Đoàn Trang
(Ms_Independent)
Điều hành viên
Sức hấp dẫn của không gian tiểu thuyết mới
(VietNamNet) - Sau khi cuốn tiểu thuyết Mật mã Da Vinci ra đời, cùng với cơn sốt sách best-seller, người ta thi nhau đi thăm lại Bảo tàng Louvre, xem các tranh của L. Da Vinci, thăm nhà thờ St. Sulpice và thừa nhận Dan Brown không hề bịa đặt trong tả thực.
Bắt đầu từ một cái chết bí ẩn và những kí hiệu bí ẩn
Bìa sách Mật mã Da Vinci
Jacques Saunière, viên quản lí đã luống tuổi ở Bảo tàng Louvre - một bảo tàng danh tiếng nhất của nước Pháp (và của cả thế giới) - đã bị ám sát vào chập tối mà không rõ lí do. Kẻ sát nhân không thể tiếp cận và đã bắn ông ta qua hàng rào sắt. Lúc trúng đạn, ông vẫn chưa chết ngay. Và...
Robert Langdon, một nhà biểu tượng học người Mỹ, cùng Sophie Neveu (được coi là người cháu của nạn nhân) là hai trong số ít những người có mặt ngay sau đó tại hiện trường. Langdon hết sức kinh ngạc trước một thực tế mà ông cho rằng Saunière “cố tình sắp đặt trước khi tắt thở”. Saunière tự cởi bỏ quần áo, tay chân giang ra tứ phía theo hình một ngôi sao, tự lấy máu vẽ loang hình tia trên bụng (Gợi lại một tư thế tuẫn tiết cổ xưa tới 4.000 năm). Vẫn chưa hết, một bức thư cuối cùng (lại viết bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng Pháp). Nguyên văn:
13-3-2-21-1-1-8-5.
Ôi quỷ tàn bạo!
Ôi Thánh yếu đuối!
Tái bút: Hãy tìm Robert Langdon
Dòng tái bút cuối cùng đã trở thành chứng cứ để cảnh sát Pháp coi R. Langdon là đối tượng liên quan tới cái chết lạ kì này. Bezu Fache (một nhân viên cảnh sát “bí hiểm”) bắt đầu vào cuộc.
Điều trớ trêu là mặc dù biết rằng mình đang là “đương sự” nguy hiểm, Langdon lại quyết định cùng cô cháu gái của Saunière bắt tay vào một cuộc điều tra tự phát. Là dân kí hiệu học, sẵn “máu” trinh thám trong người, Langdon quyết tâm tìm cho ra nhẽ những gì ẩn giấu sau mấy dòng chữ ngắn ngủi song dường như lại hàm chứa một kho những sự kiện kì bí mà Saunière muốn trối trăng.
Những bức tranh vào cuộc
Bảo tàng Louvre lưu giữ rất nhiều tác phẩm nghệ thuật lừng danh của thế giới. Trong đó, không thể không nói tới những bức tranh vô giá của danh hoạ thiên tài người ý Leonardo Da Vinci. Bức Vitruvian, Caravaggio, rồi Mona Lisa kiều diễm bao đời nằm trong phòng trưng bày bây giờ tự nhiên trở thành tâm điểm của cuộc điều tra. Bởi qua dấu vết, người ta biết chắc Saunirèe đã đến thăm bức tranh Mona Lisa kia trước khi bị bắn không lâu. Langdon đã nghi ngờ chính Da Vinci đã dùng nghệ thuật của mình để cất giấu những thông điệp bí mật mà lịch sử chân thực đã bị những nhân tố xã hội che khuất. Một chi tiết đáng ngờ nữa là khi bị truy sát, Saunière đã chủ tâm kéo bức tranh Caravaggio (cũng của Da Vinci) để báo động. Những tình tiết đó bị cảnh sát bỏ qua nhưng lại được đôi bạn “bất đắc dĩ” Langdon và Sophie coi là “chìa khoá” để vén bức màn bí mật liên quan tới Nhà thờ, Giáo hội và biết bao câu chuyện ly kỳ khác đã tồn tại hàng thế kỉ. Họ bắt đầu “lần theo dấu vết”. Và họ đã qua...
Hết bất ngờ này đến bất ngờ khác
Leonardo Da Vinci là tâm điểm và là bí ẩn lớn nhất trong các cuộc tìm kiếm. Nhưng đầu mối lại là người quản lí quá cố Saunière. Cô cháu Sophie có được chìa khoá của ông để mở phòng kí thác của Saunière ở Ngân hàng Thuỵ Sĩ. Hai người tìm đủ mọi mánh lới để trốn khỏi sự theo dõi của cảnh sát, vượt ra khỏi Paris. Nhưng hệ thống bảo mật của nhà băng đâu có dễ! Mặc dù qua mấy vòng, vào tận phòng cuối cùng, họ vẫn không có mật mã để mở tài khoản. Ngay cả dòng chữ số mặc định trong bức thư tuyệt mệnh của Saunière cũng không giúp họ làm được điều này (mà ban đầu họ thì cứ đinh ninh là được). Cuộc tìm kiếm cứ thế đi vào một hành trình vừa dai dẳng, vừa cam go, vừa hư vừa thực và dĩ nhiên, là rất thú vị vì những phát hiện mới. Điều lạ là đi đến đâu họ cũng gặp một thế lực vô hình (từ một vài tổ chức Nhà thờ ngăn cản).
Sự hấp dẫn của những không gian tiểu thuyết
Những điều được coi là phát hiện như trên chẳng khác nào một cơn sóng thần dữ dội tràn qua các nước phương Tây (nơi có nhiều giáo dân nhất thế giới). Người cho rằng cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và rất thành công. Người thì cho rằng, cuốn sách là “sản phẩm của sự tưởng tượng điên rồ nhất từ trước đến nay”. Nhưng chính sự phản ứng cực đoan hai chiều làm người ta bắt buộc phải đánh giá nghiêm túc giá trị của cuốn sách.
Bởi lẽ, từ trước đến nay, dù có biết bao sách vở tài liệu đề cập tới một sự thật khác của Nhà thờ, về Chúa Jesus, ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Mà động chạm tới điều này là động chạm tới những điều cao cả, thiêng liêng nhất trong thế giới tâm linh của nhiều người. Song, người ta ít để ý nhiều đến vài lời đồn thổi, người ta đã nhanh quên và mọi thứ cứ qua đi. Chỉ có Mật mã Da Vinci là kéo tất cả vào một cuộc tranh cãi “không tiền khoáng hậu”. Vì...
Vì... Dan Brown có một lối viết tiểu thuyết kì lạ nhất. Vấn đề đơn giản, nhân vật cũng không nhiều, nhưng Brown đã mở ra biết bao “khung cảnh” của cuộc sống. Với kết cấu 105 chương, không dài (có chương 4-5 trang, có chương chỉ vẻn vẹn 1,1 trang), tác giả đã biến một câu chuyện đượm màu trinh thám thành một cuốn khảo cứu về khoa học, về tôn giáo, về mĩ thuật, về những giá trị đạo đức... Nếu ai đó vội vàng, sẽ không có thể đọc được kĩ càng cuốn tiểu thuyết này. Mà nó cũng rất khó đọc. Do tiết tấu chậm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
Càng đọc người ta càng kinh ngạc bởi vốn tri thức và vốn sống của Dan Brown dày dặn và sâu sắc đến mức nào. Ông mô tả kĩ hệ thống Giáo hội, mô tả rất kỹ ngóc ngách của Bảo tàng Louvre, mô tả không sai một chi tiết ở Ngân hàng Thuỵ Sĩ, các thủ đoạn che giấu sự thật... Ông có một năng lực thẩm mĩ cao về hội hoạ. Điều này lý giải ở chỗ, sau khi cuốn tiểu thuyết ra đời, cùng với cơn sốt sách best-seller, người ta thi nhau đi thăm lại Bảo tàng Louvre, xem các tranh của L. Da Vinci, thăm nhà thờ St. Sulpice và thừa nhận Dan Brown không hề bịa đặt trong tả thực. Với những chi tiết rút từ hiện tại, cùng với trí tưởng tượng siêu việt, tác giả đã thành công trong bút pháp hư cấu tiểu thuyết. Biết vậy mà không phải vậy. Biết hư cấu mà vẫn tin, vẫn mải mê lần theo lối kể của tác giả. Đó là thành công lớn nhất của Brown với tư cách là một tiểu thuyết gia.
Cũng còn phải nói thêm một điều. Ngôn từ sử dụng trong tiểu thuyết rất lạ và hay. Mặc dù đã qua một bản dịch trung gian, người ta vẫn cảm nhận được sự đặc sắc của cấu trúc và bút pháp ngôn ngữ: ngắn gọn, hàm súc, thâm thúy. Rải rác khắp tiểu thuyết, đâu đâu ta cũng gặp những lời lẽ chêm xen tưởng rất bâng quơ (được in nghiêng) nhưng lại có giá trị phục vụ đắc lực cho diễn đạt. Chẳng hạn: Sau cơn mưa trời lại sáng, Đó là lỗi của mình, Quả là một sự can thiệp thần thánh, Không có ai ở đây!... Với cách dùng từ lạ lùng như vậy, Brown đã biết tận dụng một thế mạnh: ông không chỉ nói tường minh bằng sự kiện mà nói bằng ẩn ý.
Người ta cũng có thể quy kết từ những suy diễn ẩn ý. Từ đó mà những người phản bác đã buộc tội Brown, mà buộc tội rất nặng. Đó cũng là điều dễ hiểu vì tôn giáo là một địa hạt hết sức thiêng liêng, nhạy cảm. Trong lúc Brown mải mê giải mã Mật mã Da Vinci thì người đọc lại tìm cách giải mã những “thông điệp” của Brown qua cuốn sách này. Nhưng Brown thì hồn nhiên trả lời: “Tôi muốn làm sống lại, làm tươi mới mối quan tâm của mọi người đối với tầm quan trọng về niềm tin và lịch sử của đạo Thiên Chúa Giáo”. Có lẽ, ông muốn chuyển tải tới bạn đọc một thông điệp “Chúa chính là sản phẩm đích thực của con người chứ không phải là sản phẩm của Thượng Đế”. Đã là người thì ai cũng mang bản chất người với mọi thứ cần có.
Nhưng Mật mã Da Vinci là một tiểu thuyết đuợm màu trinh thám nhưng cuốn sách sẽ không đáp ứng những ai muốn đọc chỉ đơn giản vì hiếu kỳ. Cũng có thể nói đây là một cuốn sách “kén” người đọc. Mạch diễn giải phi tuyến, cầu kỳ. Tuy nhiên, trước hết, muốn hiểu, muốn khen hay muốn chê, chúng ta cũng cứ phải đọc đã. Có thể có rất nhiều cách hiểu theo các cách chiêm nghiệm và suy ngẫm của riêng mỗi người. Nhưng tri thức, lối viết và trí tưởng tưởng trong hư cấu của Dan Brown là một đóng góp rất lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết hiện đại.
Tác phẩm: Mật mã Da Vinci (The Da Vinci Code)
Tác giả: Dan Brown.
Giá bán: 90.000 đồng/cuốn
Tiểu thuyết này được liệt vào hàng sách best-seller lâu tới mức kỉ lục (132 tuần do thời báo New York bình chọn, được dịch ra 44 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, tiêu thụ trên 36 triệu bản).
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin phát hành: Tháng 10 năm 2005
(VietNamNet) - Sau khi cuốn tiểu thuyết Mật mã Da Vinci ra đời, cùng với cơn sốt sách best-seller, người ta thi nhau đi thăm lại Bảo tàng Louvre, xem các tranh của L. Da Vinci, thăm nhà thờ St. Sulpice và thừa nhận Dan Brown không hề bịa đặt trong tả thực.
Bắt đầu từ một cái chết bí ẩn và những kí hiệu bí ẩn

Bìa sách Mật mã Da Vinci
Jacques Saunière, viên quản lí đã luống tuổi ở Bảo tàng Louvre - một bảo tàng danh tiếng nhất của nước Pháp (và của cả thế giới) - đã bị ám sát vào chập tối mà không rõ lí do. Kẻ sát nhân không thể tiếp cận và đã bắn ông ta qua hàng rào sắt. Lúc trúng đạn, ông vẫn chưa chết ngay. Và...
Robert Langdon, một nhà biểu tượng học người Mỹ, cùng Sophie Neveu (được coi là người cháu của nạn nhân) là hai trong số ít những người có mặt ngay sau đó tại hiện trường. Langdon hết sức kinh ngạc trước một thực tế mà ông cho rằng Saunière “cố tình sắp đặt trước khi tắt thở”. Saunière tự cởi bỏ quần áo, tay chân giang ra tứ phía theo hình một ngôi sao, tự lấy máu vẽ loang hình tia trên bụng (Gợi lại một tư thế tuẫn tiết cổ xưa tới 4.000 năm). Vẫn chưa hết, một bức thư cuối cùng (lại viết bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng Pháp). Nguyên văn:
13-3-2-21-1-1-8-5.
Ôi quỷ tàn bạo!
Ôi Thánh yếu đuối!
Tái bút: Hãy tìm Robert Langdon
Dòng tái bút cuối cùng đã trở thành chứng cứ để cảnh sát Pháp coi R. Langdon là đối tượng liên quan tới cái chết lạ kì này. Bezu Fache (một nhân viên cảnh sát “bí hiểm”) bắt đầu vào cuộc.
Điều trớ trêu là mặc dù biết rằng mình đang là “đương sự” nguy hiểm, Langdon lại quyết định cùng cô cháu gái của Saunière bắt tay vào một cuộc điều tra tự phát. Là dân kí hiệu học, sẵn “máu” trinh thám trong người, Langdon quyết tâm tìm cho ra nhẽ những gì ẩn giấu sau mấy dòng chữ ngắn ngủi song dường như lại hàm chứa một kho những sự kiện kì bí mà Saunière muốn trối trăng.
Những bức tranh vào cuộc
Bảo tàng Louvre lưu giữ rất nhiều tác phẩm nghệ thuật lừng danh của thế giới. Trong đó, không thể không nói tới những bức tranh vô giá của danh hoạ thiên tài người ý Leonardo Da Vinci. Bức Vitruvian, Caravaggio, rồi Mona Lisa kiều diễm bao đời nằm trong phòng trưng bày bây giờ tự nhiên trở thành tâm điểm của cuộc điều tra. Bởi qua dấu vết, người ta biết chắc Saunirèe đã đến thăm bức tranh Mona Lisa kia trước khi bị bắn không lâu. Langdon đã nghi ngờ chính Da Vinci đã dùng nghệ thuật của mình để cất giấu những thông điệp bí mật mà lịch sử chân thực đã bị những nhân tố xã hội che khuất. Một chi tiết đáng ngờ nữa là khi bị truy sát, Saunière đã chủ tâm kéo bức tranh Caravaggio (cũng của Da Vinci) để báo động. Những tình tiết đó bị cảnh sát bỏ qua nhưng lại được đôi bạn “bất đắc dĩ” Langdon và Sophie coi là “chìa khoá” để vén bức màn bí mật liên quan tới Nhà thờ, Giáo hội và biết bao câu chuyện ly kỳ khác đã tồn tại hàng thế kỉ. Họ bắt đầu “lần theo dấu vết”. Và họ đã qua...
Hết bất ngờ này đến bất ngờ khác
Leonardo Da Vinci là tâm điểm và là bí ẩn lớn nhất trong các cuộc tìm kiếm. Nhưng đầu mối lại là người quản lí quá cố Saunière. Cô cháu Sophie có được chìa khoá của ông để mở phòng kí thác của Saunière ở Ngân hàng Thuỵ Sĩ. Hai người tìm đủ mọi mánh lới để trốn khỏi sự theo dõi của cảnh sát, vượt ra khỏi Paris. Nhưng hệ thống bảo mật của nhà băng đâu có dễ! Mặc dù qua mấy vòng, vào tận phòng cuối cùng, họ vẫn không có mật mã để mở tài khoản. Ngay cả dòng chữ số mặc định trong bức thư tuyệt mệnh của Saunière cũng không giúp họ làm được điều này (mà ban đầu họ thì cứ đinh ninh là được). Cuộc tìm kiếm cứ thế đi vào một hành trình vừa dai dẳng, vừa cam go, vừa hư vừa thực và dĩ nhiên, là rất thú vị vì những phát hiện mới. Điều lạ là đi đến đâu họ cũng gặp một thế lực vô hình (từ một vài tổ chức Nhà thờ ngăn cản).
Sự hấp dẫn của những không gian tiểu thuyết
Những điều được coi là phát hiện như trên chẳng khác nào một cơn sóng thần dữ dội tràn qua các nước phương Tây (nơi có nhiều giáo dân nhất thế giới). Người cho rằng cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và rất thành công. Người thì cho rằng, cuốn sách là “sản phẩm của sự tưởng tượng điên rồ nhất từ trước đến nay”. Nhưng chính sự phản ứng cực đoan hai chiều làm người ta bắt buộc phải đánh giá nghiêm túc giá trị của cuốn sách.
Bởi lẽ, từ trước đến nay, dù có biết bao sách vở tài liệu đề cập tới một sự thật khác của Nhà thờ, về Chúa Jesus, ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Mà động chạm tới điều này là động chạm tới những điều cao cả, thiêng liêng nhất trong thế giới tâm linh của nhiều người. Song, người ta ít để ý nhiều đến vài lời đồn thổi, người ta đã nhanh quên và mọi thứ cứ qua đi. Chỉ có Mật mã Da Vinci là kéo tất cả vào một cuộc tranh cãi “không tiền khoáng hậu”. Vì...
Vì... Dan Brown có một lối viết tiểu thuyết kì lạ nhất. Vấn đề đơn giản, nhân vật cũng không nhiều, nhưng Brown đã mở ra biết bao “khung cảnh” của cuộc sống. Với kết cấu 105 chương, không dài (có chương 4-5 trang, có chương chỉ vẻn vẹn 1,1 trang), tác giả đã biến một câu chuyện đượm màu trinh thám thành một cuốn khảo cứu về khoa học, về tôn giáo, về mĩ thuật, về những giá trị đạo đức... Nếu ai đó vội vàng, sẽ không có thể đọc được kĩ càng cuốn tiểu thuyết này. Mà nó cũng rất khó đọc. Do tiết tấu chậm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
Càng đọc người ta càng kinh ngạc bởi vốn tri thức và vốn sống của Dan Brown dày dặn và sâu sắc đến mức nào. Ông mô tả kĩ hệ thống Giáo hội, mô tả rất kỹ ngóc ngách của Bảo tàng Louvre, mô tả không sai một chi tiết ở Ngân hàng Thuỵ Sĩ, các thủ đoạn che giấu sự thật... Ông có một năng lực thẩm mĩ cao về hội hoạ. Điều này lý giải ở chỗ, sau khi cuốn tiểu thuyết ra đời, cùng với cơn sốt sách best-seller, người ta thi nhau đi thăm lại Bảo tàng Louvre, xem các tranh của L. Da Vinci, thăm nhà thờ St. Sulpice và thừa nhận Dan Brown không hề bịa đặt trong tả thực. Với những chi tiết rút từ hiện tại, cùng với trí tưởng tượng siêu việt, tác giả đã thành công trong bút pháp hư cấu tiểu thuyết. Biết vậy mà không phải vậy. Biết hư cấu mà vẫn tin, vẫn mải mê lần theo lối kể của tác giả. Đó là thành công lớn nhất của Brown với tư cách là một tiểu thuyết gia.
Cũng còn phải nói thêm một điều. Ngôn từ sử dụng trong tiểu thuyết rất lạ và hay. Mặc dù đã qua một bản dịch trung gian, người ta vẫn cảm nhận được sự đặc sắc của cấu trúc và bút pháp ngôn ngữ: ngắn gọn, hàm súc, thâm thúy. Rải rác khắp tiểu thuyết, đâu đâu ta cũng gặp những lời lẽ chêm xen tưởng rất bâng quơ (được in nghiêng) nhưng lại có giá trị phục vụ đắc lực cho diễn đạt. Chẳng hạn: Sau cơn mưa trời lại sáng, Đó là lỗi của mình, Quả là một sự can thiệp thần thánh, Không có ai ở đây!... Với cách dùng từ lạ lùng như vậy, Brown đã biết tận dụng một thế mạnh: ông không chỉ nói tường minh bằng sự kiện mà nói bằng ẩn ý.
Người ta cũng có thể quy kết từ những suy diễn ẩn ý. Từ đó mà những người phản bác đã buộc tội Brown, mà buộc tội rất nặng. Đó cũng là điều dễ hiểu vì tôn giáo là một địa hạt hết sức thiêng liêng, nhạy cảm. Trong lúc Brown mải mê giải mã Mật mã Da Vinci thì người đọc lại tìm cách giải mã những “thông điệp” của Brown qua cuốn sách này. Nhưng Brown thì hồn nhiên trả lời: “Tôi muốn làm sống lại, làm tươi mới mối quan tâm của mọi người đối với tầm quan trọng về niềm tin và lịch sử của đạo Thiên Chúa Giáo”. Có lẽ, ông muốn chuyển tải tới bạn đọc một thông điệp “Chúa chính là sản phẩm đích thực của con người chứ không phải là sản phẩm của Thượng Đế”. Đã là người thì ai cũng mang bản chất người với mọi thứ cần có.
Nhưng Mật mã Da Vinci là một tiểu thuyết đuợm màu trinh thám nhưng cuốn sách sẽ không đáp ứng những ai muốn đọc chỉ đơn giản vì hiếu kỳ. Cũng có thể nói đây là một cuốn sách “kén” người đọc. Mạch diễn giải phi tuyến, cầu kỳ. Tuy nhiên, trước hết, muốn hiểu, muốn khen hay muốn chê, chúng ta cũng cứ phải đọc đã. Có thể có rất nhiều cách hiểu theo các cách chiêm nghiệm và suy ngẫm của riêng mỗi người. Nhưng tri thức, lối viết và trí tưởng tưởng trong hư cấu của Dan Brown là một đóng góp rất lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết hiện đại.
Tác phẩm: Mật mã Da Vinci (The Da Vinci Code)
Tác giả: Dan Brown.
Giá bán: 90.000 đồng/cuốn
Tiểu thuyết này được liệt vào hàng sách best-seller lâu tới mức kỉ lục (132 tuần do thời báo New York bình chọn, được dịch ra 44 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, tiêu thụ trên 36 triệu bản).
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin phát hành: Tháng 10 năm 2005
- TS Phạm Văn Tình