Nguyễn Công Trứ

Chu Anh Duy
(boytotbung)

Điều hành viên
Nguyễn Công Trứ
1778 – 1859




Nguyễn Công Trứ tự là Tôn Chất , hiệu là Ngô Trai , biệt hiệu Hy Văn . Ông la` người làng Uy Viễn , , huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh .Nguyễn Công Trứ sinh đúng vào ngày đầu năm năm Mậu Tuất ( 1778 ) .

Con đường thi cử của Nguyễn Công Trứ khá lận đận , năm 42 tuổi ông mới đỗ giải Nguyên . Con đường hoạn lộ của ông cũng lắm thăng trầm : hai lần bị giáng chức , một lần cách tuột làm lính . Tuy nhiên võ công của ông vô cùng hiển hách , khi Nam , khi Bắc , đánh dẹp Phan Bá Vành , Nông Văn Lâm , có lúc đánh giặc ở Cao Miên , nơi đâu cũng tỏ đủ tài thao lược . Ngay cả khi đã già , 80 tuổi thế mà khi nghe quân Pháp bắn phá cửa Ðà Nẵng , Ông vẫn hăm hở dâng sớ xin vua Tự Ðức ra cầm binh chống giữ . Nhưng mọi người nhớ đến Nguyễn Công Trứ nhiều nhất là ông đã có công khai hoang lập ấp ở hai hạt Tiên Hải , Kim Sơn khi làm chức Doanh Ðiền Sứ thời vua Minh Mạng . Người dân ở đây đã lập Sinh từ tôn thờ Ông .

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ , Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm , chủ yếu là thể thơ Ðường luật và Hát nói . Thơ của Ông giai đoạn đầu hết sức lạc quan của kẽ sĩ có chí hướng “ Phò vua giúp nước “ . Thửa thiếu thời nhà Nho Nguyễn Công Trứ rất nghèo.Trong cảnh túng bần ông đã chuyển sang làm đủ nghề , nào làm thầy địa lý , làm lang băm bốc thuốc , nhưng vụng về trong cách sinh nhai nên đành ẩn nhẫn đợi thời , thơ phú qua ngày .Tuy rất khó khăn nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn lạc quan , ông luôn nuôi trong lòng những hoài bão , ước mơ cao đẹp . Vì thế mỗi lần đi thi là mỗi lần niềm hy vọng lại dâng lên :

Ði không há lẽ lại về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong
Ði thi tự vịnh

Tuy nghèo nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn tự hào về cuộc sống thanh cao của mình , ông luôn giữ phẩm cách trong sạch của mình .Ông là người có khí tiết , dù hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn cương trường vượt qua tất cả để tiến đến sự thành đạt như chí hướng mình hằng đeo đuổi . Tuy sự thành công của tuổi đời hơi muộn nhưng lại chín chắn .

Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến những bài thơ về Chí nam nhi của ông . Khó thể nào quên vị Nho tướng này với những câu :

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

( Chí khí anh hùng )

Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ bắt nguồn từ tâm tính kiêu hùng , hiên ngang của kẻ sĩ đứng trong trời đất . Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách cuộc đời của ông đã minh chứng cho tâm niệm đó . Vì vậy hình ảnh kẻ làm trai của Nguyễn Công Trứ rất sống động và đầy thi vị .

Cái hay của nhà Nho Tướng này là dù trong hoàn cảnh nào ông cũng ca ngợi cái nhàn và sự hành lạc . Ngay khi còn là anh học trò thất cơ lỡ vận cho đến lúc thành đạt . Cái nhàn và sự hưởng lạc luôn theo chân Ông . Kể khi đã già ông vẩn còn dai Càng già ,càng dẽo càng dai ,bảy mươi ba tuổi cưới nàng thiếp mới hai mươi ba .

Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trờì trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.

( Thú tiêu dao )

Lòng kiêu hãnh,khí chất đa tình đưa Nguyễn Công Trứ đến sự hành lạc , hưởng thú vui trong cái nhàn , tuy cái nhà của ông kém phần thanh khiết theo Ðạo gia như cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng tài tình phong lưu rất mực .

Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ của thế thái nhân tình , Ông có cái nhìn rất rõ ràng trong cuộc sống . Ghét cay ghét đắng cảnh nhân tâm lung lạc vì đồng tiền :

Ð ..m… nhân tình đã biết rồi ,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi .
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược ,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi .
………………….

Trong thế thái nhân tình cái tình cảm của Nguyễn Công Trứ thoạt nhìn ngỡ hời hợt nhưng thật ra lại sâu đậm . Còn trong tình cảm riêng tư của mình Ông lại rất thành thật . Tương tư sầu tình thì ai cũng từng , nhưng cái tương tư của ông hình như được diễn đạt rất dễ dàng :

Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào ?
Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước một non người một ngã,
Tương tư không biết cái làm sao ?

Tương tư

Cái chí khí ngang tàng , tính cách hào hùng và sự tài hoa , phong lưu của Nguyễn Công Trứ đã để lại cho hậu thế cả kho tàng văn thơ , hát nói phong phú . Mười năm cuối đời Nguyễn Công Trứ xin về hưu sống cuộc đời đủng đỉnh lưng bò mà đeo nhạc ngựa . Nguyễn Công Trứ mất ngày 7 tháng 12 năm 1859 .
 
Các bài tho*:





Phận Anh Nghèo


Vịnh Cảnh Nghèo


Than Cảnh Nghèo


Tết Nhà Nghèo


Vui Cảnh Nghèo


Thế Tình Ðen Bạc


Hàn Nho Phong Vị Phú


Khuyên Người Ðời


Vịnh Nhân Tình Thế Thái


Trò Ðời


Thua Bạc


Ðánh Tổ Tôm


Thú Tổ Tôm


Trách Tình Nhân


Cảnh Biệt Ly


Bài Ca Ngất Ngưỡng


Chí Nam Nhi


Vịnh Mùa Thu
 
Phận Anh Nghèo

Nói phô trương nghe cũng giói trai ,
Vì nỗi không tiền hóa dở ngài .
Khôn khéo dễ hầu bưng bít miệng ,
Khen chê thôi cũng gác ngoài tai ,
Tính quen mặt đó đà ghe kẻ ,
Song biết lòng cho dễ mấy ai .
Ðã thế thời thôi thôi mặc thế ,
Ði lâu rồi mới biết đường dài .

Nguyễn Công Trứ
 
Vịnh Cảnh Nghèo

Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần ,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần .
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo ,
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân .
Số khá , bĩ rồi thời lại thái ,
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân .
Trời đâu riêng khó cho ta mãi ,
Vinh nhục dù ai cũng một lần .

Nguyễn Công Trứ
 
Than Cảnh Nghèo

Vốn hễ anh hùng mới có nghèo ,
Sao mà ta lại trải trăm chiều ?
Trái mùa nghiệp cũ không nên bỏ ,
Ế chợ , nghề nhà cũng phải theo .
Những giữ miệng ðà không muốn nói ,
Làm sao bụng lại cứ thường trêu .
Suy ra mới biết rằng hay dở ,
Kể trước như ta dáng cũng nhiều .

Nguyễn Công Trứ
 
Tết Nhà Nghèo

Tết nhất anh ni ai nói nghèo ,
Nghèo mà lịch sự ðố ai theo .
Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc ,
Rượu thuốc ngâm ðầy ðộ nửa siêu .
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo ,
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu .
Ai xuân anh cũng chơi xuân với ,
Chung ðỉnh ơn vua ngày tháng nhiều .

Nguyễn Công Trứ
 
Vui Cảnh Nghèo

Bần tiện song le tính vốn lành
Gặp sao hay vậy dám đành hanh .
Phím đàn níp sách là nghề cũ ,
Quạt gió đèn trăng ấy của riêng .
Nhân nghĩa tước trời thì phải giữ ,
Lợi danh đường nhục cũng nên kinh .
Tin xuân đã có cành mai đó ,
Chẳng lịch song mà cũng biết giêng .

Nguyễn Công Trứ
 
Thế Tình Ðen Bạc

Vận chuyển cơ trời nghĩ cũng mầu ,
Chắc rằng ai đói , chắc ai giàu .
Kể đâu miệng thế khi yêu ghét ,
Ðược mấy lòng người có trước sau .
Cuối tết mới hay rằng sớm muộn ,
Giữa vời sao đã biết nông sâu ?
Hãy xem trời đất thời liền rõ ,
Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu !

Nguyễn Công Trứ
 
Hàn Nho Phong Vị Phú


Chém cha cái khó ,Chém cha cái khó ,
Khôn khéo mấy ai ,xấu xa một nó ,
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

Kìa ai:
Bốn vách tường mo,ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối giũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột khóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi : võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất : dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn , cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon !
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của !
Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi ,
Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ .
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng , pho sách gác đầu giàn, gián nhấm nhăm nhăm dấu , thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền , lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc , khoai vừa một giỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ !
Đến bữa , chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ , lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó .
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ ý dã “, thế nào cho đáng giá lương y ?
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “ dũng như “, phép chi được nổi danh pháp chủ ?
Quẻ dã hạc , toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chưa chỗ.
Buôn bán , rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Trương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ ?
Đến lúc niên chung nguyệt quý , lấy chi tiêu đồng nợ đồng công .
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thì to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan trở nghề “ cơ tắc “, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường , mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “ lạc đạo vong bần “,
Gặp anh em , khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “ vi nhân bất phú “.
Tất do thiên, âu phận là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó , ông Hề,
Cần nghiệp Nho , khi tạc bích tụ huynh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ , đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung , xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần , Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải , Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu , ngói đổ .

Mới biết :
Khó bởi tại trời,giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
 
Khuyên Người Ðời

Cho hay thiên hạ khéo xem gương ,
Hễ khó thời thôi , mấy kẻ màng .
Miệng nói , đã đành mua chuyện ghét ,
Tay không , chưa dễ ép người thương .
Khéo khôn , ai cũng tranh phần được ,
Trong sạch , ta thời giữ mực thường .
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc , chớ lo lường .

Nguyễn Công Trứ

p/s : Hôm sau post tiếp .... Mệt wa' .... Nghỉ ngơi đã !
 
Qúa hay, tuyệt cú mèo. Post xong về Nguyễn Cônng Trứ , Duy post về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhé.

Anh học và biết thêm được rất nhiều cái, cám ơn em.
 
trời ơi. em vừa phải kiểm bài Ngất ngưởng của cái ông này : Anh ( chị ) có đồng tình với thái độ sống ngất ngưởng của ông này ko... TỨC ĐIÊN lên được......... THực sự nó hay . em thấy thế, và cũng rất phân vân ko bít là nên đông tình hay ko....
"Ông Hi văn tài bộ đã vào lồng.
Khi thủ khoa khi tham tán, khi tổng đốc công...)
( Bài ca ngất ngưởng)
 
chú DUy đọc nhiều phết nhỉ? Dân chuyên Văn có khác :) :( :D
 
Vịnh Nhân Tình Thế Thái

Thế thái nhân tình gớm chết thay !
Lạt nồng , trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền , dở cũng hay .
Khôn khéo , chẳng qua ba tấc lưỡi ,
Hẳn hoi , không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây !

Nguyễn Công Trứ
 
Trò Ðời

Một lưng một cốc kém chi mô ,
Cho biết chanh chua khế cũng chua .
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối ,
Mà tham con giếc tiếc con rô .
Trăm điều đổ tội cho nhà oản ,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa .
Khó bó cái khôn còn nói khéo ,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ .

Nguyễn Công Trứ
 
Thua Bạc


Ngày xuân thong thả tính thờ ơ ,
Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa .
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy ,
Bổng chốc lên quan đã sướng chưa !


Nguyễn Công Trứ
 
Ðánh Tổ Tôm

Tổ tôm tên chử gọi “ hà sào “
Ðánh thì không thấp cũng không cao .
Ðược thì vơ cả , thua thì chạy ,
Nào !

Nguyễn Công Trứ
 
Thú Tổ Tôm

Nhân sinh quí thích chí ,
Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam ,
Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang ,
Cơ điều đạc quân ăn đang đánh .
Gọi một tiếng , người đều khởi kính ,
Dạy ba quân ,ai dám chẳng nhường ?
Cất nếp lên , bốn mặt khôn đương ;
Hạ bài xuống , tam khôi chiếm cả !
Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ ,
Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay ,
Gồm hai văn võ trong tay !

Nguyễn Công Trứ
 
Trách Tình Nhân


Ðứng núi này trông núi nọ cao ,
Nhân tình ơ hỡ biết làm sao ?
Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng ,
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều .
Non nước nước non ngao ngán nỗi ,
Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều .
Vườn hoa kia để ai rong rả ,
Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều .

Nguyễn Công Trứ
 
Cảnh Biệt Ly


Kẻ về người ở ,
Bồi hồi thay lúc phân kỳ !
Khéo quấy người hai chữ tình si ,
Lửa ly biệt bừng bừng không lúc nguội .
Bát ngát trăm đường bối rối ,
Biệt thì dung dị kiến thì nan .
Trót đa mang khúc hát tiếng đàn ,
Nên dan díu mối tình chưa dứt .
Sá nghĩ xa xôi ngàn dặm đất ,
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời .
Khi ra vào tiếng nói giọng cười ,
Một ngày cũng là người tri kỹ .
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ ,

Nguyễn Công Trứ
 
Back
Bên trên