhiều khi được tô vẽ nhưng về cơ bản có nhiều giá trị

Nhiều lắm, không nhớ hết :)
 
Nguyễn Hữu Cầu đã viết:
Tác phẩm văn học cần đọc bây giờ nhớ lại cũng hơi khó, tại lâu lâu ít đọc văn học. Nhớ quyển nào cứ viết ra đây, nhiểu thứ không phải văn học nhưng cũng được gọi là truyện hay sách. Nhiều quyển liên quan nhiều đến văn hóa và các điển tích hay được sử dụng, một số là sở thích cá nhân

1. Thần thoại Hy lạp + Iliat + Ôđixê
2. Truyện cổ Andecxen + Truyện cổ Grim + Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
3. Truyện của Hemingway, Jack London, O.Henry, Remarque, Sienkevik (anh không biết viết thế nào là đúng), Exupery, ....
4. Sử ký Tư Mã Thiên + Đông chu liệt quốc + Tam quốc + Thủy Hử + Tây du ký
5. Kinh Thi + Thơ Đường + Từ Tống + Truyện Kiều + Thi nhân Việt nam + ....
6. Bách gia chư tử
7. Hồi ký các loại, cái này nhiều khi được tô vẽ nhưng về cơ bản có nhiều giá trị

Nhiều lắm, không nhớ hết :)
Cái đống mà bác Cầu liệt kê ra em đọc cả đời chắc không hết :p

Mà bác có biết cách nào kiếm được sử ký Tư Mã Thiên online không? Cả kinh thi nữa. (Tự bảo từ giờ cạch đọc truyện Tàu mà vẫn không chừa.)

Hôm nay vừa đọc xong quyển The Good Earth của Pearl Buck (Nobel prize-winner). Không thể ngờ rằng một người da trắng lại có thể kể chuyện về người nông dân Trung Quốc cứ y như thật. Mà chẳng hiểu sao đọc truyện này lại liên tưởng đến Hồng Lâu Mộng mới lạ /:) Mọi người có thời gian tìm đọc cũng hay.
 
Cả đời đọc không hết à :)), vẫn còn nhiều lắm

Anh không biết có Sử ký Tư Mã Thiên online không. Pearl Buck ở Trung Quốc bao nhiêu năm, kể chuyện Trung quốc y như thật cũng không có gì lạ.

À, mà Kinh thánh có khi cũng được xếp vào loại sách văn học. Pearl Buck có viết 1 cuốn là Chuyện Kinh thánh, nhưng nếu thích nguyên bản em cứ đem Kinh thánh ra đọc. "Must read" nhá.
 
Đỗ Huyền My đã viết:
Cái đống mà bác Cầu liệt kê ra em đọc cả đời chắc không hết :p

Mà bác có biết cách nào kiếm được sử ký Tư Mã Thiên online không? Cả kinh thi nữa. (Tự bảo từ giờ cạch đọc truyện Tàu mà vẫn không chừa.)

Hôm nay vừa đọc xong quyển The Good Earth của Pearl Buck (Nobel prize-winner). Không thể ngờ rằng một người da trắng lại có thể kể chuyện về người nông dân Trung Quốc cứ y như thật. Mà chẳng hiểu sao đọc truyện này lại liên tưởng đến Hồng Lâu Mộng mới lạ /:) Mọi người có thời gian tìm đọc cũng hay.

Kinh thi và rất nhiều thơ Đường: http://thivien.maihoatrang.com/
Sử kí TMT: điếc 8-|

Pearl Buck viết về cả Nhật nữa (ko nhiều = TQ, tất nhiên), vdụ trong Đoá hoa ẩn mình (tiếng Anh là Peony thì phải), truyện này cũng mỏng, tốt! The Good Earth là một trong những truyện hay nhất thì phải, nhưng chị chưa đọc B-) (em có link ko?),mà hình như trong đống được dịch ra tiếng Việt không có thì phải.

Em Mi có học Gender & Culture không? Có thì tìm thêm PB đọc ;)

Nếu em Mi hoặc ai có HLMộng trọn vẹn Anh/Việt đều được, cho mình xin :x

Nhân tiện tìm được cái này, sẽ post ở dưới. Source:
http://diendan.bachhoacung.org/index.php?showtopic=994&view=old.
 
1. *AQ chính truyện của Lỗ Tấn ( 1881-1936), Trung Quốc. Trong khuôn khổ vừa, với một cố nông ở một làng Mùi nào đó, tác giả đã khái quát rất cô đọng và rất chân thực tình hình xã hội và “quốc dân tính” của dân Trung Quốc hồi đó. Bằng hình tượng nghệ thuật, tác giả đã phê phán tính cách mạng nửa vời của cách mạng tư sản 1911, dự báo mới một cuộc cách mạng triệt để sắp tới và mở đầu cho dòng văn học cách mạng chân chính ở Trung Quốc.

2. Ai được sống sung sướng trên đất nước Nga, 1866-76, của N.A.NEKRAS-SOV (Nhê-kra-xốp), Nga. Trường ca miêu tả nước Nga nông nô và cuộc đấu tranh giành tự do.

3. Ai-van-hô, 1819. Tiểu thuyết lịch sử của W.SCOTT, Anh. Tập đoàn phong kiến cũ Xắc-xơn mưu toan khôi phục quyền thế chống bọn phong kiến mới Noóc-man, nhưng bất thành.

4. Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp, 1880. Tiểu thuyết của F.M. DOSTOIEVSKI. Sự suy sụp của một gia đình quý tộc, con giết bố, thể hiện rõ rệt mâu thuẫn ngay trong nhân sinh quan của DOSTOIEVSKI và những vấn đề đạo lý, triết học đương thời.

5. Ánh sáng tháng tám. Tiểu thuyết của FAULKNER, Mỹ. Một người lai da đen lấy một phụ nữ da trắng, luôn mâu thuẫn, cắt cổ vợ, sau bị cảnh sát chém chết năm 1932.

6. Anna Karenina, 1873-77, của LEV. N. TOLSTOI, Nga. Tiểu thuyết nêu hai vấn đề: Số phận người phụ nữ (tình yêu, hôn nhân) và số phận nước Nga (mâu thuẫn địa chủ, nông dân).

7. Ba-bit, 1922. Tiểu thuyết của S.LEWIS. B. điển hình cho người Mỹ tiểu tư sản tầm thường, công thức, Sô-vanh, đạo đức giả, có nhiều mánh khóe con buôn.

8. Bà Bô-va-ry, 1857, tiểu thuyết của G. FLAUBERT, Pháp. Một phụ nữ lãng mạn thất vọng sau khi lấy một y sĩ nông thôn tẻ nhạt. Bô-va-ry tìm tình yêu trong ngoại tình. Vay nợ, tự tử để thoát khỏi xã hội tư bản tầm thường và nghiệt ngã.

9. Bài ca Nibelungen, anh hùng ca Đức (thế kỷ 13). Ca ngợi Xich-phrit, người hiệp sĩ lý tưởng.

10. Bài ca Roland, anh hùng ca Pháp (thế kỷ 11-12). Ca ngợi chiến công của R. chống Hồi giáo, bị tử trận. Roland là hình tượng người hiệp sĩ trung quân, ngoan đạo, thẳng thắn.

11. Bài ca tổng hợp, 1950, của PABLO NERUDA, Chi Lê. Bản nhạc hùng tráng ca ngợi cuộc sống Châu Mỹ, thảo mộc, muông thú, con người, truyền thống. Tố cáo bọn xâm lược.

12. Bách khoa toàn thư, 1751-72, Pháp. Công trình tập thể biểu hiện những tư tưởng của trào lưu tư sản tiến bộ Ánh sáng, chuẩn bị cách mạng 1789, do Đi-đơ-rô chủ trương.

13. Bất bình chín muồi (tựa khác: Chùm nho nổi giận), 1939, tiểu thuyết của J.STEINBEC, Mỹ (sau phản động). Nông dân nợ nần bị mất đất, di cư trong những năm kinh tế suy thoái.

14. Bút ký người đi săn, 1846-51. Tập truyện ngắn của TURGENIEV, Nga. Chống chế độ nông nô do một người đi săn kể lại.

15. Ca dâng lên (Gitanjali), 1913. tập thơ của Tagore, xứ Băng-gan (Ấn Độ), đoạt giải Nobel. Gồm hơn 100 bài: đề cao sức mạnh tinh thần, tư tưởng phiếm thần, cảm thông thiên nhiên, yêu con người và muôn vật, hiểu biết tâm hồn trẻ em.

16. Cây thập tự thứ bảy, 1942, tiểu thuyết của nữ nhà văn Đức ANNA SEGHERS. Cuộc trốn khỏi trại giam Quốc xã của bảy chiến sĩ cách mạng, sau đấy chỉ một người thoát.

17. Cha con, 1860-62. Tiểu thuyết của TURGENIEV, Nga. Thế hệ “cha” đại diện những quan điểm lỗi thời, những người quý tộc theo chủ nghĩa tự do. Thế hệ “con” là những người trí thức bình dân, có tin tưởng mới, cách mạng.

18. Chàng ngốc, 1868, tiểu thuyết của F.M. DOSTOIEVSKI. Chứng minh tất cả những gì là đẹp đẽ, cao cả không thể tồn tại trong xã hội quý tộc, tư bản.

19. Chiến tranh và hòa bình, 1863-69, tiểu thuyết của LEV. N. TOLSTOI, Nga. Cuộc chiến tranh 1812 chống quân xâm lược Pháp của Napoleon I, diễn tả nhân dân là nhân vật chính; bức tranh nước Nga đầu thế kỷ 19, những người trí thức tiến bộ, tư tưởng cách mạng phát sinh do phong trào yêu nước- tư tưởng nhân dân.

20. Chuông nguyện hồn ai, tiểu thuyết của E.M. HEMINGWAY, Mỹ. Nội chiến Tây Ban Nha. Hoạt động của một nhóm du kích với sự giúp đỡ của một chiến sĩ công hòa Mỹ trong lữ đoàn quốc tế 1940.

21. Con đường đau khổ, 1922-41, tiểu thuyết của A. N. TOLSTOI, Liên Xô. Quá trình diễn biến phức tạp của tri thức Nga đi với cách mạng, phản ảnh cuộc nội chiến.

22. Con đường sấm sét, 1948, tiểu thuyết của P. ABRAHAM, Nam Phi, vạch rõ: tình yêu giữa người da đen và da trắng ở Nam Phi nhất định tan vỡ.

23. Cổng Ra-sô-môn, 1915, tập truyện ngắn của AKUTAGAWA, Nhật Bản, pha trộn hiện thực và huyền ảo, phân tích tâm lý, duy mỹ.

23. Cuộc hành hương của CHILDE HAROLD, 1812-17, thi phẩm của G. BYRON, Anh. Tả những chuyến đi Châu Âu của những nhà thơ lãng mạn cách mạng, phản ánh những mâu thuẫn xã hội đương thời.

24. Da đích hay số mệnh, 1748. Truyện triết học của VOLTAIRE, Pháp. Một thanh niên Ba-by-lon có số phân gian nan nhưng do tài ba, lấy được người yêu và làm vua. Triết học “Ánh sáng” lý trí, chống phong kiến cuồng tín.

25. Đất vỡ hoang, 1932-59. Tiểu thuyết của M. SOLOKHOV, Liên Xô. Về thời kỳ bắt đầu công cuộc cải cách triệt để xã hội chủ nghĩa ở một làng vùng sông Đông (1930-31)

(st) (chua: toàn những thứ mọc nấm ;) )
 
26. David Copperfield, 1849-1850. Tiểu thuyết của CHARLSE DICKENS, Anh. Kể lại thời thơ ấu một cách trữ tình, châm biếm, hiện thực. Tinh thần nhân đạo tư sản.

27. Đỉnh gió hú, 1847. Tiểu thuyết của nhà văn nữ Anh E. BRONTE. Những nhân vật có dục vọng cuồng nhiệt, một gia đình cô đơn trong cảnh thiên nhiên hoang vu. Sự nổi dậy của cá nhân đòi tự do, chống lại đạo lý công thức.

28. Đỏ và đen, 1830. Tiểu thuyết của STENDHAL, Pháp. Một thanh niên tầng lớp dưới đầ tham vọng, tiến thân bằng con đường võ không được, theo con đường tông giáo; sau bị xử tử vì bắn người tình cũ ghen tuông và phá âm mưu của mình. Tác phẩm tố cáo sự thối nát của tư sản và phong kiến.

29. Đội cận vệ thanh niên, 1945. Tiểu thuyết của A. FADEEV, Nga Xô Viết. Hoạt động bí mật của học sinh chống phát xít Đức. Họ bị bọn phát xít hành hình gần hết trong lúc Hồng quân sắp giải phóng thành phố.

30. Đôn Kihôtê, 1605-15, CERVANTES, Tây Ban Nha. Một thể loại tiểu thuyết mẫu mực trên thế giới về hiện thực phê phán. Giá trị nhân văn lớn, gắn liền với mẫu người mới của thời kỳ Phục hưng với truyền thống nhând ân. Qua Đôn Kihôtê, diễu cợt thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ đương thời, đề cao những ảo vọng và đạo lý của tầng lớp hiệp sĩ phong kiến suy tàn.

31. Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, 1823-31. Tiểu thuyết thơ của A. PUSKIN, Nga. Đỉnh cao văn học Nga thế kỷ 19. Hiện thực, Ê. Ô và lớp thanh niên quý tộc ưu tú không tìm được chỗ đứng trong xã hội. Sa hoàng E. Ô mất cả tình yêu.

32. Ê-nê-ix, hùng ca có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Châu Âu . Do nhà thơ cổ La Mã VERGILUS, hay VERGILE viết năm 19 tr CN. Huyền thoại về việc xây dựng La Mã bởi hoàng tử Acmenas.

33. Gar-găng-chuya-a và Păng-ta-gruy-en, 1532-64. Tiểu thuyết phiêu lưu trào phúng của F. RABELAIS, Pháp. Quan điểm nhân văn thời Phục hưng: truyện hai người khổng lồ, đả kích Trung cổ (cuồng tín ngu dân).

34. Gia đình But-đơn-brốc, 1901.Tiểu thuyết của THOMAS MANN, Đức. Sự suy sụp của một gia đình tư sản thương nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh đế quốc chủ nghĩa.

35. Gia đình Ru-gông Măc-car, 1871-93. Bộ tiểu thuyết 20 cuốn của E.ZOLA, Pháp. Lịch sử một gia đình, xã hội Pháp nửa sau thế kỷ 19. Nhiều cuốn nổi tiếng như Na-Na ( một cô gái nghèo trở thành gái điếm quý phái), Gier-mi-nan về đấu tranh thợ mỏ…

36. Giác-cơ, người đưa tin định mệnh, 1773. Tiểu thuyết của Diderot, Pháp. Đối thoại giữa G. và chủ trong khi đi đường. G. kể lại rất nhiều chuyện. Bàn về tự do và tất yếu, sáng tác văn học.

37. Giác-cơ Vanh-trax, 1878-86, tiểu thuyết tự truyện ba tập của J. VALLES. Thời thanh niên, những cuộc đấu tranh của V và công xã Paris.

38. Jean Christophe, 1903-12. Tiểu thuyết 10 tập của R. Roland, Pháp, kể về cuộc đời một thiên tài nhạc sĩ Đức coi Pháp như một quê hương thứ hai, thể hiện quan điểm nhân đạo của R.về các vấn đề nhạc, xã hội, sự thông cảm của các dân tộc.

39. Jane Eyre, 1847. Tiểu thuyết của nữ nhà văn Anh Ch. Bronte. Đời một cô gái mồ côi dũng cảm chống lại bất công và mối tình nồng nàn, đầm ấm của nàng.

40. Giông tố, 1859. Bi kịch lớn nhất của A. Ostrovski, Nga. Tố cáo chế độ vô nhân đạo, xã hội thương nhân bóp nghẹt hạnh phúc, khiến cho một cô giáo trong trắng, dũng cảm, phải chọn cái chết để phản kháng.

41. Giuy-li hay Nàng E-lô-i-dơ mới, 1761. Tiểu thuyết bằng thư của Rut-xô, Pháp. Câu chuyện tình đau khổ của một chàng thường dân đến dạy học ở một gia đình quý tộc , yêu cô học trò và được yêu, không lấy được nhau. Tác phẩm ảnh hưởng đến trào lưu lãng mạn.

42. Gót sắt, 1907 của Jack London, Mỹ. Gót sắt là sự thống trị tư bản. Tiểu thuyết không tưởng về cuộc khởi nghĩa của quần chúng nhằm đập tan gót sắt.

43. Gulivơ du kí, 1726. Tiểu thuyết J. SWIFT, Anh. G. đến các nước khổng lồ và tí hon (đả kích xã hội thối nát, có nhiều cảnh hấp dẫn, truyện dí dỏm, chua chát. Ca ngợi lao động, chỉ trích xu nịnh, ích kỷ, tham vọng, hiếu chiến).

44. Hành lộ nan của Lý Bạch, Trung Quốc (701-762). Bài thơ tiêu biểu cho tính ngông của Lý Bạch, luôn luôn cảm thấy sự câu thúc của thiên nhiên và xã hội, muốn phá bỏ hết, mưa cầu giải thoát bản ngã để vươn tới vô biên. Cùng tác giả, đọc thêm: Tương tiến tửu, Thục đạo nan.

45. Hội chợ phù hoa, 1847-48. Tiểu thuyết của W.Thackeray, Anh. Đả kích sự ích kỷ, tham tiền và quyền hành của quý tộc và tư sản.

46. Hồng Lâu Mộng (còn gọi là Thạch Đầu Ký hoặc Kim Thạch Kỳ Duyên) của Tào Tuyết Cần, Trung Quốc (1716-1763). Trên cái nền mấy cuộc tình duyên éo le “trái đạo”, nội dung tác phẩm đã được coi là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống nội bộ của giới quý tộc phong kiến Trung Quốc. Đặc biệt là bút pháp tinh tế và kỳ ảo đến mức hoàn thiện.

47. I-li-ax thế kỷ IX-VIII (tr.C.N.). Thiên anh hùng ca cổ Hy Lạp của Homeros. 16000 câu thơ kể chuyện quân liên minh Hy Lạp vây đánh thành I-li-ôn (Troy) để cướp lại hoàng hậu Helen bị bắt cóc.

48. Iu-ly-xi-do, 1922. Thơ văn xuôi (800 trang) của J.Joyce, Anh ( Ailen). Pha đủ các loại văn phong, ngôn ngữ. Độc thoại nội tâm, nhại truyện cổ Hy Lạp Ô-đy-xê, phá vỡ cấu trúc tiểu thuyết cổ điển.

49. Khói lửa, 1916. Tiểu thuyết của H. Barbusse, Pháp. Nhật ký một tiểu đội (Chiến tranh thế giới 1914-1918). Người lính nhận thức tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc và lòng khát vọng hòa bình của họ.

50. Kinh Cô-ran, thế kỷ VII-VIII. Kinh đạo Hồi, tương truyền là lời của Thượng đế truyền cho Tiên tri Mô-ha-mét. Tiếng Ả Rập. Gồm những giáo lý,điều răn…cơ sở văn minh Ả Rập (luật pháp, đạo lý, văn học, chính trị)
 
Theo cái link ý thì vẫn còn, bác nào post nốt hộ, chủ nhật đẹp giời thế này em đi chơi chứ dính mãi vào máy tính làm gì..

Theo em gì thì gì chứ must read không thể bỏ qua mấy thứ quan trọng như là Hiến pháp nước CHXHCN VN, luật hôn nhân và gia đình, luật đất đai v.v...và rất quan trọng như là cái này :)) xong rồi mới tính đến các cái khác...

Em bay
 
Nguyễn Hữu Cầu đã viết:
À, mà Kinh thánh có khi cũng được xếp vào loại sách văn học. Pearl Buck có viết 1 cuốn là Chuyện Kinh thánh, nhưng nếu thích nguyên bản em cứ đem Kinh thánh ra đọc. "Must read" nhá.

Chi? ne^n đo.c kinh Cu+.u U+o+'c (old statement) vi` no' gio^'ng truye^.n.

Be' Khe^ co`n que^n ma^'y ca'i must read quan tro.ng nhe':
1. 1001 thu? thua^.t chie^`u cho^`ng, NXB Phu. Nu+~ 1998.
2. Ca'c mo'n a(n ma` đa`n o^ng luo^n u+a thi'ch, NXB Gia'o Du.c 2002.
3. Bi' quye^'t ru?a cha^n ba(`ng nu+o+'c no'ng cho cho^`ng, NXB Khoa Ho.c Gia'o Du.c 1980.
 
Bác Dương liệt kê thêm cho em vài quyển nữa :D
 
Hoàng Lam Khê đã viết:
Kinh thi và rất nhiều thơ Đường: http://thivien.maihoatrang.com/
Cám ơn chị nhiều :)

Pearl Buck viết về cả Nhật nữa (ko nhiều = TQ, tất nhiên), vdụ trong Đoá hoa ẩn mình (tiếng Anh là Peony thì phải), truyện này cũng mỏng, tốt! The Good Earth là một trong những truyện hay nhất thì phải, nhưng chị chưa đọc B-) (em có link ko?),mà hình như trong đống được dịch ra tiếng Việt không có thì phải.
Em Mi có học Gender & Culture không? Có thì tìm thêm PB đọc ;)
Đúng là The Good Earth hay hơn The Joy Luck Club & Balzac and the Little Chinese Seamstress rất nhiều lần, highly recommended, nhưng em không có link.
PB em cũng chỉ đọc một truyện này thôi, chứ không định đọc thêm nữa, vì không ưa feminist writing :p.

Nếu em Mi hoặc ai có HLMộng trọn vẹn Anh/Việt đều được, cho mình xin :x
Đây, có cả Tam Quốc Diễn Nghĩa, Truyện Thủy Hử, Tây Du Ký... Tiếc là vẫn không có sử ký Tư Mã Thiên :(

http://www.chinapage.com/novels.html

Be' Khe^ co`n que^n ma^'y ca'i must read quan tro.ng nhe':
1. 1001 thu? thua^.t chie^`u cho^`ng, NXB Phu. Nu+~ 1998.
2. Ca'c mo'n a(n ma` đa`n o^ng luo^n u+a thi'ch, NXB Gia'o Du.c 2002.
3. Bi' quye^'t ru?a cha^n ba(`ng nu+o+'c no'ng cho cho^`ng, NXB Khoa Ho.c Gia'o Du.c 1980.
Cái này cũng xếp vào văn học nước ngoài ạ?
 
chán học vào đây nghịch ngợm, post vài truyện Paustovsky lên đây để mọi người cùng đọc cho vui. (ai đọc rồi đừng bảo em rách việc nhá :p)

Bình Minh Mưa

Tàu thuỷ đến Navôlôki vào nửa đêm. Thiếu tá Kuzmin bước ra boong. Trời mưa phùn. Bến vắng tanh, chỉ có một cây đền lồng leo lét.
Đâu, tỉnh ở đâu? Kuzmin nghĩ. Trời tối, mưa rơi. Thật chẳng ra làm sao hết!
Chàng co rúm người, cài lại cúc áo choàng da. Từ mặt sông, gió lạnh thổi vào. Kuzmin tìm thuyền phó, hỏi xem tàu có đỗ lâu ở Navôlôki không.
- Khoảng ba tiếng. - Thuyền phó trả lời. - Còn tuỳ việc dỡ hàng. Đồng chí hỏi làm gì? Đồng chí còn đi tiếp cơ mà.
- Tôi phải chuyển hộ anh bạn cùng nằm quân y viện một bức thư cho vợ anh ấy. Chị ấy ở đây, ở tỉnh này.
- Vậy thì anh phải đi thôi! - Thuyền phó thở dài. - Trời tối như mực. Nhớ nghe còi, kẻo rớt lại đấy nhé!

Kuzmin xuống bến, trèo lên trên những bậc thang trơn nơi bờ sông dựng đứng. Nghe có tiếng mưa rơi tí tách trong những bụi cây. Chàng dừng một lát cho mắt quen với bóng tối và nhìn thấy một cỗ xe xộc xệch với con ngựa buồn bã. Mui xe đã giương và từ trong xe vẳng ra tiếng ngáy.
- Này ông bạn! - Kuzmin nói lớn. - Ông ngủ quên để xe đi qua thiên đàng mất rồi.
Người đánh xe cựa mình, chui ra, hỉ mũi, lấy vạt áo lau, rồi mới hỏi:
- Đi hả?
- Đi.
Kuzmin đồng ý.
- Đi đâu bây giờ?
Kuzmin nói tên phố.
- Thế thì xa. - Người đánh xe bối rối. - Mãi trên đồi kia. Ít nhất cũng phải chi một chai ngang đấy, ông ơi!
Người đánh xe giật cương, giục ngựa. Chiếc xe uể oải chuyển bánh.
- Thế nào, bác là người đánh xe độc nhất ở Navôlôki này hay sao?
Kuzmin hỏi.
- Có hai lão già chúng tôi thôi. Còn thì đang chiến đấu. Đồng chí đến nhà ai vậy?
- Đến nhà Basilốp.
- Tôi biết! - Ông già nhanh nhẹn ngoái lại. - Đồng chí đến thăm chị Onga Anđrêepna, con gái bác sĩ Anđrê Petrôvich, chứ gì! Chị ấy ở Maxcơva về đây, ở nhà cha từ năm ngoái. Bác sĩ mất đã hai năm! Nhưng nhà vẫn là của họ….
Xe lắc mạnh, nó kêu lọc xọc và rút được một bánh ra khỏi cái hố.
- Bác nhìn đường cho cẩn thận. - Kuzmin khuyên. - Chớ trông ngang trông ngửa.
- Đường với đất, rõ... - Người đánh xe lầu bầu. - Ban ngày mà đi con đưòng này đến phát sợ. Nhưng đêm thì không sao. Ban đêm không trông thấy ổ gà.
Ông lão im lặng. Kuzmin châm thuốc, ngả người dựa hẳn vào phía trong. Mưa rơi lộp độp trên mui. Những con chó sủa xa. Mùi thìa là, mùi hàng rào ướt và hơi ẩm của sông bốc lên. “Ít nhất cũng đã một giờ sáng”, Kuzmin nghĩ. Thực vậy, quả chuông rạn trên một gác chuông nhà thờ đâu đấy điểm một tiếng ngay lập tức sau khi anh nghĩ.
Giá mình cứ ở đây cho đến hết phép. Chàng lại nghĩ. Chỉ riêng không khí này cũng đủ làm tiêu tan những điều phiền muộn sau khi mình bị thương. Mình sẽ kiếm một căn phòng có cửa sổ mở ra vườn. Trong một đêm như đêm nay mình sẽ mở toang cửa sổ, nằm xuống trùm chăn kín mà nghe mưa gõ trên những cây ngưa bàng.
- Vậy ra đồng chí là chồng chị ấy?
Ông lão đánh xe hỏi.
Kuzmin không đáp. Ông lão tưởng viên sĩ quan không nghe rõ nhưng không dám hỏi lại.
Đúng là chồng. Ông lão phán đoán. Thế mà thiên hạ nói láo là chị ấy đã bỏ chồng từ trước chiến tranh. Rất láo toét.
- Đồ quỷ! - Ông lão với lấy dây cương, cho con ngựa gầy còn da bọc xương một cái vụt. - Cứ sục vào chỗ lầy mà đi!
Thật vớ vẩn, tàu trễ, mãi đến đêm mới tới đây. Kuzmin nghĩ. Tại sao Basilốp (người bạn cùng nằm viện với anh) khi biết mình sẽ đi qua Navôlôki lại nhờ chuyển thư tận tay cho vợ anh ta? Thế là đành phải đánh thức họ dậy, có trời mới biết thiên hạ sẽ nghĩ gì về chuyện ấy!
Basilốp là một viên sĩ quan cao lớn, hay giễu cợt. Anh nói nhiều và thích tán dóc. Trước khi nói một câu gì sâu sắc, anh cười không ra tiếng một lúc đã. Trước kia, khi chưa được huy động vào quân đội, Basilốp giúp việc một đạo diễn điện ảnh. Tối nào anh cũng kể tỉ mỉ cho bạn bè cùng phòng nghe những cuốn phim nổi tiếng. Anh em thương binh thích nghe Basilốp kể, chờ đợi những câu chuyện của anh và ngạc nhiên vì trí nhớ của anh. Basilốp nhận xét một cách khắt khe đối với người, sự kiện và sách vở. Anh rất cứng cổ và giễu cợt bất cứ ai định phản đối mình. Nhưng Basilốp giễu cợt một cách ranh ma - dùng lối nói đùa cạnh khoé và người bị anh giễu thường hai ba giờ sau mới sực hiểu ra rằng mình bị Basilốp xỏ xiên và cố nghĩ câu trả lời cho thực cay độc. Nhưng tất nhiên là đã muộn.
Một ngày trước khi Kuzmin đi, Basilốp đưa cho chàng một bức thư nhờ chuyển cho vợ mình và lần đầu tiên Kuzmin nhìn thấy trên mặt Basilốp một nụ cười bối rối. Rồi đêm ấy Kuzmin nghe thấy Basilốp trằn trọc trở mình và khụt khịt mũi trên giường. Có lẽ anh chàng cũng chẳng đến nỗi khô khan lắm, Kuzmin nghĩ. Hình như anh chàng đang khóc. Nghĩa là anh chàng yêu. Và yêu một cách nồng nhiệt nữa là khác.
Suốt cả ngày hôm sau Basilốp không rời Kuzmin nửa bước, thỉnh thoảng lại liếc nhìn chàng và tặng chàng chiếc bi đông phát cho sĩ quan. Lúc Kuzmin sắp lên đường họ cùng nhau uống cạn một chai vang mà Basilốp đã giấu được.
- Sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm thế?
Kuzmin hỏi.
- Thiếu tá thân mến ạ, anh là một người tốt. - Basilốp đáp. - Anh có thể là một nghệ sĩ lắm.
- Tôi làm nghề họa đồ. - Kuzmin trả lời. - Mà những người họa đồ vốn đã là những nghệ sĩ rồi.
- Vì sao?
Kuzmin trả lời lửng lơ:
- Vì họ là những kẻ lang thang.
- “Những kẻ lưu vong đất khách quê người, những kẻ lãng du và những nhà thơ”. - Basilốp giễu cợt tuyên bố.- Ai mà chả muốn được như họ, nhưng rồi chẳng làm nên gì hết.
- Anh trích thơ ai đấy?
- Của Vêlôsin. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ đó. Tôi nhìn anh như thế là vì tôi ghen với anh.
- Anh ghen với tôi cái gì kia chứ?
Basilốp xoay đi xoay lại cái cốc trong tay, ngả lưng vào thành ghế và nhếch mép cười. Hai người ngồi ở cuối hành lang quân y viện, bên một chiếc bàn mây. Bên ngoài cửa sổ, gió uốn cong những cây non, reo lên trong lá và đưa bụi bay đi. Một đám mây trĩu nước từ ngoài sông đang tiến vào thành phố.
- Tôi ghen gì với anh? - Basilốp hỏi lại và đặt bàn tay hồng hào của anh ta lên tay Kuzmin. - Tôi ghen với anh vì tất cả, ghen cả với bàn tay anh.
- Tôi không hiểu gì hết. - Kuzmin nói và khẽ rụt tay ra. Bàn tay lạnh lẽo của Basilốp chạm vào làm chàng khó chịu. Nhưng để Basilốp khỏi nhận thấy điều đó, chàng cầm lấy chai rượu vang và bắt đầu rót.
- Anh mà lại không hiểu! -Basilốp bực bội đáp. Anh ta im lặng một chút, nhìn xuống và nói. - Giá mà chúng ta được đổi chỗ cho nhau nhỉ! Nhưng thôi, nói chuyện ấy làm quái gì! Hai ngày nữa anh đã đến Navôlôki. Anh sẽ gặp Onga Anđrêepna. Nàng sẽ bắt tay anh. Vì thế mà tôi ghen. Giờ thì anh hiểu rồi chứ?
- Sao anh lại nói thế! - Kuzmin bối rối. - Anh rồi cũng sẽ gặp vợ anh kia mà.
- Nàng không phải là vợ tôi - Basilốp trả lời, giọng gay gắt.
- May mà anh không dùng chữ “phu nhân”. - Kuzmin lẩm bẩm.
- Nàng không phải là vợ tôi. - Cũng vẫn gay gắt như thế, Basilốp nói. - Nàng là tất cả. Tất cả cuộc đời tôi. Nhưng thôi ta không nói chuyện ấy nữa!
Basilốp đứng lên và đưa tay cho Kuzmin:
- Vĩnh biệt anh. Xin anh đừng giận tôi. Tôi cũng không đến nỗi tồi hơn những ngưòi khác.
Chiếc xe đi lên đê. Trời càng tối hơn. Trên những cây bạch liễu cổ thụ mưa ngái ngủ từ những chiếc lá lao xao rơi xuống. Vó ngựa đập trên cầu lát ván.
“Xa thực!” Kuzmin thở dài và nói với ông lão đánh xe. -Bác đợi tôi bên cạnh nhà nhé! Rồi đưa tôi trở lại bến…
- Được thôi - Ông lão bằng lòng ngay tức khắc và nghĩ. Không, thế thì không phải chồng rồi. Chồng thì thế nào cũng ở lại vài ba ngày chứ. Chắc người ngoài.
Bắt đầu đến một con đường đá cuội. Chiếc xe lúc lắc, cái bệ bằng sắt kêu lạch cạch. Ông lão cho xe quặt sang vệ đường. Bánh xe êm ái lăn trên cát ẩm. Kuzmin lại suy nghĩ.
Basilốp bảo ghen với chàng. Tất nhiên, anh ta chẳng ghen gì hết. Chẳng qua anh ta đã dùng không đúng cái tự muốn nói ra. Sau cuộc trò chuyện với Basilốp bên cửa sổ bệnh viện, Kuzmin, ngược lai, bắt đầu thấy ghen với anh ta. “Lại không đúng từ rồi sao?” Kuzmin bực bội tự nhủ. Chàng không ghen. Chàng chỉ tiếc. Chàng tiếc rằng mình đã bốn mươi, nhưng chưa bao giờ có được một tình yêu như Basilốp. Lúc nào chàng cũng chỉ có một mình.
“Đêm, mưa rơi xào xạc trên những khu vườn hoang vắng, tĩnh lặng, sương mù từ những cánh đồng cỏ bay qua và thế là cả cuộc đời cũng qua nốt.” Không hiểu sao Kuzmin lại nghĩ như thế.
Chàng bỗng thấy muốn ở lại đây. Chàng yêu những tỉnh lỵ Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy những cánh đồng ở bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên. Chàng sinh trưởng ở phương Nam trong một gia đình miền biển. Cha chàng để lại cho chàng tính ham thích tìm tòi, những bản đồ địa lý và cuộc sống lang thang. Vì thế chàng đã trở thành nhân viên họa đồ. Kuzmin đã coi việc chọn nghề là ngẫu nhiên. Chàng nghĩ, nếu sinh ra vào lúc khác, có khi mình đã là thợ săn hoặc người đi tìm đất mới. Chàng thích nghĩ về mình như thế, nhưng chàng đã nhầm. Tính tình chàng không có có gì giống người làm những nghề kia. Kuzmin nhút nhát và hiền lành đối với xung quanh. Những sợi tóc phơn phớt bạc tố cáo tuổi chàng. Nhưng nếu nhìn người sĩ quan tầm thước, gầy gò không ai dám đoán chàng quá ba mươi.
Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lỵ tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. Ta đang ở đâu đây? - chàng nghĩ - Cái tỉnh lỵ Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng, giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này, một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Balan, con sông Vixoa êm đềm và rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!
Xe đã đi qua đồi. Ông lão rẽ ngang vào một phố. Những đám mây đen có chỗ đã tản ra và trong cái đen tối trên đầu, đây đó lấp lánh một vì sao. Ngôi sao vụt ánh lên trong những vũng nước rồi lại tắt ngấm.
Xe dừng lại bên một ngôi nhà có chòi ở giữa.
- Đến rồi! - Ông lão đánh xe nói. - Chuông ở cổng phía bên phải.
Kuzmin sờ soạng tìm thấy nắm chuông gỗ và kéo xuống nhưng chàng không nghe thấy chuông kêu, chỉ có tiếng rin rít của sợi giây thép gỉ.
- Ông cứ giật mạnh vào!
Kuzmin làm theo. Ở sân trong sau nhà, quả chuông con lúc lắc. Nhưng trong nhà vẫn yên lặng như tờ, chắc chưa ai thức dậy.
- Ô... ô... ô...! - Ông lão ngáp. - Đêm mưa thế này người ta ngủ say bằng chết.
Kuzmin đợi một lát rồi giật mạnh hơn. Ở phòng lát gỗ có tiếng chân vẳng ra. Có người nào đến bên cửa sổ, dừng lại nghe ngóng rồi bực dọc hỏi:
- Ai vậy? Muốn gì?
Kuzmin định trả lời, nhưng ông lão đã nói trước.
- Mở cửa ra, Macfa. - Ông lão nói. - Có người ở mặt trận về gặp chị Onga.
- Ai ở mặt trận về? - Giọng nói sau cửa vẫn chẳng dịu dàng hơn trước chút nào. - Chúng tôi chẳng đợi ai cả.
- Không đợi, thế mà lại gặp đấy!
Cánh cửa hé mở. Trong bóng tối Kuzmin nói chàng là ai và vì sao chàng tới.
- Trời! - Người đàn bà đứng sau cửa sợ hãi kêu lên. - Ông rõ vất vả! Tôi mở cửa ngay bây giờ. Chị Onga đang ngủ. Mời ông vào, tôi sẽ đánh thức chị ấy dậy.
Cửa mở, Kuzmin bước vào phòng treo áo tối mò.
- Ở đây có bậc. – Người đàn bà dặn, giọng nói đổi hẳn, dịu dàng. - Đêm hôm thế này mà ông cất công đến! Ông đợi cho một chút kẻo vấp. Tôi châm đèn ngay bây giờ, ở đây đêm mất điện.
Bà ta đi, còn Kuzmin ở lại phòng treo áo. Từ các phòng bay ra mùi trà và một mùi gì đó nữa, êm ái. Một con mèo bước ra, cọ mình vào chân Kuzmin, nó kêu gừ gừ rồi trở vào căn phòng tối như muốn mời Kuzmin đi theo mình.
Đằng sau cánh cửa hé mở hắt ra một ánh sáng run rẩy yếu ớt.
- Mời ông.
Người đàn bà nói.
Kuzmin bước vào. Người đàn bà cúi chào chàng. Đó là một bà lão tầm vóc cao, mặt hơi đen. Kuzmin cố giữ cho khỏi gây ra tiếng động, bước đi gần như rón rén.
- Ông đừng ngại, đằng nào cũng phải đánh thức chị ấy.
Bà lão mỉm cười.
Kuzmin khe khẽ hỏi:
- Ở đây có nghe rõ còi tàu ngoài biển không cụ?
- Nghe rõ ông ạ! Rõ lắm! Cứ như tàu nọ nghe tàu kia thôi! Ông ngồi xuống đi.
Bà lão ra, Kuzmin ngồi xuống chiếc đi văng tựa gỗ.
Chàng do dự khi móc túi lấy thuốc hút. Chàng bối rối và nỗi bối rối khó hiểu ấy làm chàng tức giận. Cái cảm giác bao giờ cũng có khi ta ban đêm vào nhà người khác, bước vào một cuộc sống không phải là của ta, đầy bí mật và những điều khó hiểu, xâm chiếm tâm hồn chàng. Cuộc sống ấy giống như một cuốn sách bỏ quên trên bàn ở trang sáu mươi lăm nào đó. Kuzmin nhìn vào trang giấy ấy và cố đoán xem cuốn sách nói về chuyện gì, có gì bên trong?
Ở trên bàn có một cuốn sách ngỏ thực. Kuzmin đứng dậy cúi xuống và vừa lắng nghe tiếng thì thào vội vã bên kia cánh cửa và tiếng áo phụ nữ sột soạt, vừa đọc thầm những dòng chữ chàng quên bẵng từ lâu:
Cái không thể đã thành có thể
Con đường dài hóa dễ với ta
Nhọc nhằn chi mấy cũng qua
Cuối đường tìm kiếm khi ta thấy nàng
Kuzmin ngẩng đầu lên, nhìn quanh. Căn phòng thấp và ấm áp một lần nữa lại làm chàng muốn ở lại tỉnh lỵ này.
Căn phòng với ngọn đèn treo trên bàn ăn, chụp đèn trắng đục, đôi sừng tuần lộc đóng trên bức tranh vẽ con chó bên giường bệnh một em bé gái, có một thứ ấm cũng đặc biệt vô tả. Những căn phòng như thế bao giờ cũng làm ta phải mỉm cười bởi mọi vật ở đó đều cổ lỗ, từ lâu ta đã lãng quên.
Mọi vật chung quanh, đến cái gạt tàn bằng vỏ ốc màu hồng đều chứng tỏ một cuộc sống dài và bình thường làm cho Kuzmin lại nghĩ rằng giá chàng được ở lại đây và sống như những người chủ ngôi nhà cũ kỹ này đã sống một cuộc sống không vội vã, làm rồi nghỉ ngơi, xuân rồi lại đông và những ngày nắng ngày mưa xen kẽ.
Nhưng bên cạnh các đồ vật cũ kỹ, trong phòng còn có những thứ khác. Trên bàn cắm một bó hoa đồng nội: hoa cúc, hoa phế hình, hoa thanh lung trà dại. Hoa chắc vừa mới hái. Chiếc kéo và những cành hoa bị cắt bỏ nằm trên khăn bàn.
Và bên cạnh là tập thơ “Con đường dài hoá dễ với ta” để ngỏ của Blôck. Chiếc mũ phụ nữ nhỏ nhắn màu đen đặt bên cuốn sách bìa nhung lam đặt trên mặt đàn dương cầm. Cái mũ hoàn toàn không cổ chút nào, rất hợp thời trang. Một chiếc đồng hồ con, dây mạ kền vứt cẩu thả trên bàn. Đồng hồ chạy rất êm, kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi… Mùi nước hoa bao giờ cũng phảng phất buồn, nhất là trong đêm khuya khoắt như đêm nay.
Một cánh cửa kính để mở. Bên ngoài cánh cửa, đằng sau những chậu thu hải đường, một bụi tử đinh hương ướt nước mưa lấp lánh dưới ánh sáng yếu ớt từ trong phòng lọt ra qua cửa kính. Mưa bụi thì thào trong bóng tối. Những giọt nước nặng hối hả đập vào lòng máng.
Kuzmin lắng nghe tiếng nước rơi, ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã đến với chính chàng lúc này, ban đêm, trong ngôi nhà xa lạ, và từ ngôi nhà ấy, một phút nữa thôi, chàng sẽ ra đi và không bao giờ trở lại.

Do tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao? Kuzmin nghĩ và quay lại.
Một thiếu phụ vận đồ đen đứng ở ngưỡng cửa. Thiếu phụ hẳn vì vội ra tiếp khách nên chưa chải đầu cẩn thận. Một bím tóc rơi trên vai, và thiếu phụ, mắt vẫn không rời Kuzmin bối rối mỉm cười, nâng nó lên, lấy trâm cài vào đám tóc ở gáy. Kuzmin nghiêng người chào thiếu phụ. Nàng đưa tay cho chàng và nói:
- Xin lỗi anh. Tôi đã làm anh phải đợi.
- Chị là Onga Anđrêepna?
- Vâng.
Kuzmin nhìn thiếu phụ. Dáng trẻ trung với đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ của thiếu phụ làm chàng sửng sốt.
Kuzmin xin lỗi vì đã làm phiền rồi móc trong túi áo, lấy bức thư của Basilốp ra đưa cho tiếu phụ. Nàng cầm lấy, cám ơn chàng và đặt bức thư lên mặt đàn dương cầm , không đọc.
- Kìa, chúng ta cứ đứng mãi! - Nàng nói - Mời anh ngồi! Anh ngồi gần bàn đây này. Ở đây sáng hơn.
Kuzmin ngồi xuống bên bàn và xin phép được hút thuốc.
- Anh cứ tự nhiên. - Nàng nói. - Tôi cũng xin được hút cùng anh.
Luzmin mời nàng và đánh diêm. Khi thiếu phụ châm lửa, ánh diêm hắt lên mặt nàng và chàng thấy khuôn mặt trầm tư với vầng trán thanh sạch của nàng có vẻ quen quen đối với chàng.
Onga ngồi xuống, đối diện với Kuzmin. Chàng chờ đợi những câu hỏi, nhưng nàng chỉ im lặmg và nhìn ra cửa sổ, nước mưa vẫn đều đều xào xạc.
- Macfa! - Onga nói và quay về phía cửa. - Bà đặt giúp tôi ấm chè.
- Không, không! - Kuzmin hốt hoảng. - Tôi phải đi ngay bây giờ. Người đánh xe còn đợi ngoài phố. Tôi chỉ định chuyển bức thư cho chị và nói với chị tin tức về… anh ấy.
- Có gì đáng nói đâu! - Onga trả lời, rút trong bó hoa ra một bông hoa cúc và tàn nhẫn vặt từng cánh. - Anh ấy còn sống thế là tôi mừng.
Kuzmin im lặng.
- Anh đừng đi vội. - Onga nói, bình dị như nói với một người bạn cũ. - Ở đây nghe rõ còi tàu. Chắc chắn tàu thuỷ chỉ chạy được trước khi trời sáng.
- Sao vậy?
Bà Macfa từ bên buồng chõ sang:
- Tại ở vùng này, phía dưới Navôlôki có một con bương lớn dưới dòng sông. Đêm hôm đi qua đấy nguy hiểm lắm. Vì thế các thuyền trưởng cứ phải chờ đợi trời sáng.
- Đúng như vậy. - Onga xác nhận. - Từ đây ra bến đi bộ chỉ hết mười lăm phút, nếu qua lối vườn hoa. Tôi sẽ tiễn anh. Còn bác đánh xe thì anh cho về thôi. Ai chờ anh? Có phải bác Vaxili không?
- Cái đó thì tôi lại không biết.
Kuzmin mỉm cười.
- Timôfây chở ông ấy tới đây! - Bà lão từ cửa phòng bên báo sang. Nghe rõ cả tiếng bà lắp ống khói cho ấm xamôva kêu long xong. - Ít nhất ông cũng phải uống trà đã. Chưa chi vừa mới ở ngoài mưa vào đã lại định ra mưa.
Kuzmin nhận lời. Chàng ra cửa trả tiền xe. Ông lão chưa đi vội, còn loay hoay bên con ngựa, chữa lại thắt đai.
Khi chàng trở vào thì bàn đã dọn. Những chiếc chén cũ màu xanh tô chỉ vàng, một bình sữa hâm nóng, mật ong và một chai rượu vang mới mở. Bà Macfa mang ấm xamôva vào.
Onga xin lỗi vì tiếp khách quá đạm bạc. Nàng nói đã chuẩn bị trở lại Maxcơva, nhưng hiện giờ vẫn còn tạm làm việc ở Navôlôki, tại thư viện tỉnh. Kuzmin đợi mãi xem rồi nàng có hỏi gì đên Basilốp không, nhưng nàng không hỏi. Vì thế chàng mỗi lúc một bối rối thêm. Từ khi vẫn còn nằm quân y viện chàng đã đoán giữa vợ chồng Basilốp có chuyện lủng củng. Nhưng lúc này, sau khi thấy Onga không đọc mà lại đặt thư lên bàn thì chàng tin mình đã đoán đúng. Và chàng cảm thấy như mình chưa tròn trách nhiệm đối với Basilốp và có lỗi nhiều trong chuyện đó. Chắc Onga sẽ đọc thư sau, chàng nghĩ. Nhưng chàng biết rõ một điều là bức thư mà Basilốp coi trọng, vì nó mà chàng phải tới ngôi nhà này vào một giờ bất tiện, đã không còn cần thiết và chẳng thú vị gì đối với người nhận. Thành thử Kuzmin đã không giúp gì được cho Basilốp mà còn đặt mình vào một tình thế khó xử. Onga như đoán được ý nghĩ của chàng, nàng nói:
- Anh đừng giận. Bưu điện có, điện tín có, không hiểu sao anh ấy lại còn phiền anh làm gì.
- Có phiền gì đâu! - Kuzmin vội nói và sau khi yên lặng một lát, chàng tiếp. - Ngược lại, còn rất tốt nữa là khác.
- Anh nói cái gì tốt kia?
Kuzmin đỏ mặt.
- Cái gì tốt kia? - Onga hỏi lại, lần này nàng nói to hơn và ngước mắt nhìn Kuzmin. Nàng nhìn chàng, như cố đoán xem chàng nghĩ gì, một cách nghiêm nghị, người đưa hẳn về phía trước, chờ câu trả lòi. Nhưng Kuzmin chỉ im lặng.
- Anh nói đi, cái gì tốt?
Nàng hỏi lại một lần nữa.
- Biết nói với chị thế nào. - Kuzmin suy nghĩ, trả lời. - Đó là một câu chuyện đặc biệt. Tất cả những gì ta yêu mến thì ta lại ít gặp. Không biết người khác thế nào chứ tôi nghiệm bản thân thì đúng như vậy. Mọi điều tốt lành hầu như bao giờ cũng chỉ đi lướt bên ta. Chị hiểu ý tôi chứ?
- Tôi không hiểu lắm.
Onga trả lời và nhíu đôi lông mày.
- Giải thích như thế nào để chị hiểu đây? - Kuzmin nói. Chàng tự giận mình. - Chắc là chuyện đó cũng xẩy ra cả với chị. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương thưa thớt với một lưới mạng nhện mùa thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn nhẩy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được ở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ đi qua. Chị nhoai người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi cỏ rộng, những con ngựa, những nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sau và chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là rừng hay không khí, hay tiếng rít của những giây điện thoại. Mà cũng có thể đó là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh khắc nhưng ta chờ mãi suốt đời.
Kuzmin im lặng. Onga đẩy cốc vang lại phía chàng.
- Trong đời tôi. - Kuzmin nói và đỏ ửng mặt, chàng bao giờ cũng đỏ mặt khi phải nói về mình, - tôi vẫn hằng chờ đợi những chuyện bất ngờ và đơn giản ấy. Và nếu tôi gặp chúng, ấy là tôi hạnh phúc. Tuy chúng ngắn ngủi, nhưng tôi cũng đã từng gặp.
- Và bây giờ cũng vậy ư? - Onga hỏi.
- Vâng!
Onga nhìn xuống.
- Vì sao? - Nàng hỏi.
- Tôi không rõ. Nhưng tôi có cảm giác như vậy. Tôi bị thương trên sông Vixoa, rồi nằm quân y viện. Mọi người đều có thư từ gửi đến, riêng tôi thì không. Chẳng qua chỉ vì tôi chẳng có ai viết cho. Tôi nằm và tưởng tượng đến cuộc sống tương lai của mình sau chiến tranh như mọi người thường tưởng tượng. Tương lai ấy nhất định phải hạnh phúc và khác thường. Rồi tôi khỏi và người ta quyết định cho tôi đi nghỉ. Họ chỉ định một thành phố.
- Thành phố nào? - Onga hỏi.
Kuzmin nói tên thành phố. Onga không nói gì.
- Tôi xuống tàu. - Kuzmin nói tiếp. - Làng mạc ở hai bên bờ, những bến tàu. Và cảm giác cô đơn chán ngấy. Tôi xin chị, chị đừng nghĩ rằng tôi than phiền. Trong cô đơn cũng có nhiều cái tốt. Rồi Navôlôki. Tôi sợ ngủ quên. Đêm khuya tôi ra boong tàu và suy nghĩ: thực là lạ lùng vì trong bóng tối bao la trùm kín cả nước Nga, dưới bầu trời rả rích mưa, có hàng nghìn người khác nhau đang ngủ một cách yên lành. Rồi tôi đi xe ngựa đến đây và cứ đoán mãi: người tôi sẽ gặp là ai?…
- Nhưng điều gì làm anh hạnh phúc kia chứ? Onga hỏi.
- Không... - Kuzmin sực tỉnh. - Nói chung là tốt.
Anh im lặng.
- Kìa anh? Nói đi chứ!
- Nói gì kia? Tôi nói thế đã nhiều lời lắm, tôi đã nói những điều không đáng nói.
- Anh cứ nói hết. - Onga trả lời. Nàng như không nghe rõ những từ cuối cùng trong câu nói của chàng. - Nói tất cả những gì anh muốn. - Nàng nói thêm. - Dù cho điều đó có hơi kỳ quặc đi chăng nữa.
Nàng đứng dậy đến bên cửa sổ, gạt chiếc rèm sang một bên. Mưa vẫn không ngớt.
- Chị nói cái gì kỳ quặc kia?
Kuzmin hỏi.
- Mưa vẫn rơi! - Onga nói và quay lại. - Đấy, cuộc gặp gỡ như thế này. Và tất cả câu chuyện đêm khuya giữa chúng ta. Cái đó chẳng kỳ quặc hay sao?
Kuzmin bối rối im lặng.
Trong bóng tối ẩm ướt bên ngoài cửa sổ, ở một nơi nào đó dưới chân đồi, con tàu rúc lên.
- Thôi! - Onga nói như trút được gánh nặng. - Còi rồi!
Kuzmin đứng dậy. Onga vẫn không nhúc nhích.
- Gượm đã, - nàng nói, bình tĩnh. - Chúng ta ngồi với nhau một lát trước khi anh lên đường. Như tục cũ ngày xưa.
Kuzmin lại ngồi xuống. Onga cũng ngồi xuống, suy nghĩ và quay mặt đi, không nhìn Kuzmin. Chàng đưa mắt nhìn đôi vai nàng nhô lên, nhìn những bím tóc dày búi sau gáy, đường cong thanh tao nơi cổ nàng và nghĩ rằng nếu không có Basilốp thì chàng sẽ chẳng rời bỏ cái tỉnh lỵ này mà đi đâu hết. Chàng sẽ ở đây cho đến hết hạn nghỉ phép và sẽ sống, bồi hồi biết rằng bên cạnh chàng có người thiếu phụ đáng yêu và rất buồn bã giờ đây.
Onga đứng dậy. Trong phòng áo chật hẹp, Kuzmin giúp nàng khoác áo mưa. Onga lấy khăn, choàng lên đầu.
Hai người ra khỏi nhà, im lặng đi bên nhau trên đường phố tối.
- Trời sắp sáng. - Onga nói.
Bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông, Kuzmin thấy Onga rùng mình.
- Chị lạnh à? - Chàng lo lắng. - Chị tiễn tôi thật vô ích. Tự tôi, tôi cũng có thể tìm được đường ra bến.
- Không, không vô ích đâu.
Onga trả lời ngắn ngủi.
Mưa đã qua nhưng những giọt nước vẫn từ trên mái nhà rơi lộp độp xuống hè phố lát gỗ.
Vườn hoa kéo dài tới tận cuối phố. Cổng mở. Liền sau cổng là những con đường rậm rạp, bỏ hoang, không người chăm sóc. Trong vườn có mùi lá ướt, hơi lạnh của đêm khuya. Đó là một khu vườn cũ, đen ngòm những cây bồ đề cao lớn. Chúng đã rụng hết hoa và đã hơi yếu ớt. Chỉ mỗi một lần gió ào ào kéo qua là cả khu vườn xao động tưởng chừng như có một trận mưa rào nặng hạt vừa đổ xuống rồi lại tạnh ngay.
Cuối vườn là bờ sông dựng đứng trên mặt nước và bên kia là những chân trời trước rạng đông ướt sũng nước mưa, ánh phù tiêu mờ mờ phía dưới, sương mù, tất cả nỗi buồn những ngày mưa mùa hạ.
- Ta xuống thế nào đây? Kuzmin hỏi.
- Anh lại đây.
Onga rẽ theo con đường thẳng tuột tới bờ sông dựng đứng, đứng bên cầu thang gỗ bắc xuống dưới và mất hút trong bóng tối.
- Anh đưa tay đây. - Onga nói. - Chỗ này có nhiều bậc thang mục.
Kuzmin đưa tay cho nàng và hai người thận trọng lần xuống. Giữa những bậc thang là cỏ ớt nước mưa.
Bậc bục gỗ cuối cùng, họ dừng lại. Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con tàu. Hơi nước rít lên. Tim Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng, ngay bây giờ thôi, chàng sẽ phải chia tay với người thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với nàng mà không nói được gì; không nói gì hết. Cũng chẳng cám ơn nàng đã gặp chàng trên đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rủ xuống phía trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ “Anh cúi đầu xuống”. Và chàng ngoan ngoãn vâng theo.
- Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi. - Onga nói. - Tôi không đi hơn nữa đâu.
Kuzmin đưa mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt Onga nghiêm nghị lo lắng nhìn chàng. Có lẽ nào giờ đây, trong phút này thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và sẽ trở thành một trong những kỷ niệm xót xa trong cả đời nàng và trong cả đời chàng?
Onga đưa tay cho Kuzmin. Chàng hôn tay nàng và lại thấy vẫn cái mùi nước hoa thoang thoảng mà chàng đã thấy trong căn phòng tối, giữa tiếng mưa rơi xào xạc.
Khi chàng ngẩng đầu lên, Onga nói một câu gì, nhưng khẽ đến nỗi chàng không nghe rõ. Chàng ngờ rằng nàng chỉ nói độc một tiếng “Vô ích…” Có lẽ nàng còn nói điều gì nữa, nhưng con tàu dưới sông đã gầm lên, than thở vì buổi bình minh ẩm ướt, vì cuộc sống lang thang của nó trong những ngày mưa và trong những buổi sương mù.
Kuzmin chạy lên bờ sông, không ngoái lại. Chàng đi qua bến sông thoang thoảng mùi vỏ cây và mùi hắc ín, trèo lên tàu và bước ngay lên boong vắng tanh vắng ngắt. Con tàu bắt đầu rời bến, chân vịt quay chậm chạp.
Kuzmin đi lại đằng lái, nhìn về bờ sông dựng đứng, nhìn cái cầu thang: Onga vẫn đứng đấy. Trời hửng sáng và khó mà nhìn rõ ràng. Kuzmin giơ tay lên nhưng nàng không vẫy lại.
Con tàu mỗi lúc một đi xa, dồn vào đôi bờ cát những đợt sóng dài, làm những phù tiêu trên sóng lúc lắc và tiếng dội của những bụi miên liễu bên bờ đáp lại tiếng chân vịt vội vã của con tàu.
 
Người Đầu Bếp Già

Một buổi tối mùa đông năm 1766, trong ngôi nhà gõ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bà bá tước Tun - một ông lão mù - đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gãy. Khi cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi thì con chó đực xích trong chuồng lại gầm gừ khe khẽ. Cũng như chủ mình, nó đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.

Mấy năm về trước người đầu bếp già bị mù vì hơi nóng của bếp lò. Từ ấy, viên quản lý của bà bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài lon flôrin.

Ông lão ở với con là Maria, một cô gái độ tuổi mười tám. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế dài khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một cái dương cầm kiểu cổ - tài sản độc nhất của Maria.

Cái dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có tiếng động vang lên ở chung quanh là những dây đàn lại rung lên khe khẽ hồi lâu. Người đầu bếp gọi đùa cái dương cầm là “anh gác của nhà ta”. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy già yếu.

Khi Maria đã làm xong việc lau mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo sạch lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô :

- Cha không hề ưa bọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm cha được trong sạch.

- Vậy phải làm thế nào thưa cha ? - Maria lo lắng hỏi.

- Con hãy ra đường, - ông lão nói, - và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.

- Phố nhà thì vắng tanh... - Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.

Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở cánh cổng sắt gỉ và dừng lại. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.

Maria đợi hồi lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng cảm thấy có một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại, hỏi :

- Ai vậy ?

Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.

- Được rồi, - người đàn ông bình thản nói. - Mặc dù tôi không phải là thầy tu, nhưng không sao. Ta đi thôi.

Họ bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa ướt xuống ghế. Chàng ăn vận tao nhã và giản dị - ánh nến lấp lánh trên chiếc camiđôn màu đen, trên khuy pha lê và cổ áo thêu ren.

Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu hệt như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.
- Xin cụ cứ nói ! - Chàng bảo. - Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự đã cho tôi, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.

- Tôi làm việc suốt đời cho tới khi bị mù, - ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. - Và ai làm việc người đó không có thời giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao - vợ tôi tên là Mácta - thầy thuốc kê đơn cho nàng nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và vả khô, uống rượu vang hâm nóng, vì vậy tôi đã lấy trộm trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi đem bán. Bây giờ tôi rất khổ tâm khi nhớ lại việc này, và phải giấu con gái tôi : tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.

- Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân bị vạ lây vì vụ đó không ? - Người lạ mặt hỏi.

- Thưa ngài, tôi xin thề là không có ai cả. - Ông lão trả lời và khóc. - Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi đã chẳng lấy trộm !

- Tên cụ là gì ? - Người lạ mặt hỏi.

- Iôhan Mâye, thưa ngài.

- Vậy thì thưa cụ Iôhan Mâye ! - Người lạ mặt nói và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão, - trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.

- Amen ! - Ông lão nói khẽ.

- Amen ! - Người lạ mặt nhắc lại. - Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.

- Tôi muốn có người sẽ săn sóc Maria.

- Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không ?

Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói lớn :

- Tôi muốn một lần nữa được nhìn thấy Mácta như buổi đầu tôi gặp nàng lúc còn trẻ. Nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.

- Được, - người lạ mặt nói và đứng dậy. - Được, - chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. - Được - lần thứ ba chàng nói lớn và bất thần tiếng đàn vút lên vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn.

- Cụ hãy nghe đây, - người lạ mặt nói. - Cụ hãy nghe và hãy nhìn đây.

Chàng bắt đầu chơi. Về sau Maria nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một sắc tái kỳ lạ phủ lên trán chàng và có một ngọn nến lung lay trong đôi mắt chợt tối đi của chàng.

Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.

- Tôi thấy rồi, thưa ngài ! - Ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy. - Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và nàng vì ngượng ngùng đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, ở trên núi. Bầu trời trong xanh như thủy tinh, và Mácta cười. Nàng cười, - ông lão nhắc lại, tai lắng nghe tiếng róc rách của cung đàn.

Người lạ mặt chơi đàn, mắt nhìn vào cửa sổ tối om.

- Còn bây giờ, - chàng hỏi, - cụ có nhìn thấy gì không ?

Ông lão im lặng nghe ngóng.

- Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư ? - Người lạ mặt nói nhanh và vẫn tiếp tục chơi. - Đêm đang đen bỗng thành màu xanh thẫm rồi lại thành xanh lam, và ánh sáng ấm áp đã từ nơi nào trên cây cao kia chiếu xuống. Hoa trắng đang nở trên cành cây già cỗi trong vườn nhà cụ. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không : tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ướt đẫm nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi, và trên thành Viên cổ kính của chúng ta từng đàn chim đang bay về phương bắc.

- Tôi trông thấy tất cả những cái đó ! - Ông lão kêu lên.

Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà cả hàng trăm giọng hát vui mừng.

- Không, thưa ngài, - Maria nói với người lạ mặt, - hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo nở rộ trong một đêm.

- Vâng, - người lạ mặt trả lời, - đó là hoa táo nhưng cánh của chúng rất to.

- Mở cửa sổ ra, Maria ! - Ông lão bảo.

Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.

Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chắn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi. Chàng ngồi lặng trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi tiếng nhạc của chính mình.

Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói :

- Tôi đã thấy tất cả, rõ như hồi trước đây. Nhưng tôi không muốn chết đi mà không được biết... tên. Tên ngài !

- Tôi là Vônfgăng Amêđây Môza, - người lạ mặt trả lời.

Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước người nhạc sĩ vĩ đại.

Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.
 
Hạt Cát

Người ta phần đông quả quyết rằng phàm là truyện ngắn thì nó nhất thiết phải có ý nghĩa giáo dục. Nhưng bao giờ cũng cứ có những anh chàng kỳ quặc, phần nhiều lại chính là các nhà văn chứ không phải ai khác lại không chịu phục tùng cái chân lý ấy một cách tuyệt đối. Những người như thế quả quyết rằng có một số truyện ngắn, mặc dầu chẳng dạy dỗ độc giả được gì nhưng chúng cho họ thấy cái đẹp của một hạt cát tý xíu nào đó có thể khúc xạ ánh sáng mặt trời và biến nó thành vô vàn cầu vồng và hào quang đủ màu đủ sắc.

Có một lần ngồi trên lan can đá một con đường cái miền Krưm, tôi đã bàn đến chuyện ấy với một nhà văn có tuổi là người quen của tôi.

Ngay trước mặt chúng tôi, trên vệ đường đá răm thoai thoải, những bụi kim tước chỉ nở hoa như những tia nước vàng dày đặc, còn sau chúng tôi, như một vực thẳm màu xanh, Hắc Hải lấp lánh bốc khói. Biển đuổi vào bờ hàng ngàn con sóng bạc đầu nho nhỏ.
Những con sóng đi xiên xiên tứ phía đông nam bờ và vì thế tiếng sóng vỗ bờ đổ xuống bãi tắm không thành từng đợt thẳng ầm ĩ mà là sự đột nhập đều đều của những con sóng nhỏ chênh chếch.
- Tiếng sóng vỗ bờ này giống tiếng chân vịt Acsimét – Nhà văn có tuổi nói. Ngày trước ông là một kỹ sư và vì thế ông thường sử dụng trong cuộc sống cũng như trong văn của ông lối so sánh kỹ thuật.
Bên trên những bụi kim tước chi, những khu vườn nho kéo dài trên những khúc ngoặt lởm chởm đá lửa. Ở đó, các thiếu nữ đội khăn vuông trắng buộc rất thấp, sát lông mày, đang làm việc. Gió thổi phần phật những gấu váy mỏng bạc màu của họ.
Một cô trong đám thiếu nữ vừa chạy vừa nhảy trên đường cái và rẽ dần xuống biển. Cách chúng tôi mấy bước, cô vấp một cái, ngã xuống, vập chân vào đá rất đau rồi vùng dậy, nhảy lò cò về phía lan can.
Cô gái ngồi xuống bên chúng tôi, khe khẽ xuýt xoa vì đau qua hai hàm răng nghiến chặt. Cô cố nhấc cái chân bị thương lên, dùng hai tay ghì chặt lấy nó rồi bối rối cười lên khanh khách. Cô cố gắng làm ra vẻ không có chuyện gì xảy ra và vết thương kia chẳng có gì đáng chú ý. Nhưng trong đôi mắt tái nhợt của cô, chúng tôi biết rằng cô đau lắm.
Tôi lại chỗ con suối nhỏ chảy qua đường, con suối đã kịp rửa sạch trên mặt đường nhựa một giải cát sạch to hạt, dấp ướt chiếc khăn tay và đưa cho cô gái. Cô cảm ơn tôi và nhăn mặt, lấy chiếc khăn ướt buộc lại những ngón chân bị thương.
- Vẫn cứ đau. – Cô than phiền bằng một giọng biết lỗi – Cháu rõ thực là ngốc!
- Cô ngồi yên! – Nhà văn già nghiêm nghị bảo cô ái – Chúng tôi sẽ hãm chiếc xe đầu tiên qua đây và đưa cô về Mixkhorơ, vào bệnh viện.
- Cần gì phải thế! – Cô gái van vỉ - Tốt hơn hết là cháu cứ ngồi lâu lâu một chút. Chả biết chừng tự nó khỏi cũng nên.
Chúng tôi đồng ý.
Cô gái người gầy gò trong bộ áo cũ, ngắn, trước kia màu xanh lá cây nhưng giờ đã ngả sang màu xám. Cô nhìn xuống cái chân đau, không ngước mắt lên và vì thế chỉ trông rõ đôi hàng mi dài và đen của cô. Mấy món tóc màu hạt dẻ xỏa ra ngoài chiếc khăn vuông trắng.
- Cô ở đâu? – Nhà văn già hỏi.
- Cả đội chúng cháu ở trong lều. – Cô gái đáp – Kia kìa, sau vườn nho. Chúng cháu làm việc trong khu vườn nho ấy.
Cô ngước mắt lên và tôi ngạc nhiên thấy lông mi và tóc cô màu sẫm. Tôi đã chờ đợi được nhìn thấy một đôi mắt tối, nhưng mắt cô lại có màu xanh lá cây tươi và chúng long lanh đến nỗi tưởng chúng bị phủ một màng hơi ẩm của nước mắt.
Hai đầu gối cô bị đá răm làm xước và trên đó trông rõ những vết máu lấm tấm
Để chúng tôi khỏi chú ý đến cái chân đau của cô, cô gái nói:
- Hoa kim tước chi… đẹp quá đi mất!
- Nó giống cái gì, - nhà văn hỏi, - cô có biết không?
- Chịu, cháu không đoán được đâu
- Thế thì tôi sẽ nói cho cô nghe.
Tôi tin chắc nhà văn ngay lúc ấy sẽ dẫn ra một sự so sánh nào đó rất là kỹ thuật, nhưng ông ta chỉ nhìn về phía hoa kim tước chi, nghĩ một lát rồi nói:
- Nếu ta lấy những hòn sỏi của biển cả mà ném vào trong nước vàng thì ta sẽ có những tia nước, vọt lên tung toé, như thế đấy. Có đúng vậy không?
- Vâng, đúng thế. – Cô gási nói khẽ. – Câu nói của bác giống như những vần thơ của một nhà thơ hay. Cháu rất yêu thơ. Nhưng bây giờ cháu chẳng có thời giờ mà đọc thơ nữa.
Cô gái kể cho chúng tôi nghe rằng năm trước cô tốt nghiệp phổ thông ở một tỉnh lỵ nhỏ bé vùng Pôntapsina, rằng cái tỉnh lỵ ấy tên là Khôrôn và tỉnh lỵ ấy có một dòng sông nhỏ ấm áp hai bên bờ mọc đầy cỏ tên chảy bên cạnh. Cô nói rằng cha cô đã mất từ lâu, còn mẹ cô - một y tá – thì bận đến nỗi không còn có thời giờ dành cho tình yêu đứa con gái duy nhất, tức là cô, Lêlia. Cô kể rằng sau khi học xong cô quyết định trở thành một nhà chọn giống thực vật và vì thế bây giờ cô đang thực tập sản xuất tại những vườn nho miền Krưm. Công việc đó khó khăn và tinh tế, loại nho ở vườn họ làm tính tình lại đỏng đảnh, nhưng cái chính là công việc đá ghê lắm.
- Công việc làm sao? – Nhà văn ngạc nhiên hỏi lại.
- Đá ghê lắm. Đất chẳng khác gì đá, rễ nho cũng rắn như đá, chung quanh, đá bị mặt trời hun đốt phả hơi nóng hầm hập. Lúc đầu cháu khổ vì nóng, thậm chí phát khóc lên. Ấy thế mà bây giờ cháu lại đâm ra yêu cái nóng ấy, giờ đây cháu có cảm giác như nó làm cho đất đai đẹp thêm. Nhưng khoảng thời gian thú nhất chính là lúc cái nóng dừng lại lúc gần tối, nó bắt đầu giảm dần đi một cách khó nhận thấy và không khí trở nên yên lặng, có thể nói là dịu dàng, đến nỗi cháu cảm nhận cháu thực hạnh phúc.




- Đúng thế đấy, cháu hạnh phúc, - cô nhắc lại và hơi đỏ mặt. - Ở trường cháu, bà hiệu trưởng cứ căn dặn mãi là không được để cho mình dễ xúc cảm, nhưng giờ đây cháu đã hiểu ra như thế thật là ngốc. Cháu đoán được rằng các bác là nhà văn. Ở đây, ở Ianta, các bác có trại nhà văn. Nhà văn phải hiểu mọi sự vật một cách bình tĩnh hơn và tốt bụng hơn những người khác. Vậy thì, các bác hãy nói cho cháu nghe: Chẳng lẽ làm một con người tốt bụng và biết cảm thấy một cách mạnh mẽ tâm tính người và cái đẹp chung quanh lại là không tốt hay sao? Ấy thế mà người ta cứ buộc cháu vào cái tội dễ xúc cảm, thậm chí đôi lần cả ở đây, trong đội lao động nữa. Cháu có lỗi gì khi ở trước mặt kia, cả ngọn núi Aiu-Đgiơ đang đắm mình trong khói xanh, lẫn với trời xanh đến nỗi tưởng như nó hoà tan trong đó? Mà cái đó làm cho tâm hồn cháu cảm thấy sung sướng. Sung sướng đến nỗi ngay lập tức cháu bắt đầu nghĩ ra đủ mọi chuyện để cho cháu còn được sung sướng hơn nữa. Thí dụ như mới đây thôi, cháu vừa đọc được trong một cuốn sách cũ những chữ ”phương xa màu da trời”. Và cháu tự nhủ: “Núi Aiu-Đgơ không phải đắm mình trong bóng tối màu xanh mà là màu xanh da trời? Hay là màu xanh da trời nhạt?” Cháu không biết nên gọi thế nào cho đúng hơn và hay hơn. Rồi cháu bắt đầu tưởng tượng ra cháu đang trèo lên đỉnh núi, chung quanh cháu, những bông mận hoang trắng như hoa tuyết nhỏ bé đang rơi, còn biển thì đang nghiêng ngả ở xa mãi dưới kia, nó ném những tia nắng phản chiếu lên những dốc đứng. Và cháu thèm được hoà tan trong cái ánh sáng và màu xanh Hắc Hải ấy, đến nỗi cháu còn muốn, nếu cháu có phải chết thì cháu sẽ chỉ chết nơi đây.
Cô gái tự nhiên bối rối và nín lặng
- Như thế hẳn là ngốc lắm. – Cô nói. – Các bác tha lỗi cho cháu. Và xin các bác đừng cười cháu.
- Không đâu! – Nhà văn trả lời. – Chúng tôi không cười cô đâu, mặc dầu cô cũng có buồn cười thực đấy. và rất đáng yêu như thế. Bao giờ cô đi lấy chồng?
- Cháu chẳng bao giờ lấy chồng đâu! – Cô gái vội vã ngắt lời ông.
- Mọi cô gái đều nói như thế. – Nhà văn phá lên cười - Cả cô nữa. Bởi vì cô chưa yêu. Tôi ghen với cô đấy. Thực thế! tôi ghen với cô vô cùng. Như tôi ghen với người chưa đọc Epgêni Ônêghin, nhưng sắp sửa đọc cuốn đó. Cô đã đọc Chiếc vòng ngọc thạch của Kuprin chưa? Chưa à? Thế thì hay lắm. Mất gì tôi cũng bằng lòng để được theo dõi cô khi cô đọc truyện ngắn tuyệt diệu đó. Để tôi xem đôi mắt cô tối lại và rưng rưng lệ, để xem cô chau mày và cắn môi như thế nào, xem cô bất thần mỉm cười ra sao.
- Tại sao bác biết cháu đọc những cuốn sách hay như thế?
- Con tôi đọc sách y như vậy đấy! Còn tình yêu – cái tình yêu chân chính trong sáng và giản dị như bất cứ bông hoa dại nào, như bông mận hoang trắng và khiêm tốn kia - nhất định sẽ đến. Mặc dầu cô muốn hay không. Tôi hiểu tôi nói gì.
- Nói chuyện với bác đến là thú vị! – Cô gái nói. - Đấy, thế là chân cháu không còn đau lắm nữa rồi. Cháu có thể đi bộ đến tận Mixkhorơ được rồi.
Nhưng cô chưa đi được ngay, hay nói cho đúng hơn, nếu không dùng gậy. chúng tôi liền đứng hai bên cô và cô gái quàng tay lên vai chúng tôi, khập khiễng, đôi lúc co hẳn một chân lên, bắt đầu nhẹ nhàng rón bước đi xuống.
Chúng tôi đưa cô đi thận trọng như mang một báu vật. Mà thực vậy, đó là một báu vật sống, bám đầy bụi đất đỏ miền Krưm, báu vật sống này e thẹn, với đôi mắt bối rối màu xanh lá cây. Có lẽ tôi đã nghĩ một cách hơi văn hoa rằng mỗi mẩu đất mà đôi chân nhỏ bé đi dép của cô đặt xuống phải là một mẩu đất qúy báu đối với chúng tôi, những ông già. Mẩu đất ấm áp ấy đã được tuổi trẻ chạm tới. Tuổi trẻ là cái duy nhất, vì nó chúng ta đã sống và làm việc trong rất nhiều những năm gian khổ và đôi khi không xứng với cô ta.
Liệu thanh niên có biết đến điều đó không? Tôi nghĩ. Liệu cô gái này có biết đến điều đó không? Cuộc sống sẽ mất hầu hết ý nghĩa, nếu như tuổi trẻ không biết đến công việc của những thế hệ trước mình.
Và cô gái hình như cũng đoán ra tôi nghĩ gì. Đặt lại cánh tay trên vai tôi, cô khe khẽ chạm lòng bàn tay cô vào má tôi, và trong sự cọ sát vô tình ấy tự nhiên tôi cảm thấy niềm âu yếm. Mà có thể đó chỉ là tôi cảm thấy như vậy thôi, chuyện đó thường xảy đến với tôi. Tôi nhớ đến những câu thơ của Lugốpxkôi. “Tôi cần một giấc ngủ trượt sâu, tôi cần một tiết tấu cao tần…”
Hẳn là trong đó ẩn náu sự sáng suốt chân chính của những nguyện vọng cuộc sống hàng ngày. Tôi nghĩ. Nó đấy, giấc mơ trượt sâu màu anh da trời của những khoảng không, sự dao động của bóng tối mỏng manh trên biển cả bao la, cái rung rinh nhè nhẹ khó nhận ra của ngôi sao đầu tiên bên trên những ngọn núi. Tôi trỏ cho cô gái và nhà văn già nhìn ngôi sao, và chính tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại nói:
- Hẳn đó chính là cái ngôi sao mà ánh sáng của nó đã mạ bạc những thung lũng mùa xuân.
Nhà văn già trả lời tôi một cách đơn giản:
- Tôi thích sống!
Còn cô gái thì nói rằng ngày hôm nay đối với cô là một ngày đẹp, đẹp lắm, mặc dầu chính cô cũng không hiểu vì sao.
Vâng, truyện ngắn này chỉ có thế. Trong đó không có ý nghĩa giáo dục gì, nhưng có lẽ nó có cái “hạt cát” duy nhất có thể đem lại cho con người dù chỉ chút ít niềm vui và buộc họ phải mỉm cười, mà lần này không phải tìm trong câu chuyện ngắn củn ấy một ý nghĩa sâu xa.
 
Bụi Quý


Tôi không sao nhớ ra được là mình đã biết câu chuyện anh thợ quét rác thành Pari tên là Giăng Samet như thế nào. Samet kiếm sống bằng nghề quét dọn những xưởng thủ công trong khu phố anh ở.
Samet sống trong một túp lều ở ngoại thành. Tất nhiên, có thể tả tỉ mỉ khu ngoại ô song như vậy sẽ đưa độc giả ra ngoài lề câu chuyện. Thiết tưởng chỉ cần nhắc lại rằng, đến nay, ở những khu ngoại thành Pari, vẫn còn lại những tường thành cổ bằng đất cũng đủ. Vào khoảng thời gian xảy ra câu chuyện, những bụi hoa kim ngân và sơn trà vẫn mọc um tùm trên tường thành và chim chóc làm tổ trong những bụi đó.
Túp lều của anh thợ quét rác nằm ép sát vào chân tường thành phía bắc, kề bên những ngôi nhà nhỏ bé của các bác hàng thiếc, các bác thợ giày, những người đi nhặt mẩu thuốc lá và những người ăn xin.


Nếu như Môpatxăng để ý đến cuộc sống của những người cư trú trong những túp lều nọ, hẳn ông đã viết thêm được một số truyện ngắn tuyệt hay. Có khi chúng sẽ làm cho vinh quang vốn đã rực rỡ của ông thêm nhiều ánh lấp lánh mới.
Đáng tiếc là không một người ngoài cuộc nào để mắt đến những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà bọn này cũng chỉ ló mặt tới đấy trong trường hợp phải đi lùng kiếm đồ vật mất trộm.
Bằng vào biệt hiệu “Gõ kiến” mà hàng xóm láng giềng đặt cho Samet, ta phải hình dung anh là một người gầy gò, mũi nhọn và dưới vành mũ bao giờ cũng lủng lẳng một mớ tóc giống như mào chim.
Trước kia, Samet đã từng được sống những ngày sung sướng. Anh đăng lính trong quân đội của “Tiểu Napôlêông” trong thời gian chiến tranh ở Mêhicô.
Samet gặp may. Anh bị sốt rét nặng ở Vera-Krux. Anh lính ốm yếu chưa từng qua một trận đọ súng thật sự nào liền được gửi về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân dịp bèn nhờ Samet đưa đứa con gái lên tám của ông tên là Xuyzan về Pháp.
Viên chỉ huy goá vợ, vì thế đi đâu ông cũng phải đèo bòng con gái theo. Nhưng lần này ông quyết định tạm xa con và gửi nó về cho người chị ở Ruăng. Khí hậu ở Mêhicô rất độc đối với trẻ con Âu. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh du kích hỗn độn ở đây chẳng thiếu gì những nguy hiểm bất ngờ.
Trên đường Samet về Pháp khí nóng bốc ngùn ngụt trên Đại Tây Dương. Con bé suốt ngày im lặng. Thậm chí nhìn những con cá bay vọt lên khỏi mặt nước, bóng nhẫy, nó cũng chẳng mỉm cười.
Samet hết sức chăm sóc Xuyzan. Tất nhiên anh cũng hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc mà còn muốn được âu yếm vuốt ve. Mà anh, tên lính của một trung đoàn thuộc địa, anh có thể nghĩ ra được cái gì trìu mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách gì đây? Đánh mạt chược với nó chăng? Hay hát cho nó nghe những bài hát thô tục của lính tráng.
Nhưng dù sao cũng không thể cứ nín lặng mãi. Càng ngày anh càng hay bắt gặp cái nhìn băn khoăn của con bé. Cuối cùng anh đánh liều kể cho nó nghe một cách không có mạch lạc, về cuộc đời mình, nhớ lại những tình tiết nhỏ nhặt nhất về một vạn chài trên bờ biển Măngsơ, những bãi cát tơi, những vũng nước khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn với quả chuông rạn, chuyện bà mẹ anh chữa cho hàng xóm láng giềng khỏi chứng đau rát thực quản.
Samet không tìm được chuyện gì buồn cười trong mẩu ký ức đó để làm vui cho Xuyzan. Nhưng anh ngạc nhiên thấy con bé nghe một cách háo hức và thậm chí còn bắt anh kể đi kể lại, đòi biết thêm những tình tiết mới.
Samet nặn óc tìm cho ra những tình tiết ấy, mãi cho đến khi anh không còn tin được là chúng có thật. Đó không chỉ là những ký ức, mà chỉ là bóng dáng mờ nhạt của chúng. Chúng tan ra như những mảng sương mù. Thực vậy, Samet không hề ngờ rằng sẽ có lúc anh phải khôi phục lại trong trí nhớ quãng thời gian vô ích ấy của đời mình.
Có lần anh mang máng nhớ tới một bông hồng bằng vàng. Cũng chẳng ra là Samet đã trông thấy bông hồng thô kệch đánh bằng vàng đã xuống nước móc vào cây thánh giá của Chúa trong nhà một bà lão dân chài, mà cũng chẳng ra là anh đã nghe câu chuyện về bông hồng đó do những người láng giềng kể lại.
Không, đúng là anh thậm chí đã thấy bông hồng đó và còn nhớ nó sáng lấp lánh như thế nào, mặc dù bên ngoài cửa sổ không có nắng và cơn bão buồn thảm đang gầm gào ngoài eo biển. Càng về sau, Samet càng nhớ rõ hơn cái ánh lấp lánh ấy: Nó giống như những ngọn lửa nhỏ cháy sáng dưới một trần nhà thấp.
Mọi người trong thôn đều ngạc nhiên thấy bà lão dân chài không chịu bán vật quý của mình đi. Bán nó đi bà có thể thu được cả đống tiền. Chỉ một mình mẹ Samet biết rằng bán bông hồng ấy đi là có tội, bởi vì đó là quà chúc phúc của người tình bà lão tặng bà, khi bà còn là một cô gái tươi hơn hớn làm ở nhà máy đóng hộp cá xácđin ở tỉnh Ôđécnơ.
- Trên thế gian này hiếm ai có được những bông hồng vàng, - mẹ Samet nói. – Nhà nào có nó, nhà ấy sẽ được hạnh phúc. Mà không riêng gì họ, ai đụng tới bông hồng đó, người ấy cũng sẽ được hạnh phúc.
Thằng bé Samet sốt ruột đợi mãi ngày bà lão dân chài được hưởng hạnh phúc. Nhưng đến cả bóng dáng của hạnh phúc cũng chẳng thấy đâu. Ngôi nhà của bà lão run rẩy trước gió và tối tối trong nhà cũng chẳng có ánh lửa.
Thế rồi Samet bỏ làng ra đi, không đợi được đến ngày cuộc đời bà lão thay đổi. Mãi một năm sau, một người quen làm thợ đốt lò trên con tàu chở thư ở Lơ Havrơ mới kể cho anh nghe rằng con trai bà lão bất thình lình từ Pari trở về, anh chàng họa sĩ đó râu xồm, vui nhộn và có tính khí kỳ quặc. Từ ngày ấy người ta không còn nhận ra túp lều kia nữa. Nó trở nên ồn ào và dư dật. Người ta kháo nhau rằng bọn hoạ sĩ vẽ lăng nhăng cũng kiếm được ối tiền.
Một hôm, ngồi trên boong tàu, Samet đang dùng chiếc lược sắt của mình chải mớ tóc rối tung trước gió cho Xuyzan thì con bé hỏi anh:
- Anh Giăng ơi, rồi cũng có người cho em một bông hồng vàng chứ?
- Rất có thể, - Samet trả lời. - Rồi cũng sẽ có một thằng dở hơi nào đó cho em, Xuyzan ạ! Trong đại đội anh có một chú lính gầy nhom. Thằng cha thật tốt số lạ lùng. Hắn nhặt được trên chiến trường một chiếc hàm giả gẫy, bằng vàng. Cả đại đội bèn bán đi lấy tiền nhậu. Chuyện đó xảy ra hồi chiến tranh An Nam. Các chàng pháo thủ say rượu mới lấy súng cối bắn chơi cho vui, đạn rơi vào miệng núi lửa đã tắt, nổ tung trong đó, và bị bất ngờ cú này, núi lửa liền thở phì phì và phun lại. Có trời biết tên cái núi lửa đó là gì. Hình như Kraka-Taka thì phải. Nó phun mới dữ làm sao! Bốn chục người dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết. Chỉ vì một cái hàm giả hỏng mà ngần ấy người toi mạng, thật quá quẩn! Về sau mới biết ra cái hàm răng ấy là của chính ông đại tá đơn vị anh đánh rơi. Vụ này rồi sau cũng được dẹp đi – uy tín của quân đội trên hết mà. Còn bọn anh thì chuyến ấy say bí tỉ.
- Chuyện ấy xảy ra ở đâu hả anh? – Xuyzan nghi ngờ hỏi.
- Anh đã nói rồi mà, ở tận nước An Nam, tận Đông Dương cơ. Ở đấy đại dương bùng bùng lửa cháy, chẳng khác gì dưới địa ngục, còn những con sứa thì giống như những cái váy viền đăng ten của vũ nữ. Ở đấy lại còn ẩm ướt nữa chứ, đến nỗi chỉ một đêm thôi, nấm đã mọc lên trong ủng bọn anh. Anh mà nói dối thì xin cứ treo cổ anh lên.
Trước đó Samet đã nghe nhiều chuyện bịa đặt của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa chuyện bao giờ. Không phải anh không biết tưởng tượng, chẳng qua anh chưa bao giờ thấy cần phải làm như vậy. Còn giờ đây anh coi việc làm vui cho Xuyzan là một bổn phận thiêng liêng.
Samet đưa Xuyzan đến Ruăng và trao tận tay cho bác gái nó – môt người đàn bà cao lớn, có đôi môi tái nhợt và mím chặt. Bà ta đeo hạt cườm đen khắp mình trông như một con rắn ở rạp xiếc.
Con bé vừa trông thấy bà bác đã vội bám chặt lấy Samet và nép vào cái áo ca pốt bạc phếch của anh.
- Không sao! – Samet thì thầm và khẽ đẩy vào vai Xuyzan. - Bọn lính trơn bọn anh cũng chẳng được lựa chọn cho mình các ông đại đội trưởng đâu. Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!
Samet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy lần nhìn lên những khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, ở đó đến gió cũng chẳng buồn lay động các bức rèm. Nghe rõ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán nhỏ nằm ở các phố hẹp. Trong túi dết Samet còn giữ lại kỷ niệm của Xuyzan: một cái nơ buộc tóc đã nhàu nát màu xanh. Có trời mới biết vì sao cái băng đó lại thơm dịu đến thế, như thể nó được cất giữ trong một giành hoa tím.

Bệnh sốt rét Mêhicô đã hủy hoại sức khoẻ của Samet. Anh chưa được thăng chức đội thì đã bị thải hồi, trở về cuộc sống dân thường với hàm binh nhì.
Năm tháng qua đi torng cảnh thiếu thốn đơn điệu. Samet nếm trải hết nghề cực nhọc này đến nghề khốn khổ khác và cuối cùng anh trở thành người hót rác thành Pari. Từ đó, mùi bụi bặm và rác rưởi lúc nào cũng ám vào anh. Anh cảm thấy nó cả trong cơn gió thoảng từ phía sông Xen luồn vào trong phố, cả trong những bó hoa ướt át mà các bà lão ăn vận sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.
Ngày lại ngày quyện lấy nhau torng một màu vàng đục. Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Samet lại thấy dấy lên trong lòng mình một áng mây hồng: Đó là bộ áo dài cũ của Xuyzan. Từ tấm áo ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng cất nó trong giành hoa tím.
Xuyzan giờ ở đâu? Em sống ra sao? Samet biết ngày nay Xuyzan đã là một cô gái trưởng thành, còn cha nàng thì đã bị tử thương.
Đã nhiều lần Samet định đi Ruăng thăm Xuyzan. Nhưng anh cứ lần lữa mãi cho đến lúc chợt hiểu rằng mình đã bỏ lỡ thời gian và chắc chắn Xuyzan đã quên hẳn anh rồi.
Anh tự mắng mình là đồ bị thịt, khi nhớ đến cuộc chia tay với Xuyzan. Đáng lẽ phải hôn cô bé thì anh lại ấn vào lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: “Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!”
Ai cũng biết những người thợ hót rác chỉ làm việc ban đêm. Có hai nguyên nhân buộc họ phải làm vào thời gian đó: Vì rác rưởi do con ngừơi thải ra tích tụ nhiều nhất vào cuối ngày và thứ hai, những người thơ hót rác không được phép xúc phạm tới thị giác và khướu giác của người dân đất kinh kỳ. Ban đêm hầu như không có ai ngửi hoặc trông thấy việc làm của họ, trừ lũ chuột cống.
Samet đã quen với công việc về đêm và còn thích thú cái khoảng thời gian ấy là khác. Nhất là lúc ánh bình minh uể oải bắt đầu chọc thủng bóng tối trên thành phố. Sương mù vương vất trên sông Xen, nhưng sương không bao giờ bay lên quá thành cầu.
Một hôm, cũng vào một buổi bình minh mờ mịt hơi sương như thế, Samet đi trên cầu Phế Binh bắc ngang sông Xen và gặp một thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt, đính đăng ten đen. Thiếu phụ đứng trên thành cầu và nhìn xuống dòng sông.
Samet dừng lại, cất bỏ chiếc mũ bụi bặm và nói:
- Thưa tiểu thư, nước sông Xen lúc này lạnh lắm. Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà thì hơn
- Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà.
Thiếu phụ trả lời rất nhanh và quay về phía Samet.
Samet để rơi chiếc mũ.
- Xuzi! – Anh kêu lên bằng một giọng tuyệt vọng và sung sướng đến cực độ, - Cô lính Xuzi! Cô bé của anh! Thế là cuối cùng anh cũng đã gặp em. Chắc là em quên anh rồi. Anh là Giăng Ecnet Samet đây, cái anh binh nhì ở Trung đoàn Thuộc địa số Hai Mươi Bảy đã đưa em về cho mụ bác gái tởm lợm ở Ruăng đây. Em bây giờ xinh quá đi thôi! Tóc em chải mới khéo nữa chứ! Còn anh, cái thằng lính quèn này thì chẳng biết xoay xở với mái tóc em thế nào.
- Giăng! - Thiếu phụ kêu lên, đâm bổ tới ôm lấy cổ anh và khóc, - Giăng, anh vẫn tốt như xưa. Em còn nhớ hết mà!
- Ồ, rõ vớ vẩn! – Samet lầu bầu trong miệng. – Lòng tốt của anh thì lợi lộc gì cho ai. Có chuyện gì đã xảy ra với em vậy, em gái bé nhỏ của anh?
Samet kéo Xuyzan lại gần mình và làm cái việc anh không dám làm trước kia ở Ruăng: Vuốt ve và hôn lên mái tóc óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Xuyzan ngửi thấy mùi chuột cống trên áo ngoài của anh. Nhưng Xuyzan lại càng nép chặt vào vai anh hơn
- Có chuyện gì vậy, em bé nhỏ của anh? – Samet bối rối nhắc lại.
Xuyzan không trả lời. Nàng không nén được tiếng nức nở. Samet hiểu rằng lúc này chưa nên hỏi nàng chuyện gì hết.
- Anh có một cái hang chỗ tường thành. – Samet vội vã nói. – Hơi xa đây một chút. Tất nhiên ở nhà chẳng có gì hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước cho nóng và nằm ngủ trên giường. Ở đó em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói chung em muốn ở bao lâu tùy thích.
Xuyzan ở nhà Samet năm ngày. Năm ngày ấy, một mặt trời kỳ lạ cất lên trên thành Pari. Hết thảy mọi ngôi nhà, kể cả những nhà cũ kỹ nhất, ám khói, tất cả những khu vườn, thậm chí cả cái hang của Samet nữa đều rực rỡ trong những tia sáng của vừng thái dương ấy, như là những báu vật.
Ai chưa từng được xúc động với hơi thở nhè nhẹ của thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa thể hiểu thế nào là dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và đôi hàng mi nàng lấp lánh những giọt lệ đêm.
Phải, những gì đã xảy ra với Xuyzan quả đúng như Samet dự đoán. Người tình của nàng - một diễn viên trẻ - đã phụ nàng. Nhưng năm ngày Xuyzan sống bên Samet đã đủ để cặp tình nhân làm lành với nhau.
Samet tham dự vào việc hoà giải đó. Anh phải mang thư của Xuyzan lại cho anh chàng diễn viên và đã dạy cho gã điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gã định dúi vào tay anh vài xu tiền thưởng.
Sau đó ít lâu, anh chàng diễn viên đáp xe ngựa đến tìm Xuyzan. Và đâu lại vào đó: Một bó hoa, những cái hôn, tiếng cười qua nước mắt, lời xin lỗi và dáng vô tư ngượng ngập.
Khi đôi bạn trẻ lên đường, Xuyzan vội vã nhảy lên xe, nàng quên cả từ biệt Samet. Liền đó nàng sực nhớ ra, đỏ mặt và ngượng ngùng đưa tay cho anh.
- Em đã chọn lấy cuộc sống theo ý em, anh chỉ còn biết chúc em hạnh phúc. - Cuối cùng Samet mới lầu bầu nói.
- Em chưa biết rồi sẽ ra sao? – Xuyzan trả lời và mắt nàng ngấn lệ.
- Em băn khoăn như vậy thực là vô ích, em bé nhỏ của anh ạ! – Anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại. – Em bé xinh đẹp của anh.
- Giá có ai đó tặng cho em một bông hồng vàng! – Xuyzan thở dài. – Cái đó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh phúc. Em vẫn nhớ câu chuyện anh kể trên tàu, anh Giăng ạ!
- Biết đâu đấy! – Samet trả lời. – Nhưng dù sao thì người sẽ mang bông hồng vàng đến cho em cũng chẳng phải là cái anh chàng quý phái này đâu. Em tha lỗi cho anh, anh là một thằng lính, anh không ưa bọn công tử bột.
Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho nhau. Gã diễn viên nhún vai. Chiếc xe chuyển bánh.
Thường thường cứ h ết ngày là Samet đổ đi tất cả những rác rưởi mà anh quét dọn ở các xưởng thủ công. Nhưng sau lần gặp Xuyzan, anh không đổ bụi ỡ những hiệu kim hoàn đi nữa. Anh giấu diếm đổ chúng vào một cái túi và mang về lều mình. Hàng xóm cho rằng anh chàng hót rác nọ đã trở thành ngớ ngẩn. Hiếm người biết rằng trong bụi đó có chứa bột vàng, bởi vì những người thợ kim hoàn khi làm việc thế nào cũng làm hao đi chút xíu kim loại quý đó.
Samet quyết định sẽ sàng bụi lấy vàng, đúc thành một thoi nhỏ và dùng nó đánh một bông hồng vàng mang lại hạnh phúc cho Xuyzan. Mà rất có thể, như mẹ anh đã nói, nó còn mang lại hạnh phúc cho nhiều người khác nữa. Biết đâu đấy! Anh quyết không gặp lại Xuyzan khi bông hồng chưa được làm xong.
Samet không kể cho ai nghe chuyện đó. Anh sợ bọn cảnh sát và nhà cầm quyền. Ai mà biết được bọn quan toà nhiễu sự sẽ giở trò gì. Chúng có thể buộc anh vào tội ăn cắp, tống anh vào tù và lấy mất số vàng anh có. Dù sao vàng cũng chẳng phải của anh.
Trước khi đăng lính, Samet là cố nông trong trang trại của một ông mục sư nông thôn và vì thế anh biết sàng sẩy. Những hiểu biết đó đối với anh bây giờ hoá ra lại có ích. Anh nhớ rằng khi quạt lúa mì thì những hạt nặng sẽ rơi xuống đất, còn bụi thì bị gió cuốn đi.
Samet làm một cái quạt gió nho nhỏ và đêm đêm, ở sân nhà, anh quạt bụi lấy được trong các hiệu kim hoàn. Anh hồi hộp mại cho đến lúc trông thấy lờ mờ một lớp bụi vàng lấp lánh trên ngăn gỗ.

Đến lúc có đủ bụi vàng để đánh thành thỏi thì đã mất nhiều thời gian lắm. Nhưng Samet chưa đưa cho người thợ kim hoàn đánh bông hồng vội.
Không phải Samet thiếu tiền thuê thợ. Bất cứ người thợ kim hoàn nào cũng bằng lòng đánh bông hồng để lấy tiền công bằng một phần ba thỏi vàng và như thế họ cũng đã hài lòng lắm rồi.
Duyên do không phải vì thế. Càng ngày, giờ gặp gỡ Xuyzan càng gần. Nhưng không biết từ lúc nào, Samet bắt đầu sợ cái giờ ấy.
Tất cả sự trìu mến từ lâu dồn nén trong đáy lòng, Samet muốn dành cho nàng, cho Xuzi. Nhưng ai cần đến cái trìu mến của con người tàn tã và dị dạng này chứ! Samet từ lâu đã nhận thấy rằng, gặp anh, người ta chỉ muốn bỏ đi cho nhanh và quên phứt cái bộ mặt hốc hác xám ngoét với làn da chảy xệ và đôi mắt chòng chọc của anh.
Trong túp lều của Samet có một mảnh gương vỡ. Hoạ hoằn lắm Samet mới soi gương. Nhưng hễ cứ nhìn vào là anh lại văng một câu chửi tục và quăng vội mảnh gương đi. Thà đừng nhìn thấy mình còn hơn, cái thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tê thấp khập khiễng.
Cuối cùng, khi đã đánh xong bông hồng, Samet mới biết Xuyzan đã rời Pari đi Mỹ từ một năm trước, và theo người ta nói, nàng đi hẳn, không về nữa. Không ai có thể cho Samet biết địa chỉ của nàng.
Thoạt đầu, Samet thậm chí còn thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi tất cả sự chờ đợi cuộc gặp gỡ đầm ấm và thanh thản với Xuyzan, không hiểu sao, đã biến thành một mảnh sắt gỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc trong lồng ngực anh, ngay ở bên tim và Samet cầu trời cho nó mau mau đâm thẳng vào trái tim ốm yếu ấy đi, cho tim anh vĩnh viễn ngừng đập.
Samet bỏ việc quét dọn trong các xưởng kim hoàn. Anh nằm trong túp lều của mình mấy ngày liền, quay mặt vào tường. Anh im lặng và chỉ mỉm cười một lần, đưa cánh tay áo cũ lên mắt. Không ai nhìn thấy anh khóc. Hàng xóm láng giềng cũng chẳng có ai sang thăm anh. Người nào cũng đã có chán vạn cái lo âu bận bịu của mình.
Chỉ có một người theo dõi Samet. Đó là người thợ bạc đứng tuổi đã đánh từ thỏi vàng ra một bông hồng rất tinh xảo. Cùng trên một cành, bên cạnh bông hoa, người thợ bạc đánh thêm một nụ hồng bé nhỏ và nhọn hoắt.
Người thợ bạc đến thăm Samet nhưng không đem thuốc đến cho anh. Ông ta cho rằng có mang cũng vô ích.
Thực thế, Samet đã lặng lẽ qua đời trong một lần đến thăm của người thợ bạc. Ông ta nâng đầu anh thợ quét rác lên, lấy ở dưới cái gối xám ra bông hồng vàng bọc trong chiếc nơ nhàu nát màu xanh, khẽ khép cái cánh cửa cọt kẹt lại, rồi thong thả đi ra. Từ chiếc nơ xông lên mùi chuột.
Lúc đó vào cuối thu. Màn đêm rung động vì gió và vì những đốm lửa nhấp nháy. Người thợ bạc nhớ đến nét đổi thay trên mặt Samet sau khi anh chết. BỘ mặt trở nên nghiêm nghị và trầm tĩnh. Người thợ bạc thấy niềm cay đắng hiện trên mặt anh còn tuyệt đẹp nữa là khác.
“Cuộc sống không coh người ta cái gì thì cái chết lại đem cho người ta”. Người thợ bạc vốn quen với những ý nghĩ rẻ tiền nghĩ như vậy và thở dài.
Ít lâu sau, người thợ bạc đem bông hồng vàng nọ bán cho một nhà văn đã có tuổi ăn mặc lôi thôi lốc thốc, và theo nhận xét của bác thợ, nhà văn này cũng chẳng giàu có gì cho lắm để có thể cho phép mình mua một vật đắt tiền đến thế.
Hẳn câu chuyện về bông hồng vàng do người thợ bạc kể lại cho nhà văn đã đóng vai trò quyết định trong việc mua bán nọ. Nhờ những ghi chép của nàh văn già mà mới có người biết được câu chuyện đau buồn trong đời người cựu binh Trung đoàn Thuộc địa thứ Hai Mươi Bảy là Giăng Samet.
Trong những ghi chép của ông, nhà văn đại khái có viết:

“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và mỗi cái nhìn vô tình ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao trong một vũng nước đêm - tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng.
Chúng ta, những nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh “Bông Hồng Vàng” của ta - truyện, tiểu thuyết hay là thơ.
Bông hồng vàng của Samet! Đối với tôi có phần nào là hình tượng tương lai của hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật là lạ lùng khi chẳng có ai chịu bỏ sức lao động của mình ra nghiên cứu xem từ những hạt bụi quý ấy đã phát sinh ra nguồn văn học sinh động như thế nào.
Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của ngừơi thợ hót rác già kia làm ra là để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối cho chúng ta rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt.”
 
Tạm thế đã. Ai thấy truyện gì hay hay nữa thì góp vào đây cho vui cửa vui nhà nào!
 
Hehe, Hồng Anh đồng ý hoàn toàn với Linh ngố.
Tiện đây nói thêm, bà My ạ, tôi chả tin có cái gì phải M-U-S-T R-E-A-D trên đời này, trừ thư tình của người yêu và hóa đơn của bà hàng thịt hèm hèm.

NHưng mà thôi thì tôi cứ nói theo thiển ý của tôi. Phương Đông mà bà bỏ qua kiếm hiệp của Kim Dung là bà bỏ qua một nét văn hóa lớn.
 
có bác nhắc Sweet Heart.
Em pot một bài cái của ông nè
hic, bác nào có SH free ko ạ?
 
Back
Bên trên