Mật mã Da Vinci

Chương 14


"Langdon đang ở đâu?" Fache hỏi, phả hơi cuối cùng của điếu thuốc khi ông ta quay trở lại sở chỉ huy.
"Vẫn ở trong nhà vệ sinh nam, thưa ông", trung uý Collet trả lời Fache lầm bầm: "Nhẩn nha nhỉ".
Viên đại úy nhìn chấm GPS qua vai của Collet, và Collet gần như có thể nghe thấy những bánh xe đang chuyển động. Fache đang cố dẹp nỗi thôi thúc muốn đi kiểm tra xem Langdon còn đó hay không. Về mặt lý tưởng, đối tượng của một cuộc giám sát được cho phép tối đa thời gian và tự do trong phạm vi có thể, để ru ngủ hắn trong cảm giác an toàn giả tạo. Cần phải để Langdon tự ý trở lại. Tuy nhiên đã gần mười phút rồi.
Quá lâu.
"Liệu có khả năng là Langdon biết chúng ta theo dõi không?". Fache hỏi.
Collet lắc đầu: "Chúng ta vẫn đang nhìn thấy những chuyển động nhỏ trong phòng vệ sinh nam, vì thế đĩa GPS chắc chắn vẫn còn trên người ông ta. Có thể ông ta thấy không khỏe? Nếu ông ta tìm thấy cái đĩa, chắc ông ấy đã vứt nó đi, rồi tìm cách trốn chạy".
Fache nhìn đồng hồ: "Tốt".
Tuy nhiên, Fache vẫn có vẻ băn khoăn. Cả buổi tối, Collet cảm thấy một sự hăm hở không xác định được nơi người chỉ huy của mình. Bình thường vốn thản nhiên và tỉnh bơ dưới mọi áp lực nhưng tối nay dường như Fache đầy xúc động, như thể đó là một vấn đề cá nhân đối với ông ấy.
Không có gì đáng ngạc nhiên, Collet nghĩ. Fache cần cuộc bắt giữ này ghê gớm. Gần đây, Hội đồng chính phủ và báo chí đã có những chỉ trích công khai hơn đối với những chiến thuật hung dữ của Fache, những va chạm của ông ta với các đại sứ quán của các cường quốc, và sự vượt quá ngân sách cho công nghệ mới. Đêm nay cuộc vây bắt một người Mỹ với công nghệ cao sẽ khiến Fache đi được một quãng đường dài tỉến tới dập tắt những lời chỉ trích, giúp ông ta giữ cương vị này thêm vài năm nữa cho đến khi có thể về hưu với một khoản lương hưu hậu hĩnh. Chúa biết rằng ông ấy cần lương hưu. Collet nghĩ. Sự hăng hái của Fache đối với công nghệ gây tổn hại cho ông cả về mặt nghề nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Người ta đồn rằng Fache đã đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm của mình vào niềm ham mê công nghệ vài năm qua và ông mất sạch, cho đến chiếc sơ-mi cuối cùng. Mà Fache lại là một người chỉ mặc áo sơmi thượng hảo hạng.
Đêm nay, vẫn còn nhiều thời gian. Sự cắt ngang của Sophie Neveu, dù không may, chỉ là một gợn sóng nhỏ. Giờ thì cô ấy đã đi, và Fache vẫn còn những quân bài để chơi. Ông ta chưa nói cho Langdon biết rằng tên ông ấy bị nạn nhân viết trên sàn.
Tái bút. Tìm Robert Langdon. Phản ứng của người Mỹ này đối với cái chứng cứ nho nhỏ đó sẽ thực sự có tác dụng.
"Đại úy!" một nhân viên DCPJ gọi từ phía bên kia văn phòng. "Tôi nghĩ ông nên nghe cuộc gọi này". Anh ta giơ ống nghe ra, vẻ lo lắng.
"Ai đó?" Fache nói.
Người nhân viên cau mày: "Chỉ huy của Phòng Mật Mã".
"Thì sao?".
"Về Sophie Neveu, thưa ông. Có điều gì đó không ổn".
 
:x Ôi, đúng là The Da Vinci Code rất tuyệt. Em đọc bản Eng, lúc đầu đến mấy cái tên còn ko nhớ nổi :p, lúc sau bị cuốn vào truyện mà chẳng còn nhớ mình đang đọc bằng tiếng gì nữa ^^, chỉ thấy mình như đang đi cùng với nhân vật vậy ^^, mê đến nỗi vừa ngủ dậy là lại đọc tiếp, đọc cả trong giờ Lý luôn :p.

Đây là bản ebook bằng Eng ^^. Nhưng nếu đọc bằng sách thường thì tuyệt hơn :x.
 

Đính kèm

  • The Da Vinci Code.zip
    757.5 KB · Xem: 19
Chương 15


Đã đến lúc rồi Silas cảm thấy khỏe khoắn khi bước ra khỏi chiếc xe Audi màu đen, một cơn gió nhẹ ban đêm thổi tung chiếc áo choàng rộng thùng thình của hắn. Những cơn gió của sự thay đổi đang thổi. Hắn biết nhiệm vụ trước mắt đòi hỏi sự khéo léo hơn là sức lực, và hắn để lại súng trong xe. Thầy Giáo trang bị cho hắn khẩu Heckler mười ba băng và khẩu Koch USP 40.
Một vũ khí giết người không có chỗ trong ngôi nhà của Chúa.
Lúc này, quảng trường phía trước nhà thờ lớn vắng vẻ!
Những linh hồn hiển hiện duy nhất ờ mé kia của Quảng trường Saint - Sulpice là hai gái điếm vị thành niên đang phô "hàng" với khách đi chơi khuya. Thân thể dậy thì của họ đánh thức một thèm muốn quen thuộc nơi hông Silas. Đùi hắn gập lại theo bản năng, làm cho chiếc dây lưng hành xác có ngạnh sắc cứa sâu vào thịt đau nhói.
Cơn khát dục tan biến ngay lập tức. Trong mười năm qua, Silas một lòng một dạ khước từ mọi phóng túng tình dục, thậm chí kể cả thủ dâm. Đó là Đạo. Hắn biết hắn đã hy sinh nhiều khi đi theo Opus Dei, nhưng hắn nhận lại còn hơn thế rất nhiều.
Một lời nguyền sống độc thân và từ bỏ mọi của cải cá nhân hầu như chưa phải là hy sinh. So với xuất thân nghèo khổ và những bạo hành tình dục khủng khiếp mà hắn đã phải chịu đựng trong tù thì cuộc sống độc thân là một sự thay đổi thú vị.
Giờ đây, trở về Pháp lần đầu tiên kể tử khi bị bắt và đưa đến nhà tù ở Andorra, Silas có thể nhận thấy quê hương đang thử thách hắn, đang gợi lại những ký ức đầy bạo lực từ linh hồn đã được cứu rỗi của hắn. "Mày đã được tái sinh", hắn tự nhắc nhở mình. Hôm nay, việc phụng sự Chúa buộc phải phạm vào tội lỗi giết người, và nó là một sự hy sinh mà Silas biết sẽ phải lặng lẽ chôn chặt trong tim mình suốt đời.
"Thước đo sự trung thành của con là thước đo sự đau đớn mà con có thể chịu đựng", Thầy Giáo đã nói với hắn. Silas không phải là người lạ lẫm với sự đau đớn, vì thế hắn rất háo hức được tự thể hiện mình với Thầy Giáo, người đã đảm bảo với hắn rằng mọi hành động của hắn đều được sắp đặt bởi một quyền lực trên cao.
Sáng danh Chúa ở trên cao, Silas thì thầm, đi về phía cổng vào nhà thờ.
Dừng lại trong bóng tối của cánh cổng to đùng, hắn hít một hơi thở sâu. Đến tận lúc này, hắn mới thực sự nhận ra hắn sắp làm gì và cái gì đang chờ đợi hắn ở bên trong.
Viên đá đỉnh vòm. Nó sẽ dẫn chúng ta đến đích cuối cùng.
Hắn giơ bàn tay trắng như ma lên và gõ ba lần vào cánh cửa.
Ngay sau đó, then của cánh cổng gỗ khổng lồ bắt đầu dịch chuyển.
 
Chương 16


Sophie tự hỏi không biết phải mất bao lâu Fache mới nhận ra rằng cô chưa rời khỏi tòa nhà. Thấy Langdon rõ ràng đang choáng ngợp, Sophie lại tự hỏi liệu mình có làm đúng không khi dồn ông ấy vào đây, trong phòng vệ sinh nam.
Mình có thế làm gì khác đây?
Cô hình dung xác ông cô, trần truồng, chân tay dang ra trên sàn. Đã có thời ông là cả thế giới đối với cô, thế mà đêm nay, Sophie ngạc nhiên cảm thấy mình gần như không buồn thương cho ông. Giờ đây Jacques Saunière là một người xa lạ với cô.
Quan hệ của họ đã tan biến trong khoảnh khắc vào một buổi tối tháng ba khi cô hai mươi hai tuổi. Mười năm trước. Sophie về nhà sớm vài ngày sau khi tốt nghiệp đại học ở Anh và đã vô tình chứng kiến ông ngoại làm một việc mà hiển nhiên Sophie không có phận sự gì để thấy. Đó là một hình ảnh mà cho đến giờ cô vẫn không thể tin được.
Nếu mình không chính mắt nhìn thấy…
Quá xấu hổ và choáng váng không chịu nổi những lời giải thích đau đớn của ông, ngay lập tức Sophie đã chuyển ra sống ở ngoài một mình, mang theo số tiền dành dụm được, thuê một căn hộ nhỏ ở chung với vài người nữa. Cô thề sẽ không bao giờ nói với bất kỳ ai về điều cô đã nhìn thấy. Ông cô cố gắng một cách tuyệt vọng để liên lạc với cô, gửi thiếp và thư, van xin Sophie cho gặp để ông có thể giải thích. Giải thích như thế nào? Sophie không bao giờ trả lời trừ một lần - để cấm ông không bao giờ được gọi điện thoại cho cô hoặc tìm cách gặp cô ở nơi công cộng. Cô sợ sự giải thích của ông sẽ còn khủng khiếp hơn cả bản thân sự việc.
Thật khó tin, Saunière không bỏ cuộc vẫn đeo đuổi cô, và bây giờ Sophie có cả một chồng thư chưa mở của mười năm trong một ngăn tủ. Phải công nhận là ông chưa bao giờ làm trái yêu cầu của cô và gọi cho cô.
Cho đến chiều nay.
"Sophie phải không?". Giọng ông nghe già lạ lùng trong chiếc máy trả lời tự động của cô. "Ông đã tuân theo ý muốn của cháu bao lâu rồi… và ông đau lòng mà phải gọi điện cho cháu, nhưng ông phải nói chuyện với cháu. Một điều khủng khiếp vừa xảy ra".
Đứng trong bếp của căn hộ ở Paris của mình, Sophie cảm thấy ớn lạnh khi nghe thấy giọng ông sau từng ấy năm. Giọng nói nhẹ nhàng của ông mang lại cả một dòng lũ kỉ niệm mến thương thời thơ ấu.
"Sophie, xin cháu hãy nghe". Ông đang nói tiếng Anh với cô, như ông vẫn luôn làm khi cô còn là một bé gái. Thực hành tiếng Pháp ở trường. Thực hành tiếng Anh ở nhà. "Cháu không thể giận mãi thế được. Cháu đã đọc những bức thư ông gửi trong suốt những năm qua chưa? Cháu chưa hiểu sao?". Ông dừng lại.
"Chúng ta phải nói chuyện ngay lập tức. Xin cho ông của cháu được toại cái ước nguyện duy nhất này. Hãy gọi cho ông ở Louvre. Ngay lập tức. Ông nghĩ ông cháu mình đang trong tình thế nguy hiểm nghiêm trọng".
Sophie nhìn cái máy trả lời tự động. Nguy hiểm? ông đang nói về chuyện gì vậy?
"Công chúa…" Giọng ông cô vỡ ra vì một xúc cảm mà Sophie không thể gọi tên ra được. "Ông biết ông đã giấu cháu nhiều chuyện và ông biết điều đó đã khiến ông mất tình yêu của cháu. Nhưng đó là vì sự an toàn của cháu. Bây giờ, cháu phải biết sự thật. Xin cháu hãy nghe nhé, ông phải nói với cháu sự thật về gia đình cháu".
Sophie đột nhiên có thể nghe thấy tiếng trái tim mình. Gia đình mình sao? Cha mẹ Sophie đã chết khi cô mới bốn tuổi. Xe ô tô của họ văng ra khỏi cầu và rơi xuống dòng nước chảy siết. Bà và em trai cô cũng ở trên xe, và cả gia đình Sophie bị xóa sạch trong phút chốc. Cô có cả một hộp các mảnh báo cắt khẳng định điều đó.
Lời nói của ông bất ngờ làm trào lên khát khao trong cô. Gia đình mình! Trong khoảnh khắc thoáng qua đó, Sophie nhìn thấy những hình ảnh trong cái giấc mơ đã đánh thức cô không biết bao nhiêu lần khi cô còn là một cô bé. Gia đình mình vẫn còn còn sống! Họ đang về nhà! Nhưng, giống như trong giấc mơ, những hình ảnh đó tan biến vào quên lãng.
Gia đình mày đã chết, Sophie ạ. Họ không thể trở về nhà.
"Sophie…", ông cô nói trong máy trả lời tự động, "Ông đã chờ nhiều năm để nói với cháu. Chờ thời điểm thích hợp, nhưng bây giờ không còn thời gian nữa. Hãy gọi cho ông ở Louvre. Ngay khi cháu nghe được tin nhắn này. Ông sẽ chờ ở đây cả đêm. Ông e rằng cả hai ông cháu ta đều đang gặp nguy hiểm. Có quá nhiều chuyện cháu cần biết".
Tin nhắn kết thúc.
Trong yên lặng, Sophie đứng run hồi lâu, có dễ đến mấy phút. Suy đi xét lại cái tin nhắn của ông cô, chỉ có một khả năng có lý và ý đồ thực sự của ông hé lộ.
Đó là mồi nhử.
Hiển nhiên là ông cô muốn gặp cô ghê gớm. Ông đang thử mọi cách. Sự ghê tởm đốl với ông càng sâu sắc thêm. Sophie tự hỏi liệu có phải ông ốm thập tử nhất sinh nên đã quyết định thử mọi kế sách có thể nghĩ ra để làm Sophie đến thăm ông lần cuối. Nếu như vậy, ông đã lựa chọn một cách khôn ngoan.
Gia đình tôi.
Giờ đây, đứng trong bóng tối của nhà vệ sinh nam trong bảo tàng Louvre, Sophie có thể nghe thấy tiếng vọng của tin nhắn điện thoại lúc chiều. Sophie, cả hai ông cháu ta đều có thể đang gặp nguy hiểm. Hãy gọi cho ông.
Cô đã không gọi cho ông. Cũng chẳng có ý định gọi. Tuy nhiên, giờ đây, sự hoài nghi của cô đang lung lay sâu sắc. Ông cô bị giết trong bảo tàng của chính ông. Và ông đã viết một mật mã trên sàn.
Một mật mã cho cô. Về điều này thì cô chắc chắn.
Dù không hiểu ý nghĩa lời nhắn của ông, nhưng Sophie chắc chắn tính chất khó hiểu của nó là một bằng chứng thêm nữa rằng những dòng chữ đó là dành cho cô. Niềm đam mê và năng khiếu về mật mã của Sophie là kết quả của việc lớn lên bên cạnh Jacques Saunière - bản thân ông cũng mê các mật mã, các trò chơi đố chữ. Chúng ta đã dành bao chủ nhật để giải những bảng mã hóa và ô chữ trên báo?
Ở tuổi mười hai, Sophie đã có thề giải ô chữ trên tờ Le Monde mà không cần ai giúp, và ông cô nâng mức lên các ô chữ tiếng Anh, các câu đố toán học, các mật mã thay thế.
Sophie giải được hết. Cuối cùng, cô chuyển niềm đam mê thành nghề nghiệp bằng cách trở thành nhân viên giải mật mã của Cảnh sát tư pháp .
Đêm nay, người giải mật mã trong Sophie buộc phải kính nể cái cách hiệu quả mà ông cô đã vận dụng một mật mã đơn giản để liên kết hai người hoàn toàn xa lạ - Sophie Neveu và Robert Langdon.
Câu hỏi là tại sao?
Khốn thay, bằng vào cái vẻ ngơ ngác trong mắt Langdon, Sophie cảm thấy người Mỹ này cũng chẳng biết gì hơn cô về lý do tại sao ông cô đầy họ lại với nhau.
Cô lại gặng hỏi: "Ông và ông tôi dự định gặp nhau tối nay đúng không. Về chuyện gì vậy?".
Langdon có vẻ thực sự lúng túng: "Thư ký của ông cụ đã sắp đặt một cuộc gặp mặt và không đưa ra lý do cụ thể nào, mà tôi cũng không hỏi. Tôi đồ rằng ông cụ biết là tôi sẽ thuyết giảng về những hình tượng ngoại đạo trong các nhà thờ lớn của Pháp, rằng ông cụ quan tâm đến đề tài đó và nghĩ sẽ thú vị nếu hai chúng tôi gặp nhau làm vài ly sau bài nói chuyện của tôi".
Sophie không tin thế. Lý do không thuyết phục. Ông cô biết rõ về hệ hình tượng ngoại đạo hơn bất cứ ai khác trên thế giới.
Hơn thế nữa, ông là người sống riêng tư khác thường, không mấy ưa tán gẫu với các giáo sư người Mỹ tình cờ gặp, trừ khi có một lý do quan trọng.
Sophie hít một hơi thật sâu và thăm dò thêm: "Chiều nay, ông tôi gọi cho tôi, bảo là hai ông cháu tôi đang trong tình thế rất nguy hiểm. Điều đó có ý nghĩa gì với ông không?".
Đôi mắt xanh của Langdon giờ đây bị nỗi lo lắng che phủ: "Không, nhưng xét những gì vừa xảy ra…".
Sophie gật đầu. Xét những sự kiện tối nay cô có họa là đồ ngu mới không sợ hãi. Cảm thấy cạn kiệt, cô đi về phía cửa sổ làm bằng kính dầy ở cuối phòng vệ sinh và nhìn ra không gian tĩnh lặng bên ngoài qua mạng băng lưới báo động gắn vào cửa kính. Họ đang ở trên cao - ít nhất là 12-13 mét.
Thở dài, cô đưa mắt nhìn ra khung cảnh tráng lệ của Paris. Bên trái cô, bên kia sông Seine là Tháp Eiffel rực rỡ. Thẳng phía trước là Khải Hoàn Môn. Và bên phải, ở đỉnh đồi Montmartre dốc đứng, là mái vòm duyên dáng của nhà thờ Sacré - Coeur, lớp đá mài nhẵn rực lên trắng lóa như một thánh đường lộng lẫy.
Tại đây, ở đầu mút cực tây của Cánh Denon, đại lộ Place du Carrousel theo hướng bắc-nam gần như chạy ngang bằng với tòa nhà, chỉ trừ một vỉa hè hẹp ngăn cách mặt đường với tường bao của Louvre. Tít bên dướỉ, một đoàn xe tải thường giao hàng ban đêm trễ nải đứng, chờ cho đèn giao thông đổi màu, những ngọn đèn nhỏ như nháy mắt trêu chọc Sophie.
"Tôi không biết phải nói gì", Langdon tiến đến đằng sau cô.
"Hiển nhiên là ông cô đang cố nói với chúng ta điều gì đó. Tôi xin lỗi, tôi chắng giúp được gì".
Sophie quay từ phía cửa sổ lại, cảm thấy sự chân thành trong giọng trầm của Langdon. Thậm chí với tất cả những rầy rà bủa vây ông, ông vẫn thực sự muốn giúp cô. "Người thầy giáo trong ông" cô nghĩ, bởi cô đã đọc bản miêu tả chi tiết của DCPJ về kẻ tình nghi của họ. Đây là một giáo sư đại học rõ ràng không coi thường sự thông cảm.
Chúng ta có điểm này chung, cô nghĩ.
Là người giải mật mã, cô kiếm sống bằng cách đi tìm ý nghĩa từ những dứ liệu có vẻ như vô nghĩa. Tối nay, dự đoán tối ưu của cô là Robert Langdon, dù hữu thức hay vô thức, đang nắm giữ cái thông tin mà cô rất cần. Công chúa Sophie, Tìm Robert Langdon. Lời nhắn của ông cô còn có thể rõ ràng đến thế nào nữa? Sophie cần có nhiều thời gian với Langdon hơn. Thời gian để suy nghĩ. Thời gian giải mã điều bí ẩn này cùng nhau. Thật không may, thời gian đang cạn dần.
Chăm chú nhìn Langdon, Sophie đánh ngón bài duy nhất mà cô có thể nghĩ ra: "Bezu Fache sẽ tạm giam ông bất cứ lúc nào.
Tôi có thể đưa ông ra khỏi tòa nhà bảo tàng này. Nhưng chúng ta cần hành động ngay bây giờ".
Mắt Langdon mở to: "Cô muốn tôi chạy trốn sao?".
"Đó là điều thông minh nhất mà ông có thể làm. Nếu bây giờ ông để cho Fache tạm giam mình, ông sẽ phải ở trong nhà tù của Pháp nhiều tuần trong khi PCPJ và Đại sứ quán Mỹ cãi nhau xem tòa án nào sẽ xét xử vụ của ông. Nhưng nếu chúng ta đưa được ông ra khỏi đây để giải thích với Đại sứ quán Mỹ thì chính phủ ông sẽ bảo vệ quyền lợi của ông trong khi chúng ta chứng minh rằng ông không liên quan gì đến vụ sát hại này".
Langdon có vẻ không mảy may bị thuyết phục: "Quên nó đi! Fache có lính gác vũ trang ở mọi lối ral Thậm chí nếu chúng ta trốn thoát mà không bị bắn, thì chỉ riêng việc chạy trốn cũng đủ khiến chúng ta giống như có tội. Cô cần nói với Fache rằng lời nhắn trên sàn nhà là dành cho cô, và tên của tôi không phải ở đó như một lời cáo buộc".
"Tôi sẽ làm việc đó", Sohie nói, vội vã, "nhưng chỉ sau khi ông đã an toàn ở trong Đại sứ quán Mỹ". Nó chỉ cách đây khoảng một dặm và xe của tôi đỗ ngay bên ngoài bảo tàng. Đối phó với Fache từ đây là một trò may rủi. Ông không thấy sao?
Fache đã xác định nhiệm vụ của ông ta đêm nay là chứng minh rằng ông có tội. Lý do duy nhất khiến ông ta trì hoãn việc bắt ông là để tiến hành sự giám sát này với hy vọng ông sẽ làm một điều gì đó khiến cho lập luận của ông ta vững vàng hơn".
"Chính xác. Như là chạy trốn!".
Điện thoại di động trong túi áo len của Sophie đột nhiên đổ chuông. Chắc là Fache. Cô luồn tay vào túi áo len và tắt máy.
"Ông Langdon", cô nói một cách vội vã, "tôi cần hỏi ông một câu cuối cùng!". Và có thể toàn bộ tương lai của ông phụ thuộc vào nó. "Lời viết trên sàn nhà hiển nhiên không phải là bằng chứng kết tội ông, nhưng Fache nói với đội chúng tôi rằng ông ta chắc chắn ông là kẻ gây án. Ông có thể nghĩ ra lý do nào khác nữa khiến ông ta tin chắc rằng ông có tội?".
Langdon im lặng trong vài giây: "Hoàn toàn không".
Sophie thở dài. Có nghĩa là Fache đang nói dối. Tại sao, Sophie chưa nghĩ ra, nhưng đó không phải là vấn đề vào thời điểm này. Thực tế vẫn cứ là đêm nay Bezu Fache quyết tâm bắt giam Langdon bằng mọi giá. Sophie cần Langdon vì chính bản thân mình, và tình thế nan giải này khiến cô chỉ còn một kết luận duy nhất lô-gích.
Mình cần đưa được Langdon đến Đại sứ quán Mỹ.
Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dầy nhìn xuống đường từ độ cao chóng mặt khoảng mười hai mét. Một cú nhảy từ độ cao này sẽ khiến Langdon gãy cả hai chân. Thế đã là may nhất rồi.
Tuy nhiên, Sophie vẫn quyết định.
Robert Langdon sắp thoát khỏi Louvre, dù ông có muốn hay không.
 
cho em hỏi về việc bản dịch đầu tiên của cuốn sách này của dịch giả Đỗ Thu Hà bị dư luận đập cho tơi bời là do đâu ạ?
 
Nguyễn Lý Hiền Nga đã viết:
cho em hỏi về việc bản dịch đầu tiên của cuốn sách này của dịch giả Đỗ Thu Hà bị dư luận đập cho tơi bời là do đâu ạ?

Do dich bậy, sai be bét và khả năng là "dịch giả" này đã đưa bản thảo cho 1 nhóm sinh viên nào đó dịch, rồi lắp ráp lại thôi (ko có hiệu đính, biên tập gì cả).

Vụ này ầm ĩ suốt bao lâu, bị coi là "thảm họa dịch thuật"... Cái chết dở là dù sách bán chạy, hấp dẫn, nhưng thực ra mang tính giải trí nhiều hơn là văn học thực sự, lại bị (NXB ở) Việt Nam coi là một kiệt tác văn học. Nên mấy ông phê bình mới bực, bới tung ra :)

L.
 
nghe nói thời điểm đó dịch giả này bị tai nạn, làm sao mà dịch được? --> đúng là cho sinh viên dịch à?

quá vô trách nhiệm! không thể chấp nhận được! không hiểu đạo đức của người dịch giả để ở đâu? không thể lôi lý do bị NXB thúc giục này nọ mà làm bố láo thế được! nỗi hổ thẹn to lớn cho cả nền dịch thuật nước nhà!
 
Nhân tiện đính chính với khán độc giả chút là ở đây từ Chương 1 trở đi:

Người dịch: Đỗ Thu Hà Hiệu đính: Dương Tường
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, 2006
 
Chương 17


"Anh nói cô ta không trả lời nghĩa là sao?", Fache có vẻ không tin. "Anh gọi vào máy di động của cô ta, đúng không? Tôi biết cô ta có mang theo mà".
Collet đã cố liên lạc với Sophie trong vài phút vừa qua: "Có thể máy cô ấy hết pin. Hoặc hỏng chuông".
Fache có vẻ lo lắng kể từ khi nói chuyện qua điện thoại với chỉ huy Phòng Mật Mã. Sau khi gác máy, ông ta đi đến chỗ Conet và yêu cầu anh liên lạc với Sophie Neveu. Giờ đây Collet đã gọi mãi không được và Fache đi đi lại lại như con sư tử.
"Tại sao Phòng Mật Mã lại gọi tới?" Collet đánh bạo hỏi.
Fache quay lại: "Để nói với chúng ta rằng họ không tìm ra tài liệu tham khảo nào có nhắc đến "quỷ hà khắc và thánh yếu đuối".
"Có thế thôi ư?".
"Không, cũng để nói rằng họ đã nhận ra mật mã để lại là dãy số Fibonacci, nhưng họ ngờ rằng dãy số này là vô nghĩa".
Collet bối rối: "Nhưng họ vừa cử nhân viên Neveu đến để nói với chúng ta điều đó".
Fache lắc đầu: "Họ không cử Neveu đến".
"Gì cơ?".
"Người chỉ huy nói rằng theo mệnh lệnh của tôi, ông ấy đã gọi tất cả đội đến xem những bức ảnh tôi gửi cho ông ta. Khi nhân viên Neveu đến, cô nhìn những tấm ảnh chụp Saunière và mật mã rồi rời văn phòng mà không nói một lời nào. Người chỉ huy nói ông ta không thắc mắc về ứng xử của cô ấy vì cũng dễ hiểu là cô ta bị xáo đảo bởi những bức ảnh đó".
"Xáo đảo?". Cô ấy chưa bao giờ nhìn thấy một bức ảnh chụp một xác chết sao?".
Fache im lặng trong giây lát: "Hình như Sophie Neveu là cháu gái gọi Jacques Saunière bằng ông. Tôi đã không biết điều này và có vẻ như người chỉ huy cũng không biết cho đến khi một đồng nghiệp nói với ông ta".
Collet lặng đi.
Người chỉ huy nói rằng cô ta không bao giờ nhắc đến Saunière với ông ta, và ông ta cho rằng đó là do có thể cô ta không muốn được ưu đãi vì có một người ông nổi tiếng".
Không có gì là lạ khi cô ấy bị xáo đảo bởi các bức ảnh. Collet khó có thể quan niệm được sự trùng hợp bất hạnh đã xui khiến một phụ nữ trẻ đến giải một mật mã bí ẩn được viết bởi một người thân đã chết trong gia đình. Tuy nhiên, những hành động của cô ấy chẳng có nghĩa gì cả. "Nhưng rõ ràng cô ta đã nhận ra các con số đó là dãy số Fibonacci bởi vì cô ấy đã đến đây và nói cho chúng ta biết. Tôi không hiểu tại sao cô ấy rời khỏi phòng Mật Mã mà không nói với ai là cô đã tìm ra nó".
Collet chỉ có thể nghĩ ra một kịch bản duy nhất để giải thích cho những diễn tiến phức tạp đó: Saunière đã viết một mật mã số trên sàn với hy vọng Fache sẽ yêu cầu những người giải mật mã tham gia vào cuộc điều tra, và như thế sẽ có cháu gái của ông ta. Về phần còn lại của lời nhắn, liệu có phải Saunière bằng cách nào đó đang liên lạc với cháu ông ta? Nếu thế, lời nhắn nói với cô ta điều gì? Và Langdon có liên quan như thế nào?
Trước khi Collet có thể suy nghĩ kỹ càng hơn, sự tĩnh lặng của bảo tàng bị phá vỡ bởi tiếng chuông báo động. Tiếng chuông nghe như phát ra từ bên trong Hành Lang Lớn.
"Alarme!" một trong số các nhân viên hét lên, quan sát con mồi của anh ta từ trong trung tâm An ninh của Louvre: "Grande Galerie! Toilettes Messieurs!" .
Fache chạy tới chỗ Collet: "Langdon đang ở đâu?".
"Vẫn trong phòng vệ sinh naml" Collet chỉ vào chấm đỏ đang nhấp nhảy trên bản đồ trong máy tính xách tay: "Chắc ông ta đã phá cửa sổ!" Collet biết Langdon sẽ không thể đi xa.
Mặc dù các qui định về cứu hỏa của Paris yêu cầu các cửa sổ trên mười lăm mét trong các tòa nhà công cộng phải có thể phá vỡ được trong trường hợp hỏa hoạn, nhưng việc nhảy qua cửa sổ tầng hai của Louvre mà không có sự trợ giúp của móc sắt và thang sẽ chẳng khác nào tự sát. Hơn nữa, không có cây cối hay thảm cỏ ở phía tây của Cánh Denon để làm đệm cho người ngã. Ngay bên dưới cửa sổ phòng vệ sinh đó là đường Place du Carousel với hai làn xe chạy chỉ cách tường bao của bảo tàng chừng một mét. "Lạy Chúa tôi", Collet kêu lên, nhìn trừng trừng vào màn hình, "Langdon đang đi đến rìa cửa sổ".
Nhưng Fache đã sẵn sàng hành động. Rút khẩu Manurhin MR-93 từ bao súng ở vai, viên đại uý lao ra khỏi văn phòng.
Collet hoang mang nhìn màn hình khi chấm nhấp nháy đến rìa cửa sổ rồi làm một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ. Điểm sáng đã di chuyển ra bên ngoài chu vi của tòa nhà.
Điều gì đang diến ra? Anh tự hỏi. Langdon đang ở trên rỉa cửa sổ hay…
"Chúa ơi!" Collet chồm dạy khi chấm sáng nhảy xa hơn, ra bên ngoài bức tường. Tín hiệu dường như rùng mình trong giây lát và rồi sau đó chấm nhấp nháy dừng đột ngột ở một điểm cách khoảng mười mét bên ngoài chu vi tòa nhà.
Rở rẫm với bộ điều khiển, Collet bấm gọi một bản đồ đường phố Paris để xác định vị trí của chấm GPS. Sau khi phóng to ra, anh có thể nhìn thấy vị trí chính xác của tín hiệu.
Nó không còn di chuyển nữa.
Nó nằm im ở ngay giữa đường Place du Carrousel.
Langdon đã nhảy xuống.
 
Nguyễn Lý Hiền Nga đã viết:
nghe nói thời điểm đó dịch giả này bị tai nạn, làm sao mà dịch được? --> đúng là cho sinh viên dịch à?
quá vô trách nhiệm! không thể chấp nhận được! không hiểu đạo đức của người dịch giả để ở đâu? không thể lôi lý do bị NXB thúc giục này nọ mà làm bố láo thế được! nỗi hổ thẹn to lớn cho cả nền dịch thuật nước nhà!

Để anh thử kiếm mấy bài phê bình xưa, xem các lỗi bị vạch ra đã được sửa hay chưa?

Ông Dương Tường, ở đâu đó, có bảo là ổng gần như phải dịch lại hoàn toàn :) Nên cái "mác" hiệu đính cho ổng, có vẻ khiêm tốn quá :)

L.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
nhưng thực ra mang tính giải trí nhiều hơn là văn học thực sự, lại bị (NXB ở) Việt Nam coi là một kiệt tác văn học

thưa an hah truyện này ko mang tính giải trí , thực chất mang tính chính trị và tôn giáo cực kì nặng nề thì đúng hơn đấy ah
Em đọc bản Eng nên ko bit thế nào , nhưng mẹ em đọc bản dịch của Đỗ Thu Hà bảo rằng dịch cũng ko đến nỗi nào mà sao bị dư luận lên án ghê gớm thế , chỉ nhớ 1 lần xem VTV1 chào buổi sáng có 1 người phân tích là đã dịch thiếu 1 số đoạn , có thể là do ý định cố tình của tác giả thì sao
 
Lưu ý mọi người là KHÔNG post bất kể thông tin gì liên quan đến nội dung truyện Mật mã Da Vinci! ĐOÀN TRANG mới đang vừa post vừa đọc truyện! Mong mọi người tỏ ra tôn trọng người khác một chút.:)


Nguyễn Hoàng Linh đã viết:
Để anh thử kiếm mấy bài phê bình ra, xem các lỗi bị vạch ra đã được sửa hay chưa?

Ông Dương Tường, ở đâu đó, có bảo là ổng gần như phải dịch lại hoàn toàn :) Nên cái "mác" hiệu đính cho ổng, có vẻ khiêm tốn quá :)

Em có save lại các bài phê bình đó. Nhưng muốn để hết truyện mới post ra.;)
 
Đoàn Trang đã viết:
Lưu ý mọi người là KHÔNG post bất kể thông tin gì liên quan đến nội dung truyện Mật mã Da Vinci! ĐOÀN TRANG mới đang vừa post vừa đọc truyện! Mong mọi người tỏ ra tôn trọng người khác một chút.:)
Em có save lại các bài phê bình đó. Nhưng muốn để hết truyện mới post ra.;)

Giời ạ, mới dọa 1 câu đã sợ? Ai lại vô duyên thế bao giờ???

:)

L.
 
Chương 18


Fache chạy hết tốc lực theo Hành Lang Lớn trong khi tiếng Collet oang oang trên điện đàm át cả tiếng chuông báo động đằng xa.
"Ông ta nhảy rồi!" Collet la lên. "Tôi nhìn thấy tín hiệu trên đường Place du Carrousel? Bên ngoài cửa sổ phòng vệ sinh? Và nó không di chuyển nữa. Chúa ơi, tôi nghĩ Langdon vừa tự tử!".
Fache nghe thấy những lời này, nhưng chúng chẳng có nghĩa gì. Ông ta vẫn chạy. Hành lang dường như bất tận. Khi chạy qua thi thể Saunière, ông ta nhìn về phía những vách ngăn ở phía cuối của Cánh Denon. Chuông báo động lúc này kêu to hơn.
"Khoan!". Giọng của Collet lại vang lên thất thanh trên điện đàm. "Ông ta đang di chuyển! Chúa ơi, ông ta còn sống. Langdon đang di chuyển!".
Fache vẫn chạy, mỗi bước lại nguyền rủa cái hành lang dài bất tận.
"Langdon đang di chuyển nhanh hơn!" Collet vẫn gào lên trên radio. "Ông ta đang chạy theo đường Carousel. Khoan…
Ông ta đang tăng tốc. Ông ta đang di chuyển quá nhanh!".
Đến chỗ những vách ngăn, Fache chạy ngoằn ngoèo qua chúng, nhìn thấy phòng vệ sinh, ông chạy tới đó.
Tiếng điện đàm lúc này rất khó nghe qua tiếng còi báo động: "Chắc là ông ta dang ở trong một chiếc ô tô! tôi nghĩ ông ta đang ở trong một chiếc ô tô! Tôi không thể…".
Những lời của Collet bị nuốt chửng bởi tiếng còi báo động khi cuối cùng Fache xông vào phòng vệ sinh nam với khẩu súng trong tay. Nhăn mặt vì tiếng còi chói tai, ông ta lia mắt nhìn khắp.
Các khoang đều trống không. Phòng vệ sinh không có ai.
Mắt Fache ngay lập tức nhìn vào cái cửa sổ bị phá vỡ ở phía cuối phòng. Ông ta chạy tới lỗ hổng và nhìn qua na cửa sổ. Chẳng thấy Langdon đâu. Fache không thể tướng tượng có ai dám liều một cú như thế. Nếu rớt xa từ độ cao này, chắc chắn ông ta sẽ bị thương nặng.
Cuối cùng, chuông báo động cũng ngừng kêu, và giọng của Collet lại có thể nghe thấy qua điện đàm.
"Đi về hướng nam… nhanh hơn… vượt qua sông Seine trên cầu Carrousel!".
Fache quay sang trái. Chiếc xe duy nhất trên cầu Carrousel là chiếc xe tải giao hàng to gồm hai thùng xe nối nhau hiệu Trailor đang đi về phía nam xa dần khỏi Louvre. Thùng xe được phủ tấm bạt bằng nhựa, giống như một cái võng khổng lồ.
Fache cảm thấy sợ hãi. Chiếc xe tải đó, chỉ một vài khoảnh khắc trước đây, có thể đã dừng ở cột đèn đỏ thẳng ngay bên dưới cửa sổ phòng vệ sinh.
Một sự liều lĩnh điên rồ! Fache tự nhủ. Langdon không biết cái xe chở gì bên dưới tấm bạt. Điều gì sẽ xảy ra nếu chiếc xe đó chở thép? Hay xi măng? hoặc thậm chí là rác? Một cú nhảy mười ba mét ư? Đó quả là điên rồ.
"Điểm sáng đang chuyển hướng?", Collet nói. "Ông ta đang rẽ phải vào đường Pont des Saints - Pères?".
Chắc chắn rồi, chiếc xe tải Trailor đã lên cầu đang chầm chậm đi xuống và rẽ phải vào đường Pont des Saints - Peres. Đúng là nó rồi, Fache nghĩ. Ngạc nhiên, ông thấy cái xe tải biến mất ở góc phố. Collet đang gọi cho các nhân viên ra ngoài, rút khỏi bảo tàng và lên xe tuần tra đuổi theo, tất cả những thông báo về vị trí đang thay đổi của chiếc xe tải giống một bài phát thanh trực tiếp kỳ lạ. Chuyện này rồi cũng kết thúc thôi, Fache biết. Lính của ông sẽ bao vây chiếc xe tải sau vài phút. Langdon sẽ không thể đi bất cứ đâu.
Cất khẩu súng, Fache rời khỏi phòng vệ sinh và gọi cho Collet: "Mang xe ra cho tôi, tôi muốn có mặt ở đó khi chúng ta bắt ông ta".
Khi Fache chạy ngược lại dọc Hành Lang Lớn, ông ta tự hỏi liệu Langdon còn sống sau cú ngã không.
Điều đó không quan trọng.
Langdon chạy trốn, vậy là phạm tội như đã cáo buộc.
Chỉ cách phòng vệ sinh mười lăm mét, Langdon và Sophie đứng trong bóng tối của Hành Lang Lớn, lưng áp chặt vào một trong những vách ngăn che khuất phòng vệ sinh khỏi hành lang. Họ chỉ vừa kịp nấp ngay trước khi Fache phóng qua họ, súng đã rút ra, và mất hút trong phòng vệ sinh.
Sáu mươi giây vừa qua như một cảnh mờ ảo.
Langdon đã đứng trong phòng vệ sinh nam, không chịu chạy trốn khỏi một tội ác mà ông không hề phạm phái, trong khi Sophie quan sát cánh cửa sổ bằng kính dày và mạng lưới báo động dăng trên đó. Sau đó cô nhìn xuống đường như thể đo cự ly rơi.
"Với một chút cố gắng nhằm cho trúng, ông có thể ra khỏi đây cô nói".
"Nhằm trúng!". Lo lắng, ông nhìn qua cửa sổ phòng vệ sinh.
Trên phố, một chiếc xe khổng lồ mười tám bánh hai thùng đang chạy về phía trụ đèn giao thông ngay dưới cửa sổ. Một tấm bạt vi-ni-lông màu xanh căng qua thùng chở hàng rộng, che hàng hóa một cách lỏng lẻo. Langdon hy vọng Sophie không nghĩ những điều mà có vẻ như cô đang nghĩ tới.
"Sophie, tôi không thể nhảy…".
"Ông lấy cái đĩa GPS ra đi".
Ngỡ ngàng, Langdon dò trong túi cho đến khi tìm lhấy cái đĩa kim loại tí hon. Sophie đón lấy nó từ tay Langdon và ngay lập tức bước về phía bồn nước. Cô lấy một bánh xà phòng to, đặt cái đĩa lên trên rồi lấy ngón tay cái ấn nó vào trong bánh xà phòng. Khi cái đĩa lún sâu vào bề mặt mềm, cô miết cho cái lỗ hổng kín lại, khép chặt thiết bị đó trong bánh xà phòng.
Đưa bánh xà phòng cho Langdon, Sophie lấy cái thùng rác nặng, hình trụ từ bên dưới bồn nước. Trước khi Langdon kịp phản kháng, Sophie chạy tới cửa sổ, giơ cái thùng ra đằng trước như cây trụ phá thành thời xưa. Thúc mạnh đáy thùng vào giữa cửa sổ, cô phá tan mặt kính.
Chuông báo động kêu như xé tai ngay trên đầu.
"Đưa cho tôi bánh xà phòng!" Sophie hét lên, tiếng cô hầu như không nghe thấy qua tiếng chuông báo động.
Langdon nhét bánh xà phòng vào tay cô.
Giữ chặt bánh xà phòng, cô nhìn qua cửa sổ bị vỡ xuống cái xe mười tám bánh đang đỗ bên dưới. Mục tiêu rất lớn - một tấm bạt rộng, đứng yên - và chỉ cách sườn tòa nhà không đến ba mét. Khi đèn giao thông chuẩn bị chuyển màu, Sophie thở sâu và ném bánh xà phòng vào màn đêm.
Bánh xà phòng lao thắng về phía xe tải, rơi xuống mép của tấm bạt vào trong thùng hàng ngay khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh.
"Chúc mừng", Sophie nói, lôi Langdon về phía cửa. "Ông vừa thoát ra khỏi Louvre".
Chạy khỏi phòng vệ sinh nam, họ chìm vào bóng tối ngay khi Fache chạy qua.
Bây giờ, còi báo động đã tắt, Langdon có thể nghe thấy tiếng còi xe của DCPJ đang rời khỏi Louvre. Cảnh sát lũ lượt kéo đi.
Fache cũng vội vã rời đi, để lại Hành Lang Lớn trống không.
"Có một cầu thang thoát hiểm cách đây khoảng năm mươi mét, trở lui vào Hành Lang Lớn", Sophie nói. "Bây giờ lính gác đã đi khỏi tòa nhà, chúng ta có thể ra khỏi đây".
Langdon quyết định không nói một lời nào nữa trong suốt buổi tối. Sophie Neveu rõ ràng thông minh hơn ông rất nhiều.
 
Chương 19


Nghe nói Nhà thờ ờ Saint - Sulpice có lịch sử khác thường nhất so với bất kỳ tòa nhà nào khác ở Paris. Xây dựng trên đống đổ nát của một đền thờ cổ xưa thờ nữ thần Ai Cập Isis, nhà thờ có mặt bằng kiến trúc xấp xỉ với Nhà thờ Đức Bà chỉ xê xích nhau vài phân. Thánh đường này đã từng là nơi diễn ra lễ rửa tội của Marquis de Sade và Baudelaire, cũng như đám cưới của Victor Hugo. Trường dòng gắn liền với nhà thờ có lịch sử được ghi chép cẩn thận về sự không chính thống, nó đã từng là phòng họp bí mật của nhiều hội kín.
Đêm nay, gian chính thăm thầm của nhà thờ Saint-Sulpice yên ắng như một hầm mộ, dấu hiệu duy nhấl của sự sống là mùi thoang thoảng của hưưng trầm từ buổi lễ trước đó. Silas nhận thấy sự không thoải mái trong thái độ của Xơ Sandrine khi bà dẫn hắn vào nơi tôn nghiêm. Hắn không ngạc nhiên vì điều này. Silas đã quen với việc mọi người không thoải mái với sự xuất hiện của hắn.
"Cậu là người Mỹ", bà nói.
"Gốc Pháp", Silas trả lời. "Con gia nhập dòng tu của mình ở Tây ban nha, và hiện nay con đang học ở Mỹ".
Xơ Sandrine gật đầu. Bà là một người nhỏ bé với đôi mắt hiền từ: "Và cậu chưa từng nhìn thấy Saint-Sulpice?".
"Con nhận ra rằng điều đó tự thân nó đã gần như là một tội lỗi".
"Nhà thờ đẹp hơn vào ban ngày".
"Con chắc chắn là thế. Dù sao, con vẫn đội ơn Xơ đã cho con cơ hội đêm nay".
"Cha trưởng tu viện đã yêu cầu như thế. Cậu rõ ràng là có những người bạn đầy quyền lực".
Bà chẳng biết mô tê gì, Silas nghĩ.
Trong khi theo Xơ Sandrine đi dọc lối đi chỉnh, Silas ngạc nhiên trước sự khắc khổ của thánh đường này. Không giống Notre Dame với những bức tranh tường nhiều màu sắc, những bàn thờ mạ vàng và gỗ ấm, Saint - Sulpice trơ trụi và lạnh lẽo, mang một tính chất gần như cằn cỗi gọi nhớ đến các nhà thờ khổ hạnh của Tây Ban Nha. Sự thiếu vắng các đồ trang hoàng làm cho bên trong càng có vẻ rộng hơn, và khi Silas nhìn lên mái vòm cao vút, hắn tưởng tượng như đang đứng dưới một con thuyền khổng lồ úp xấp.
Một hình ảnh thích hợp, hắn nghĩ. Con thuyền của hội kín đó sẽ bị úp xấp mãi mãi. Cảm thấy háo hức muốn bắt tay vào việc, Silas những muốn Xơ Sandrine cứ để mặc hắn. Bà là một người nhỏ bé mà Silas có thể vô hiệu hóa dễ dàng, nhưng hắn đã thề không dùng bạo lực trừ phi thực sự cần thiết. Bà là một nữ tu sĩ, đâu phải lỗi tại bà khi hội kín đó chọn nhà thờ của bà làm nơi cât giấu viên đá đỉnh vòm. Bà không đáng bị trừng phạt vì tội lỗi của người khác.
"Con thật áy náy đã đánh thức Xơ vì lợi ích cá nhân mình".
"Không sao. Cậu ở Paris trong thời gian ngắn. Cậu không nên bỏ lỡ dịp tham quan Saint-Sulpice. Cậu quan tâm đến nhà thờ này về kiến trúc hay lịch sử?".
"Thực chất, thưa Xơ, sự quan tâm của con là tâm linh".
Bà cười vui vẻ: "Điều đó không cần phải nói. Tôi chỉ phân vân không biết bắt đầu dẫn cậu đi xem từ đâu?".
Silas dồn mắt vào bàn thờ: "Không cần thiết phải dẫn đâu ạ.
Xơ thật quá chu đáo. Con có thể tự mình đi xem".
"Không sao đâu", bà nói, "Tôi đã tỉnh ngủ".
Silas dừng lại. Họ đã đến hàng ghế đầu, và bàn thờ chỉ cách đó mười lăm thước. Quay cả thân hình đồ sộ lại phía người đàn bà nhỏ bé, hắn có thể cảm thấy bà co người lại khi ngước nhìn vào đôi mắt đỏ đọc của hắn. "Nói thế này khí thô lỗ, thưa Xơ, con không có thói quen bước vào ngôi nhà của Chúa chỉ đơn thuần để tham quan. Xơ có phiền nếu con muốn thư thả một mình để cầu nguyện trước khi đi xem xung quanh không?".
Xơ Sandrine do dự: "Ồ, tất nhiên là không, tôi sẽ đợi cậu ở đằng sau nhà thờ".
Silas đặt bàn tay mềm nhưng nặng lên vai bà và nhìn xuống:
"Xơ ạ con cảm thấy có lỗi vì đã đánh thức Xơ dậy. Giờ lại yêu cầu Xơ thức chờ nữa thì thật quá đáng. Xin Xơ hãy trở lại giường. Con có thể tự thưởng ngoạn thánh đường của Xơ rồi tự ra về".
Bà có vẻ không an tâm: "Cậu chắc là cậu sẽ không cảm thấy bị bỏ rơi chứ?".
"Hoàn toàn không. Cầu nguyện là một niềm vui cô độc".
"Tùy cậu thôi!".
Silas rút tay lại: "Chúc ngủ ngon! Xơ. Cầu cho sự an lành của Chúa luôn ở cùng Xơ".
"Và ở cùng cậu nữa". Xơ Sandrine đi về phía cầu thang.
"Nhớ đóng chặt các cánh cửa khi cậu ra về nhé".
"Con sẽ đảm bảo điều đó", Silas nhìn theo cho đến khi bà đi khuất. Sau đó hắn quay lại và quỳ trên ghế băng đằng trước, cảm thấy cái dây lưng hành xác cứa vào chân.
Chúa kính yêu, con dâng lên Người công việc mà con làm hppm nay…
Cúi mình trong bóng tối của ban công dàn thánh ca ở phía trên bàn thờ, Xơ Sandrine lặng lẽ nhìn qua hàng lan can, quan sát người thầy tu mặc áo choàng dài đang quỳ gối một mình. Nỗi khiếp sợ bất chợt trong linh hồn khiến bà khó có thể ngủ được.
Trong giây phút thoáng qua, bà tự hỏi liệu vị khách bí ẩn này có thể là kẻ thù mà họ đã cảnh báo bà không, và liệu đêm nay bà có phải chấp hành những mệnh lệnh mà bà vẫn ghi nhớ suốt những năm qua không. Bà quyết định ở lại trong bóng tối và theo dõi mọi cử động của hắn.
 
Chương 20


Ra khỏi bóng tối, Langdon và Sophie len lén đi ngược hành lang vắng lặng, tiến về phía cầu thang thoát hiểm.
Vừa bước đi, Langdon vừa cảm thấy như đang cố làm một trò chơi ghép hình trong bóng tối. Khía cạnh mới nhất của bí ẩn này là một điều làm ông hoang mang sâu sắc: Tay đại uý Cảnh sát tư pháp đang cố tạo dựng chúng cớ để khép mình vào tội giết người.
"Cô có nghĩ", ông thì thầm, "rằng có thể Fache là người viết lời nhắn trên sàn đó không?".
Sophie thậm chí không ngoảnh mặt lại: "Không thể nào".
Langdon thì không chắc chắn như vậy: "Ông ta dường như cố ý chứng minh là tôi phạm tội. Có lẽ ông ta nghĩ viết tên tôi lên sàn sẽ giúp ông ta phá án chăng?".
"Thế còn dãy số Fibonacci? Hai chữ P.S.? Và cả bức ký họa Da Vinci và biểu tượng nữ thần nữa? Tất cả thảy là của ông tôi".
Langdon biết rằng cô ấy đúng. Tính biểu tượng của các đầu mối ăn khớp với nhau quá hoàn hảo hình sao năm cánh, bức ký họa Người Vitruvian của Da Vinci, nữ thần và cả cái dãy số Fibonacci ấy nữa. "Một bộ biểu tượng nhất quán" như cách gọi của các nhà nghiên cứu hình tượng minh họa. Tất cả kết nối với nhau chặt chẽ không cách chi gỡ ra nổi.
"Và chiều nay ông tôi đã gọi cho tôi", Sophie nói thêm. "Ông bảo ông cần nói với tôi một điều gì đó. Tôi chắc lời nhắn của ông tại bảo tàng Louvre là những nỗ lực tối hậu để nói cho tôi biết điều gì đó quan trọng, một điều mà ông tôi nghĩ ông có thể giúp tôi hiểu".
Langdon cau mày. Ôi, quỷ hà khắc! Ôi thánh yếu đuối! Ông ước mình có thể hiểu rõ lời nhắn đó, vừa vì lợi ích của Sophie vừa vì chính ông nữa. Sự thể rành là đã xấu đi kể từ khi ông nhìn thấy lần đầu tiên những từ ngữ khó hiểu đó. Cái kẻ đóng giả ông nhảy qua cửa sổ nhà vệ sinh sẽ chẳng khiến Fache mến mộ Langdon thêm chút nào. Cách nào đó, ông không tin rằng viên đại uý cảnh sát Pháp có thể thấy được nét hài hước trong việc đuổi bắt một bánh xà phòng.
"Lối vào không còn xa lắm đâu", Sophie nói.
"Liệu có khả năng những con số trong tin nhắn của ông cô chứa đựng chìa khoá để hiểu những dòng khác không?".
Langdon đã từng nghiên cứu một loạt văn bản viết tay của người Baconian, những văn tự có kí tự khắc trên bia đá, trong đó mã số nằm ở một số dòng nhất định là đầu mối để giải mã những dòng khác.
Cả tối nay tôi đã nghĩ về những con số đó. Những phép tính, thương số, kết quả. Tôi chẳng thấy được điều gì cả. Về mặt toán học mà nói, chúng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên. Một chuỗi kí tự tào lao".
"Nhưng chúng là một phần của dãy số Fibonacci. Đó không thể là sự trùng hợp được".
"Đúng thế. Sử dụng dãy số Fibonacci là một cách khác để ông tôi thu hút sự chú ý của tôi - cũng như viết lời nhắn bằng tiếng Anh, hoặc sắp xếp thân thể mình theo tư thế hệl như cái tác phẩm nghệ thuật ưa thích của tôi, hoặc vẽ một hình sao năm cánh lên người mình. Tất cả chỉ để thu hút sự chú ý của tôi".
"Hình sao năm cánh có ý nghĩa đối với cô?".
"Vâng. Tôi chưa có cơ hội để nói với ông, nhưng hình sao năm cánh là một kí hiệu đặc biệt giữa ông cháu tôi hồi tôi còn nhỏ. Chúng tôi thường chơi bài Taro để giải trí, và con bài hiệu do tôi rút bao giờ cũng nằm trong bộ sao năm cánh. Tôi dám chắc ông đã sắp bài cho nó ra như thế, nhưng những bộ sao năm cánh chỉ là trò đùa nho nhỏ của chúng tôi thôi".
Langdon cảm thấy rùng mình. Họ đã từng chơi bài Taro ư? Trò chơi bài này của người Ý thời trung cổ tự nó đã ẩn giấu quá nhiều những biểu tượng dị giáo đến nỗi Langdon đã dành toàn bộ một chương trong bản thảo mới của ông để viết về bài Taro. Hai mươi hai quân bài của trò chơi này có những cái tên như: "Nữ giáo hoàng, nữ hoàng và Ngôi sao". Thoạt kỳ thuỷ, bài Taro được bày tạo ra như là một phương cách bí mật để truyền đi những tư tưởng bị Nhà Thờ cấm đoán. Ngày nay, bí ẩn trên những quân bài Taro dược những bà thầy bói thời hiện đại lưu truyền.
Bộ bài hiệu Taro hợp với tính nữ thiêng liêng lò bộ sao năm cánh.
Langdon nghĩ, nhận ra rằng nếu Saunière sắp bài cho cô cháu gái như thế cho vui thì bộ sao năm cánh là trò đùa có nội dung thích hợp.
Họ đã đến cầu thang thoát hiểm, và Sophie thận trọng đẩy cửa. Không có chuông báo động nào kêu cả. Chỉ có những cánh cửa dẫn ra bên ngoài là có cài hệ thống báo động. Sophie dẫn Langdon xuống một cầu thang hẹp ngoằn ngoèo dẫn đến tầng trệt, mỗi lúc một rảo bước nhanh hơn.
"Khi nói về hình sao năm cánh", Langdon nói, vội vã theo sau cô, "Ông cô có đề cập đến việc thờ nữ thần hay bất cứ một phẫn uất nào đối với Nhà thờ Cơ đốc chính thống không?".
Sophie lắc đầu: "Tôi quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh toán học của nó - Tỷ lệ thần thánh PHI, dãy số Fibonacci, đại loại như thế.".
Langdon ngạc nhiên: "Ông cô dạy cô về số PHI à?".
"Tất nhiên. Tỷ lệ thần thánh đó". Vẻ mặt cô trở nên ngượng ngập. "Thực tế, ông thường hay nói đùa rằng nửa phần tôi là thần thánh… Ông biết đấy, đó là do những chữ cái trong tên tôi".
Langdon suy nghĩ trong chốc lát rồi lẩm nhẩm.
s-o-P-H-I-e.
Vừa đi xuống Langdon vừa tập trung ngẫm nghĩ lại số PHI.
Ông bắt đầu nhận ra rằng những đầu mối của Saunière có thực chất hơn ông tưởng lúc đầu.
Da Vinci… dãy số Fibonacci… hình sao năm cánh.
Không thể tin được, tất cả những điều này đều được kết nối bởi độc một khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật mà Langdon thường dành cả mấy tiết học để giảng về nó.
PHI
Ông cảm thấy như đột nhiên quay về đại học Harward, đứng trong giờ giảng Chữ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật của mình, viết con số ưa thích lên bảng đen.
1,618
Langdon quay mặt về phía đám đông sinh viên dầy hào hứng: "Ai có thể nói cho tôi biết con số này là gì?".
Một sinh viên chân dài chuyên ngành toán học ngồi ở phía sau giơ tay: "Đó là số PHI". Cậu ta dài giọng ph-i-i.
"Tốt lắm Stettner", Langdon nói, "xin giới thiệu PHI với tất cả".
"Đừng có nhầm lẫn với PI", Stettner thêm vào rồi cười toét. Như cánh toán học chúng tôi thích nói: "PHI hơn hẳn PI một con H".
Langdon cười nhưng dường như không ai hiểu câu nói đùa đó.
Stettner buồn thiu.
"Số PHI này". Langdon tiếp tục, "một-phấy-sáu-một-tám, là một con số vô cùng quan trọng trong nghệ thuật. Ai có lhể nói cho tôi biết tại sao?".
Stettner cố chứng tỏ mình lần nữa: "Bởi vì nó rất đẹp phải không ạ?".
Mọi người cười rộ lên.
"Thực ra", Langdon nói, "Stettner lại một lần nữa nói đúng. Nói tóm lại, PHI được coi là con số đẹp nhất trong vũ trụ".
Tiếng cười đột ngột dứt hắn, và Stettner đắc chí.
Vừa lắp phim vào máy chiếu Slide, Langdon vừa giải thích rằng số PHI bắt nguồn từ dãy số Fibonacci - một cấp số nổi tiếng không chỉ vì tổng số những số hạng kề nhau sẽ bằng số hạng kế tiếp, mà còn bởi thương số của những số hạng kề nhau có một đặc tính kỳ lạ là đều suýt xoát số l,618 - PHI!
Mặc dù nguồn gốc toán học của số PHI có vẻ như huyền bí, Langdon giải thích, khía cạnh gây sửng sốt thực sự của PHI lại nằm ở vai trò của nó với tư cách là một nhân tố xây dựng mang tính nền tảng trong tự nhiên. Thực vật, động vật, và thậm chí cả con người đều có những thuộc tính về kích thước gắn chặt với tỉ số giữa PHI và 1 tới một dộ chính xác kỳ bí!
"Số PHI có mặt khắp nơi trong tự nhiên", Langdon vừa nói vừa tắt đèn, "rõ ràng điều đó vượt quá sự trùng hợp, và vì vậy nên người xưa cho rằng con số PHI hần là đã được tiền định bởi Đấng Sáng Thế. Các nhà khoa học buổi ban đầu đã tuyên bố một - phẩy - sáu - một - tám là Tỷ lệ thần thánh".
"Khoan", một cô gái ở hàng ghế đầu lên tiếng, "Tôi là sinh viên chuyên khoa sinh học và tôi chưa bao giờ thấy Tỷ lệ thần thánh này trong tự nhiên cả".
"Chưa à?", Langdon mỉm cười. "Bạn đã bao giờ nghiên cứu con cái và con đực trong xã hội của loài ong chưa?".
"Đương nhiên rồi. Sô ong cái luôn nhiều hơn số ong đực".
"Chính xác. Và bạn có biết rằng nếu bạn chia số ong cái cho số ong đực trong bất cứ một tổ ong nào trên thế giới, bạn luôn được cùng một số thương không?".
"Thầy đã làm rồi ạ?".
"Đúng vậy. Số PHI".
Cô gái há hốc miệng: "Không thể nào?".
"Hoàn toàn có thể!". Langdon quặc lại, rồi mỉm cười chiếu một hình vỏ ốc trên slide. "Bạn nhận ra cái này chứ?".
"Đó là một con ốc anh vũ", cô sinh viên sinh học nói. "Một loài nhuyễn thể có vỏ cứng, có thể đẩy không khí vào trong vỏ để điều chỉnh độ nổi hay chìm trong nước".
"Chính xác. Và bạn có thể đoán được tỉ số của mỗi đường kính vòng xoắn này với đường kính vòng xoắn kế tiếp không?".
Cô gái có vẻ phân vân khi quan sát những vòng tròn đồng tâm trên vỏ xoắn của con ốc anh vũ.
Langdon gật đầu: "PHI. Tỷ lệ thần thánh. Một-phẩy-sáu-một-tám trên một".
Trông cô gái đầy vẻ kinh ngạc.
Langdon chuyển sang tấm slide tiếp theo - bản chụp cận cảnh một đầu hạt hoa hướng dương: "Hạt hoa hướng dương có những vòng xoáy đối ngược nhau. Bạn có thể đoán được tỉ số giữa đường kính vòng tròn này với đường kính vòng trên kế tiếp không?".
"Là PHI?" Tất cả đồng thanh.
"Tuyệt". Bây giờ Langdon chiếu nhanh tất cả các tấm slide các đường trôn ốc trên quả thông, cách sắp xếp lá trên những nhánh cây các vạch trên bụng côn trùng, tất cá đều tuân theo Tỷ lệ thần thánh đến mức kinh ngạc.
"Thật kỳ lạ", ai đó reo lên.
"Phải", một người khác nói, "nhưng cái đó có liên quan gì đến nghệ thuật?".
"Aha", Langdon reo lên, "rất vui vì bạn đã hỏi điều đó". Ông chiếu một tấm slide khác - một tấm giấy da vàng nhạt có hình người đàn ông khoả thân nổi tiếng của Leonardo Da Vinci Người Vitruvian được đặt tên theo Marcus Vitruvius, kiến trúc sư lỗi lạc người La mã, người đã đánh giá rất cao Tỷ lệ thần thánh trong một cuốn sách của ông mang tên Kiến trúc.
Không ai hiểu cấu trúc thần thánh của con người hơn Da Vinci Thực tế Da Vinci đã khai quật các ngôi mộ để đo đạc chính xác tỉ lệ các cấu trúc xương trong cơ thể con người. Ông là người đầu tiên chứng minh rằng cơ thể con người, nói một cách chính xác theo nghĩa đen, được làm bằng các khối mà tỉ lệ giữa chúng luôn luôn là PHI".
Mọi người trong giảng đường đều nhìn ông với vẻ ngờ vực.
"Không tin tôi phải không?". Langdon thách thức. "Lần tới các bạn tắm vòi hoa sen, hãy thử đo mình bằng thước dây xem".
Hai cầu thủ bóng đá cười khúc khích.
"Không chỉ hai bạn vận động viên kia đâu", Langdon phản ứng lại ngay. "Mà là tất cả các bạn. Nào các chàng trai, cô gái.
Thử nhé. Hãy đo khoảng cách từ đỉnh đầu các bạn cho đến khi chạm đất. Rồi chia nó cho khoảng cách từ rốn các bạn đến mặt đất. Hãy đoán xem con số mà các bạn đạt được".
"Không phải số PHI!" Một trong hai gã vận động viên thốt lên, không tin.
"Là số PHI", Langdon đáp lại, "một-phẩy-một-sáu-một-tám.
Cần một ví dụ khác nữa không? Hãy đo khoảng cách từ vai đến các đầu ngón tay, rồi chia nó cho khoảng cách từ khuỷu tay đến các đầu ngón tay. Lại một số PHI nữa. Một ví dụ khác nhé? Hãy chia khoảng cách từ đầu gối đến mặt đất cho khoảng cách từ hông đến mặt đất. Một số PHI nữa. Lòng bàn tay.
Ngón chân cái. Các dốt sống. PHI. PHI. PHI. Các bạn của tôi ơi, mỗi người trong các bạn đều là một minh chứng sống cho Tỷ lệ thần thánh".
Ngay cả trong bóng tối, Langdon cũng có thể nhìn thấy tất cả bọn họ sững sờ. Ông cảm thấy một sự ấm nóng quen thuộc trong lòng. Đây chính là lí do tại sao ông dạy học. "Các bạn của tôi như các bạn đã thấy, bên dưới sự hỗn độn của thế giới, vẫn có một trật tự. Khi người xưa phát hiện ra số PHI, họ chắc chắn rằng họ đã tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà Chúa Trới dùng để tạo nên thế giới này, và họ tôn thờ tự nhiên vì lí do đó. Và người ta có thể hiểu tại sao trong tự nhiên rõ ràng có bàn tay của Chúa Trời, và cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại những tôn giáo vô thần thờ Mẹ Đất. Nhiều người trong chúng ta tôn vinh tự nhiên theo cách mà những tín đồ ngoại giáo vẫn làm, mà thậm chí không biết thế. Ngày mồng một tháng năm là một thí dụ điển hình, ngày lễ tôn vinh mùa xuân… Trái Đất hồi sinh để ban tặng sự hào phóng của mình. Ngay từ buổi sơ khai, người ta đã viết về phép thuật bí ẩn cố hữu nơi Tỷ lệ thần thánh. Con người chỉ đơn giản hoạt động theo những quy luật của tự nhiên, và bởi vì nghệ thuật chính là nỗ lực của con người để bắt chước cho được vẻ đẹp từ bàn tay Đấng Sáng Thế, các bạn có thể tướng tượng rằng chúng ta sẽ được tận mắt thấy rất nhiều bằng chứng về Tỷ lệ thần thánh trong nghệ thuật học kỳ này".
Hơn một nửa giờ nữa trôi qua, Langdon cho đám sinh viên xem những slide về các tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Albrecht, Dyrer, Da Vinci và nhiều người khác, để minh chứng sự áp dụng triệt để và đầy chủ ý của mỗi nghệ sĩ đối với Tỷ lệ thần thánh trong bố cục mỗi tác phẩm của mình. Langdon cũng chỉ rõ PHI trong các kích thước kiến trúc của đền Parthenon Hi lạp, của các Kim tự tháp Ai cập, và thậm chí của cả toà nhà trụ sở của Liên hợp quốc tại New York. PHI cũng xuất hiện trong cấu trúc tổ chức của các bản sonate của Mozart, bản giao hướng số 5 của Beethoven, cũng như các tác phẩm của Bartók, Debussy và Schubert. Số PHI, Langdon nói với sinh viên, thậm chí còn được Stradivarius sử dụng để tính toán vị trí chính xác của những khe hình chữ, khi ông tạo ra những cây đàn viôlông nổi tiếng của mình.
"Để khép lại". Langdon vừa nói vừa bước về phía chiếc bảng, "chúng ta quay trở về với các biểu tượng". Ông vẽ năm đường giao nhau, tạo nên một ngôi sao năm cánh: "Đây là một trong những hình ảnh đầy quyền năng nhất mà các bạn sẽ thấy trong học kỳ này. Bình thường nó được biết đến như là một hình sao năm cánh - hay pentacle như lổ tiên ta đã gọi - biểu tượng này được nhiều nền văn hoá coi là linh thiêng và huyền bí. Có ai có thể nói cho tôi biết vì sao lại thế không?".
Stettner, anh sinh viên khoa toán đó, lại giơ tay: "Bởi vì nếu thầy vẽ một hình sao năm cánh, các đường thẳng sẽ tự chia nó thành những đoạn theo Tỷ lệ thần thánh".
Langdon gật đầu đầy tự hào với chàng sinh viên: "Rất tốt.
Đúng thế, tỉ lệ giữa các đoạn thẳng trong hình sao năm cánh, tât cả đều bằng PHI, khiến cho biểu tượng này trở thành biểu hiện rối hậu của Tỷ lệ thần thánh. Vì lí do này, hình sao năm cánh luôn luôn là biểu tượng của vẻ đẹp và sự hoàn hảo gắn với các nữ thần và tính nữ linh thiêng".
Các cô gái trong lớp mỉm cười rạng rỡ.
"Các bạn, xin lưu ý một điểm. Hôm nay chúng ta mới chỉ đụng đến Da Vinci một chút thôi, nhưng rồi chúng ta sẽ còn tiếp xúc với ông nhiều hơn nữa trong học kỳ này. Leonardo là một người say mê những phong cách cổ xưa của các nữ thần, về điều này chúng ta có rất nhiều tài liệu. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ Bữa ăn tối cuối cùng của ông, đó là một trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính dối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng".
"Thầy đang nói đùa bọn em, phải không ạ?" Ai đó lên tiếng.
"Em nghĩ Bữa ăn tối cuối cùng là về Chúa Jesus?".
Langdon nháy mắt: "Có những biểu tượng lẩn khuất ở những chỗ mà bạn không thể tướng tượng nổi".
"Đi nào", Sophie thì thầm. "Có chuyện gì thế? Chúng ta đã gần tới đích rồi. Nhanh lên?".
Langdon ngước nhìn lên, ông cảm thấy như mình vừa quay trở lại từ một nơi xa xăm trong tiềm thức. Ông nhận ra là mình đang đứng đực ra trên cầu thang, sững lại bởi một phát hiện đột ngột.
Ôi, quỷ hà khắc! Ôi thánh yếu đuối (O, Draconian devil! Oh, lame saint!)
Sophie ngoái nhìn ông.
Nó không thể chỉ đơn giản như thế, Langdon nghĩ.
Nhưng ông biết tất nhiên nó là như thế.
Nơi đây, trong lòng viện bảo tàng Louvre… với hình ảnh PHI và Da Vinci xoáy lộn trong tâm trí, đùng một cái Robert Langdon bất ngờ đã giải được mật mã của Saunière.
"O, Draconian devil!" ông nói, "Oh, lame Saint! Đó là loại mật mã đơn giản nhất!".
Sophie dừng lại ở vài bậc cầu thang bên dưới Langdon, cô nhìn lên không hiểu. "Một loại mật mã". Cô đã nghĩ đi nghĩ lại những từ ngữ đó cả tối nay rồi và chẳng thấy ở đó một mật mã nào cả. Nhất là một loại mật mã đơn giản.
"Chính cô đã nói điều này". Giọng Langdon vang lên, phấn khích. "Dãy số Fibonacci chỉ có ý nghĩa trong trật tự đúng của nó. Nếu không, nó chỉ là một trò toán học tào lao".
Sophie chẳng hiểu Langdon đang nói gì. Dãy số Fibonacci? Cô chắc chắn rằng nó chẳng nhằm gì khác ngoài việc kéo Bộ phận giải mật mã vào cuộc đêm nay. Nó có một mục đích khác chăng?
Cô thọc tay vào túi và lôi ra một bản in, xem xét lại dòng tin nhắn của ông cô.
13-3-2-21-1-1-8-5
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint!
Những con số này thì sao?
"Dãy số Fibonacci bên trên đó là một đầu mối", Langdon vừa nói vừa cầm lấy bản in. "Những con số này ám chỉ cách giải mã phần còn lại của tin nhắn. Ông ấy đã viết nó lộn xộn để nói với chúng ta rằng hãy áp dụng cách tương tự cho phần bên dưới. O, Draconian devil! Oh, lame Saint! ư? Những dòng chữ này chẳng có ý nghĩa gì cả. Đơn giản chúng chỉ là những chũ cái viết lộn xộn thôi".
Sophie chỉ cần một thoáng để lĩnh hội hàm ý của Langdon, và dường như nó đơn giản đến tức cười. "Ông nghĩ tin nhắn này là… une anagramme?" cô liếc nhìn ông: "Giống trò chơi đảo chữ cái trên báo".
Langdon có thể thấy sự nghi ngờ trên mặt của Sophỉe và tất nhiên ông hiểu điều đó. It người nhận biết được rằng anagram, mặc dù là một trò giải trí nhàm chán của thời hiện đại, lại có một lịch sử phong phú về biểu tượng linh thiêng.
Những giáo lý huyền bí của người Do thái được viết ra hầu hết dựa trên cách đảo chữ cái - sắp xếp lại các âm tiết trong các từ tiếng Hêbrơ sẽ tạo ra những ý nghĩa mới. Trong suốt thời kỳ Phục hưng, các vua Pháp tin chắc rằng anagram nắm giữ một quyền năng ma thuật đến nỗi họ đã bổ nhiệm những chuyên gia anagram trong hoàng gia để giúp họ đưa ra những quyết định sáng suốt hơn bằng cách phân tích các từ ngữ trong những tài liệu quan trọng. Người La Mã đã thực sự gọi việc nghiên cứu anagram là một ars magna "nghệ thuật vĩ đại".
Langdon ngước nhìn Sophie, bốn mắt giao nhau: "Ý của ông cô nằm ngay trước mắt chúng ta, ông ấy để lại cho chúng ta quá đủ đầu mối để hiểu rõ nó".
Không nói một lời nào nữa, Langdon rút từ trong túi ra một cây bút và sắp xếp lại các chữ cái ở mỗi dòng.
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint! là một trò đảo chữ hoàn hảo của…
Leonardo Da Vinci!
The Mona Lisa!
 
Chương 21


Bức Mona Lisa Trong khoảnh khắc, đứng ở lối cầu thang thoát hiểm, Sophie quên hẳn họ đang tìm cách rời khỏi Bảo tàng Louvre.
Cú sốc bởi trò anagram này chỉ có thể sánh với nỗi ngượng do cô không tự mình giải mã được lời nhắn. Sự thành thạo của Sophie trong việc giải những dòng mật mã phức tạp đã khiến cô bỏ qua những trò chơi chữ đơn giản mà cô biết đáng lẽ cô phải nhìn ra. Nói cho cùng, cô đâu có lạ gì anagram - nhất là anagram bằng tiếng Anh.
Khi cô còn nhỏ, ông cô thường dùng nanagram để luyện chính tả tiếng Anh cho cô. Có lần ông viết từ tiếng Anh "planets" (các hành tinh) và bảo Sophie rằng có tới chín mươi hai từ tiếng Anh khác có độ dài khác nhau có thể được ghép bằng cùng những chữ cái đó một con số đáng kinh ngạc. Sophie đã mất ba ngày ngồi bên một cuốn từ điển cho đến khi cô tìm thấy tất cả những từ ấy.
"Tôi không thể tưởng tượng được". Langdon vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào tờ giấy, "Làm thế nào mà ông cô lại nghĩ ra được một anagram rắc rối đến thế chỉ trong vòng vài phút trước khi chết!".
Sophie biết lời giải thích cho thắc mắc đó, và việc nhận ra điều đó càng khiến cô cảm thấy xấu hổ hơn. Đáng ra mình phải thấy ra điều đó! Rồi cô nhớ ra rằng ông cô - một người say mê chơi chữ và yêu nghệ thuật - đã tự tiêu khiển như một chàng trai trẻ bằng cách sáng tạo những anagram bằng tên các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trên thực tế, một trong những anagram của ông đã từng khiến ông gặp rắc rối, đó là khi Sophie còn rất nhỏ. Trong khi được một tạp chí nghệ thuật của Mỹ phỏng vấn, Saunière đã nhấn mạnh sự chán ghét của mình đối với trào lưu chủ nghĩa lập thể hiện đại bằng cách nhận xét rằng kiệt tác của Picasso "Les Demosielles d'Avignon (Các cô nàng vùng Avignon)" là một anagram hoàn hảo của cûa vile meaningless doodles (những nét nguệch ngoạc xấu xí vô nghĩa). Những người hâm mộ Picasso không cảm thấy hài lòng về chuyện này.
"Ông tôi có lẽ đã tạo ra cái anagram về Mona Lisa này từ lâu rồi", Sophie nói, liếc nhìn Langdon. Và tối nay ông bắt buộc phải sử dụng nó như một mật mã tạm thời. Như thể tiếng ông cô từ thế giới bên kia vọng về với một độ chính xác rợn người.
Leonardo da Vinci!
Bức tranh la Lisa!
Tại sao những lời cuối của ông cho cô lại quy chiếu về bức tranh nổi tiếng ấy nhỉ. Sophie không biết, nhưng cô có thể nghĩ về một khả năng duy nhất. Một khả năng khiến cô thật rối trí.
Đó không phải là những lời cuối cùng của ông…
Cô phải đến chỗ bức tranh Mona Lisa ư? Liệu ông có để lại cho cô một lời nhắn nào ở đó không? Ý này có vẻ hoàn toàn hợp lí. Rốt cuộc, bức tranh nổi tiếng ấy đang được treo ở Salle des Etats - một phòng bày riêng biệt chỉ có thể vào từ Hành Lang Lớn. Thực tế - lúc này, Sophie nhận ra - cửa vào phòng bày riêng đó chỉ cách nơi ông cô chết hai mươi mét.
Rât có thể ông đã đến thăm Mona Lisa trước khi chết.
Sophie ngoái nhìn cầu thang thoát hiểm và cảm thấy phân vân. Cô biết cô nên đưa Langdon ra khỏi bảo tàng ngay lập tức, tuy nhiên linh tính lại mách cô làm ngược lại. Khi Sophie nhớ lại chuyến viếng thăm đầu viên hồi còn nhỏ đến Cánh Denon, cô nhận ra rằng nếu ông cô có một bí mật muốn nói với cô thì hiếm nơi nào trên trái đất này thích hợp hơn bức hoạ Mona Lisa của Da Vinci.
"Cô ấy chỉ còn cách một chút xíu nữa thôi", ông cô khẽ thì thầm, nắm chặt bàn tay nhỏ của Sophie sau khi dẫn cô đi khắp bảo tàng vắng lặng hàng giờ liền.
Sophie sáu tuổi. Cô cảm thấy nhỏ bé và chầng có ý nghĩa gì khi ngước lên thấy trần nhà to tướng, còn cúi xuống thì lại thấy sàn rộng đến hoa mắt, chóng mặt. Bảo tàng vắng ngắt làm cô sợ mặc dù cô không hề muốn ông biết điều đó. Cô cắn chặt răng và cứ để ông dắt đi.
"Ngay phía trước là Salle des Etats đấy", ông cô nói khi bước đến căn phòng nổi tiếng nhất bảo tàng Louvre. Dù thấy rõ là ông rất hào hứng, Sophie vẫn muốn về nhà. Cô đã nhìn thấy những bức ảnh chụp Mona Lisa trong nhiều cuốn sách và chẳng thích nó chút nào cả. Cô không hiểu tại sao mọi người lại làm rùm beng đến thế.
"C' est ennllyeux" Sophie càu nhàu.
"Boring chứ", ông cô chữa lại. "Ở trường, nói tiếng Pháp. Ở nhà, nói tiếng Anh".
"Le Louvre, c' est pas chez moi!" . Cô bé cãi.
Ông cười mệt mỏi: "Cháu nói đúng. Vậy thì chúng ta nói tiếng Anh cho vui thôi".
Sophie dẩu môi rồi tiếp tục bước đi. Khi họ bước vào Salle de Etats, cô bé đưa mắt khắp căn phòng hẹp rồi dừng lại ở một vị trí danh dự chính giữa bức tướng bên phải, nơi có một bức chân dung lẻ loi treo sau lớp plexiglas bảo vệ. Ông cô dừng lại nơi cửa ra vào và ra hiệu về phía bức tranh.
"Bước tới đi, Sophie. Không mấy ai có cơ hội tới thăm cô ấy một mình đâu".
Nén nỗi e sợ, Sophie chầm chậm đi ngang căn phòng. Sau tất cả những gì cô nghe nói về bức họa Mona Lisa cô cảm thấy như đang đến gần long nhan cô ấy. Tới trước tấm plexiglas, Sophie nín thở và ngước lên, và ngay lập tức, cô bé cảm nhận được tất cả.
Sophie không hình dung được đích xác điều mà cô chờ đợi sẽ cảm nhận dược, nhưng chắc chắn nó không phải như thế này.
Không giật mình kinh ngạc, không một khoảnh khắc ngỡ ngàng. Gương mặt trứ danh này trông cũng y hệt như trong sách thôi. Cô đứng yên lặng một hồi lâu tướng như bất tận, chờ một điều gì đó xảy đến. lNào, cháu nghĩ thế nào?" ông cô thì thầm, lúc này đã tới đằng sau cô. "Đẹp chứ".
"Cô ấy bé quá".
Ông Saunière mỉm cười: "Cháu cũng bé mà vẫn đẹp đấy thôi!
Mình đâu có đẹp, cô nghĩ Sophie ghét mái tóc đỏ quạch và những vết tàn nhang của mình và cô còn bự hơn tất cả bọn con trai trong lớp nữa chứ. Cô quay lại nhìn bức Mona Lisa và lắc đầu: "Thậm chí cô ấy còn xấu hơn cả trong sách. Mặt cô ta trông… brumeux" .
"Foggy" , ông dạy.
"Vâng, foggy", Sophie nhắc lại, biết rằng cuộc trò chuyện sẽ không tiếp tục khi cô chưa nhắc lại cái từ mới ấy.
"Người ta gọi đó là phong cách hội họa sfumato". Ông nói với cô rất khó thực hiện. Leonardo da Vinci làm ngón này giỏi hơn bất kì ai".
Sophie vẫn không thích bức tranh ấy: "Trông cứ như thể cô ta biết một điều gì đó… giống như trẻ con ở trường có một cái gì bí mật ấy".
Ông cô bé cười rộ. "Đó là một phần lí do khiến cô ây trở nên nổi tiếng. Người ta thích đoán xem tại sao cô ấy tủm tỉm cười".
"Ông biết tại sao cô ấy tủm tỉm cười phải không ạ?".
"Có thể", ông cô bé nháy mắt, "một ngày nào đó ông sẽ nói tất cả điều đó cho cháu".
Sophie giậm giậm chân. "Cháu đã bảo ông rồi, cháu không thích những bí mật!".
"Này công chúa", ông mỉm cười, "Cuộc sống chứa đầy những bí mật. Cháu không thể nào biết hết được ngay lập tức đâu".
"Tôi sẽ quay trở lại", Sophie tuyên bố, tiếng cô ồm ồm trong khoang cầu thang.
"Đến chỗ bức tranh Mona Lisa phải không?". Langdon đáp lại.
"Ngay bây giờ sao?".
Sophie cân nhắc sự mạo hiểm: "Tôi không bị tình nghi giết người. Tôi sẽ liều một phen. Tôi cần hiểu ông tôi định nói gì với tôi "Thế còn đại sứ quán thì sao?".
Sophie cảm thấy có lỗi khi biến Langdon thành một kẻ đào tẩu để rồi lại bỏ rơi ông, nhưng cô không thấy lựa chọn nào khác. Cô chỉ xuống một cánh cửa kim loại. "Hãy đi qua cánh cửa đó, rồi theo những biển đèn hiệu chỉ lối ra. Dạo xưa, ông tôi thường đưa tôi xuống đây. Những đèn hiệu này sẽ đưa ông đến một cửa xoay an toàn. Cửa chỉ xoay một chiều cho người đi ra". Cô đưa Langdon chìa khoá xe ôtô của mình: "Xe của tôi là chiếc SmartCar màu đỏ ở khu vực để xe của nhân viên.
Ngay bên ngoài tường ngăn. Ông có biết đường đến đại sứ quán không?".
Langdon gật đầu, đưa mắt nhìn chiếc chìa khoá trong tay mình.
"Nghe này", Sophie nói, giọng cô dịu hẳn đi. "Tôi nghĩ chắc ông tôi đã để lại cho tôi một lời nhắn ở chỗ bức tranh Mona Lisa một thứ đầu mối để lần ra kẻ nào đã giết ông. Hoặc để biết tại sao tôi đang gặp nguy hiểm". Hoặc điều gì đó xảy ra với gia đình mình. "Tôi cần đến đó xem sao".
"Nếu ông cụ muốn nói với cô lý do cô đang gặp nguy hiểm, thì tại sao ông lại không viết luôn điều đó lên sàn nơi ông bị giết? Tại sao lại cần đến trò chơi chữ phức tạp này?".
"Bất kể điều ông tôi định nói với tôi là gì, tôi nghĩ ông cũng không muốn bất kỳ ai khác cùng nghe. Kể cả cảnh sát". Rõ ràng ông cô đã làm mọi thứ có thể trong phạm vi khả năng của mình để gửi trực tiếp đến cô một thông điệp bí mật. Ông đã viết nó dưới dạng mật mã, kể cả những chữ cái đầu tên biệt danh của cô và bảo cô đi tìm Robert Langdon - một người thông thái nắm vững vấn đề bằng vào việc nhà ký tượng học người Mỹ này đã giải được mật mã của ông. "Nghe thì có vẻ kì thật đấy", Sophie nói, "nhưng tôi nghĩ ông tôi muốn tôi đến chỗ bức tranh Mona Lisa trước khi ai đó kịp đến".
"Tôi sẽ cùng đến đó".
"Không! Chúng ta không biết Hành Lang Lớn sẽ còn vắng vẻ bao lâu nữa. Ông phải đi đi".
Langdon có vẻ do dự, như thể tính tò mò bác học trong ông Có nguy cơ lấn át óc nhận định tỉnh táo và đẩy ông rơi trở lại vào tay Fache.
"Nào, ông đi đi chứ", Sophie nở một nụ cưới tri ân với ông.
"Tôi sẽ gặp ông ở đại sứ quán, ông Langdon".
Langdon có vẻ không thật hài lòng: "Tôi sẽ gặp lại cô ở đó với một điều kiện", ông đáp, giọng nghiêm nghị.
Cô dừng lại, giật mình: "Điều kiện gì?".
"Rằng cô thôi không gọi tôi là ông Langdon nữa".
Sophie phát hiện thấy một lời ám chỉ lờ mờ đằng sau nụ cười gượng gạo trên gương mặt Langdon, rồi cô cảm thấy mình mỉm cười đáp lại: "Chúc may mắn, Robert".
Khi Langdon đi hết cầu thang, một thứ mùi không thể nhầm lẫn được của dầu hạt lanh và vôi vữa xông vào mũi ông. Phía trước là tấm bảng sáng đèn ghi chữ SORTIE/EXIT (Lối ra) có mũi tên chỉ xuống một hành lang dài.
Langdon bước vào đoạn hành lang.
Bên tay phải, một xưởng phục chế tối lờ mờ từ trong đó ngó ra cả một đạo quân tượng ở các công đoạn sửa chữa khác nhau.
Bên trái, Langdon nhìn thấy một dãy phòng trông giống như những lớp học nghệ thuật ở Đại học Harvard - hàng hàng giá vẽ tranh, bảng màu, dụng cụ đóng khung - một dây chuyền lắp ráp mỹ thuật.
Đi xuôi theo hành lang, Langdon tự hỏi liệu có thể đến lúc nào đó, ông giật mình tỉnh giấc thấy mình nằm trên chiếc giường ở Cambridge. Ông cảm thấy cá buổi tối hôm nay giống như một giấc mơ kỳ quái. Mình sắp sửa lao ra khỏi bảo tàng Louvre… một kẻ trốn chạy.
Lời nhắn thông minh vận dụng anagram của Saunière vẫn ở trong đầu ông, và Langdon tự hỏi Sophie sẽ tìm thấy gì ở bức Mona Lisa… nếu như quả là có gì. Xem ra cô tin chắc rằng ông mình cố ý bảo cô đến thăm lại bức tranh nổi tiếng ấy một lần nữa. Mặc dù đây có vẻ là một kiến giải hợp lý, lúc này đây Langdon vẫn cảm thấy bị ám ảnh bởi một nghịch lý rắc rối.
P.S. Hãy tìm Robert Langdon.
Saunière đã viết tên của Langdon lên sàn, bảo Sophie tìm ông. Nhưng tại sao chứ? Chỉ đơn thuần để Langdon giúp cô ấy giải một anagram.
Điều này có vẻ vô lý.
Xét cho cùng, Saunière chẳng có lý do gì để nghĩ rằng Langdon đặc biệt giỏi đoán anagram. Mình với với ông ta thậm chí còn chưa hề gặp nhau cơ mà. Quan trọng hơn, Sophie đã tuyên bố thắng rằng lẽ ra cô ấy đã có thể tự giải lấy anagram đó. Chính Sophie là người nhận ra dãy số Fibonacci và chắc chắn là nếu có thêm một ít thời gian nữa, cũng chính Sophie sẽ là người sẽ giải mã được lời nhắn đó mà chẳng cần sự giúp đỡ của Langdon.
Sophie có phận sự phải tự giải lấy anagram đó. Langdon dột nhiên cảm thấy tin chắc hơn về điều này. Nhưng kết luận đó rõ ràng để toác ra một lỗ hổng trong logic hành động của Saunière.
Tại sao lại là mình? Langdon tự hỏi, trong khi vẫn tiến về phía đầu toà nhà. Tại sao Saunière khi chết lại muốn đứa cháu đến tìm mình? Cái gì là điều mà Saunière nghĩ rằng mình biết?
Bất ngờ giật thót người, Langdon dừng phắt lại. Mắt mở to, ông thọc tay vào túi, lôi ra tờ giấy in từ máy tính. Ông nhìn chằm chằm vào dòng cuối cùng trong lời nhắn của Saunière.
P.S Hãy tìm Robert Langdon.
Ông dán mắt vào hai chữ cái.
Trong khoảnh khắc đó, Langdon cảm thấy cái mớ bòng bong các biểu tượng của Saunière đột nhiên sáng rõ. Tựa một hồi sấm rền, hiểu biết về ký tượng học và sử học đủ cho cả một sự nghiệp nghiên cứu ào ào đến quanh ông. Mọi thứ Jacqué Saunière đã làm đêm nay dột nhiên trở nên hoàn toàn có nghĩa.
Những ý nghĩ của Langdon lướt nhanh trong khi ông cố lắp ghép những ý nghĩa hàm chứa trong tất cả cái đó. Quay ngoắt lại ông nhìn ngược về hướng mà từ đó ông đã đi đến.
Liệu còn kịp không.
Ông biết điều đó không quan trọng.
Không chút do dự, Langdon chạy như bay về phía cầu thang thoát hiểm.
 
Chương 22


Quỳ ở hàng ghế đầu, Silas giả vờ cầu nguyện trong khi hắn lướt nhanh qua cách bố trí của toà thánh đường. Saint-Sulpice, giống như hầu hết các nhà thờ khác, được xây theo hình một cây thánh giá La Mã khổng lồ. Phần trung tâm kéo dài của nó gian giữa của giáo đường dẫn thẳng đến bàn thờ chính, bị cắt ngang bởi một phần ngắn hơn, được gọi là cánh ngang. Phần giao nhau của cánh ngang và gian giữa giáo đường nằm ngay dưới mái vòm chính và được coi là trái tim của nhà thờ… nơi thần bí và linh thiêng nhất.
Không phải tối nay, Silas nghĩ Saint- Sulpice giấu những bí mật của mình ở nơi khác. Ngoảnh đầu về bên phải, hắn đưa mắt nhìn sâu vào phần phía nam của cánh ngang về phía quãng sàn trống bên kia mấy hàng ghế cuối, nhắm đến mục tiêu mà những nạn nhân của hắn đã miêu tả.
Nó kia.
Gắn sâu vào sàn đá granite xám, một thanh đồng dài mảnh nhẵn bóng lấp lánh… một đường thẳng vàng xiên chéo qua sàn nhà thờ. Đường thẳng có những dấu chia độ như một chiếc thước kẻ. Đó là thước đồng hồ mặt trước. Silas đã được nói cho biết thế, một khí cụ thiên văn học thế tục giống như một chiếc đồng hồ mặt trời. Các khách du lịch, các nhà khoa học, sử học và cả những người ngoại đạo từ khắp nơi trên thế giới đổ về nhà thờ Saint-Sulpice để chiêm ngưỡng đường thẳng nổi tiếng này.
Đường Hoa Hồng.
Chậm rãi, Silas đưa mắt dõi theo đường đi của thanh đồng khi nó cắt ngang sàn từ phải sang trái, xiên chéo trước mặt hắn theo một góc xệch xẹo, hoàn toàn trật khấc với sự đối xứng của nhà thờ. Nó cắt ngang cả bàn thờ chính, Silas thấy nó như một vết thương rạch ngang một khuôn mặt đẹp. Thanh đồng đó xẻ đôi hàng lan can chỗ làm lễ thánh thể, rồi chạy suốt chiều rộng của nhà thờ và cuối cùng tới góc phía bắc của cánh ngang, nơi nó bắt gặp đế của một cấu trúc cực kỳ bất ngờ.
Một bia tưởng niệm khổng lồ kiểu Ai cập.
Tại đây, Đường Hoa Hồng lấp lánh quặt một góc thẳng đứng chín mươi độ và tiếp tục ngay trên mặt bia tưởng niệm, lên cao thêm khoảng mươi mét tới chót đỉnh của cái kiến trúc hình tháp đó để cuối cùng chấm dứt ở đó.
Đường Hoa Hồng, Silas nghĩ. Hội kín đó giấu viên đá đỉnh vòm dưới đường Hoa Hồng.
Chập tối, khi Silas nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ. Nhưng khi Silas nói thêm rằng các thành viên của hội này đều đã nói cho hắn biết vị trí chính xác, liên quan đến một dải đồng xuyên suốt nhà thờ Saint-Sulpice, thì thầy hức lên một tiếng, ngộ ra: "Vậy là con nói về Đường Hoa Hồng?".
Thầy nhanh chóng nói cho Silas biết về kiến trúc xây dựng kì lạ của nhà thờ Saint-Sulpice - một thanh đồng dài, mảnh đã chia nhà thờ thành hai nửa tạo ra một trục bắc-nam hoàn hảo.
Nó là một kiểu đồng hồ mặt trời thời cổ, là một vết tích của đền thờ ngoại giáo từng có thời ngự ở chính chỗ này. Các tia mặt trời, chiếu xuyên qua lăng kính trên bức tường phía nam, mỗi ngày một dịch xuống, chỉ sự trôi chảy của thời gian, từ đông chí qua hạ chí.
Cái dải bắc-nam đó được biết đến dưới cái tên Rose Line: Đường Hoa Hồng. Trải qua hàng thế kỷ, kí hiệu Rose (Hồng) đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn đúng đường, chỉ đúng hướng. Vòng Hồng ghi hướng địa bàn - được vẽ trên hầu hết mọi tấm bản đồ - xác định các hướng bắc, đông, nam, và tây. Thoạt kỳ thuỷ được gọi là Hoa Hồng Gió (Wind Rose), nó chỉ hướng của ba mươi hai loại gió, thổi từ những hướng của tám ngọn gió trưởng, tám ngọn gió nhị phân và mười sáu ngọn gió tứ phân. Khi được đồ thị hóa trong một hình tròn, ba mươi hai điểm này của la bàn trông giống hệt một bông hồng ba mươi hai cánh. Cho tới tận ngày nay, công cụ định hưóng cơ bản trong hàng hải vẫn được gọi là Rose Compass (La bàn Hoa Hồng), hướng cực bắc của nó được đánh dấu bằng một đầu mũi tên… hay phổ biến hơn là kí hiệu hoa loa kèn.
Trên quá địa cầu, một Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ một đường thẳng tưởng tượng nào nối cực bắc với cực nam. Đương nhiên, số Đường Hoa Hồng là vô hạn bởi vì từ mỗi điểm trên quả địa cầu đều có thể vẽ một kinh tuyến đi qua, nối cực bắc và cực nam với nhau. Vấn đề đối với các hoa tiêu thời xưa là đường nào trong các đường này là Đường Hoa Hồng đường kinh tuyến số không đường mà người ta lấy làm gốc để đo các đường kinh tuyến khác.
Ngày nay, đường đó nằm ở Greenwich, Anh.
Nhưng không phải bao giờ nó cũng ở đó.
Rất lâu trước khi chế định Greenwich là kinh tuyến gốc, thì kinh tuyến số không của trái đất đã đi qua Paris, đi qua nhà thờ Sain-Sulpice. Thanh đồng đánh dấu ở nhà thờ Saint-Sulpice trở thành một đài tưởng niệm kinh tuyến gốc đầu tiên của thế giới, và mặc dù Greenwich đã tước đi của Paris vinh dự ấy vào năm 1883, đường Hoa Hồng ban đầu vẫn còn hiển thị đến tận ngày nay.
"Vậy là truyền thuyết đó là sự thật". Thầy Giáo nói với Silas. "Người ta nói viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nằm dưới Đường Hoa Hồng".
Lúc này, vẫn quỳ trên một chiếc ghế, Silas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng không còn ai ở đây.
Trong một thoáng, hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp xướng. Hắn quay người và nhìn chăm chú trong vài giây. Chắng có gì cả.
Mình chỉ có một mình thôi.
Đứng dậy, hắn quay mặt về phía ban thờ và xuống gối ba lần. Rơi quay sang trái, hắn đi theo thanh đồng về phía bắc dẫn đến bia tưởng niệm.
Cùng lúc đó, tại Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm giám mục Aringarosa tỉnh giấc.
Mình đã ngủ quên mất, ông nghĩ ngạc nhiên thấy mình vẫn đủ thanh thản để ngủ.
"Benvenuto a Roma" , hệ thống loa phóng thanh thông báo.
Ngồi dậy, Aringarosa xốc thẳng lại chiếc áo choàng đen và tự cho phép mình nở một nụ cười hiếm hoi. Đây là một chuyến đi mà ông sung sướng thực hiện. Mình đã thụ động quá lâu rồi.
Nhưng đêm nay, quy tắc đã thay đổi. Chỉ năm tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ tương lai của giáo phái này. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự hiện ra.
Sự can thiệp thần thánh.
Nếu đêm nay ở Paris mọi thứ diễn ra như đã định, Aringarosa sẽ sớm sở hữu một thứ sẽ khiến ông ta trở thành người có quyền lực nhất trong cộng đồng Cơ đốc.
 
Chương 23


Sophie hổn hển tới bên ngoài cánh cửa gỗ lớn của Salls de Etats - căn phòng để bức hoạ Mona Lisa. Trước khi bước vào, cô bịn rịn nhìn xuôi theo hành lang, cách đó khoảng hai mươi mét, nơi thi thể ông cô vẫn đang nằm dưới ánh đèn.
Nỗi ân hận đột ngột đến bóp chặt tim cô da diết, một nỗi buồn sâu sắc hoà lẫn với cảm giác tội lỗi. Ông đã cố vươn tay tới cô bao nhiêu lần trong hơn mười năm qua, nhưng Sophie vẫn khăng khăng không thay đổi thái độ bỏ tất cả thư từ, bưu kiện ông gửi cho cô vào một ngăn kéo đáy tủ, không buồn mở và khước từ mọi cố gắng tìm gặp cô của ông. Ông đã nói dối mình! Giữ kín những bí mật khủng khiếp. Mình phải làm gì đây? Vì vậy mà cô đã cấm cửa ông. Triệt để.
Bây giờ, ông cô đã chết, và ông đang nói chuyện với cô từ dưới mồ.
Bức tranh Mona Lisa.
Cô với tay đến cánh cửa gỗ đồ sộ, và đẩy. Cửa mở toang.
Sophie đứng ở ngưỡng cửa một lát, lia mắt nhìn bao quát căn phòng rộng hình chữ nhật trước mặt. Cả nơi này cũng tắm trong một ánh sáng đỏ êm dịu. Salle des Etats là một trong những culs-de-sac hiếm hoi của bảo tàng một nơi tận cùng, phòng duy nhất tách ra ở giữa Hành Lang Lớn. Cửa phòng là lối vào duy nhất, đối diện với một bức Botticelli cao năm mét nghễu nghện trên bức tường phía kia. Bên dưới nó. chính giữa sàn gỗ, một chiếc đi văng khán quan hình bát giác rộng lớn làm chỗ nghỉ chân dễ chịu cho hàng nghìn khách tham quan trong khi chiêm ngưỡng tài sản quý giá nhất của bảo tàng Louvre.
Tuy nhiên, ngay trước khi bước vào, Sophie biết là mình thiếu một thứ gì đó. Đèn có tia tử ngoại. Cô nhìn xuôi theo hành lang về phía xa, nơi ông cô nằm dưới những ngọn đèn, bao quanh bởi những thiết bị điện tử. Nếu ông đã viết một cái gì đó ở đây gần như chắc chắn là ông đã viết bằng loại bút dùng tia tử ngoại.
Hít thật sâu, Sophie hối hả chạy tới chỗ hiện trường án mạng sáng trưng. Không cam lòng nhìn ông mình, cô chỉ tập trung vào những dụng cụ PTS thôi. Tìm thấy một chiếc đèn nhỏ dùng tia cực tím, cô đút nó vào túi áo len và vội vã đi ngược hành lang trở lại cửa phòng Salle des Etats vẫn để mở.
Sophie quặt góc và bước qua ngưỡng cứa. Tuy nhiên, thật bất ngờ, vừa bước vào cô đã nghe thấy tiếng chân lẹp xẹp chạy về phía cô từ bên trong căn phòng. Có ai đó ở trong này! Một bóng người đột ngột nhô ra từ vầng sáng đỏ đọc mờ ảo như ma hiện hình. Sophie giật mình lùi lại.
"Cô đây rồi?". Tiếng thì thào khàn khàn của Langdon xé không khí trong khi bóng ông lướt đến dừng lại trước mặt cô.
Cô nhẹ cả người nhưng chỉ trong giây lát. "Robert, tôi đã bảo anh rời khỏi đây kia mà! Nhỡ Fache…".
"Cô đã ở đâu thế?".
"Tôi phải đi kiếm chiếc đèn có tia tử ngoại", cô thì thầm, giơ cây đèn lên. "Nếu ông tôi để lại một lời nhắn…".
"Sophie, nghe đã!". Langdon lấy hơi trong khi đôi mắt xanh của ông nhìn thẳng vào cô. "Những chữ cái P.S. ở cuối lời nhắn… có một ý nghĩa nào khác với cô không? Có chút nào không?".
Sợ tiếng họ vọng vào hành lang, Sophie kéo Langdon vào Salle des Etats, lặng lẽ khép cánh cửa đôi, tự giam mình ở bên trong: "Tôi đã nói với anh, những chữ cái đầu của Princesse Sophie (Công chúa Sophie) mà".
"Tôi biết, nhưng cô đã từng nhìn thấy nó ở đâu khác chưa?
Ông của cô có từng dùng kí hiệu P.S. theo một cách nào khác không? Một loại chữ lồng, có thể trên một loại giấy tờ hay một vật dụng cá nhân nào đó?".
Câu hỏi làm cô giật mình. Làm thế nào mà Robert Langdon biết điều đó?
Quả thực trước đây Sophie đã từng nhìn thấy kí hiệu P.S., một kiểu chữ lồng. Đó là vào trước ngày sinh nhật lần thứ chín của Sophie. Cô bí mật lùng sục khắp nhà, tìm kiếm những món quà sinh nhật được giấu kín. Ngay từ hồi đó, cô đã không chịu nổi cái kiểu giấu giấu giếm giếm. Năm nay ông đã có gì dành cho mình nhỉ? Cô lục tung chiếc tủ ly rồi cả những ngăn kéo. Không biết ông đã kiếm được con búp bê mình muốn chưa nhỉ? Ông giấu nó ở đâu?
Lục tung cả nhà mà chẳng tìm thấy gì cả, Sophie lấy hết can đảm lẻn vào phòng ngủ của ông. Căn phòng ấy cô không được phép vào nhưng bây giờ ông đang nằm ngủ dưới nhà.
Mình sẽ chỉ ngó qua một thoáng thôi!
Đi rón rén qua sàn gỗ cót két tiến về phía buồng chứa đồ của ông, Sophie nhòm mấy cái giá đằng sau quần áo của ông.
Chẳng có gì cả. Tiếp đó cô tìm dưới gầm giường. Vẫn không có gì cả. Đi về phía bàn làm việc của ông, cô mở các ngăn kéo, bắt đầu soát cẩn thận từng ngăn một. Phải có cái vì đó cho mình ở đây chứ? Đến ngăn cuối rồi mà cô vẫn chưa tìm thấy dấu vết nào về một con búp bê. Thất vọng, cô kéo ngăn cuối cùng, rồi lôi ra mấy bộ quần áo màu đen mà chưa bao giờ cô thấy ông mặc. Cô định đóng ngăn kéo lại thì chợt nhìn thấy cuối ngăn kéo loé lên một ánh màu vàng. Trông nó giống một sợi dây đeo đồng hồ bỏ túi, nhưng cô biết ông không dùng thứ đó. Tim cô đập rộn ràng khi cô nhận ra đó là cái gì.
Một chiếc vòng!
Sophie cẩn thận kéo sợi dây chuyền đó ra khỏi ngăn kéo. Cô ngạc nhiên thấy cuối sợi dây có một chiếc chìa khoá bằng vàng sáng ngời. Nặng và lấp lánh. Bị hút hồn, cô cầm nó lên. Trông nó không giống bất kỳ một chiếc chìa khoá nào cô từng nhìn thấy. Hầu hết các chìa khoá đều dẹt và có răng cưa, nhưng chiếc này lại có thân hình trụ tam giác đầy vết lỗ chỗ. Đầu chìa to vàng óng là một chữ thập, nhưng không phải là một chữ thập bình thường. Đây là một chữ thập bốn nhánh bằng nhau, giống một dấu cộng. Ở giữa chữ thập, có chạm nổi một ký hiệu kỳ lạ hai chữ cái lồng nhau với một họa tiết hình hoa.
"P.S", cô thì thầm, nhăn mặt khi đọc những chữ cái đó. Nó có thể là cái gì được nhỉ?
"Sophie?". Ông cô nói từ ngoài cửa.
Giật mình, cô quay lại, để chiếc chìa khoá rơi đánh keng trên sàn nhà. Cô cắm mắt xuống chiếc chìa khoá, không dám ngước nhìn ông: "Cháu… đang tìm quà sinh nhật", cô nói, cúi đầu, biết rằng cô đã phản bội lòng tin của ông.
Trong khoảnh khắc dường như bất tận ấy, ông cô đứng lặng thinh bên cửa ra vào. Cuối cùng ông thở dài buồn bã: "Nhặt chiếc chìa khoá lên, Sophie".
Sophie nhặt chiếc chìa khoá lên.
Ông cô bước vào: "Sophie, cháu cần phải tôn trọng sự riêng tư của mọi người". Rồi nhẹ nhàng, ông quỳ xuống, cầm chiếc chìa khoá từ tay cô. "Chiếc chìa khoá này rất đặc biệt. Nếu cháu làm mất nó…".
Giọng nói dịu dàng của ông cô khiến Sophie càng cảm thấy ân hận hơn: "Grand-Père" , cháu xin lỗi. Cháu thực lòng xin lỗi", cô ngừng lại, "Cháu nghĩ rằng nó là một chiếc vòng cổ tặng sinh nhật cháu".
Ông nghiêm khắc nhìn cô trong vài giây: "Ông sẽ nói lại điều này một lần nữa, bởi vì nó rất quan trọng. Cháu cần học cách tôn trọng sự riêng tư của người khác".
"Vâng, Grand-Père".
Chúng ta sẽ nói chuyện này vào lúc khác. Còn bây giờ khu vườn đang cần được nhổ cỏ".
Sophie vội vàng đi ra ngoài làm công việc hàng ngày của mình Sáng hôm sau, Sophie không nhận được món quà nào từ ông cả. Cô cũng không hi vọng, sau những gì cô đã làm. Nhưng thậm chí suốt cả ngày hôm ấy, ông cũng không nói chúc cô sinh nhật vui vẻ. Buồn bã, đến tối, cô lê bước về phòng ngủ. Thế rồi, khi trèo lên giường, cô thấy một tấm thiếp đặt trên gối. Trên tấm thiếp là một câu đố đơn giản. Cô mỉm cười trước cả khi giải được câu đố. Mình biết cái này là cái gì rồi! Ông đã từng bày trò này với cô vào sáng Giáng sinh năm ngoái.
Một cuộc truy tìm kho báu!
Háo hức, cô suy nghĩ cho đến khi giải được câu đó. Đáp án chỉ cô đến một nơi khác trong toà nhà, ở đó cô lại tìm thấy một tấm các khác với một câu đố khác. Cô tiếp tục giải được câu đố này, rồi lại chạy đến tấm các tiếp theo. Nháo nhào, cô chạy tới chạy lui khắp nhà, từ đầu mối này sang đầu mối khác, cho đến lúc cuối cùng cô thấy một đầu mối chỉ về chính phòng ngủ của mình. Sophie lao lên gác, chạy bổ về phòng mình, và dừng sững. Giữa căn phòng là một chiếc xe đạp màu đỏ có buộc nơ ở ghi-đông. Sophie hét lên sung sướng.
"Ông biết cháu muốn một con búp bê", ông vừa nói vừa đứng trong góc phòng mỉm cười. "Nhưng ông nghĩ có thể cháu sẽ thích món quà này hơn".
Hôm sau, ông dạy cô đi xe, ông chạy bên cạnh cô dọc suốt con đường đi dạo. Khi Sophie chệch tay lái lao lên bãi cỏ và mất thăng bằng, cả hai ông cháu ngã xuống bãi cỏ, lăn tròn rồi cười vang.
"Grand-Père" , Sophie nói, ôm ghì ông, "cháu thực lòng ân hận về chuyện chiếc chìa khoá".
"Ông biết, cháu yêu ạ. Ông đã tha thứ cho cháu rồi. Ông không thể giận cháu mãi được. Ông và cháu gái luôn tha thứ cho nhau mà".
Sophie biết là cô không nên hỏi, nhưng cô không nhịn nổi:
"Chiếc chìa khoá ấy mở cái gì thế ạ? Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc chìa khoá như thế. Nó thật là đẹp".
Ông iặng thinh hồi lâu, và Sophie có thể thấy ông băn khoăn không biết nên trả lời như thế nào. Ông không bao giờ nói dối.
"Nó mở một cái hộp", cuối cùng ông nói. "Ở đó ông cất giữ nhiều bí mật".
Sophie dẩu môi: "Cháu ghét những bí mật!".
"Ông biết, nhưng đây là những bí mật quan trọng. Rồi một ngày nào đó, cháu sẽ biết trân trọng nó như ông vẫn làm vậy".
"Cháu nhìn thấy những chữ cái trên chiếc chìa khoá, và cả một bông hoa nữa".
"Ừ đó là loài hoa yêu thích của ông đấy. Người ta gọi nó là Hoa loa kèn. Chúng ta cũng trồng nó trong vườn đấy.
Những bông hoa màu trắng. Trong tiếng Anh! chúng ta gọi nó là hoa lily".
"Cháu biết những bông hoa ấy. Đó cũng là loại hoa yêu thích của cháu nữa!".
"Vậy thì ông thoả thuận vởi cháu nhé". Ông nhướn lông mày giống như mỗi khi ông đặt ra trước cô một thách thức: "Nếu cháu giữ bí mật chuyện chiếc chìa khoá và không bao giờ nói về chuyện đó nữa, với ông hay bất kỳ ai, thì một ngày nào đó ông sẽ trao nó cho cháu".
Sophie không tin vào tai mình: "Ông sẽ trao nó cho cháu?".
"Ông hứa. Khi nào đến lúc, chiếc chìa khoá sẽ là của cháu.
Trên đó có tên của cháu đấy".
Sophie cau mày. "Đâu có. Nó khắc chữ P.S. Tên cháu không phải là P.S".
Ông cô hạ thấp giọng rồi nhìn xung quanh như thể để chắc chắn không có ai nghe trộm: "Được rồi, Sophie, nếu cháu cần phải biết, thì P.S. là một mật mã. Nó là mật danh của cháu".
Mắt cô bé mở rộng: "Cháu có mật danh ạ?".
"Tất nhiên. Những cô cháu gái luôn luôn có một mật danh mà chỉ ông của họ mới biết thôi".
"P.S. là gì?".
Ông cù nôn cô: "Là princces Sophie" (Công chúa Sophie).
Cô cười khúc khích: "Cháu không phải là công chúa!".
Ông nháy mắt: "Với ông, cháu là công chúa".
Từ hôm đó, họ không bao giờ nói chuyện về chiếc chìa khoá đó nữa. Còn cô trở thành Công chúa Sophie của ông.
Bên trong Salle des Etats, Sophie đứng lặng thinh, cảm nhận cơn nhói đau ghê gớm của sự mất mát.
"Những chữ viết tắt này", Langdon thì thào, mắt nhìn cô một cách lạ kỳ, "đã bao giờ cô nhìn thấy chưa?".
Sophie như nghe thấy tiếng ông cô thì thầm ngoài hành lang bảo tàng. Không bao giờ được nói về chiếc chìa khoá, Sophie. Với ông hay với bất cứ ai. Cô biết cô đã sai và đã được ông tha thứ, cô tự hỏi liệu cô có thể phạm vào lòng tin ấy một lần nữa không.
P.S Hãy tìm Robert Langdon, ông cô muốn Langdon giúp đỡ.
Sophie gật đầu. "Có, tôi đã thấy hai chữ viết tắt P.S này một lần. Khi tôi còn rất nhỏ".
"Ở đâu?"', Sophie ngập ngừng: "Trên một thứ gì đó rất quan trọng đối với ông tôi".
Langdon nhìn thắng vào mắt cô: "Sophie, điều này rất quan trọng. Cô hãy nói tôi biết có phải những kí tự này xuất hiện cùng với một biểu tượng phải không? Một bông hoa loa kèn?".
Sophie cảm thấy mình loạng choạng lùi lại vì kinh ngạc:
"Nhưng… làm sao ông có thể biết được điều đó!".
Langdon thở hắt ra rồi hạ thấp giọng: "Tôi tin chắc ông cô là thành viên một hội kín. Một hội ái hữu bí mật rất lâu đời rồi".
Sophie cảm thấy như thắt ruột. Cô cũng tin chắc chắn thế.
Trong mười năm, cô đã cố quên đi cái sự việc khắng định thực tế khủng khiếp đó. Cô đã chứng kiến một điều mà cô không thể tưởng tượng được. Không thể tha thứ được.
"Hoa loa kèn", Langdon nói, "kết hợp với hai ký tự P.S., đó là biểu tượng chính thức của hội kín đó. Huy hiệu của họ. Logo của họ".
"Làm thế nào anh biết được điều này?" Sophie đang khẩn cầu Langdon đừng nói với cô rằng bản thân ông cũng là một thành viên của hội kín đó.
"Tôi đã viết về nhóm này", Langdon nói, giọng run lên vì phấn khích. "Nghiên cứu các biểu tượng của các tổ chức bí mật là chuyên môn của tôi. Họ tự xưng là Prieuré de Sion . Cơ sớ của họ đặt ở đây, trên đất Pháp và thu hút các thành viên đầy thế lực từ khắp châu Âu. Thực tế đây là một trong những hội kín cổ nhất còn tồn tại trên trái đất này".
Sophie chưa bao giờ nghe về họ.
Lúc này Langdon bốc lên nói ào ào từng tràng: "Thành viên của Tu viện Sion gồm có cả những cá nhân xuất sắc trong lịch sử: Những người như Botticelli, Ngài Isaac Newton, Victor Hugo", ông dừng lại, giọng tràn trề nhiệt huyết khoa học. "Và cả Leonardo da Vinci nữa".
Sophie nhìn chằm chằm: "Da Vinci tham gia một hội kín?".
"Da Vinci đứng đầu Tu viện Sion trong khoảng từ 1510 đến 1519 với tư cách là Đại sư của hội kín này, điều này có thể giải thích niềm đam mê của ông cô đối với những lác phẩm của Leonardo. Hai ông có chung một mốỉ ràng buộc huynh đệ mang tính lịch sử. Và điều đó hoàn toàn ứng hợp với việc họ say mê tranh tượng nữ thần, ngoại giáo, các nữ thần và coi khinh Nhà Thờ Thiên chúa. Tu viện Sion có hẳn một kho sử liệu về sự tôn thờ tính nữ thiêng liêng".
Anh nói tổ chức này là một loại tín ngưỡng thờ nữ thần ngoại giáo à?".
Đúng hơn, giống như tín ngưỡng thờ nữ thần ngoại giáo ấy chứ. Nhưng quan trọng hơn, họ được biết đến như những người bảo vệ một bí mật cổ xưa. Một bí mật khiến họ có một quyền lực vô biên".
Bất chấp vẻ xác tín triệt để trong mắt Langdon, phản ứng sâu trong thâm tâm Sophie vẫn là hồ nghi hoàn toàn. Một giáo phái ngoại giáo bí mật ư? Đã từng do Leonardo da Vinci cầm đầu ư?
Tất cả những điều đó nghe sao thật khó tin. Tuy nhiên, ngay trong khi chối bỏ nó, cô lại cảm thấy đầu óc của mình quay trở lại mười năm về trước - buổi tối mà cô đã muốn làm ông cô thật bất ngờ và cũng vô tình chứng kiến điều mà đến giờ cô vẫn không thể chấp nhận được. Phải chăng điều đó có thể giải thích?".
"Nhân thân của những thành viên còn sống của Tu viện Sion hoàn toàn được giữ bí mật", Langdon nói. "Nhưng kí tự P.S và bông hoa loa kèn mà cô nhìn thấy khi còn bé là những bằng chứng. Nó chỉ có thể liên quan đến Tu viện Sion mà thôi".
Bây giờ Sophie đã nhận ra rằng Langdon biết về ông cô nhiều hơn những gì cô tưởng tượng trước đây. Rõ ràng, người Mỹ này có rất nhiều điều để sẻ chia cùng cô, nhưng đây không phải là nơi thích hợp. "Tôi không thể để họ bắt được anh, Robert. Có rất nhiều điều chúng ta cần thảo luận với nhau. Anh cần phải đi ngay!".
Langdon chỉ thoảng nghe thấy tiếng cô thì thào rất khẽ. Ông sẽ không đi đâu cả. Lúc này ông đang bị lạc vào thế giới khác. Nơi mà những bí mật cổ xưa đang nổi lên bề mặt. Nơi mà những trang sử bị lãng quên đột hiện ra từ bóng tối.
Chầm chậm, chầm chậm như thể đang bơi dưới nước, Langdon quay đầu, nhìn xuyên qua vầng sáng mờ ảo đỏ đọc về phía bức tranh Mona Lisa.
Hoa loa kèn hoa của Lisa Nàng Mona Lisa.
Tất cả những điều đó xoắn xuýt vào nhau, một bản giao hưởng câm lặng vang vọng những bí ẩn sâu xa nhất của Tu viện Sion và Leonardo Da Vinci.
***
Cách đó vài dặm, ven bờ sông, quá phố Les Invalides, người lái chiếc xe tải hai thùng sợ hãi đứng trước mũi súng và kinh hoàng khi viên đại uý Cảnh sát tư pháp thét lên giận dữ và nhấc một bánh xà phòng ném vào dòng nước cuồn cuộn của sông Seine.
 
Back
Bên trên