Toàn cầu hóa và những mặt trái!!!

Nguyễn Phan Trung Kiên
(dracular)

Moderator
Mấy hôm trước, đang tìm hiểu về đàm phán khả năng gia nhập WTO của VietNam, nghe nhắc đến quyển sách "Globalization and its Discontents" của giáo sư Joseph E. Stiglitz, người đạt giải Nobel kinh tế năm 2002, tìm khắp nơi trên net để tìm đọc, cuối cùng ko thấy, chạy vào ttvnonl đã thấy có bác Anh_trai76 đang cặm cụi dịch(chưa dịch xong), đọc thấy hay nên copy về đây để mọi người cùng tham khảo và tranh luận :)...cũng là nhân dịp VietNam đang đàm phán cơ hội vào WTO. Thực sự quyển sách này đọc rất hay, và rất bổ ích cho những ai đang học và nghiên cứu về Toàn cầu hóa :).

Globalization and its Discontents
(Toàn cầu hoá và những mặt trái)
của Joseph E. Stiglitz, nhà xuất bản Norton 2002
Mục lục
Lời nói đầu ix
Lời cảm ơn xvii
Chương 1: Lời hứa của các tổ chức toàn cầu
Chương 2: Những lời hứa bị phá bỏ
Chương 3: Quyền tự do lựa chọn?
Chương 4: Khủng hoảng tài chính Đông Á: Làm thế nào mà chính sách của IMF đưa thế giới đến bờ vực của sự sụp đổ
Chương 5: Ai đánh mất nước Nga
Chương 6: Những luật lệ thương mại bất công và những thủ đoạn khác
Chương 7: Những con đường tốt hơn hướng tới thị trường
Chương 8: Lịch trình khác của IMF
Chương 9: Con đường phía trước
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Lời nói đầu

Năm 1993, tôi rời khỏi lĩnh vực học thuật và chuyển sang làm việc cho Hội đồng tư vấn kinh tế cho chính phủ Bill Clinton. Sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy, đây là bước đột phá lớn đầu tiên của tôi vào khu vực ra quyết dịnh chính sách và hơn thế, vào lĩnh vực chính trị. Từ vị trí đó, tôi lại chuyển sang Ngân hàng Thế giới, nơi tôi đảm nhiệm chức vụ Kinh tế trưởng và phó chủ tịch trong vòng gần 3 năm, trước khi rời bỏ vào tháng 1 năm 2000. Tôi đã không thể chọn thời điểm nào tốt hơn để tham gia vào việc ra chính sách hơn lúc đó. Tôi đã ở Nhà Trắng khi nước Nga bắt đầu chuyển đổi từ một nước cộng sả n và tôi đã làm việc tại Ngân hàng đúng thời gian nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á và lan tràn khắp thế giới. Tôi trực tiếp chứng kiến những tác động tàn phá của toàn cầu hoá lên các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo trong số này. Tôi tin rằng toàn cầu hoá - sự dỡ bỏ các hàng rào dẫn đến tự do thương mại và sự hội nhập mạnh mẽ hơn của các nền kinh tế quốc gia- có thể là một lực đẩy tốt (force for good) và có tiềm năng nâng cao mức sống của mọi nguời trên thế giới, đặc biệt là người nghèo. Nhưng tôi cũng tin rằng, nếu như thế, toàn cầu hoá phải được quản lý, bao gồm cả các hiếp định thương mại quốc tế, cái đã đóng vai trò quan trọng trong việc dỡ bỏ các hàng rào và những chính sách đã được áp đặt lên các quốc gia đang phát triển trong quá trình toàn cầu hoá cần phải được ngẫm nghĩ lại một cách triệt để.
Là một học giả, tôi đã bỏ nhiều thời gian nghiên cứu và suy nghĩ về các vấn đề kinh tế - xã hội và tôi gặp phải trong suốt 7 năm làm việc tại Washinton. Tôi tin rằng điều quan trọng là phải nhìn nhận các vấn đề một cách tỉnh táo, không thiên vị, bỏ qua những hệ tư tưởng và nhìn vào những bằng chứng trước khi quyết định đâu là phương án hành động hợp lý. Thật không may, dù khó mà nói là đáng ngạc nhiên, trong thời gian tôi ở Nhà Trắng với tư cách là một thành viên và sau đó là chủ tịch của Hội đồng tư vấn kinh tế (một hội đồng 3 chuyên gia do tổng thống bổ nhiệm để tư vấn cho chính phủ Mỹ) và thời gian ở Ngân hàng thế giới, tôi đã thấy các quyết định được đưa ra bởi vì chính trị và hệ tư tưởng. Kết quả là, nhiều việc làm không đúng đã được thực hiện và nguời ta thường không giải quyết các vấn đề đang có mà các vấn đề phù hợp với lợi ích hay niềm tin của những ngươì có quyền lực. Một trí thức Pháp, Pierre Bourdieu đã từng viết về sự cần thiết các nhà chính khách hành xử như các nhà khoa học và tham gia vào các tranh luận khoa học, dựa trên các số liệu và chứng cứ. Thật đáng tiếc, điều nguợc lại lại xảy ra thường xuyên, khi mà giới học giả tham gia vào góp ý chính sách trở nên chính trị hoá và bắt đầu bẻ cong chứng cứ để phù hợp với ý tưởng của những nguời có quyền.
Nếu như nghề nghiệp khoa học của tôi không chuẩn bị cho tôi toàn bộ những thứ cần thiết khi làm việc tại Washinton DC, ít nhất nó chuẩn bị cho tôi với tư cách một chuyên gia. Trước khi vào Nhà Trắng tôi đã bổ thời gian nghiên cứu và viết các vấn đề kinh tế học trừu tượng (giúp phát triển một nhánh kinh tế mà từ đó được gọi là kinh tế học thông tin), và nhiều hơn là các chủ đề ứng dụng, bao gồm kinh tế học khu vực công, kinh tế phát triển và chính sách tiền tệ. Tôi đã bỏ hơn 25 năm viết về các chủ đề như phá sản, quản trị công ty, sự mở và tiếp cận thông tin (cái mà các nhà kinh tế gọi là sự minh bạch). Đó là những vấn đề quan trọng khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra năm 1997. Tôi cũng tham gia gần 20 năm trong các thảo luận về sự chuyển đổi kinh tế từ cộ ng s ản sang thị trường. Tôi đã có kinh nghiệm làm thế nào để quản lý sự chuyển đổi ấy khi nó bắt đầu năm 1980 khi tôi lần đầu tiên bàn nó với các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi Trung Quốc bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Tôi đã nhà nguời ủng hộ mạnh mẽ cho chính sách chuyển đổi từ từ của người Trung Hoa, chính sách đã thể hiện ưu điểm trong hơn hai thập kỷ qua, và tôi đã là nguời phê bình gay gắt các cuộc cải cách cực đoan, như "liệu pháp sốc", cái đã thất bại thảm hại ở Nha và một vài quốc gia Liên X ô cũ.

(to be cont)
 
anh Kiên ơi đọc ở đâu bây giờ ạ?
em có đọc quyển ' The Lexus and the olive tree' của Thomas L.Friedman, cũng khá hay vì cách giải thích đơn giản và dễ hiểu, dành cho trình độ thấp như em thì ko bị ngại đọc vì khá dày tầm hơn 700tr. Quyển anh bảo có khó đọc ko ạ?
 
Vũ Hoàng Yến đã viết:
anh Kiên ơi đọc ở đâu bây giờ ạ?
em có đọc quyển ' The Lexus and the olive tree' của Thomas L.Friedman, cũng khá hay vì cách giải thích đơn giản và dễ hiểu, dành cho trình độ thấp như em thì ko bị ngại đọc vì khá dày tầm hơn 700tr. Quyển anh bảo có khó đọc ko ạ?
Ko dày đến độ thế đâu em, quyển này 252 trang, đọc khá cuốn hút và khá hay, anh đọc thấy hay nên post vào đây cho mọi người cùng đọc thôi.
Anh sẽ cố gắng update thường xuyên hàng ngày bản dịch. Post tạm một đoạn cho mọi người đọc, nếu hay thì post tiếp.
NPTK
 
Đây là một cuốn sách popular của Stiglitz nhưng không phải một cuốn sách hay của ông ấy. Do đây là một cuốn viết cho public chứ không cho giới academia, Stiglitz viết một cách khá là mị dân, dùng một thủ thuật mà người ta gọi là "selective memory" để hướng những người không biết nhiều tới điểm tán đồng với luận điểm của ông ấy.
Luận điểm của ông ấy là gì: IMF là một tổ chức khốn nạn, không làm ăn được gì cả. cho vay tiền rồi đặt điều kiện không theo phân tích kinh tế mà theo yếu tố chính trị. Theo như Stiglitz phân tích thì IMF xâm phạm quyền tự chủ về kinh tế của các nước đang phát triển và chịu trách nhiệm lớn trong việc các nước Đông Nam Á không thoát ra khỏi được khủng hoảng 97-98.
Nếu đọc Stiglitz, người ta sẽ thấy là IMF làm gì cũng sai... trước tiên là vì nó vi phạm những economic principle của Stiglitzian information economics. người ta đồng thời sẽ thấy là những ai cãi nhau với Stiglitz đều sai lầm nghiêm trọng (những người trong US Treasury và Fed) còn Stiglitz và World Bank thời ông ấy thì không bao giờ sai.
Nếu đọc và tin Stiglitz, người ta sẽ không nhận thấy là, cho dù có bao nhiêu bất cập trong chính sách thì IMF cũng đã giúp đưa các nước Đông Nam Á ra khỏi khủng hoảng phần nào (Indonesia chẳng hạn, là một ngoại lệ.) Khủng hoảng tài chính ĐNA trước tiên không do chính sách can thiệp từ bên ngoài gây ra mà là do nội loạn. Tình hình tham nhũng lên tới mức nghiêm trọng, hệ thônng ngân hàng, tài chính lạc hậu và làm ăn không theo tín dụng mà theo quan hệ. Lỗi đầu tiên là do cơ cấu bên trong chứ không phải do IMF làm ăn bặm trợn từ bên ngoài.
Một điểm nữa mà Stiglitz phổ biến tới người dân trong lời chỉ trích IMF của ông là chuyện IMF xâm phạm tự chủ kinh tế của các nước vay nợ. Đây đã trở thành một luận điểm phổ biến tới mức giờ ai nói tới IMF cũng nói tới cái này. thế nhưng có luật nào nói rằng IMF không được làm vậy không? IMF xét cho cùng là một kẻ đi cho vay... đổi lại nó đòi phải được đưa ra những điều kiện riêng của mình. Xét về diện common sense, IMF làm cái mà kẻ đi cho vay nào cũng làm.... về mặt đạo đức thì kô biết đúng sai ra sao nhưng có ai quan tâm tới vấn đề đạo đức ở đây đâu. về diện học thuật, càng ngày các nhà kinh tế học càng than phiền về IMF ngược theo hướng của Stiglitz, tức là kêu ca rằng IMF đặt ra QUÁ ÍT ĐIỀU KIỆN.
Tóm lại cuốn này là cuốn nên đọc cho vui thôi. Chủ yếu là toàn propaganda của Stiglitz. mà tớ chẳng phải là ghét bỏ gì Stiglitz đâu nhé, hơi bị quý là khác vì bác ấy học trường tớ ra.
 
Tất nhiên đọc quyển sách hay một vấn đề gì đó thì nó cũng có hai mặt của nó, chứ ko thể chỉ có riêng một mặt tích cực được. Đọc quyển sách này để hiểu thêm về hành động giả đạo đức của các nước phương Tây, những nước này đã ép buộc nhiều nước nghèo hạ thấp hàng rào thương mại, nhưng chính họ lại ko giảm bớt những hàng rào của chính quốc gia họ, thậm chí còn ngăn cản các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản vào thị trường nội địa, tước đoạt những nguồn thu của các nước đang phát triển. Trong khi đó ở các nước đang phát triển, khi VietNam chúng ta đang đàm phán gia nhập WTO, thì hiện nay mới thống kê đc có 6 mặt hàng có thể cạnh tranh sòng phẳng đc với Phương Tây và Mỹ đó toàn là những mặt hàng nông sản...

NPTK
 
Sự quan tâm của tôi tới kinh tế phát triển bắt đầu thậm chí lâu hơn, trong thời gian tôi ở Kenya trong công tác nghiên cứu (69-71), một thời gian ngắn sau khi nước này được độc lập (1963). Một vài công trình lý thuyết của tôi đã bắt đầu từ nguồn cảm hứng bởi những điều tôi đã chứng kiến tại đây. Tôi biết những thách thức với Kenya là lớn và tôi đã hi vọng là có thể làm gì đó để cải thiện cuộc sống của hàng tỉ nguời ở đó và trên toàn thế giới, những ngưòi sống trong tận cùng nghèo đói. Kinh tế học có vẻ như là một khoa học khô khan nhưng thực sự một chính sách tốt có sức mạnh để thay đổi cuộc sống của nhũng nguời nghèo khổ đó. Tôi tin tưởng rằng các chính phủ cần và có thể thực hiện những chính sách giúp đất nước phát triển nhưng cũng đảm bảo công bằng xã hội. Một vấn đề cụ thể, tôi tin vào tư nhân hoá (bán các công ty độc quyền chính phủ cho tư nhân, chẳng hạn), nhưng chỉ khi điều đó giúp các công ty hiệu quả hơn và giảm giá cho nguời tiêu dùng. Điều đó dễ xảy ra nếu thị trường là cạnh tranh, đó là một trong số những lý do tôi ủng hộ chính sách cạnh tranh mạnh mẽ.
Ở cả Ngân hàng thế giới và Nhà trắng, có sự liên hệ gần gũi giữa những chính sách mà tôi ủng hộ với những nghiên cứu kinh tế lý thuyết trước đây của tôi, hầu hết số đó liên quan đến sự không hoàn hảo của thị trường- trong khithị trường không làm việc hoàn hảo, theo cách mà các mô hình kinh tế đơn giản giả định cạnh tranh hoàn hảo và thông tin hoàn hảo thường cho như thế. Tôi đưa vào quá trình ra quyết định những kết quả nghiên cứu của tôi trong kinh tế học thôg tin, đặc biệt là vấn đề thông tin không cân xứng (asymmetries of information) - sự khác nhau giữa thông tin của, chẳng hạn, nguời chủ và nguời làm, nguời cho vay và nguời đi vay, công ty bảo hiểm và nguời mua bảo hiểm. Những sự mất cân xứng đó phổ biến trong tất cả các nềnkinh tế. Công trình này cung cấp nền tảng cho những lý thuyết thực tế hơn về lao động và thị trường tài chính, giải thích, chẳng hạn tại sao thất nghiệp lại tồn tại và tại sao nguời cần vay tiền nhất lại không được vay - nghĩa là, nói theo thuật ngữ kinh tế, có sự tồn tại của hạn chế tín dụng (credit rationing). Những mô hình chuẩn mà các nhà kinh tế đã dùng hàng thế hệ cho rằng hoặc là thị trường hoạt động hoàn hảo- một số còn bác bỏ sự tồn tại của thất nghiệp hoặc lý do duy nhât cho thất nghiệp là tiền lươngquá cao, đưa đến gợi ý chính sách là: hạ thấp tiền lương. Kinh tế học thông tin, với công cụ phân tích tốt hơn thị trường lao động, tín dụng và hàng hoá cho phép xây dựng những mô hình kinh tế vĩ mô cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về thất nghiệp, những mô hình giải thích sự giao động và suy thoái gắn liền với ch ủ nghĩ a tư bả n từ những ngày đầu. Những lý thuyết đó có rất nhiều gợi ý chính sách - một số là hiển nhiên với bất kỳ ai hiểu thế giới thực- chẳng hạn nếu bạn nâng lãi suất đến mức thái quá, các hãng có tỷ lệ nợ cao có thể bị buộc phá sản, và điều đó khôg tốt cho nền kinh tế. Trong khi tôi cho rằng điều đó quá rõ ràng, điều đó trái nguợc với những chính sách IMF thường đòi hỏi.
Chính sách của IMF, một phần dựa vào giả định lỗi thời là các thị trường bản thân nó sẽ đưa tới hiệu suất và hiệu quả, đã thất bại trong việc cho phép các chính phủ can thiệp hiệu quả vào thị trường, các biện pháp can thiệp mà có thể dẫn dắt tăng trưởng và làm cho mọi nguời sống khá hơn. Cốt lõi của vấn đề, điều mà trong nhiều tranh luận tôi sẽ trình bày ở các trang sau, là vấn đề hệ tư tưởng và những quan điểm về vai trò của chính phủ xuất phát từ hệ tư tưởng đó.
Mặc dù những tư tưỏng đó có vai trò quan trọng trong hình thành chính sách - trong phát triển, trong kiềm chế khủng hoảng, và trong chuyển đổi kinh tế - chúng cũng đóng vai trò trung tâm trong suy nghĩ của tôi về cải cách các tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm thúc đẩy phát triển, kiềm chế khủng hoảng và hỗ trợ chuyển đổi kinh tế. Nghiên cứu của tôi về thông tin làm cho tôi cực kỳ chú ý đến những hậu quả của việc thiếu thông tin. Và tôi vui mừng khi nhận thấy sự nhấn mạnh đến vấn đề minh bạch trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 1997-1998. Nhưng tôi lại buồn vì sự đạo đức giả rằng các tổ chức quốc tế, IMF và bộ Tài chính Mỹ, những cơ quan đã nhấn mạnh tính minh bạch ở Đông Á lại là những nơi kém minh bạch nhất mà tôi từng gặp. Đó là lý do tại sao trong cuộc thảo luận về cải cách, tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường tính minh bạch, cải thiện thông tin mà các công dân có được về những hoạt động của các tổ chức này, cho phép những ai bị ảnh hưởng bởi các chính sách có tiếng nói lớn hơn trong việc hoach định các chính sách đó. Sự phân tích về vai trò của thông tin trong các tổ chức chính trị đã hình thành và phát triển khá tự nhiên trong các công trình trước đây của tôi về vai trò của thông tinh trong kinh tế.
Một trong số những điều thú vị khi đến làm việc ở Washinton là có cơ hội không chỉ có hiểu biết tốt hơn việc chính phủ làm việc như thế nào mà còn có cơ hội đề xuất một vài cách nhìn mà các nghiên cứu của tôi đã chỉ ra. Chẳng hạn, là chủ tịch hội đồng tư vấn kinh tế của Bill Cliton, tôi đã cố gắng đưa ra các chính sách và triết lý kinh tế trong đó coi thị trường và chính phủ là bổ sung cho nhau, cả hai cùng hợp tác với nhau nhận ra rằng trong khi thị trường là trung tâm của nền kinh tế, vẫn còn có một phần quan trọng, dù hạn chế, vai trò của chính phủ. Tôi đã tìm hiểu thất bại của cả thị trường và chính phủ và không ngây thơ đến mức tin rằng chính phủ có thẻ chữa được mọi thất bại thị trường. Nguợc lại, tôi cũng không ngốc nghếch tin rằng thị trường tự bản thân nó có thể giải quyết mọi vấn đề xã hội. Bất bình đẳng, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường: những thứ đó chính phủ phải đóng vai trò quan trọng. Tôi đã làm việc với sáng kiến "tái sáng tạo chính phủ" - làm chính phủ trở nên hiệu quả và đáp ứng tốt hơn; tôi đã nhìn thấy những chính phủ không như thế; tôi đã thấy cải cách khó như thế nào; nhưng tôi cũng đã thấy những sự cải thiện, dù là khiêm tốn, là hoàn toàn có thể. Khi tôi chuyển tới Ngân hàng thế giới, tôi đã hi vọng có thể đem đến một cách nhìn cân bằng, và những bài học tôi đã học được, để giải quyết những vấn đề phức tạp mà các nước đang phát triển phải đối mặt.
Trong chính quyền Bill Clinton, tôi dã tham gia vào nhiều cuộc tranh luận, đã thắng vài cuộc và thua những cuộc khác. Là một thành viên nội các, tôi có được vị trí tốt để không chỉ quan sát các cuộc tranh luận, xem nó đuợc giải quyết thế nào, đặc biệt là những khu vực liên quan đến kinh tế mà còn trực tiếp tham gia vào chúng. Tôi biết rằng các ý tưởng là quan trọng nhưng còn cả vấn đề chính trị, và một trong những nhiệm vụ của tôi là thuyết phục người khác rằng những cái tôi ủng hộ không chỉ tốt về mặt kinh tế, mà còn về mặt chính trị. Nhưng khi tôi chuyển sang vũ đài quốc tế, tôi nhận ra rằng chẳng có cái nào là quan trọng trong việc hoạch định chính sách, dặc biệt là tại IMF. Các quyết định được đưa ra trên cơ sở một mớ hỗn độn giữa hệ tư tưởng và kinh tế học kém cỏi, những giáo điều đôi khi dường như bị che mỏng bởi những lợi ích đặc biệt. Khi cuộc khủng hoảng Đông Á nổ ra, IMF đã kê một đơn thuốc lỗi thời, không thích hợp nhưng có vẻ "chuẩn" mà không thèm quan tâm đến những ảnh hưởng của nó lên nguời dân ở các quốc gia được khuyên bảo phải theo các chính sách này. Hiếm khi tôi được thấy những dự báo rằng các chính sách này sẽ giúp giảm nghèo thế nào. Cũng hiếm khi tôi được thấy những cuộc thảo luận kỹ càng và các phân tích về hậu quả của các chính sách thay thế. Chỉ có một phương án. Các phương án khác không được tính đến. Thảo luận thẳng thắn, công khai không được khuyến khích, chẳng có chỗ cho chúng. Hệ tư tưởng đã chỉ đạo chính sách và các quốc gia được kỳ vọng là sẽ tuân theo những hướng dẫn của IMF mà không được bàn cãi.
Thái độ đó khiến tôi ghê sợ. Không phải vì các chính sách này thường có kết quả rất tồi, mà bởi vì điều đó là phản dân chủ. Trong cuộc sống cá nhân của chúng ta, chúng ta không bao giờ mù quáng đi theo các ý tưởng mà không tìm kiếm các lời khuyên khác. Nhưng các quốc gia trên toàn thế giới được chỉ bảo chỉ làm thế. Các vấn đề ở nước đang phát triển thường rất khó, và IMF thường được gọi đến trong tình trạng xấu nhất khi một quốc gia gặp khủng hoảng. Nhưng lời khuyên của IMF lại thất bại, như vẫn thường thấy và thường thấy hơn là thành công. Các chính sách điều chỉnh cơ cấu của IMF (structural adjusment policies) - chính sách giúp các quốc gia điều chỉnh khi khủng hoảng cũng như khi gặp mất cân đối dai dẳng - đã dẫn đến đói nghèo và bạo loạn ở nhiều quốc gia. Và thạm chí khi các kết quả không khủng khiếp lắm, thậm chí đôi khi có tăng truởng trong chốc lát, thì những lợi ích này được phân chia không đều và những nguời nghèo nhất lại thường trở nên nghèo hơn. Điều làm tôi ngạc nhiên là chẳng ai có quyền ở IMF, đặt câu hỏi về những chính sách này xem nó tốt hay không. Thay vào đó, thuờng là nguời dân các nước đang phát triển đạt câu hỏi về các chính sách đó, nhưng đa số lại quá sợ hãi rằng có thể họ sẽ bị mất nguồn vay từ IMF và vì thế họ rất thận trọng khi tỏ ra nghi ngờ các chinh sách này và thường chỉ bàn thảo một cách kín đáo. Nhưng trong khi không ai hạnh phúc khi phải chịu đựng những chính sách của IMF, trong lòng IMF nguời ta giản đơn cho rằng những đau khổ nào đó xảy ra chỉ là nhưng nỗi đau cần thiết phải chịu đựng trên con đường hướng đến nền kinh tế thị truờng thành công và những biện pháp họ áp dụng thực tế làm giảm nỗi đau mà họ phải gánh chịu nếu xét trong dài hạn.
Không nghi ngờ gì, những thay đổi đau đớn là cần thiết; nhưng theo đánh giá của tôi, những đau đớn mà các quốc gia đang phát triển tạo ra trong quá trình toàn cầu hoá và phát triển theo như được chỉ dẫn bởi IMF và các tổ chức quốc tế là vượt quá xa mức cần thiết. Những cuộc bạo động chống toàn cầu hoá đã tập hợp lực lượng không chỉ từ những sự tàn phá do các chính sách toàn cầu hoá tại các quốc gia dang phát triển mà còn tự sự bất bình đẳng trong hệ thống thương mại quốc tế. Ngày nay, rất ít người, trừ những kẻ được lợi bằng việc ngăn cản hàng hoá từ các nước đang phát triển, bảo vệ sự đạo đức giả của việc giả vờ giúp các quốc gia dang phát triển bằng cách ép họ mở của thị trường cho hàng hoá của các nước phát triển trong khi bảo vệ thị trường của riêng họ- cái chính sách làm cho người giàu giàu hơn và nguời nghèo nghèo hơn và giẫn dữ hơn.
Sự tấn công tàn bạo ngày 11/9 đã mang dến nước Mỹ sức mạnh to lớn mà chúng ta chia sẻ trên cùng một hành tinh. Chúng ta là một cộng đồng toàn cầu và cũng như tất cả mọi cộng đồng phải tuân theo một số luật lệ nào đó. Những luật lệ này phải công bằng và phải quan tâm đúng mức dến những nguời nghèo khổ cũng như những nguời có quyền lực và phải phản ánh nền tảng văn minh và công lý xã hội. Trong thế giới ngày nay, các luật lệ này phải đuợc xây dựng qua một quá trình dân chủ; những luật lệ mà theo đó các cơ quan quản lý và chính quyền làm việc phải bảo đảm rằng họ sẽ chú ý và đáp ứng những nhu cầu và mong muốn của những ngưòi bị ảnh hưởng bởi các chính sách và quyết định được ban hành ở những địa điểm cách xa.
Cuốn sách này dựa trên chính kinh nghiệm của tôi. Không có nhiều footnotes và trích dẫn như thường thấy trong các báo cáo khoa học. Thay vào đó, tôi cố gắng mô tả các sự kiện và tôi đã chứng kiến và kể lại vài câu chuyện mà tôi đã nghe. Không có súng đạn ở đây. Bạn sẽ khôg tìm thấy những chứng cứ thuyết phục về âm mưu bẩn thỉu của Phố Wall và IMF nhằm chiếm đoạt thế giới. Tôi không tin và cái âm mưu đó tồn tại. Sự thật tinh vi hơn thế nhiều. Thường là một tiếng nói của ai đó, hay một cuộc họp kín sau cánh cửa, hay một memo quyết định kết cục của các cuộc thảo luận. Rất nhiều trong số nguời tôi chỉ trích sẽ nói là tôi sai, thậm chí họ có thể tạo ra các bằng chứng chống loại quan điểm của tôi về những cái đã xảy ra. Tôi chỉ có thể đưa ra những lý giải về cái tôi đã thấy.
Khi tôi vào Ngân hàng thế giới, tôi đã định dành thời gian cho vấn đề phát triển và vấn đề của các nước đang cố gắng thực hiện quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường; nhưng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những tranhluận về cải cách kiến trúc tài chính quốc tế - cái hệ thống mà nhờ nó tài chính và kinh tế quốc tế được quản lý - nhằm làm cho toàn cầu hoá mang tính nguời hơn, hiệu quả và công bằng hơn đã chiếm phần lớn thời gian của tôi. Tôi đã thăm hàng chục quốc gia khắp thế giới, nói chuyện với hàn nghìn quan chức chính phủ, bộ truởng tài chính, thống đốc ngân hàng trung ương, giới học giả, những nhà phát triển, thành viên các tổ chức phi chính phủ, các nhà ngân hàng, nhà kinh doanh, sinh viên, các nhà hoạt động chính trị và nông dân. Tôi đã thăm các du kích Hồi giáo ở Mindanao (hòn đảo của Phillipine đã từ lâu trong trạng thái xung đột), đi học dãy Himalaya để thấy những ngôi trường ở vùng sâu ở Butan, hay những dự án thủy lợi ở Nepal, thấy ảnh hưỏng của các chương trình tín dụng nông thôn và các chương trình phụ nữ ở Bangladesh và chứng kiến tác động của các chương trình xoá đói giảm nghèo ở các ngôi làng miền núi trong vài trong số những vùng nghèo nhất Trung Quốc. Tôi thấy lịch sử đang được viết và tôi đã học được rất nhiều. Tôi cố gắng lọc lấy bản chất tinh tuý của những cái tôi đã thấy và học được và thể hiện nó trong cuốn sách này.
Tôi hi vọng cuốn sách của tôi sẽ mở ra một cuộc tranh luận, một cuộc tranh luận đáng lẽ nên xảy ra không chỉ sau những cánh cửa đóng kín của chính phủ và tổ chức quốc tế, hay thậm chí trong không khí cởi mở hơn ở trường đại học. Những người mà cuộc sống của họ bị ảnh hưởng bởi các quyết định việc toàn cầu hoá sẽ được thực hiện thế nào có quyền tham gia vào cuộc tranh luận và họ có quyền biết làm thế nào mà các quyết định đó đã được đưa ra trong quá khứ. Ít nhất, cuốn sách này phải cung cấp thêm thông tin về những sự kiện xảy ra trong thập kỷ vừa qua. Thêm thông tin sẽ đưa tới quyết định tốt hơn và các kết quả tốt hơn. Nếu điều đó xảy ra, tôi sẽ cảm thấy là tôi đã có một đóng góp.

(Hết Lời nói đầu)
 
Chương I

Lời Hứa Của Các Tổ Chức Toàn Cầu

Các quan chức quốc tế - biểu tượng vô danh của trật tự kinh tế thế giới đang bị tấn công ở khắp mọi nơi. Những cuộc họp bình thường (unevenful) của các nhà kỹ trị bàn những chủ đề bình thường như các khoản cho vay (concessional loans) và quota thương mại giờ đây gắn liền với những cảnh lộn xộn trên đường phố và các cuộc biểu tình rầm rộ. Sự phản đối tại cuộc họp của tổ chức Thương mại thế giới WTO tại Seatle năm 1999 là một cú sốc. Kể từ đó, phong trào này này càng mạnh mẽ và cơn thịnh nộ đã lan tràn khắp nơi. Gần như tất cả các cuộc họp lớn của Quĩ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, và Tổ chức thương mại thế giới ngày nay tràn ngập những cảnh xung đột và bạo loạn. Cái chết của một ngươì phản đối ở Genoa năm 2001 chỉ là khởi đầu của có thể là nhiều nạn nhân trong cuộc chiến chống toàn cầu hoá.
Bạo loạn và phản đối chống lại các chính sách và những hành động của các tổ chức toàn cầu hoá (institutions of globalization) hầu như không có gì mới. Hàng thập kỷ nay, những nguời ở các quốc gia đang phát triển đã tiến hành bạo loạn chống lại các chương trình "thắt lưng buộc bụng" bị áp đặt lên các nước này, và đã được chứng minh là quá khắc nghiệt. Nhưng những phản đối và bạo loạn này khó mà được nghe thấy ở Phương Tây. Cái mới ở đây là, làn sóng phản đối đã lan sang đến tận các nước phát triển.
Đã từng có những chủ đề, như là các chương trình cho vay điều chỉnh cơ cấu (được thiết kế nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh và chống lại khủng hoảng) và quota nhập khẩu chuối (hạn chế mà một số nước châu Âu đánh vào chuối nhập khẩu từ các nước không phải là thuộc địa cũ của họ) chỉ phục vụ lợi ích cho một ít nguời. Ngày nay, những đứa trẻ 16 tuổi từ các vùng ngoại ô cũng có những ý kiến mạnh mẽ về những hiệp ước mù mờ như GATT (Hiệp ước chung về mậu dịch và thuế quan) và NAFTA (Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, thoả thuận được ký năm 1992 giữa Mexico, Mỹ và Canada cho phép hàng hóa dịch vụ và đầu tư, trừ con nguời, di chuyển tự do giữa các nước). Sự phản kháng này đã khiến nhiều nguời đang nắm quyền phải tự vấn lương tâm. Thậm chí, những chính khách bảo thủ như tổng thống Pháp Jacques Chirac đã bày tỏ lo ngại rằng toàn cầu hoá đang không làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn cho đa số những nguời cần đến những lợi ích được hứa hẹn từ nó. Điều trở nên rõ ràng với tất cả mọi nguời là đã có cái gì đó sai lầm. Chỉ qua một đêm, toàn cầu hoá đã trở thành chủ đề cấp bách của thời đại này (most pressing isues of our time), chủ đề được tranh cãi từ trong các phòng họp đến các trang báo và trong các ngôi trường trên toàn thế giới.
Tại sao toàn cầu hoá - sức mạnh đã mang tới bao nhiêu điều tốt lành lại trở thành một chủ đề tranh cãi như vậy? Mở cửa ra với thương mại quốc tế đã giúp bao nhiêu quốc gia tăng trưởng nhanh hơn. Thương mại quốc tế giúp kinh tế phát triển khi mà xuất khẩu đã trở thành lực đẩy cho tăng trưởng. Tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là trung tâm của chính sách công nghiệp đã làm giàu nhiều nước châu Á và làm cho hàng triệu nguời được hưởng cuộc sống tốt hơn. Nhờ có toàn cầu hoá mà nhiều nguời trên thế giới ngày nay sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn nhiều trước đây. Nhiều nguời phương Tây có thể coi những công việc với đồng lương rẻ mạt tại các nhà máy của Nike là sự bóc lột, nhưng với những nguời ở các nước đang phát triển, làm việc trong nhà máy còn tốt hơn nhiều so với phơi lưng duới những cánh đồng trồng lúa.
Toàn cầu hoá đã làm giảm đi sự chia cắt và cô lập mà các nuơc đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức với nhiều nguời ở các nước đang phát triển, điều vượt xa tầm với của thậm chí những nguời giàu nhất ở bất kỳ quốc gia nào một thế kỷ trước đây. Cái phong trào chống toàn cầu hoá bản thân nó cũng là kết quả của sự liên kết mang tính toàn cầu hoá. Sự liên kết giữa những nhà hoạt động ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt những liên kết thực hiện qua mạng internet đã tạo ra sức ép đưa đến hiệp ước quốc tế về mìn sát thương, mặc cho sự phản đối của nhiều chính phủ có thế lực. Được ký bởi 121 nước vào năm 1997, hiệp ước này giảm xác suất những đứa trẻ và những nguời vô tội phải trở thành nạn nhân của mìn sát thương. Tương tự, áp lực xã hội buộc cộng đồng quốc tế phải xoá nợ cho các quốc gia nghèo nhất. Thậm chí, khi toàn cầu hoá có những mặt hạn chế, thường là có những lợi ích. Sự mở cửa thị trưòng sữa của Jamaica cho nhập khẩu từ Mỹ vào năm 1992 có thể gây thiệt hại cho những nông dân nuôi bò nhưng nó lại tạo ra cơ hội cho trẻ em nghèo đưọc dùng sữa rẻ hơn. Các hãng nước ngoài có thể ảnh hưởng đến các xí nghiệp quốc doanh được bảo hộ nhưng nó cũng dẫn tới việc phải áp dụng công nghệ mới, tiếp cận thị trường mới và tạo ra các ngành công nghiệp mới.
Viện trợ nưóc ngoài, một mặt khác của thế giới toàn cầu hoá, dù cho những mặt không tốt của nó, đã mang lại lợi ích cho hàng triệu nguời, thường dưói những hình thức mà nguời ta không để ý: các du kích ở Philipine đã nhận được việc làm từ một dự án do Ngân hàng thế giới tài trợ khi họ giã từ vũ khí; cá dự án thuỷ lợi làm tăng gấp đôi thu nhập của những nông dân may mắn lấy được nước từ nguồn này; các dự án giáo dục đã xoá nạn mù chữ ở các vùng nông thôn; một vài dự án chống AIDS giúp ngăn ngừa sự lây lan của bệnh dịch chết nguời này.
Những nguời nói xấu toàn cầu hóa thường coi nhẹ hay bỏ qua những lợi ích của nó. Những những nguời ủng hộ toàn cầu hoá cũng thường thậm chí cực đoan hơn. Đối với họ, toàn cầu hoá (cái mà gắn liền với sự chấp nhận sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ) là sự tiến bộ, và các quốc gia đang phát triển phải chấp nhận nó nếu họ muốn tăng trưởng và xoá nghèo hiệu quả. Nhưng đối với nhiều nguời ở các nước đang phát triển, toàn cầu hoá đã không mang lại những lợi ích mà nó đã hứa hẹn.
 
Không thấy anh Kiên Update tiếp những phần tiếp theo của bộ sách này nhỉ. Em vào ttvnol nhưng họ dịch có vẻ lủng củng quá không sát được với thứ tự trang thì phải, em cũng không biết bản gốc như thế nào nên cũng không rõ đọc thế nào....
 
dạ, theo em thì tại sao bác ko post link lên đây cho anh em, nếu mà có cả bản nguyên gốc thì tốt
post lên đây, mỗi người 1 lời, đọc bị đứt đoạn khó chịu lắm
 
sách này khó mà kiếm online được vì nó là sách mới vẫn còn copyrights các thứ.
hôm nay nhân dịp nhìn thấy cái topic này, mình có đọc qua lại một số ý kiến đối kháng với cuốn này của Stiglitz, chủ yếu là từ bên IMF. để post lên cho mọi người xem.
Stiglitz viết cuốn này theo hướng ít academic, bình luận lan man nhiều và ít footnote nên chuyện bị tấn công cũng là chuyện dễ hiểu. dù sao thì mình nghĩ là cái gì cũng nên nhìn 2 chiều. nếu ai không theo dõi chủ đề này nhiều thì đọc sách này sẽ dễ bị hình thành một cái pre-perceived conception về IMF nói riêng và chính sách globalization nói chung.
Hơn nữa, không như Kiên nói, đây không phải là cuốn Stiglitz viết để chỉ trích "các nước phương Tây" và chính sách của họ mà chủ yếu là phê phán IMF (IMF và các nước phương Tây, theo mình, khó có thể nói là đồng nghĩa với nhau) và có một phần bình luận nhỏ về toàn cầu hóa, mặc dù không nhiều. ý kiến cuối cùng của Stiglitz thì vẫn là ủng hộ toàn cầu hóa, chỉ kêu gọi là cách làm khác đi một chút.
Ngoài những bài viết ngắn, nếu ai quan tâm đến toàn cầu hóa thì nên đọc một vài cuốn của Stanley Fischer (một trong những nhân vật đứng đầu IMF cùng thời với Stiglitz ở World Bank) và Larry Summers (hiệu trưởng hiện giờ của Harvard.)
 
các bài viết dưới đây dài và viết bằng tiếng Anh nhưng nếu bạn nào thực sự quan tâm thì nên thử đọc qua xem. viết khá hay và phân tích các luận điểm của Stiglitz khá chi tiết.

1. An Open Letter to Joseph Stiglitz,
by Kenneth Rogoff, Economic Counsellor and Director of the IMF Research Department, 2 July 2002

At the outset, I would like to stress that it has been a pleasure working closely with my World Bank colleagues—particularly my counterpart, Chief Economist Nick Stern—during my first year at the IMF. We regularly cross 19th Street to exchange ideas on research, policy, and life. The relations between our two institutions are excellent—this is not at issue. Of course, to that effect, I think it is also important, before I begin, for me to quash rumors about the demolition of the former PEPCO building that stood right next to the IMF until a few days ago. No, it’s absolutely not true that this was caused by a loose cannon planted within the World Bank.

Dear Joe,

Like you, I came to my position in Washington from the cloisters of a tenured position at a top-ranking American University. Like you, I came because I care. Unlike you, I am humbled by the World Bank and IMF staff I meet each day. I meet people who are deeply committed to bringing growth to the developing world and to alleviating poverty. I meet superb professionals who regularly work 80-hour weeks, who endure long separations from their families. Fund staff have been shot at in Bosnia, slaved for weeks without heat in the brutal Tajikistan winter, and have contracted deadly tropical diseases in Africa. These people are bright, energetic, and imaginative. Their dedication humbles me, but in your speeches, in your book, you feel free to carelessly slander them. 2

Joe, you may not remember this, but in the late 1980s, I once enjoyed the privilege of being in the office next to yours for a semester. We young economists all looked up to you in awe. One of my favorite stories from that era is a lunch with you and our former colleague, Carl Shapiro, at which the two of you started discussing whether Paul Volcker merited your vote for a tenured appointment at Princeton. At one point, you turned to me and said, “Ken, you used to work for Volcker at the Fed. Tell me, is he really smart?” I responded something to the effect of “Well, he was arguably the greatest Federal Reserve Chairman of the twentieth century” To which you replied, “But is he smart like us?” I wasn’t sure how to take it, since you were looking across at Carl, not me, when you said it.

My reason for telling this story is two-fold. First, perhaps the Fund staff who you once blanket-labeled as “third rate”—and I guess you meant to include World Bank staff in this judgment also—will feel better if they know they are in the same company as the great Paul Volcker. Second, it is emblematic of the supreme self-confidence you brought with you to Washington, where you were confronted with policy problems just a little bit more difficult than anything in our mathematical models. This confidence brims over in your new 282 page book. Indeed, I failed to detect a single instance where you, Joe Stiglitz, admit to having been even slightly wrong about a major real world problem. When the U.S. economy booms in the 1990s, you take some credit. But when anything goes wrong, it is because lesser mortals like Federal Reserve Chairman Greenspan or then Treasury Secretary Rubin did not listen to your advice.

Let me make three substantive points. First, there are many ideas and lessons in your book with which we at the Fund would generally agree, though most of it is old hat. For example, we completely agree that there is a need for a dramatic change in how we handle situations where countries go bankrupt. IMF First Deputy Managing Director Anne Krueger—who you paint as a villainess for her 1980s efforts to promote trade liberalization in World Bank policy—has forcefully advocated a far reaching IMF proposal. At our Davos [World Economic Forum] panel in February you sharply criticized the whole idea. Here, however, you now want to take credit as having been the one to strongly advance it first. Your book is long on innuendo and short on footnotes. Can you document this particular claim?

Second, you put forth a blueprint for how you believe the IMF can radically improve its advice on macroeconomic policy. Your ideas are at best highly controversial, at worst, snake oil. This leads to my third and most important point. In your role as chief economist at the World Bank, you decided to become what you see as a heroic whistleblower, speaking out against macroeconomic policies adopted during the 1990s Asian crisis that you believed to be misguided. You were 100% sure of yourself, 100% sure that your policies were absolutely the right ones. In the middle of a global wave of speculative attacks, that you yourself labeled a crisis of confidence, you fueled the panic by undermining confidence in the very institutions you were working for. Did it ever occur to you for a moment that your actions might have hurt the poor and indigent people in Asia that you care about so deeply? Do you ever lose a night’s sleep thinking that just maybe, Alan Greenspan, Larry Summers, Bob Rubin, and Stan Fischer had it right—and that your impulsive actions might have deepened the downturn or delayed—even for a day—the recovery we now see in Asia?

Let’s look at Stiglitzian prescriptions for helping a distressed emerging market debtor, the ideas you put forth as superior to existing practice. Governments typically come to the IMF for financial assistance when they are having trouble finding buyers for their debt and when the value of their money is falling. The Stiglitzian prescription is to raise the profile of fiscal deficits, that is, to issue more debt and to print more money. You seem to believe that if a distressed government issues more currency, its citizens will suddenly think it more valuable. You seem to believe that when investors are no longer willing to hold a government’s debt, all that needs to be done is to increase the supply and it will sell like hot cakes. We at the IMF—no, make that we on the Planet Earth—have considerable experience suggesting otherwise. We earthlings have found that when a country in fiscal distress tries to escape by printing more money, inflation rises, often uncontrollably. Uncontrolled inflation strangles growth, hurting the entire populace but, especially the indigent. The laws of economics may be different in your part of the gamma quadrant, but around here we find that when an almost bankrupt government fails to credibly constrain the time profile of its fiscal deficits, things generally get worse instead of better.

Joe, throughout your book, you condemn the IMF because everywhere it seems to be, countries are in trouble. Isn’t this a little like observing that where there are epidemics, one tends to find more doctors?

You cloak yourself in the mantle of John Maynard Keynes, saying that the aim of your policies is to maintain full employment. We at the IMF care a lot about employment. But if a government has come to us, it is often precisely because it is in an unsustainable position, and we have to look not just at the next two weeks, but at the next two years and beyond. We certainly believe in the lessons of Keynes, but in a modern, nuanced way. For example, the post-1975 macroeconomics literature—which you say we are tone deaf to—emphasizes the importance of budget constraints across time. It does no good to pile on IMF debt as a very short-run fix if it makes the not-so-distant future drastically worse. By the way, in blatant contradiction to your assertion, IMF programs frequently allow for deficits, indeed they did so in the Asia crisis. If its initial battlefield medicine was wrong, the IMF reacted, learning from its mistakes, quickly reversing course.

No, instead of Keynes, I would cloak your theories in the mantle of Arthur Laffer and other extreme expositors of 1980s Reagan-style supply-side economics. Laffer believed that if the government would only cut tax rates, people would work harder, and total government revenues would rise. The Stiglitz-Laffer theory of crisis management holds that countries need not worry about expanding deficits, as in so doing, they will increase their debt service capacity more than proportionately. George Bush, Sr. once labeled these ideas “voodoo economics.” He was right. I will concede, Joe, that real-world policy economics is complicated, and just maybe further research will prove you have a point. But what really puzzles me is how you could be so sure that you are 100 percent right, so sure that you were willing to “blow the whistle” in the middle of the crisis, sniping at the paramedics as they tended the wounded. Joe, the academic papers now coming out in top journals are increasingly supporting the interest defense policies of former First Deputy Managing Director Stan Fischer and the IMF that you, from your position at the World Bank, ignominiously sabotaged. Do you ever think that just maybe, Joe Stiglitz might have screwed up? That, just maybe, you were part of the problem and not part of the solution?

You say that the IMF is tone deaf and never listens to its critics. I know that is not true, because in my academic years, I was one of dozens of critics that the IMF bent over backwards to listen to. For example, during the 1980s, I was writing then-heretical papers on the moral hazard problem in IMF/World Bank lending, an issue that was echoed a decade later in the Meltzer report. Did the IMF shut out my views as potentially subversive to its interests? No, the IMF insisted on publishing my work in its flagship research publication Staff Papers. Later, in the 1990s, Stan Fischer twice invited me to discuss my views on fixed exchange rates and open capital markets (I warned of severe risks). In the end, Stan and I didn’t agree on everything, but I will say that having entered his office 99 percent sure that I was right, I left somewhat humbled by the complexities of price stabilization in high-inflation countries. If only you had crossed over 19th Street from the Bank to the Fund a little more often, Joe, maybe things would have turned out differently.

I don’t have time here to do justice to some of your other offbeat policy prescriptions, but let me say this about the transition countries. You accuse the IMF of having “lost Russia.” Your analysis of the transition in Russia reads like a paper in which a theorist abstracts from all the major problems, and focuses only on the couple he can handle. You neglect entirely the fact that when the IMF entered Russia, the country was not only in the middle of an economic crisis, it was in the middle of a social and political crisis as well.

Throughout your book, you betray an unrelenting belief in the pervasiveness of market failures, and a staunch conviction that governments can and will make things better. You call us “market fundamentalists.” We do not believe that markets are always perfect, as you accuse. But we do believe there are many instances of government failure as well and that, on the whole, government failure is a far bigger problem than market failure in the developing world. Both World Bank President Jim Wolfensohn and IMF Managing Director Horst Köhler have frequently pointed to the fundamental importance of governance and institutions in development. Again, your alternative medicines, involving ever-more government intervention, are highly dubious in many real-world settings.

I haven’t had time, Joe, to check all the facts in your book, but I do have some doubts. On page 112, you have Larry Summers (then Deputy U.S. Treasury Secretary) giving a “verbal” tongue lashing to former World Bank Vice-President Jean-Michel Severino. But, Joe, these two have never met. How many conversations do you report that never happened? You give an example where an IMF Staff report was issued prior to the country visit. Joe, this isn’t done; I’d like to see your documentation. On page 208, you slander former IMF number two, Stan Fischer, implying that Citibank may have dangled a job offer in front of him in return for his cooperation in debt renegotiations. Joe, Stan Fischer is well known to be a person of unimpeachable integrity. Of all the false inferences and innuendos in this book, this is the most outrageous. I’d suggest you should pull this book off the shelves until this slander is corrected.

Joe, as an academic, you are a towering genius. Like your fellow Nobel Prize winner, John Nash, you have a “beautiful mind.” As a policymaker, however, you were just a bit less impressive.

Other than that, I thought it was a pretty good book.

Sincerely yours,

Ken
1 Used as opening remarks at a June 28 discussion of Mr. Stiglitz’s book at the World Bank, organized by the World Bank’s Infoshop

2 For example: “It was not just that IMF policy might be regarded by softheaded liberals as inhumane. Even if one cared little for those who faced starvation, or the children whose growth had been stunted by malnutrition, it was simply bad economics.” Joseph Stiglitz,Globalization and Its Discontents, p 119.
 
2. Stiglitz, the IMF and Globalization,
Speech by Thomas C. Dawson, Director, External Relations Department, 2 July 2002

1. Thank you for the invitation to talk to you this evening. I’m told that your fellow MIT alum Joseph Stiglitz addressed this group a couple of years ago and used his time to say some nice things about the IMF. The organizers of this evening’s entertainment thought it would be fun if I repay his kindness.

2. The title of my talk is “Stiglitz, the IMF and Globalization”. My preference would have been to talk about these three topics in the reverse order from which they appear in the title and to have run out of time by the time I got to the third. Instead, because Stiglitz has been so prominent in the press in recent years, and so critical of the IMF, I have to devote the bulk of my talk to responding to his attacks on us. My defense for getting into the fight is the classic one: “He started it!”. I hope there will be time at the end to discuss the far more important issue of how to make globalization work for all, an issue on which Stiglitz and the IMF share common ground.

3. In the very unlikely event that you haven’t heard of us, let me just say that the IMF is a multilateral agency with two main jobs: first, to help preserve global economic and financial stability and, second, to assist in the global war on poverty.

4. And for the few among you who may not heard of Joe Stiglitz, he is a noted academic economist. Since he addressed your group, he’s won the Nobel Prize, an honor his fellow economists, who rarely agree on anything, agree he completely and richly deserves. Joe has also gone from being the Chief Economist of the World Bank to Chief Critic of the IMF.

5. One of the many things that he criticizes us for is dispensing policy advice without taking on board the lessons of the academic work that won him the Nobel. Stiglitz evidently feels that being a top-notch academic economist is ample qualification for being a good policymaker. The fact is that Joe got a late start in policymaking and shows it. Policymaking requires a different skill set from academic theorizing. Joe’s skills as a policymaker are vastly improved by hindsight, something his former boss Jim Wolfensohn alluded to when he said about Joe: “To stand back later and say, “If you’d done it my way everything would have been different,” is a little generous to yourself.”

6. Stiglitz has recently written a book called “Globalization and its Discontents”. Despite its general title, the book is mostly about the IMF, not a major critique of globalization. The Economist, said in its review that a more accurate title for the book would have been “The IMF and My Discontent.”

7. My bean-counting assistant noted that the index to the book has some 64 references to globalization, whereas references to the IMF – almost all critical – total 340. That works out to over one alleged mistake committed by the IMF per page. You’d think by sheer accident we’d have gotten a couple of things right.

8. That’s my bottom-line message: You can’t judge a book by its cover. There are two books in here.
The first is a haphazard list of allegations against the IMF. Buried amidst the half-truths and some nasty (and false) allegations are a few valid criticisms of the IMF. Stiglitz tries to provide a grand theme for all this by claiming that all these mistakes are due to the IMF’s slavish devotion to what he calls “market fundamentalism”. He is simply wrong in this view. I won’t have time to delve too much into specific allegations here but I will tell you why the overall criticism is wrong.
The second book, matching the advertised title of “Globalization and its Discontents”, is a discussion of the benefits and risks of globalization. Stiglitz’s views here are quite mainstream and the IMF and many other observers would be in substantial agreement with him.

9. Let me begin with Stiglitz’s overarching critique of the IMF, that it is driven by “market fundamentalism”. Stiglitz accuses the IMF of being driven by a belief in the perfection of markets and the imperfection of governments. The accusation is simply wrong. IMF staff are well aware that they owe their jobs to the imperfections of markets.

10. What is probably true is that the staff of the IMF (and the World Bank) have over time become more confident about the ability to use markets to serve the public interest. What caused this shift? Quite simply, the evidence. Through the 1980s, central planning represented an important alternative to markets as a way of organizing economies. The collapse of the Soviet Union and the fall of the Berlin Wall suggested to many that markets, whatever their faults, were a more durable way of organizing a country’s economy. This feeling was reinforced by the good economic performance of the United States and the United Kingdom, both of which had moved to more market-oriented systems during the 1980s.

11. While these monumental changes were going on in the world economy, Stiglitz was hard at work in academia illuminating in a remarkable series of papers the flaws of market economies. As the award of the Nobel Prize attests, those papers are surely important contributions. But it cannot come as a surprise that, given the sweeping historical developments that I have described, the practical lessons being applied in the policymaking realm involved making more, rather than less, use of markets to solve economic problems.

12. The great British economist John Maynard Keynes, who Stiglitz greatly admires, once said in replying to a critic: “When I get new information, I change my opinions. What, sir, do you do with new information?” One is tempted to ask Joe Stiglitz why, despite the new information about the fall of central planning, there has not been a transition in his views about the relative prevalence of market and government failure.

13. Other eminent economists have made the transition. Larry Summers, former U.S. Treasury Secretary and currently President of an university in Cambridge whose name escapes me, is one example. He said, in an interview, that when he was growing up Milton Friedman was the devil incarnate in his household. But now, Summers said, he has ungrudging respect for Friedman’s views about the market.

14. The IMF’s critics on the right find the allegation that the IMF is driven by market fundamentalism completely ludicrous. For instance, listen to what Brink Lindsey of the Cato Institute, the true home of market fundamentalism, says in his review of the book in the Wall Street Journal. Lindsey writes that for Stiglitz to accuse the IMF of market fundamentalism “is misleading to the point of absurdity ...There’s nothing in his book that suggests even a whisper of the many profound disagreements between the “disciples of Milton Friedman,” as he calls them, and the IMF’s economists. Such disagreements do not fit well with Mr. Stiglitz’s ax-grinding, and so, apparently, he decided to leave them out.”

15. Not only is the overarching criticism incorrect, notes Lindsey, but the examples that Stiglitz provides of how market fundamentalism led the IMF astray are vastly over-blown. According to Stiglitz, Russia’s difficult transition from communism, worsening poverty in Africa, the collapse of Argentina’s economy--these all are manifestations of what happens when the IMF’s market fundamentalists get their way. The fact is that there are all very complex situations on which there was, and remains to this day, plenty of disagreement about the right way to do things and who is to blame for things that have gone wrong. The IMF deserves its share of the blame, but so do many others.

16. In fact, many of Stiglitz’s criticisms should apply with equal force to our sister institution, the World Bank. Issues related to privatization, the quality of a country’s institutions, consideration of alternate strategies to alleviate poverty – these are all areas where our sister institution tends to be what’s called the “lead agency”. But, as the New York Times noted in its review, the Bank “is spared the searing indictment that Professor Stiglitz reserves for the IMF ... Not surprisingly, part of the book’s purpose seems to be an attempt to ensure that events during his World Bank tenure do not besmirch his own reputation. In the process, one suspects that some score-settling may well be in play.”

17. As part of this score-settling, Stiglitz has made some very mean-spirited observations about Fund staff and officials, past and present. One charge in particular should not go unanswered, particularly before this audience. Stiglitz notes that Stanley Fischer, the former deputy head of the IMF and former MIT professor of economics, went straight from the IMF to Citigroup. Stiglitz adds: “A chairman of Citigroup was Robert Rubin who, as secretary of Treasury, had a central role in IMF policies. One could only ask, Was Fischer being richly rewarded for having faithfully executed what he was told to do?” To anyone who knows Fischer’s utter devotion to institutions he works for, whether it was the IMF or MIT, the suggestion that he used twisted IMF policies to ensure a job at Citicorp is repugnant. Stiglitz surely knows that Fischer is regarded as a man of unimpeachable integrity and yet he cannot resist the jibe at him.

18. I also take strong exception to the portrayal of IMF staff as uncaring bureaucrats serving the narrow interests of the Western financial community. Stiglitz implies that IMF staff see the unemployed “as just a statistic ... the unintended casualties in the fight against inflation or to ensure that Western banks get repaid.” He suggests that IMF staff, like the pilots of “modern high-tech warfare” who drop “bombs from 50000 feet”, have no feelings for the people whose lives are affected by their policies. The IMF’s staff are drawn from nearly a 150 countries; many are acutely aware of the pain and suffering of the people of developing countries and want the situation in these countries to get better. Stiglitz has not cornered the market on morality and caring. Another Stiglitz refrain is that IMF staff “make themselves comfortable in five-star hotels” in the countries they visit for missions. If, as Stiglitz recommends in his book, the IMF and the World Bank become subject to some sort of a Freedom of Information Act, many IMF staff will rush to ask for the release of Stiglitz’s own travel and hotel records during his years as a World Bank staffer: Given the shrillness of his complaints about others staying in five-star hotels, we fully expect to find that Stiglitz has been leading by example and staying in places several notches lower.

19. Stiglitz has also attacked the competence of IMF staff, once characterizing them as “third-rank students from first-rate universities.” This provoked Rudi Dornbusch, a famous MIT professor of international economics, into responding that “at Harvard and MIT, and everywhere else, fresh Ph.Ds who can’t get jobs at the top 5 universities in the world will pick the World Bank or the IMF. And that is all for the better. Anyone likely to be picked as top draft choice by the top schools may be a trifle too theoretical for the cruder world of policymaking. Stiglitz himself with his predilection for the intriguing exceptions rather than the general rule is a great case in point.”

20. OK, enough of the food-fight. Let me shift to a more positive tone and acknowledge the validity of some of the criticisms Stiglitz makes of the IMF. As I noted earlier, the IMF’s has two main tasks: first, to help preserve global financial stability and, second, to assist the World Bank and others in the global war on poverty. The critiques by Stiglitz (and others) on some of our failures on both of these fronts, while not accurate down to every last detail, are well-taken.

21. One criticism is that the U.S. Treasury and the IMF showed excessive zeal in encouraging countries to open up to short-term foreign capital in the mid-1990s. The critics say that the entry, and often the subsequent hasty exodus, of foreign capital into economies which are too small or whose financial sectors are ill-equipped to regulate and absorb the capital can be devastating. Is this a valid characterization? It’s useful to recall a bit of history first. When the IMF was created in 1944, its founders envisioned a world with free trade but with restrictions on movement of capital across countries. In the jargon, current accounts were to be open, but capital accounts closed. There is no denying that the vision of the world being promoted by the IMF in the mid-1990s was different: at the 1997 IMF-World Bank meetings the proposal on the table was to make eventual deregulation of international capital flows obligatory for IMF members. In the case of Korea, the U.S. Treasury did press (albeit with lack of success) for broad capital account liberalization in the context of the country’s OECD accession.

22. But while Stiglitz’s characterization of a greater push toward capital account liberalization is broadly correct, it is inaccurate in many important details. The IMF and the U.S. Treasury did not encourage countries to liberalize short-term flows through the banking sector, which is what turned out to be the Achilles Heel during the Asian crisis. And many countries liberalize for their own reasons rather than as a consequence of external prodding – Thailand for instance was keen to have Bangkok emerge as international financial sector like Singapore. Nevertheless, as a result of the criticism by Stiglitz and others, the IMF is more vocal in pointing out the risks of rapid capital account liberalization. While such cautionary notes have always been present in IMF advice on capital account liberalization, today they are much more likely to be given greater prominence. For instance, three weeks ago, although unnoticed by anyone in the international media but the Dow Jones newswires, we advised Sri Lanka against opening up its capital account until its financial sector was further strengthened.

23. Other aspects of our handling of the financial crisis in Asia have also come for criticism from Stiglitz and others. We’ve acknowledged that we made mistakes in our initial response to the crisis. As anyone who has been centrally involved in crisis situations will tell you, battlefield medicine is never perfect. We were surprised by the speed and virulence with which the crisis spread to many countries in the region. The experience revealed the IMF had not kept up with the rapid developments in international capital markets, a deficiency it has tried to rectify through a number of steps taken over the last couple of years.

24. Our most glaring error, according to many observers, was to recommend excessive belt-tightening to Thailand at the start of the crisis. It is worth recalling that in July 1997, Thailand was still growing rapidly, had a huge and growing current account deficit (more than 8 percent of GDP), and faced large, though as yet unrecognized, fiscal liabilities to recapitalize the financial system. It was against this background that the Imf recommended a roughly-unchanged fiscal position. However, once the scope of the crisis became evident, we quickly changed course. Indeed, IMF-supported programs in Thailand and other crisis countries were soon marked by large budget deficits, in part because of increases in spending on social safety net programs. This is exactly the kind of easing of fiscal policy Stiglitz advocates.

25. There is another, more technical, debate about which there is still no meeting of the minds between Stiglitz and others. This debate has to do with the appropriateness of the IMF’s advice on monetary policy during the Asian crisis. The IMF and many others continue to disagree with Stiglitz’s assertion that it is obvious that monetary policy must also be eased at the onset of a financial crisis. As Larry Summers noted recently, “when a country’s exchange rate is declining rapidly because capital is trying to leave the country, and the country’s financial institutions are in real trouble, there is a fundamental conflict between restoring external confidence by raising interest rates and providing for financial repair through increased liquidity. It’s a classic problem of a single instrument and multiple targets. Confidence is widely recognized as essential in combating financial crises.” Others have taken similar positions. Dornbusch for instance says that “investors will take confidence and bring money back when they see fiscal conservatism and high interest rates. Do that for a few months and you are on the right track.” Our former chief economist Michael Mussa said in his typically colorful language that those who advocate easing monetary policy at the onset of a financial crisis are smoking something “not entirely legal”. So the point is that there isn’t a professional consensus on this topic. What’s needed is honest debate and a closer look at the evidence, not polemics.

26. The experience of more recent financial crises, such as the one in Argentina, suggest that our existing mechanisms to resolve crises in a rapid and orderly fashion do not work smoothly. One problem is that governments do not deal with their sovereign debt problems promptly; the situation is often allowed to fester until a crisis is precipitated. Our current deputy head Anne Krueger has suggested creating a statutory mechanism to secure a more orderly and timely restructuring of unsustainable sovereign debts. For those of you who may have been following this issue, the mechanism being proposed is to empower a super-majority of creditors to take key decisions in the restructuring process in negotiation with the debtor. Stiglitz has been quite supportive of the general idea of having a sovereign debt restructuring mechanism.

27. With respect to our other main task, poverty alleviation, Stiglitz notes that the IMF and the World Bank have recently launched a new approach. This is a more “participatory” approach, one which involves the country’s government and its civil society at an early stage in measuring the size of the poverty problem and in devising development strategies to reduce poverty. We get a rare compliment here when Stiglitz says that even though participatory assessments are not yet being perfectly implemented “they are a step in the right direction”. He also notes correctly that if the gap between the rhetoric and reality of the new poverty strategy “persists for too long or remains too great, there will be a sense of disillusionment.”

28. As promised, let me finish with a brief discussion of globalization, the supposed subject of the book. Stiglitz provides a mainstream, but nonetheless eloquent and clear, description of the benefits of globalization. He notes that “opening up to international trade has helped many countries grow far more quickly than they would otherwise have done. ... Because of globalization many people in the world live longer than before and their standard of living is far better.” ... “People in the West may regard low-paying jobs at Nike as exploitation” but, says Stiglitz, “working in a factory is a far better option for many than growing rice” on the farm. It is also the case, says Stiglitz, that globalization “has reduced the sense of isolation felt in much of the developing world and has given many people in the developing world access to knowledge well beyond the reach of even the wealthiest in any country a century ago.” With all of this, we couldn’t agree more.

29. However, the benefits of globalization are spread very unevenly. In Africa the high expectations that people had for the continent following colonial independence remain unfulfilled. Growth in many countries in Latin America has yet to be placed on a secure footing. India is only just emerging from decades of economic slumber. As a consequence, many millions of people throughout the developing world remain mired in poverty. People disagree on the solutions to this problem. Even Larry Summers, not easily stumped, admits that “he doesn’t have it all figured out”; however, he thinks “that in the developing world, far more people are poor because of too little globalization rather than too much, and far more people are poor because of a lack of economic reform rather than because of excessively rapid economic reform.” Others such as Stiglitz feel that there has been too much of a “one-size-fits all” approach taken to development, and that market reforms have been pushed with excessive zeal and haste; he says that countries must be free to experiment with alternatives and follow paths that best suit their situations and needs.

30. While there are no easy answers, one concrete step could be taken to help the situation considerably, and that is for developed countries to lower the trade barriers they have against precisely those products in which the developing countries have a comparative advantage. On this particular issue, the relevant portions of Stiglitz’s book read like passages from speeches by the IMF’s Managing Director.

31. Let me end on that note of harmony.
 
Dạo này đang bận nên ko có thời gian vào post tiếp, để vài ngày nữa sẽ vào tiếp tục chủ đề này.
Link thì bên ttvnonl cũng có nhưng nó cũng ko đc trình tự lắm, nếu em nào muốn đọc thì có thể sang bên ttvnonl vào phần kinh tế để tham khảo, còn nếu ko đợi vài ngày nữa mình sẽ post dần dần lên đây cho mọi người cùng đọc.
Bác Long nhận xét đúng rồi đấy, lúc đầu đọc còn hứng thú, nhưng sau thấy ông này nhận xét và đánh giá ko khách quan nữa, và thiên về chỉ trích IMF, nên cũng thấy hơi có phần tiêu cực, dẫn chứng nêu ra thì đúng sự thật nhưng ko khách quan và cũng toàn nêu dẫn chứng bất lợi cho IMF :). Nhưng dù sao đây cũng là một cuốn sách nên đọc.
À mà bác Long nếu dịch đc thì tốt, chứ post một bài dài toàn tiếng anh thế kia e rằng nhiều người ngại đọc và ngại dịch nữa :p.
Cảm ơn mọi người đã quan tâm đến topic.
NPTK
 
Cái hố ngăn cách ngày càng lớn giữa những nguời có (the haves) và những nguời không có (the have- nots) đã gia tăng số người trong thế giới thứ 3 sống trong nghèo đói túng quẫn với mức thu nhập duới 1 đô la một ngày. Bất chấp những lời hứa hẹn lặp đi lặp lại về xoá đói giảm nghèo trong hàng thập kỷ của thế kỷ 20, số ngưòi sống trong nghèo khổ thực tế đã tăng thêm 100 triệu nguời. Điều đó lại xảy ra cùng thời gian khi mà thu nhập bình quân của thế giới tăng tới 2.5 phần trăm năm.
Ở Châu phi, sự phấn khích và những khát vọng sau khi thoát khỏi ách thực dân đã không được thực hiện. Thay vào đó, lục địa này rơi vào hoàn cảnh tồi tệ hơn, khi mà thu nhập kém hơn và mức sống thì giảm xuống. Cái thành quả về tuổi thọ phải rất nỗ lực mới đạt được trong vài thập kỷ trước đây đã bắt đầu bị đảo ngược (nghĩa là giảm tuổi thọ - ND). Trong khi thảm hoạ AIDS là nguyên nhân chính của tình trạng này thì nghèo đói cũng là một nguyên nhân khác. Thậm chí một một số nước đã bỏ cái ch ủ ngh ĩa xã h ội phi Châu và cố gắng xây dựng một chính phủ trong sạch, cân bằng ngân sách và kiềm chế lạm phát cũng nhận thấy rằng họ rất khó để thu hút các nhà đầu tư tư nhân. Không có sự đầu tư này, họ không thể kéo dó sự tăng trưởng vững chắc.
Nếu như toàn cầu hoá đã không thành công trong giảm nghèo nó cũng không thành công trong việc đảm bảo sự ổn định. Khủng hoảng ở châu Á và châu Mỹ la tinh đe doạ nền kinh tế và sự ổn định của tất cả các nước đang phát triển. Nguời ta lo ngại rằng cơn khủng hoảng tài chính có thể lan tràn khắp thế giới và rằng sự sụp đổ tỷ giá ở một quốc gia mới nổi (emerging) cũng có nghĩa là các quốc gia khác sẽ sụp đổ theo. Chỉ trong chốc lát, vào năm 1997 - 1998, cuộc khủng hoảng châu Á đã xuất hiện và đe doạ nền kinh tế toàn cầu.
Toàn cầu hoá và sự áp dụng kinh tế thị trường cũng đã không đem lại kết quả hứa hẹn ở Nga và hầu hết các quốc gia đang chuyển đổi từ cộ ng s ản sang thị trường. Các quốc gia này đã được hứa hẹn bởi các nưóc phưong Tây rằng hệ thống kinh tế mới sẽ đem lại sự thịnh vượng chưa từng có. Thay vào đó, nó lại mang đến sự nghèo đói chưa từng có: trên nhiều mặt và với hầu hết mọi nguời, kinh tế thị trường tỏ ra thậm chí tồi tệ hơn điều mà những nhà lãnh đạo cộ ng s ản dự đoán. Sự tương phản giữa sự chuyển đổi kinh tế nước Nga, được thiết kế bởi các tổ chức kinh tế quốc tế, và của Trung Quốc, do họ tự vạch ra, không thể lớn hơn: trong khi năm 1990, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung quốc chỉ bằng 60 phần trăm của Nga thì cho đến cuối thập kỷ, con số đó đã bị đảo ngược. Trong khi nước Nga chứng kiến tình trạng đói nghèo gia tăng chưa tưngd có thì Trung Quốc đạt được việc giảm nghèo chưa từng có.
Những chỉ trích đổi với quá trình toàn cầu hoá nhấn mạnh đến những hành động giả đạo đức của Phương Tây dường như hoàn toàn xác đáng. Những nước văn minh này đã ép buộc nhiều nước nghèo hạ thấp hàng rào thương mại, nhưng chính họ lại ko tự giảm bớt những rào cản thương mại trong chính quốc gia họ, thậm chí còn ngăn cản các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản vào thị trường nội địa, và tước đoạt đi những nguồn thu xuất khẩu của những nước đang phát triển. Tất nhiên Mỹ được coi là một điển hình, và điều này làm tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Khi còn làm chủ tịch của Uỷ ban Tư Vấn kinh tế, tôi đã phải đấu tranh chống lại những hành động đạo đức giả này. những hành động đạo đức giả như thế ko chỉ tổn hại đến các nước đang phát triển, mà còn ảnh hưởng đến cả nước Mỹ, đến người tiêu dùng Mỹ vì họ sẽ phải trả giá cao hơn cho những hàng hoá mà có thể mua được với giá thấp hơn nếu ko có những rào cản thương mại, và thuế mà người dân Mỹ phải trả để "hỗ trợ" cho những ngành được bảo hộ cũng là một khoản tiền trị giá hàng tỷ đôla. Những phát biểu và phản đối của tôi về vấn đề này hầu như đều bị bỏ ngoài tai. Lợi ích kinh tế cũng như thương mại hiển hiện, và khi tôi chuyển đến làm cho Ngân hàng thế giới, tôi càng thấy rõ hậu quả đối với các nước đang phát triển.
Nhưng dù cho ko bị coi là chịu trách nhiệm và đạo đức giả, các nước phương Tây cũng đã khởi xướng và thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, và phần lợi ích hơn từ toàn cầu hoá mà họ nhận được cũng là phần thiệt hại mà các nước đang phát triển phải hứng chịu. Ko phải vấn đề ở chỗ các nước CN phát triển chần trừ trong việc dỡ bỏ hàng rào thương mại, mở cửa thị trường của họ cho hàng hoá của các nước đang phát triển, ví dụ như phân phối quota xuất khẩu cho các nước đang phát triển, từ những mặt hàng như dệt may đến đường, mà còn liên tiếp yêu cầu các nước đang phát triển phải mở cửa thị trường cho hàng hoá của họ, những nước giàu có hơn. Và cùng ko phải chỉ là việc những nước này hỗ trợ nông nghiệp, khiến cho hàng nông nghiệp của các nước đang phát triển cạnh tranh khó khăn hơn, nhưng vẫn tiếp tục phàn nàn về việc các nước đang phát triển hỗ trợ sản xuất công nghiêp. Nếu chúng ta nhìn vào tỷ giá xuất nhập khẩu, mức giá mà hàng hoá của những nước đang phát triển nhận được từ xuất khẩu, sau vòng đàm phán thương mại thứ 8 năm 1995, kết quả đạt được chỉ là mức giá thấp hơn cho hàng xuất khẩu của những nước nghèo, so với mức giá hàng nhập khẩu mà họ phải chịu. Kết quả, nhiều nước nghèo nhất thế giới rơi vào tình trạng tồi tệ hơn.
Các ngân hàng phương Tây thu được nhiều lợi ích từ việc mở cửa và tự do hoá thị trường vốn của các nước đang Nam Mỹ và Châu Á, còn chính những khu vực này lại bị ảnh hưởng của những dòng tiền nóng (nguồn tiền chảy ra vào thị trường tài chính trong khoảng thời gian rất ngắn, nhằm mục tiêu đầu cơ chênh lệch tỷ giá), gây cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ. Những dòng tiền "đột xuất" này chảy qua thị trường tài chính yếu kém, để lại cho quốc gia nhận nó một đồng tiền sụt giá và hệ thống ngân hàng lung lay. Vòng đàm phán thương mại Uruguay đã củng cố quyền sở hữu trí tuệ, trao cho các công ty dược phẩm phương Tây đã quyền ngăn chặn việc Ấn Độ và Brazil "sao chép" những công thức sản xuất dược phẩm của họ. Những những công ty dược phẩm tại các nước thứ ba đã và đang sản xuất ra nhưng liều thuốc cứu cánh cho nhân dân họ với một mức giá chỉ bằng những số lẻ trong mức giá thuốc mà các nước phương Tây sản xuất ra và bán sang nước họ. Vậy là có hai kết quả thu được từ vòng đàm phán Uruguay. Lợi nhuận cho các nhà tư bản phương Tây. Những người ủng hộ quyền sở hữu trí tuệ lập luận rằng việc bảo vệ bản quyền, gắn liền với nó là lợi nhuận độc quyền, sẽ là một động lực thúc đẩy các công ty đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và đưa ra nhiều phát minh và sáng kiến mới trong sản xuất. Nhưng lợi nhuận thu được từ việc bán dược phẩm sang các nước đang phát triển ko nhiều. Với mức giá quá cao như thế, các nước này ko thể đủ nguồn tài chính, và kết quả là động lực lợi nhuận cũng bị giảm đi.
Mặt khác, hàng ngàn con người đang trên nằm giữa ranh giới sống và chết vì chính phủ các nước thứ ba cũng như bản thân họ ko đủ khả năng tài chính cho những liều thuốc đắt tiền từ các nước phát triển. Trong việc ngăn chặn thảm hoạ AIDS, các công ty dược phẩm phương Tây đã vấp phải làn sóng phản đối, buộc giảm giá thuốc xuống mức giá thành sản xuất vào cuối năm 2001. Tuy nhiên, bản chất của vấn đề ở chỗ quyền sở hữu trí tuệ được "xây dựng" trên quan điểm của nhà sản xuất, mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất hơn là cho người tiêu dùng ngay cả ở những nước phát triển, chứ đừng nói gì đến nước đang phát triển.
Những nỗ lực vì "một thế giới tốt hơn" của quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại dường như mang lại toàn kết quả trái với mong đợi. Khi các dự án được đưa ra cho các nước thứ ba ko đạt được kết quả như mong đợi, dù là trong lĩnh vực nông nghiệp hay đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, dù do các chuyên gia từ các nước phương Tây phác thảo, và tất nhiên nguồn tài chính cũng từ những nước này, các nước thứ ba vẫn sẽ phải hoàn trả lại vốn vay, trừ phi đó là khoản viện trợ ko hoàn lại.
Trong nhiều tình huống, lợi ích của toàn cầu hoá đã được các nước phương tây thổi phồng lên và cái giá phải trả cho tiến trình này là rất cao, ví dụ điển hình là môi trường sinh thái bị huỷ hoại, khủng hoảng chính trị hay văn hoá quốc gia bị biến dạng ko thể kip thay đổi kịp theo mức thay đổi quá nhanh của xã hội. Những cuộc khủng hoảng liên tiếp đưa các nước này rơi vào mức thất nghiệp cao, với kết quả trong dài hạn là bất ổn xã hội, điển hình từ những cuộc bạo loạn ở Nam Mỹ đến những cuộc chiến chủng tộc ở nhiều quốc gia trên thế giới, như tại Indonesia.
Điều này thật ra chẳng có gì là mới mẻ nhưng sự phản đối mạnh mẽ ngày càng tăng trên toàn cầu chống lại các chính sách toàn cầu hoá mới là sự thay đổi đáng chú ý. Trong hàng thập kỷ, sự kêu cứu của nguời nghèo châu Phi chẳng bao giờ đưọc biết đến ở Phương Tây. Những nguời lao động ở các nưóc đang phát triển biết chắc rằng có điều gì đó sai lầm đã diễn ra khi họ chứng kiến các cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên thường xuyên và số nguời nghèo ngày càng tăng thêm. Nhưng họ chẳng có cách nào để thay đổi các luật lệ và chính sách, cũng không có cách nào tác động đến những tổ chức quốc tế đã viết ra chúng. Những nguời quan tâm đến quá trình dân chủ cũng thấy rõ những "điều kiện" mà những nhà tài trợ quốc tế áp đặt để đổi lấy sự trợ giúp đã can thiệp vào chủ quyền quốc gia như thế nào. Nhưng cho đến khi những nguời chống đối toàn cầu hoá xuống đường, chẳng có hi vọng nào về sự thay đổi, chẳng có tổ chức nào lắng nghe để mà phàn nàn. Một số ngưòi chống đối đã trở nên cực đoan, một số đòi tăng hàng rào bảo hộ mậu dịch chống lại các nước đang phát triển, điều sẽ làm cho hoàn cảnh khốn khó của họ tồi tệ thêm. Nhưng mặc cho những vấn đề đó, những nhà hoạt động công đoàn, sinh viên, các nhà hoạt động môi trường - những công dân bình thường - đã tuần hành trên các đường phố ở Praha, Seattle, Washinton và Genoa yêu cầu cải cách lịch trình và hướng đi của toàn cầu hoá.
Những nguời chống đối nhìn toàn cầu hoá bằng con mắt khác với Bộ trưởng tài chính Mỹ, hay bộ trưởng tài chính, thương mại của hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến. Sự khác biệt lớn đến nỗi, nguời ta đôi khi phải tự hỏi, có phải những nguời chống đối và các quan chức đang nói về cùng một vấn đề? Họ có cùng dựa vào một dữ liệu? Hay liệu quan điểm của những nguời quyết định bị che phủ bởi những lợi ích cụ thể nào đó?
Cái vấn dề nào của toàn cầu hoá đã và đang là chủ đề của sự bàn cãi, với cả sự tán dương và lời lăng mạ? Về cơ bản, đó chính là quá trình hội nhập của các quốc gia và các cá nhân, cái quá trình đã đem đến chi phí thấp cho giao thông liên lạc, đã xoá bỏ các hàng rào lưu thông hàng hoá, dịch vụ, vốn, tri thức và ở một mức độ thấp hơn, giao lưu giữa con nguời xuyên quốc gia. Toàn cầu hoá đi kèm với sự hình thành các tổ chức mới cùng với các tổ chức dã có hoạt động ở đa quốc gia. Trên diễn đàn xã hội quốc tế, những tổ chức mới, chẳng hạn như phong trào Jubilee thúc đẩy quá trình giảm nợ cho các nưoc nghèo nhất, đã hợp tác cùng với các tổ chức có từ lâu đời như Hội chữ thập đỏ quốc tế. Toàn cầu hoá cũng được thúc đẩy bởi các công ty đa quốc gia, di chuyển không chỉ vốn và hàng hoá mà cả công nghệ đi khắp toàn cầu. Toàn cầu hoá cũng đưa đến sự quan tâm nhiều hơn tới các tổ chức liên chính phủ như: Liên hợp quốc, tổ chức có chức năng gìn giữ hoà bình; Tổ chưc lao động quốc tế, cơ quan được thành lập năm 1919 và đang hoạt động khắp thế giới với khẩu hiệu "việc làm tử tế" (decent work - từ này khó dịch quá); và Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cơ quan đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều kiện y tế ở các nước đang phát triển
Những ưu điểm của tiến trình toàn cầu hoá đã được hầu hết các nước công nhận và tiếp thu. Ko ai muốn chứng kiến những đứa con yêu quý của mình chết vì bệnh tật hay đói khi hoàn toàn có thể tìm thấy thuốc men và kiến thức từ những nơi khác trên thế giới. Những khía cạnh gây tranh cãi nhiều nhất về toàn cầu hoá nằm ở ý nghĩa kinh tế của tiến trình này cũng như về những thể chế quốc tế đưa ra luật lệ, chẳng hạn như để thúc đẩy quá trình tự do hoá thị trường vốn (hạn chế các luật lệ và việc quản lý của các nước đang phát triển trong việc kiểm soát các nguồn tài chính chảy ra vào quốc gia họ).
Để hiểu được điều nhầm lẫn gì đã xảy ra, chúng ta cần tìm hiểu về 3 thể chế chính được coi là đang điều khiển quá trình toàn cầu hoá: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới WB, và tổ chức thương mại thế giới WTO. Thêm vào đó, chúng ta còn tìm thấy nhiều tổ chức quốc tế khác đang dự phần vào hệ thống kinh tế toàn cầu - những ngân hàng khu vực, có liên hệ mật thiết với WB, những tổ chức của Liên Hiệp Quốc, ví dụ như chương trình phát triển Liên hiệp quốc hay là hội nghị thương mại và phát triển Liên hiệp quốc UNCTAD. Những tổ chức này thường đưa ra những quan điểm tương đối khác biệt so với quan điểm của IMF cũng như WB. Ví dụ như ILO đưa ra nhận định về tầm nhìn hạn chế của IMF dành cho quyền lợi của người lao động, trong khi ngân hàng phát triển châu á lại ủng hộ "cạnh tranh nhiều phía" (competitive pluralism - khó dịch quá) trong khi các các nước đang phát triển lại được tiếp cận với những mô hình và chiến lược phát triển khác, kiểu "Mô hình Á châu" - trong đó chính phủ, dù ít nhiều dựa vào thị trường, nhưng vẫn có một vai trò tích cực trong việc tạo lập và điểu khiển thị trường, bao gồm cả những hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ, và các công ty cũng như doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo lợi ích xã hội cho lao động của họ. Mô hình này thể hiện rõ quan điểm khác biệt của Ngân hàng Á Châu so với mô hình Mỹ do các định chế quốc tế đặt trụ sở tại Washinton đưa.
Trong cuốn sách này, tôi sẽ chủ yếu tập trung phân tích vai trò của IMF và WB vì hai tổ chức này hiện nay đang là trung tâm của hầu hết các vấn đề kinh tế quốc tế trong hai thập kỷ vừa qua, kể cả những vấn đề liên quan đến vai trò của hai tổ chức này trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và quá trình chuyển đổi kinh tế của các nước cộng sản sang nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế đều được thành lập sau thế chiến II, là kết quả của hội nghị quốc tế về tài chính và tiền tệ Bretton Woods tại New Hampshire, Hoa Kỳ tháng 7 năm 1944. Hai tổ chức này được thành lập với mục tiêu ban đầu là tái thiết Châu Âu sau thế chiến và hướng tới mục tiêu đảm bảo thế giới ko chìm đắm trong khủng hoảng như thời kỳ Đại Khủng Hoảng những năm 30s. Ngân hàng thế giới được thành lập lúc đó với tên Ngân hàng tái thiết và phát triển Châu Âu, phản ánh thực tế mục tiêu ban đầu: tái thiết châu Âu. Cái đuôi "Phát triển" được thêm vào sau đó. Tại thời điểm đó, các quốc gia đang phát triển vẫn còn là thuộc địa của phương Tây, và những mẫu quốc tự nhận trách nhiệm về việc phát triển kinh tế của những nước thuộc địa này.
Trọng trách khó khăn hơn là làm thế nào đảm bảo được sự ổn định kinh tế toàn cầu được giao cho IMF. Những nguời tham gia hội nghị Bretton Woods còn nhớ như in cuộc đại suy thoái của những năm 1930. Gần ba phần tư thế kỷ trước đây, chủ nghĩa tư bản đã lâm cuộc khủng hoảng lớn nhất tính đến thời điểm này, nó lan tràn khắp thế giới và gây ra sự gia tăng thất nghiẹp chưa từng có. Vào thời điểm tồi tệ nhất, một phần tư lực lượng lao động Mỹ thất nghiệp. Nhà kinh tế học người Anh, John Maynard Keynes, nguời sau này đã đóng vai trò quan trọng tại hội nghị Bretton Woods, đã đưa ra một lời giải thích đơn giản và một nhóm giải pháp cũng đơn giản: sự thiếu tổng cầu đã gây ra sự suy giảm kinh tế; chính sách của chính phủ có thể giúp làm tăng tổng cầu. Trong những trường hợp mà chính sách tiền tệ không tỏ ra hiệu quả, chính phủ có thể dựa vào chính sách tài khoá, hoặc tăng chi tiêu chính phủ, hoặc cắt giảm thuế. Mặc dù những mô hình đằng sau phân tích của Keynes về sau bị chỉ trích và được cải tiến nhằm đem đến hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên nhân tại sao thị trường không phản ứng kịp thời để điều chỉnh nền kinh tế tới trạng thái toàn dụng nhân công, những bài học cơ bản trên vẫn còn giá trị.
Quĩ tiền tệ quốc tế đã được giao nhiệm vụ ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng toàn cầu xảy ra. Nó làm điều này bằng cách gây sức ép quốc tế lên các nước không hoàn thành phần nghĩa vụ của nó nhằm duy trì mức tổng cầu toàn thế giới , nghĩa là để cho nền kinh tế của nước đó rơi vào suy thoái. Khi cần thiết quĩ này cũng cung cấp thanh khoản (liquidity) dưới dạng khoản vay cho các nước đang gặp suy thoái kinh tế và không có khả năng kích thích tổng cầu bằng nguồn nội địa.
Theo ý niệm ban đầu, IMF được thành lập dựa trên nhận thức rằng thị trường thường hoạt động không hoàn hảo - rằng nó có thể gây ra thất nghiệp hàng loạt và có thể thất bại trong việc cung cấp nguồn vốn cho các nước để giúp phục hồi nền kinh tế. IMF đuợc thành lập với niềm tin rằng cần thiết phải có sự phối hợp hành động ở qui mô toàn cầu nhằm duy trì sự ổn định kinh tế, cũng giống như Liên hợp quốc đã đuợc thành lập với niềm tin rằng có sự cần thiết phối hợp hành động nhằm duy trì ổn định chính trị. IMF là một tổ chức công, thành lập nhờ vào tiền của nguời đóng thuế trên toàn cầu. Điều này rất quan trọng và đáng nhắc đến bởi vì IMF không hề báo cáo trực tiếp hoạt động của nó tới những nguời đóng thuế nuôi nó cũng như những nguời chịu ảnh hưởng tác động của IMF. Thay vào đó, nó báo cáo hoạt động với bộ tài chính và ngân hàng trung ương các nước. Những bộ và ngân hàng này thực thi quyền kiểm soát IMF thông qua một cơ chế bỏ phiếu phức tạp dựa chủ yếu trên sức mạnh kinh tế của các quốc gia vào thời điểm sau thế chiến thứ II. Mặc dù có một vài điều chỉnh nhỏ từ đó đến nay, các nước phát triển vẫn đóng vai trò chính điều hành IMF, trong đó chỉ có Mỹ là có quyền phủ quyết (trên khía cạnh này, nó cũng giống với Liên hợp quốc, trong đó sức mạnh quá khứ quyết định ai có quyền phủ quyết - các quốc gia thắng trận sau thế chiến thứ II - nhưng ít nhất quyền phủ quyết được chia sẽ bởi 5 nước).
Qua thời gian kể từ khi nó ra đời, IMF đã thay đổi. Được thành lập trên cơ sở niềm tin rằng thị trường thường là không hoàn hảo, giờ đây nó lại quay sang sốt sắng cổ vũ cho sự thắng lợi của chủ thuyết thị trường tự do. Được thành lập trên niềm tin rằng cần có áp lực quốc tế lên các quốc gia theo đuổi những chính sách kinh tế tiền tệ - tài khoá mở rộng (expansionary) - chẳng hạn như tăng chi tiêu, giảm thuế, hay hạ lãi suất nhằm kích thích nền kinh tế - ngày nay, IMF thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước thực hiện các chính sách tiền tệ, tài khoá khắc khổ: như cắt giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, hoặc tăng lãi suất gây ra sự thu hẹp nền kinh tế. Keynes chắc rằng chẳng thể nằm yên trong mồ nếu biết những gì đã xảy ra với "đứa con" của ông (IMF - ND).
Sự thay đổi lớn nhất của các tổ chức quốc tế này đã xảy ra vào những năm 1980, khi mà tổng thống Mỹ Ronald Reagan và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher cổ vũ cho tư tưởng thị trường tự do ở Anh và Mỹ. IMF và Ngân hàng thế giới trở thành những cơ quan "truyền giáo", qua đó những quan điểm tự do thị trường được áp đặt lên các nước nghèo cần đến những khoản vay và tài trợ. Bộ tài chính các nước nghèo buộc phải trở thành những "kẻ cải đạo" (converts) nếu cần thiết để nhận đuợc khoản cho vay, mặc dù hầu hết các quan chức chính phủ khác, và hơn thế, nhân dân ở các quốc gia này vẫn nhìn IMF và Ngân hàng TG với con mắt nghi ngờ. Vào đầu thập kỷ 80, đã có một "cuộc thanh lọc" xảy ra ngay trong lòng của Ngân hàng thế giới, trong bộ phận nghiên cứu, cơ quan chỉ đạo chính sách và đường lối của Ngân hàng này. Hollis Chenery, một trong những nhà kinh tế học phát triển có tiếng nhất, một giáo sư đại học Harvard đã có rất nhiều công trình đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế học phát triển và các lĩnh vực kinh tế khác, là bạn tâm tình và nhà tư vấn cho Robert McNamara, nguời được bổ nhiệm làm chủ tịch Ngân hàng Thế giới vào năm 1968. Chứng kiến cảnh nghèo đói ở những quốc gia thế giới thứ 3, McNamara đã chuyển hướng lãnh đạo Ngân hàng sang mục tiêu xoá đói giảm nghèo và Chenery đã tập hợp một nhóm các nhà kinh tế hàn đầu từ khắp thế giới về làm việc cho ngân hàng. Với sự thay đổi người bảo trợ (the guard - có lẽ là tổng thống và thủ tướng ở Mỹ và Anh - ND), là sự thay đổi chủ tịch mới năm 1981, William Clausen và nhà kinh tế trưởng mới Ann Krueger, một chuyên gia về thương mại quốc tế và nổi tiếng với các công trình về "rent seeking" (từ này tớ chưa biết dịch - ND) - chỉ rõ làm thế nào thuế và các công cụ bảo hộ mậu dịch khác được sử dụng để đem lợi cho một số người trên thiệt hại của nhữg nguời khác. Trong khi Chenery và các nhóm của ông tập trung vào nghiên cứu thất bại thị trường ở các nước đang phát triển và chính phủ có thể làm gì để hỗ trợ thị trường và giảm nghèo thì Krueger lại xem chính phủ chính là nguồn gốc của vấn đề. Và do đó, thị trường tự do mới là giải pháp cho các vấn đề của các nước đang phát triển. Với sự thắng thế của hệ tư tưởng mới, nhiều nhà kinh tế học hàng đầu mà Chenery mời về cộng tác đã rời Ngân hàng.
Mặc dù nhiệm vụ của IMF và Ngân hàng Thế giới vẫn khác nhau, từ thời điểm đó, các hoạt động của hai tổ chức này ngày càng xen lẫn vào nhau. Vào những năm 1980, Ngân hàng thế giới đã mở rộng hoạt động cho vay không chỉ cho các dự án (như cầu đường) mà cung cấp hộ trợ trên nhiều lĩnh vực, dưới tên gọi "các khoản cho vay điều chỉnh cơ cấu" (structural adjusment loans); nhưng nó lại chỉ cho vay nếu như có sự chấp thuận của IMF và để được chấp thuận, IMF áp đặt điều kiện lên các quốc gia. Nhiệm vụ của IMF tập trung vào vấn đề khủng hoảng, nhưng các nuớc đang phát triển thì thường xuyên cần sự giúp đỡ, nên IMF đã trở thành một phần cuộc sống trong hầu hết các nước đang phát triển/
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin tạo ra một đấu trường mới cho IMF: thúc đẩy và hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở các nước Liên Xô cũ và các nước trong khối xã hội ch ủ ngh ĩa ở Châu Âu. Và cho đến gần đây hơn, khi mà các cuộc khủng hoảng bùng nổ với qui mô ngày càng lớn mà thậm chí ngân sách của IMF tỏ ra không đủ đáp ứng, Ngân hàng Thế giới được gọi vào cuộc cung cấp hàng chục tỷ đô la trợ giúp khẩn cấp, với tư cách là đối tác hỗ trợ cho IMF (junior partner) dưới sự hướng dẫn của IMF. Về nguyên tắc, có sự phân chia công việc giữa hai tổ chức này. IMF sẽ tập trung vào những vấn đề kinh tế vĩ mô của các quốc gia, như thâm hụt ngân sách chính phủ, chính sách tiền tệ, lạm phát, thâm hụt thương mại và vay nợ nước ngoài; và Ngân hàng thế giới sẽ chịu trách nhiệm về các vấn đề cơ cấu (structural issues) - chẳng hạn, chính phủ tiêu tiền vào việc gì, hệ thống tài chính, thị trường lao động và chính sách thương mại. Nhưng IMF đóng vai trò quyết định (imperialistic) bởi vì hầu hết các vấn dề cơ cấu có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế và do đó, ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại, và do đó, IMF cảm thấy dường như tất cả mọi vấn đề đều nằm trong quyền quản lý của mình. Thường thì IMF không thể kiên nhẫn nổi với Ngân hàng Thế giới nơi mà thậm chí trong những thời kỳ hệ tư tưởng kinh tế thị trường tự do thống trị và thắng thế, luôn có những cuộc tranh luận rằng chính sách nào sẽ phù hợp nhất với các điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. IMF thì luôn có câu trả lời (về cơ bản là giống nhau cho mọi nước) và không thấy cần thiết phải thảo luận trong khi ngược lại, Ngân hàng thế giới luôn tranh luận xem nên làm cái gì và tìm cách đưa ra câu trả lời tốt nhất.
Hai tổ chức này lẽ ra có thể đưa ra lời khuyên và trợ giúp ở những góc độ khác nhau với các quốc gia đang phát triển và đang chuyển đổi và bằng cách đó họ đã có thể đẩy mạnh các quá trình dân ch ủ. Nhưng cả hai lại bị điều khiển bởi ý chí của các nước G-7 (chính phủ của 7 nước công nghiệp tiên tiến quan trọng nhất), và đặc biệt là các bộ trưởng tài chính những nước này và những điều mà họ ít muốn nhất, là sự thảo luận dân chủ và sôi nổi về các chiến lược khác nhau
Hơn một nửa thế kỷ kể từ khi thành lập, rõ ràng là IMF đã thất bại trong các sứ mệnh của mình. Nó đã không làm cái mà nó được kỳ vọng làm: cung cấp trợ giúp tài chính cho các nưóc gặp khó khăn kinh tế nhằm làm cho những nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng nhân công. Mặc cho nhận thức của chúng ta về các quá trình kinh tế đã tiến bộ rất nhiều trong vòng 50 năm qua, và mặc cho những nỗ lực của IMF trong một phần tư thế kỷ quả, khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và (không tính đến cuộc đại suy thoái) ngày càng khốc liệt. Bằng một vài tính toán, có thể thấy là gần một trăm nước đã từng phải đối mặt với khủng hoảng. Tồi tệ là, khá nhiều chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là quá trình tự do hoá thị trưòng tài chính quá sớm, đã đóng góp vào sự bất ổn định toàn cầu. Và khi một nước bị khủng hoảng, các trợ giúp và chương trình của IMF không chỉ thất bại trong việc ổn định tình hình mà trong nhiều trường hợp còn làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là đối với nguời nghèo. IMF đã thất bại trong nhiệm vụ chính của nó là thúc đẩy sự ổn định toàn cầu; nó cũng không thành công hơn trong những nhiệm vụ mới mà nó đảm nhiệm, chẳng hạn hướng dẫn và trợ giúp quá trình chuyển đổi của các nước xã hội ch ủ ng hĩa cũ sang kinh tế thị trường.
Thoả thuận Bretton Woods cũng kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ ba: Tổ chức Thương mại Thế giới để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế, một công việc tương tự như IMF quản lý quan hệ tài chính quốc tế. Nguời ta cho rằng những chính sách thương mại theo kiểu cạnh tranh không lành mạnh (beggar-thy-neighbor), trong đó các nước tăng thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ nền kinh tế nội địa là nguyên nhân gây ra sự lan tràn của suy thoái kinh tế và mức độ nghiêm trọng của nó. Một tổ chức thương mại quốc tế là cần thiết để không chỉ ngăn ngừa điều đó tái diễn mà còn thúc đẩy sự lưu chuyển tự do của hàng hoá và dịch vụ. Mặc dầu Thoả thuận chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) thành công trong việc giảm đáng kể hàng rào thuế nhập khẩu, việc đi đến một hiệp ước cuối cùng thật khó khăn và cho đến tận năm 1995, một nửa thế kỷ sau cuộc đại suy thoái, tổ chức Thương mại thế giới WTO mới ra đời. Nhưng WTO hoàn toàn không giống với hai tổ chức quốc tế đã nói ở trên (IMF và WB). Nó không tự xác lập những qui định của riêng mình, thay vào đó, nó tạo ra một diễn đàn trong đó các thoả thuận thương mại diễn ra và bảo đảm những thoả thuận đó được thực hiện.
Những ý tưởng và dự định nằm sau sự hình thành các tổ chức quốc tế là tốt đẹp, nhưng dần dần qua thời gian nó đã bị biến dạng thành những thứ khác hoàn toàn. Những định hướng hoạt động kiểu Keynes cho IMF trong đó nhấn mạnh đến những thất bại thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã bị thay thế bởi tư tưởng thị trưòng tự do của những năm 1980, một phần của cái gọi là "Thoả thuận Washinton" (Washinton Consensus), một sự thoả thuận giữa IMF, Ngân hàng thế giới và bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng" cho các nước đang phát triển, đánh tín hiệu về một cách tiếp cận hoàn toàn khác đối với sự ổn định và phát triển kinh tế.
Khá nhiều những ý tưởng nằm trong cái thoả thuận mới này đã được hình thành từ việc đối phó với những vấn đề của Mỹ Latinh, nơi các chính phủ thường mất kiểm soát với chi tiêu ngân sách trong khi lại thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng và kéo theo đó, hậu quả là lạm phát. Sự tăng trưởng nhanh của một vài quốc gia trong khu vực này sau chiến tranh thế giới II đã không kéo dài và thường bị cho là do sự can thiệp quá mức của nhà nước. Nhưng những giải pháp được xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của Mỹ latinh, những giải pháp tôi sẽ trình bày ở phần sau của cuốn sách, sau đó lại đuợc cho là thích hợp với mọi quốc gia trên thế giới. Tự do hoá thị trường tài chính đưọc thúc đẩy mặc dù không có một bằng chứng nào cho thấy điều đó giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều trường hợp khác, những chính sách kinh tế theo kiểu "thoả thuận Washinton" được đưa ra cho các nưóc đang phát triển đã tỏ ra không thích hợp với những nước đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, hay chuyển đổi kinh tế.
Hãy lấy một vài ví dụ. Hầu hết các nước công nghiệp phát triển, bao gồm cả Mỹ và Nhật Bản, đã xây đựng nền kinh tế của họ bằng cách bảo hộ một cách khôn khéo và có lựa chọn các ngành công nghiệp cho đến khi chúng đủ mạnh để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong khi bảo hộ khong hoàn toàn là có lợi với các nưóc áp dụng, tự do hoá thương mại cũng vậy. Việc bắt một nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh với với các sản phẩm nội địa trong những ngành công nghiệp còn non nớt và dễ tổn thương có thể gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Thất nghiệp là không tránh khỏi - nông dân nghèo ở các nước đang phát triển không thể noà cạnh tranh nổi với những sản phẩm được trợ cấp từ Mỹ và Châu Âu - trước khi khu vực công nông nghiệp phát triển đủ mạnh để tạo ra việc làm mới. Thậm chí, tồi tệ hơn, sự ngoan cố của IMF đòi các nưóc dang phát triển phải thắt chặt chính sách tiền tệ đẩy lãi suất lên cao đến mức việc tạo ra việc làm mới khó xảy ra ngay cả trong những điều kiện tốt nhất. Và bởi vì tự do hoá thương mại diễn ra trong khi mạng lưới an sinh (safety nets) chưa hình thành, những nguời mất việc sẽ bị đẩy vào cảnh nghèo đói túng quẫn. Tự do hoá, vì thế chẳng đem lại sự tăng trưởng hứa hẹn mà thay vào đó là sự gia tăng khốn khổ. Và kể cả những nguời không mất việc cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi trạng thái bất ổn và lo lắng (insecurity) ngày càng tăng.
Kiểm soát chu chuyển vốn (capital control) là một ví dụ khác: Các nước châu Âu đã làm điều này cho tới tận những năm 1970s. Một số nguời có thể cho rằng thật không công bằng khi bắt những nước đang phát triển phải mở cửa thị trường với những rủi ro của hệ thống ngân hàng. Nhưng không kể đến vấn đề công bằng, thì đó cũng là một lý luận kinh tế tồi (bad economics): sự lưu chuyển tiền vào và ra các nước diễn ra với tần suất quá lớn chỉ tạo ra sự phá hoại. Các nuớc đang phát triển nhỏ bé cũng giống như những con thuyền nhỏ, còn quá trình tự do hoá thị trường tài chính chóng mặt, theo cái cách của IMF, chẳng khác nào bắt con thuyền nhỏ đó phải tham gia vào cuộc hành trình trên biển lớn truớc khi những lỗ hổng trên thân thuyền được sửa chữa, trước khi thuyền trưởng được đào tạo, và trước khi phao cứu sinh được chuẩn bị. Thậm chí con thuyền đó có thể bị lật đổ khi bị vùi dập bởi những con sóng lớn.
Sự áp đặt những lý thuyết kinh tế sai lầm đáng lẽ sẽ không gây hậu quả lớn đến thế nếu như sự chấm dứt của chủ ngh ĩa thực dân kiểu cũ và tiếp đó là của chủ ngh ĩa cộ ng s ản không tạo cho IMF và Ngân hàng thế giới cơ hội mở rộng quyền lực và kéo dài tầm với của mình. Ngày nay, hai tổ chức này trở thành những tổ chức thống trị nền kinh tế thế giới. Không chỉ những nuớc cần đến sự trợ giúp mới phải nhờ tới chúng mà cả những nguời cần đến "con dấu chấp nhận" (seal of approval) của hai tổ chức này để có thể tiếp cận thị trường vốn quốc tế cũng phải tuân theo những "bài thuốc" kinh tế của họ, những bài thuốc phản ánh những tư tưởng và lý thuyết kinh tế thị trường tự do.
Hậu quả mà nhiều nguời phải gánh chịu là nghèo đói, và nhiều nước phải gánh chịu là mất ổn định kinh tế chính trị. IMF đã mắc sai lầm trong tất cả những lĩnh vực mà nó tham gia: phát triển, chống khủng hoảng; và trong các nền kinh tế chuyển đổi từ cộ ng sả n sang thị trường. Các chương trình cho vay điều chỉnh cơ cấu không đem lại tăng trưởng bền vững, thậm chí với cả các nước, như Bôlivia, tuân thủ chặt chẽ mọi yêu cầu; ở nhiều nước, chính sách thắt lưng buộc bụng đã cản trở tăng trưởng; các chương trình kinh tế thành công đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ trình tự và nhịp độ của đổi mới. Nếu chẳng hạn thị trường đuợc mở cửa cho tự do cạnh tranh quá sớm, trước khi các tổ chức tài chính được xác lập, việc làm mới được tạo ra sẽ ít hơn số mất đi. Ở nhiều nước, những sai lầm trong trình tự và nhịp độ đổi mới đã dẫn đến thất nghiệp gia tăng và nghèo đói gia tăng. Sau cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997, chính sách của IMF đã đổ dầu vào lửa khủng hoảng ở Thái lan và Indonesia. Các cải cách kiểu thị trường tự do ở Mỹ latin cũng có đem lại một vài thành công - Chilê là một trường hợp thường xuyên đuợc nhắc đến - nhưng hầu hết phần còn lại của lục địa này đã bị nhấn chìm trong một thập kỷ mất mát (lost decade - dịch hơi thô cho sát từ gốc) theo sau cái gọi là chương trình cứu giúp "thành công" của IMF vào đầu những năm 1980s, và ngày nay, nhiều nước trong số đó vẫn còn phải chịu tình trạng thất nghiệp cao kinh niên - ở Argentina chẳng hạn, là hai con số từ năm 1995 - thậm chí cả khi lạm phát đã được đẩy lui. Sự sụp đổ của Argentina trong năm 2001 là một trường hợp trong cả chuỗi thất bại trong vài năm qua. Với tỷ lệ thất nghiệp cao chót vót trong vòng gần 7 năm như vậy, điều đáng băn khoăn không phải là việc dân chúng cuối cùng cũng nổi loạn mà là việc họ đã phải chịu đựng âm thầm quá nhiều và quá lâu. Kể cả những nước có đuợc một chút tăng trưởng cũng thấy rõ là những lợi ích chủ yếu tích tụ trong tay người giầu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu, khoảng 10 phần trăm giàu nhất, trong khi nghèo đói vẫn hoành hành và thậm chí trong một số trường hợp, thu nhập của những nguời dưới đáy còn thụt giảm.
Nằm đằng sau những vấn đề của IMF và các tổ chức quốc tế khác là vấn đề quản trị (governance): Ai quyết định những gì các tổ chức này thực hiện. Những tổ chức này không chỉ bị điều khiển bởi các nước công nghiệp giàu có nhất mà còn bởi những lợi ích thương mại và tài chính ở các nước đó, và những chính sách của các tổ chức quốc tế, một cách tự nhiên, phản ánh những lợi ích này. Sự lựa chọn nguời lãnh đạo các tổ chức này biểu tượng hoá những vấn đề của chúng, và thường đóng góp vào sự hoạt động yếu kém. Trong khi hầu hết tất cả các hoạt động của IMF và ngân hàng thế giới ngày nay là ở các nước đang phát triển (tất nhiên, tất cả các khoản vay của chúng), chúng lại đưọc điều hành bởi những đại diện của các quốc gia công nghiệp. (Theo tập quán, hay một sự thoả thuận ngầm, chủ tịch của IMF luôn là một người Âu và chủ tịch của Ngân hàng thế giới là nguời Mỹ). Họ được lựa chọn dằng sau cánh cửa đóng kín, và chưa bao giờ là điều kiện tiên quyết rằng ngài chủ tịch phải có bất kỳ một kinh nghiệm nào ở các nước đang phát triển. Các tổ chức này không phải là đại diện cho các nước mà nó phục vụ.
Vấn đề còn nằm ở chỗ, ai là người đại diện cho tiếng nói quốc gia. Tại IMF, đó là các bộ trưởng tài chính, và thống đốc ngân hàng trung ương. Ở WTO, đó là các bộ trưởng thương mại. Mỗi một bộ trưởng này lại có quan hệ với những nhóm cử tri nhất định ở nước họ. Bộ trưởng thương mại sẽ thể hiện những mối quan tâm của cộng đồng kinh doanh - cả nhà xuất khẩu muốn mở cửa các thị trường mới cho hàng xuất và cả các nhà sản xuất phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Những bộ phận cử tri này tất nhiên muốn duy trì càng nhiều hàng rào thương mại càng tốt và xin càng trợ cấp ở mức cao nhất mà họ có thể thuyết phục quốc hội chuẩn y. Cái thực tế là các rào cản thương mại sẽ làm tăng giá cả mà nguời tiêu dùng phải trả hay trợ cấp là một gánh nặng đối với nguời đóng thuế chẳng đuợc quan tâm bằng lợi nhuận của nhà sản xuất - và những vấn đề về môi trường và lao động thậm chí còn ít được quan tâm hơn, thay vì coi những rào cản thương mại này như những vật cản cần phải vượt qua. Các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương thì lại gắn bó chặt chẽ với cộng đồng tài chính; họ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kỳ tại chính phủ, đó là nơi họ lại trở về. Robert Rubin, bộ trưởng tài chính Mỹ trong phần lớn khoảng thời gian đưọc đề cập trong cuốn sách này, xuất thân từ một ngân hàng đầu tư lớn nhất, Goldman Sachs, và sau khi rời chức vụ lại chuyển sang Citigroup, hãng sở hữu ngân hàng thương mại lớn nhất Citibank. Con nguời quyền lực thứ hai tại IMF trong thời kỳ này là Stanley Fischer đã chuyển thẳng từ IMF đến Citigroup sau khi nghỉ việc. Những cá nhân này một cách tự nhiên sẽ nhìn thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính. Những quyết định của bất kỳ tổ chức nào cũng phản ánh cách nhìn và lợi ích của những nguời ra quyết định, và không ngạc nhiên, như chúng ta sẽ thấy được nhắc đi nhắc lại ở các chương sau, chính sách của các tổ chức kinh tế quốc tế thường xuyên đi liền với lợi ích thương mại và tài chính của những nguời ở các quốc gia công nghiệp tiên tiến.
Đối với những nông dân ở các nước đang phát triển đang phải còng lưng làm việc trả các món nợ cho IMF hay những doanh nhân đang phải chịu đựng những khoản thuế giá trị gia tăng cao hơn theo yêu cầu khăng khăng của IMF, cái hệ thống hiện nay của IMF chẳng khác gì một hệ thống thuế khoá mà không có sự đại diện. (taxation without representation). Thất vọng với hệ thống toàn cầu hoá quốc tế duới triều đại của IMF tăng lên khi những dân nghèo ở Indonesia, Moroco hay Papua New Guinea bị cắt bỏ trợ cấp lương thực và chất đốt; hay những nguời Thái lan chứng kiến sự hoành hành của bệnh AIDS do kết quả của sự cắt giảm chi tiêu y tế dưới áp lực của IMF, và những gia đình ở nhiều nước đang phát triển phải trả tiền cho việc học hành của con cái, dưói cái gọi là những chương trình bảo đảm chi phí (cost recovery programs), dã phải chấp nhận một sự lựa chọn đau lòng là không gửi con gái họ tới trường.
Không còn có sự lựa chọn nào, không có cách nào để thể hiện nỗi bất bình của mình, để đòi hỏi sự thay đổi, họ nổi loạn. Đường phố, tất nhiên không phải là nơi để thảo luận, không phải là nơi hoạch định chính sách hay đưa ra những nhượng bộ. Nhưng những nguời phản đối đã buộc các quan chức chính phủ và những nhà kinh tế trên toàn thế giới phải suy nghĩ về những phương án khác thay cho những chính sách theo kiểu "thoả thuận Washinton" như là một cách dúng đắn để tăng trưởng và phát triển. Đã trở nên ngày càng rõ ràng, không chỉ với những người dân thường mà cả với các nhà hoạch định chính sách, không chỉ với những nguời ở các nước đang phát triển mà cả những ngưòi ở các nước phát triển, rằng toàn cầu hoá theo cái cách đã tiến hành không giống như những gì mà những nguời ủng hộ nó đã hứa hẹn - hay như những gì mà nó có thể làm và nên làm. Trong một số trường hợp, nó không đem lại tăng trưởng, nhưng khi nó đem lại tăng truởng thì nó cũng không đem lợi ích cho tất cả mọi nguời; kết quả cuối cùng của những chính sách kiểu "thoả thuận Washinton" thuờng là đem lại lợi ích cho một số ít ngưòi với cái giá là thiệt hại của nhiều nguời, lợi ích cho nguời giàu với cái giá phải trả của nguời nghèo. Nhiều khi, những lợi ích và giá trị thương mại đã lấn át những lo lắng về môi trường, sự dâ n ch ủ, quyền con nguời và công bằng xã hội.
Toàn cầu hoá bản thân nó không tốt hay xấu. Nó có sức mạnh để đem lại vô số điều tốt, và với các nước Đông Á, những nước đã vận dụng toàn cầu hoá "theo cách riêng mình", theo nhịp độ riêng mình, họ đã thu được nhiều lợi ích, bất chấp cả sự thụt lùi do cuộc khủng hoảng 1997 gây ra. Nhưng ở phần lớn các nơi khác, toàn cầu hoá không đem lại lợi ích tương xứng. Với nhiều nguời, thì nó gần giống như một thảm hoạ.

Kinh nghiệm của nước Mỹ trong thế kỷ 19 cũng tương tự như quá trình toàn cầu hoá ngày nay - và sự khác biệt giúp soi rọi những thành công của quá khứ và thất bại ngày nay. Vào thời điểm đó, khi mà chi phí giao thông và liên lạc giảm xuống và thị trường được mở rộng, nền kinh tế quốc gia mới được hình thành và với nền kinh tế quốc gia mới đó, các công ty quốc gia ra đời, hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Nhưng thị trường không bị để cho phát triển một cách tự phát, chính phủ đã đóng một vai trò quan trọng định hướng sự phát triển của thị trường. Chính phủ Mỹ đã có được quyền lực rộng rãi khi toà án bật đèn xanh từ một điều khoản trong hiến pháp cho phép chính quyền liên bang điều tiết thương mại liên tiểu bang. Chính phủ liên bang đã kiểm soát hệ thống tài chính, qui định mức lương và điều kiện làm việc tối thiểu, và cuối cùng là hệ thống phúc lợi và bảo hiểm thất nghiệp để giải quyết những vấn đề do hệ thống thị trường đặt ra. Chính phủ liên bang cũng thúc đẩy một số ngành công nghiệp (đường điện thoại đầu tiên, chẳng hạn, do chính phủ Mỹ xây dựng nối Baltimore và Washington năm 1842) và khuyến khích những ngành khác, như nông nghiệp, không chỉ giúp thành lập các trường đại học phục vụ cho nghiên cứu mà còn cung cấp các dịch vụ mở rộg cho để huấn luyện nông dân những kỹ thuật và côg nghệ mới. Chính phủ liên bang đã đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc thúc đẩy tăng trưởng. Thậm chí, nếu như nó không tham gia vào các chính sách phân phối lại tích cực, ít nhất nó cũng có những chương trình mà lợi ích của nó được chia sẻ rộng rãi - không chỉ những chương trình phổ cập giáo dục và nâng cao năng suất nông nghiệp mà còn chưong trình cấp đất, tạo ra cơ hội tối thiểu cho tất cả mọi người Mỹ.
Ngày nay, với chi phí giao thông liên lạc ngày càng giảm và sự dỡ bỏ các hàng rào do con nguời tạo ra đối với hàng hoá, dịch vụ và vốn (mặc dù vẫn còn có những rào cản với sự dịch chuyển nhân công), chúng ta có quá trình "toàn cầu hoá", tương tự như những quá trình trước đây khi các nền kinh tế quốc gia hình thành. Nhưng không may, chúng ta lại không có một chính phủ chung để chịu trách nhiệm với ngưòi dân ở mọi nước, để giám sát quá trình toàn cầu hoá theo cách giống như chính phủ quốc gia đã định hướng sự quá trình quốc gia hoá. Thay vào đó, chúng ta có một hệ thống có thể gọi là "quản lý toàn cầu mà không có chính phủ toàn cầu" (global governance without global government), một hệ thống mà trong đó một vài tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, IMF và WTO và một vài cá nhân - các bộ trưởng tài chính, thương mại có quan hệ chặt chẽ với các lợi ích tài chính thương mại, thống trị trong khi vô số người bị ảnh hưởng bởi các quyết định của họ bị bỏ mặc không thể có tiếng nói của mình. Đã đến lúc phải thay đổi các qui tắc chi phối trật tự kinh tế quốc tế, suy ngẫm lại về việc các quyết định đã được ban hành như thế nào ở cấp độ quốc tế - và vì lợi ích của ai - và hãy bớt coi trọng đến hệ tư tưởng mà hãy nhìn xem thực tế cái gì có hiệu quả. Điều quan trọng là những thành công của Đông Á cũng đạt được ở những nơi khác. Cái giá phải trả rất lớn nếu để tiếp diễn sự bất ổn định toàn cầu. Toàn cầu hoá có thể được định hướng lại, và khi đó, khi nó đi theo đúng hướng, và tất cả các nước đều có tiếng nói với những chính sách ảnh hưỏng đến họ, khả năng là nó sẽ giúp tạo ra một nền kinh tế toàn cầu mới trong đó tăng trưởng không chỉ bền vững hơn và ổn định hơn mà thành quả của nó cũng đưọc chia sẽ công bằng hơn.

(Hết chương I)
 
anh ơi, anh post cái này thì ý anh tức là toàn cầu hóa là xấu?
 
Mấy cái vụ phân tích này dài quá, dù ko khó hiểu nhưng đọc cũng ngại :)

Mình thì thấy tay Tony Blair hồi sang bên này phát biểu ngắn gọn mà sáng sủa, rõ ràng hơn: "Tôi muốn nói thật chân thành với quý vị rằng, làm một chính khách, ko gì dễ hơn là cứ bảo toàn cầu hóa là một cái gì đó tồi tệ lắm, phải tránh xa nó, để tránh mọi hậu họa. Nhưng, làm thế chả khác gì con đà điểu chúi đầu vào cát. Bởi lẽ, toàn cầu hóa đã hiện diện ở đây, đó là một thực tế. Từi lâu lắm rôi, câu hỏi đặt ra ko phải là chúng ta có chấp nhận hay ko toàn cầu hóa, mà là chún ta chuẩn bị để tiếp nhận nó như thế nào. Mà một nền kinh tế càng mở cửa bao nhiêu, thì nó càng được chuẩn bị tốt bấy nhiêu".

Sau đó là một vài ví dụ của nước Anh... khá hay nhưng ngại dịch và type quá :)

L.
 
Topic này sao xìu nhanh quá!
Ai quan tâm đến quyển của Stiglitz thì nên đọc thêm quyển In defense of Globalization của Jahdish Baghwati. 2 quyển đối nhau chan chát. Nói chung cả Stiglitz và Baghwati cùng ở Columbia nhưng hai ông có vẻ không phục nhau.
 
không có gì hoàn hảo cả, và mình công nhận là Globalization cũng có rất nhiều khuyết điểm.

Tuy nhiên, cho dù có biết, Việt Nam cũng không thể làm gì được (hay ít nhất 80-90 chục năm nữa, nếu đi đúng đường, và đi nhanh)

Thay vào đó, tại sao chúng ta không nghĩ xem làm sao mà tạo ra nhiều lợi ít nhất từ cái system này, vì dù muốn hay không, nó là 1 thực tế, và không ai có thể cản được, kể cả Mỹ hay Nhật.

Vì thế cho nên mình xin giới thiệu 2 quyển sách của Thomas Friedman, rất hay về việc tận dụng globalization để mà làm lợi cho 1 quốc gia, hay công ty:

The Lexus and the Olive Tree (cái này hình như cũng có phiên bảng TV rồi)
The World is flat (cái này thì mình cũng không biết có phiên bảng TV chưa)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Trần Thiên Phước đã viết:
Vì thế cho nên mình xin giới thiệu 2 quyển sách của Thomas Friedman, rất hay về việc tận dụng globalization để mà làm lợi cho 1 quốc gia, hay công ty:
The Lexus and the Olive Tree (cái này hình như cũng có phiên bảng TV rồi)
The World is flat (cái này thì mình cũng không biết có phiên bảng TV chưa)

"Thế giới phẳng" là bản Việt ngữ của "The World is flat", do TS Nguyễn Quang A cùng 2 đồng sự khác dịch. Báo chí Việt Nam có nhắc nhiều đến cuốn này, cả Mr Nguyễn Trung nữa. :)

Có bản PDF của cuốn (dịch) này rồi đấy, ở nhiều nơi...

L.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên