Tôi vẫn có hói quen hay góp nhặt những bài báo trên mạng. Lần này để góp vào ý đang bàn luận tui xin được post một bài báo trên trang web của bộ công nghiệp, tôi nghĩ bài báo này khá hay.
nguồn:
http://www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=9&id=901
Nâng cao sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
Sau ngày 1/1/2005, Hiệp định Dệt may Quốc tế (ATC) hết hiệu lực hoàn toàn. Điều này có nghĩa là các nước thành viên WTO sẽ không bị còn ràng buộc bởi hạn ngạch quy định tại các Hiệp đinh dệt may song phương với Hoa Kỳ. Đây thực sự là một thách thức to lớn đối với việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường thế giới nói chung, và thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Bởi đến thời điểm này, Việt Nam chưa trở thành thành viên của WTO và đương nhiên hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ vẫn bị áp đặt hạn ngạch theo Hiệp định Dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ, làm cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam mất hẳn lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm của nước khác, đặc biệt là sản phẩm của những nước đang phát triển.
Vì thế, Bộ Công nghiệp, Hiệp hội Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu cho sản phẩm của mình tại thị trường Hoa Kỳ, khi mà Việt Nam chưa trở thành thành viên của WTO và cả khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Với thực tiễn trên, để hoàn thành và vượt mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (trong đó có mục tiêu xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ) được đề ra trong chiến lược đầu tư tăng tốc ngành Dệt may Việt Nam mà Chính phủ đã phê duyệt đến năm 2005 và 2010, cần thực hiện các giải pháp sau:
Việt Nam cần nhanh chóng trở thành thành viên của WTO
Có thể khẳng định rằng, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có các sản phẩm dệt may. Đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, thị trường nhập khẩu hơn 2,2 tỷ USD hàng dệt may, chiếm tới gần 55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2004.
Gần 10 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm phán đa phương và song phương với WTO và các nước thành viên về hàng loạt các vấn đề như: minh bạch hoá các chính sách kinh tế, thương mại, cải cách hệ thống thuế quan, mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ... nhằm sớm trở thành thành viên của WTO vào năm 2005.
Để nhanh chóng trở thành thành viên của WTO trong năm 2005 thì trước hết WTO trong năm 2005 thì trước hết Việt Nam phải thể hiện quyết tâm mở cửa thị trường, nhanh chóng minh bạch hoá các chính sách thương mại, hoàn thiện hệ thống thuế và luật pháp phù hợp yêu cầu chung của WTO, chuẩn bị các cuộc đàm phán song phương và đa phương.
Trong khi Việt Nam chưa là thành viên của WTO, vấn đề trước mắt cần làm ngay là phải ký sớm việc gia hạn Hiệp định Dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm tiếp tục cung ứng sản phẩm cho các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ, đặc biệt là những khách hàng lớn, khách hàng trực tiếp để giữ vững và mở rộng thị trường trong tương lai, tích cực đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm không bị quy định hạn ngạch.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước cần nhanh chóng hợp tác chặt chẽ với nhau theo ngành dọc để tạo thành những tập đoàn dệt may lớn mạnh, đủ sức mạnh đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn. Cần phối hợp tốt việc phân công trách nhiệm theo thế mạnh của từng thành viên trong tập đoàn để không ngừng nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm.
Tập trung đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu
Khâu yếu nhất của ngành Dệt may Việt Nam hiện nay là sản xuất vải và nguyên phụ liệu phục vụ cho may xuất khẩu, đặc biệt là sản xuất vải dệt thoi, đây là sản phẩm mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhập khẩu nhiều nhất.
Thực tế hiện nay diện tích và năng suất tròng bông của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được từ 10 - 15% nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt may. Vì vậy, cần nhanh chóng phát triển mạnh mẽ vùng nguyên liệu bông, vùng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa thông qua các chính sách hỗ trợ cho nông dân về giống, phân bón,... và tiêu thụ 100% sản phẩm với mức giá hợp lý để người nông dân có thể tái sản xuất, nâng cao mức sống.., Trong năm 2005, phải trồng được 60.000 ha bông, thu hoạch được 30.000 tấn bông xơ, và tới năm 2010 phải phát triển diện tích gieo trồng tới 130.000 ha với sản lượng thu được là 95.000 tấn. Bên cạnh đó, cần phải kết hợp tốt phương thức 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước) trong việc phát triển diện tích vùng nguyên liệu và nâng cao năng suất, hoàn thiện quy trình sản xuất theo hướng khoa học và công nghiệp hoá. Cần nhanh chóng đầu tư sản xuất xơ tổng hợp, đầu tư thêm các nhà máy kéo sợ chất lượng cao, các loại sợi mới và vải dệt kim.
Nếu làm tốt được công tác trên, ngành Dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể đạt và vượt mục tiêu đáp ứng được 50% nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ cho sản xuất ngành may mặc vào năm 2005 và 70% vào năm 2010.
Giải pháp về đầu tư và chất lượng sản phẩm
Cần nhập khẩu những công nghệ thiết bị dệt may tiên tiến nhất hiện nay của thế giới phục vụ tốt cho các công đoạn in, nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Nghiên cứu nhập khẩu nguồn nguyên liệu vải mộc từ các nước có sẵn như Ấn Độ, Pakistan... từ đó sản xuất ra những sản phẩm vải cao cấp đáp ứng nhu cầu của ngành may. Đây là vấn đề quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh về mặt chất lượng cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ. Hơn nữa, việc Việt Nam sản xuất được những loại vải cao cấp, cùng với nhiều tổ hợp sản xuất lớn với công nghệ hiện đại, đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, ISO 14000 và SA 8000 sẽ thúc đẩy các hãng lớn của Hoà Kỳ với những thương hiệu nổi tiếng đến đặt hàng với số lượng lớn và lâu dài.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần thay đổi chiến lược kinh doanh của mình, từ cạnh tranh đơn thuần bằng nguồn lao động rẻ sang cạnh tranh bằng giá trị gia tăng (cạnh tranh về chất lượng và dịch vụ). Muốn vậy mỗi doanh nghiệp cần phải lựa chọn những sản phẩm nào của mình có khả năng cạnh tranh cao, chuyển dịch và tập trung chuyên môn hoá sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng vượt trội, đa tính năng. Kết hợp với việc xây dựng và tạo uy tín cho thương hiệu của doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm, tăng cường khả năng đáp ứng nhanh các lô hàng (lớn hay nhỏ) có yêu cầu thời gian giao hàng ngắn... nhằm đáp ứng thị hiếu ngày càng đa dạng của khách hàng Hoa Kỳ.
Nguồn nhân lực
Hiện nay, ngành Dệt may Việt Nam rất thiếu các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật công nghệ, nhất là khâu quản lý kỹ thuật công nghệ nhuộm hoàn tất và cán bộ nghiên cứu thị trường. Vì thế, mở rộng và thành lập thêm các trung tâm dạy nghề tại các địa phương (ít nhất mỗi tỉnh một trung tâm) nhằm ngày càng cung cấp cho ngành Dệt may Việt Nam một lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề vững vàng, có tác phong công nghiệp, phục vụ tốt cho việc sản xuất các mặt hàng dệt may đạt tiêu chuẩn xuất khẩu theo yêu cầu của từng thị trường..., mở từ 1 đến 2 trường đại học tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho riêng ngành dệt may nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, cán bộ nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mốt sản phẩm là vô cùng cần thiết.
Việc mở trường đào tạo cán bộ ở trình độ đại học và trên đại học tại các trung tâm dệt may lớn, trong đó dành nhiều thời gian thực tập (trong nước và ngoài nước) cho sinh viên sử dụng thành thạo công nghệ, làm quen dần với quy trình quản lý điều hành sản xuất công nghiệp, kết hợp hướng dẫn chuyên sâu công tác nghiên cứu thị trường theo đặc thù, thiết kế mẫu mốt phù hợp với xu hướng mẫu một và tư duy của nền kinh tế mở... sẽ tạo được một lực lượng lớn cán bộ trẻ, có năng lực tốt ở những lĩnh vực khác nhau của ngành Dệt may. Trong vòng 20 đến 30 năm nữa, Việt Nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ, đây là cơ sở để dòng đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển và các nước NICs đầu tư mạnh vào ngành Dệt may Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế về sức lao động.
(Nguồn: KTDB)