"Lựa Chọn Thành Công"

Trần Thiên Phước
(liveforadream)

Thành viên danh dự
"Lựu chọn thành công" là một bài cố vấn chính sách (policy recommendation) cho chính phủ về vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam từ chương trình Việt Nam ở Kennedy School Government (Harvard)

Mình thấy rất thú vị và hy vọng chúng ta có thể thảo luận.

P/s: mình attach nguyên bảng bài viết vào bài này. Hy vọng là kô có trục trặc kỹ thuật gì.
 

Đính kèm

  • Lua Chon Thanh Cong.pdf
    766.2 KB · Xem: 231
Re: "Lựu Chọn Thành Công"

Cảm ơn Phước đã chia xẻ. Vài hôm tới rảnh mình sẽ đọc rồi xem có thảo luận gì được không (^__^).
 
Re: "Lựu Chọn Thành Công"

fải là lựa chọn thành công chứ ko fải là lựu chọn thành công ạ ^^
 
Re: "Lựu Chọn Thành Công"

PHước lâu rồi ko noi tiếng Việt nên quên à? lol
 
Re: "Lựu Chọn Thành Công"

^^oh...xin lỗi...vậy có cách nào sửa lại được kô? mọi người chỉ mình với
 
Re: "Lựu Chọn Thành Công"

em đọc bản tiếng Việt rồi, hay, "gãi đúng chỗ ngứa" nhưng mà anh có bản tiếng Anh ko? Em cũng ko hiểu tên tiếng Anh của bản này là gì mà em search ko thấy
 
Cái file này bạn mình mới gửi...mình chưa có thời gian đọc qua nên không chắc có phải là bản tiếng Anh của cái này kô...bạn nào xem xong thì kiểm chứng cho mình với.
 

Đính kèm

  • KennedySchool-Choices Opportunities for Vietnam.pdf
    151.4 KB · Xem: 52
Cảm ơn anh Phước vì đã cung cấp thông tin. Vote bài hay cho anh :D

Nhưng em nghĩ file anh mới upload không phải là bản tiếng Anh của bài Lựa chọn thành công trên kia. Em đọc 5 trang đầu của bản tiếng Anh và tìm suốt bản tiếng Việt cũng không thấy chỗ nào dịch ra như thế cả.
Cái choice opportunities này hẳn là một bài viết khác, không phải "Lựa chọn thành công".
 
Bài dài và trải nhiều vấn đề, có ai có ý kiến bắt đầu từ đâu và phân tích như thế nào ko
 
a) Hà Minh: vậy à...vậy thì mình không có bản tiếng Anh rồi


Còn về thảo luận, thì từ trang 55 thì bắt đầu của "Khuyến nghị chính sách." Chúng ta có thể bắt đầu từ đó.
(mình xin copy & paste những cái mấu chính khuyến nghị, các bạn có thể đọc kỹ hơn ở trong bài):
1) Giáo Dục:
a)Cần công khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục
b)Thực hiện một cuộc cách mạng trong giáo dục đại học

2)Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa
a) Giải quyết tình trạng thiếu năng lượn
b)Thành lập Hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập
c) Áp dụng thuế bất động sản
d) Minh bạch hóa các quy định về đất đai
e) Đầu tư thỏa đáng cho các thành phố

3)Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
a)Giải tán các tổng công ty và thận trọng với các tập đoàn
b)Hỗ trợ khu vực dân doanh
c)Thành lập Hệ thống Sáng tạo Quốc gia:

4)Hệ thống tài chính
a)Giảm lạm phát
b)Biến Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành một ngân hàng trung ương thực thụ

5)Hiệu lực của Nhà nước
a)Loại bỏ những chính sách hoang đường
b)Nâng cao năng lực kỹ trị
c)Nhu cầu phân tích và thảo luận có tính phê phán trong nội bộ chính
phủ
d)Đẩy mạnh giám sát từ bên ngoài:
e)Tăng cường tính chịu trách nhiệm của các nhà tài trợ
f)Theo đuổi định hướng cải cách mạnh mẽ trong chiến lược 10 năm
2011-2020

6) Công bằng
a)Cải thiện chất lượng giáo dục
b)Cải thiện chất lượng y tế
c)Cải thiện khả năng sở hữu nhà cho người dân ở thành thị
d)Trợ cấp cho hoạt động đào tạo nghề
e)Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn

Nếu mọi người muốn biết rõ tại sao họ lại đi đến những khiến nghị này, thì cứ tìm trong bài viết, ở phía trên cũng có những tiêu đề như vậy, và họ sẽ nói rõ hơn
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Thảo luận theo từng vấn đề có lẽ hợp lý, nhưng có nên lập thành nhiều topic cho đỡ lộn xộn ko? Rồi các bài học từ các nước khác nên dc phân tích thế nào? Nếu chia như vậy những cái liên quan đến nhiều vấn đề lại lộn xộn....

Bản phân tích này dường như muốn đóng vai trò là một ý kiến phản biện, do vậy có khá nhiều luận điểm được đưa ra hơi khiên cưỡng về logic (hoặc có thể do giới hạn về khối lượng nên họ ko giải thích sâu hơn). Ví dụ:
- Các nước Đông Á dc tính bao gồm Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật. 3 cái đầu có quy mô nhỏ. Hồng Kong, Đài Loan và Nhật có xuất phát điểm so với các nước ĐNA ntn thì có lẽ cần kiểm tra lại. Singapore có vị trí địa lý thuận lợi. Sự trợ giúp của Mĩ đối với một số nền kinh tế..... Với những điểm này thì kết luận “những cái liên quan đến Đông Á đều tốt hơn ĐNA vì kết quả cho thấy kinh tế khu vực này phát triển hơn” là hơi sớm, cần có các phân tích chi tiết hơn để chứng minh tính đúng đắn.
- Sự chững lại của các nước ĐNA một phần lớn do cuộc khủng hoảng tài chính 1997. Nếu cuộc khủng hoảng này là kết quả tất yếu của những nhân tố được đề cập thì logic tạm ổn. Nhưng nếu cuộc khủng hoảng này chỉ là một tai nạn, thì các kết luận giống như nói 1 thằng bé bị tai nạn ko thể dự thi kém 1 thằng bé khác chỉ dựa vào cái kết quả vậy. Kể cả khi cuộc khủng hoảng này là cái tất yếu, nhưng vì những nhân tố khác, thì cũng ko thể dùng nó làm dẫn chứng về vai trò của các nhân tố được đưa ra.
Những ví dụ kinh điển trong sách giáo khoa khi đưa đến các kết luận kiểu “nơi nào có càng nhiều cảnh sát thì càng có nhiều tội phạm” hay “nhà có gạt tàn thì càng có nhiều khả năng bị ung thư phổi” chưa được khắc phục một cách thuyết phục.
(mặc dù mình cũng đồng ý khá nhiều điểm, nhưng rõ ràng về logic có sự khiên cưỡng. Sự đồng ý nhiều khi do các nhận xét từ trước chứ ko phải do lập luận của bài viết. Có cảm giác nhiều chỗ như họ viết lấy được chứ ko phải viết cho các chuyên gia đứng đầu chính phủ).
 
Bắt đầu với giáo dục:
Năm 2005, tỷ lệ sinh viên đỗ đại học ở Việt Nam chỉ là 16%, trong khi con số này ở Trung Quốc và In-đô-nê-xia là 17%-19%, còn ở Thái-lan là 43%. Mặc dù số lượng sinh viên đại học đã tăng một cách đáng kể từ năm 1990 nhưng với hạn chế về cả số lượng và chất lượng giảng viên, hệ thống đào tạo đang ngày càng bị dồn nén. Không những thế, chất lượng đào tạo ở các trường đại học của Việt Nam chưa đạt chuẩn. Giảng viên ở các trường đại học của Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí quốc tế. Trên thực tế, trường đại học của Việt Nam thua xa khi so với ngay cả trường của các nước Đông Nam Á - vốn chưa phải là những trường đẳng cấp quốc tế. 32 Nếu nhìn vào sản phẩm đào tạo thì khoảng phân nửa sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. 33

Những kết quả đáng buồn như vừa miêu tả không phải do hệ thống giáo dục hiện nay thiếu tiền. Trên thực tế, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. 34 Như vậy, vấn đề thực sự nằm ở chỗ nguồn lực này được sử dụng như thế nào, và đặc biệt, nằm ở cấu trúc quản trị xơ cứng và bất cập ở mọi cấp độ của hệ thống giáo dục. Chi tiêu của hệ thống giáo dục hiện nay kém minh bạch và lãng phí. Như lời bình luận của một tác giả trên báo Tuổi Trẻ, nếu những con số chính thức về quỹ lương là đáng tin cậy thì mức lương trung bình của giáo viên phải cao gần gấp đôi mức lương thực tế họ đang được nhận. 35 Vậy thì tiền đi đâu? Không lẽ nó đã bị cơ chế hiện nay “nuốt chửng”?


- Phát triển giáo dục và kinh tế là câu chuyện con gà và quả trứng cái nào có trước. Nếu ko loại trừ yếu tố quy mô, thì đến bao giờ 1 quốc gia như VN hay Thai có thể đưa 80% học sinh học tiếp cao đẳng như Đài Loan? Nếu nói đầu tư và đầu tư hơn nữa cho giáo dục, y tế... thì ai chả nói dc. Có lẽ ngoài việc nâng cao hiệu quả thì nhóm tác giả cần tư vấn tỉ lệ GDP cho giáo dục theo kinh nghiệm các nước mới phải. Hệ thống y tế với chi phí vừa phải thì đương nhiên là mơ ước của mọi quốc gia, nhưng làm thế nào? Các nguồn lực có hạn, phải đánh đổi cái này để đạt cái khác là bài học cơ bản của kinh tế. Khi đạt được tỉ lệ tối ưu này thì chỉ có thể cố gắng nâng cao hiệu quả chứ ko thể làm gì hơn, nhìn hàng xóm chỉ để ngồi chê nhà mình nghèo thôi. Quả thực ko thể hiểu logic liên quan giữa tỉ lệ GDP cho GD của VN cao với việc GD VN vẫn ở sau các nước!! Nếu có sự liên quan thì đó phải là tốc độ phát triển, hay dân trí so với kinh tế chứ.

- Các nền kinh tế phát triển thường đánh giá 1 trường ĐH thông qua số bài báo đăng trên tạp chí quốc tế. Tuy nhiên, với 1 nước như VN thì cần đặt ưu tiên của ĐH ở đào tạo hay nghiên cứu là một câu hỏi ko thể trả lời theo kiểu “các nước dựa vào cái này” vì rõ ràng nền kinh tế đang ở một nấc thang khác hẳn. VN có ít bài báo trên tạp chí quốc tế thì lý do chính là ko cần thiết, chứ ko phải nằm ở vấn đề thiếu tiền hay trình độ ko thể nghiên cứu. Đấy là quá khứ, hiện tại, còn tương lai thì phải bàn thêm, nhưng chắc chắn phải cân nhắc chứ ko dễ dàng kết luận theo kiểu chỉ có lợi mà ko phải trả giá.

- So sánh tương quan nền kinh tế VN với các nước ĐNA thì thấy việc các trường đại học VN kém các nước kia là đương nhiên. Nói giáo dục VN hay bất cứ nước nào ko thiếu tiền thì thật vô duyên, VN thì đúng là nói lấy được! Cái tính toán nói với quỹ lương như vậy thì lương phải tăng gấp đôi tôi ko hiểu là có thiếu cái gì (đang tìm cái bản báo cáo tài chính, khi nào nhìn tận nơi mới có kết luận dc). Các khoản “mềm” thì có thể thiếu minh bạch, chứ lương cứng ở VN thì có lẽ minh bạch hơn bất cứ quốc gia nào vì gần như ko thể gian lận lương tối thiểu, hệ số lương, số lượng ng..... Chính vì vậy mà tôi nghi ngờ có ai dại dột lao vào gặm cái khúc xương này với một sự chênh lệch lớn đến như vậy. Các vấn đề thiếu minh bạch trong giáo dục thì ko phải báo chí VN ko đưa tin, nhưng nằm ở quỹ lương thì đây là lần đầu tiên. Một vấn đề thế này (lương là một thông tin rất rộng rãi liên quan đến tất cả mọi ng, ko chỉ bộ giáo dục mà cả bộ tài chính, lao động... có thể nói vô số ng biết, mà chênh nhiều đến thế) lại do bên ngoài nhìn ra, dựa vào 1 bài báo, thì có cơ sở để nghi ngờ. Theo bài báo này thì chênh lệch chỉ là 85% và 61%, vậy con số đáng tin cậy ở đâu? http://vietbao.vn/Giao-duc/Hon-10.000-ty-dong-ngan-sach-cho-GD-DT-di-dau/70100961/202/

- Các trường đại học thì loay hoay với vòng luẩn quẩn: Học phí thấp-> chất lượng ko như ý-> đầu ra chất lượng thiếu, còn tăng học phí thì nhiều ng khó tiếp cận. Để giải quyết cần có rất nhiều giải pháp kết hợp như dần chấp nhận sự phân hóa trong đầu tư của các trường (mức độ học phí->mức độ cơ sở vật chất), tìm kiếm nguồn lực hỗ trợ (cho vay, học bổng...) chứ đâu dễ dàng nói phát triển đại học riêng nhiệm vụ giáo dục là xong. Với ĐH thì việc thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư ko quá khó, nhưng hỗ trợ sinh viên theo đc thì tôi mới chưa hình dung dc sẽ phải đi theo hướng nào. Đầu tư để xây dựng một nền giáo dục theo nghĩa phát triển về cơ sở vật chất và trình độ thì ko khó để huy động từ doanh nghiệp, cũng như sự quan tâm của các tổ chức giáo dục nước ngoài. Lý do là giáo dục ĐH ko phải quá lớn để cần một nguồn lực kinh khủng (so với nền kinh tế và các nguồn lực từ bên ngoài, chứ ko phải với ngân sách), các lợi ích gắn liền với các bên đầu tư. Nhưng khi có những cơ sở đó thì sinh viên ko thể tránh một mức học phí cao hơn. Giải quyết dc cái này thì đã phá dc cái vòng luẩn quẩn rồi.

Một lựa chọn tốt hơn là nới lỏng kiểm soát đối với các viện nghiên cứu và trường đại học, và cho phép các tổ chức này cạnh tranh với nhau để thu hút được những giảng viên và sinh viên xuất sắc nhất và những nguồn tài trợ dồi dào nhất - tất cả đều dựa trên kết quả hoạt động thực tế.
- Tốc độ mọc các trường ĐH mới hiện nay có thể ví như nấm mọc sau mưa. Đương nhiên đó ko phải là các trường quốc lập mà do dân lập hoặc nước ngoài vào. Với trách nhiệm tự làm tự chịu của khối này, và khả năng quản lý có hạn của nhà nước, thì việc phải trao quyền tự chủ là điều hiển nhiên, có lợi cho tất cả các bên. Các trường quốc lập cũng theo xu hướng đa dạng hóa ngành nghề, tạo ra môi trường ngày càng cạnh tranh. Với tất cả những bước đi đó, tôi ngạc nhiên khi nhóm tác giả bận tâm quá nhiều và cho rằng chính phủ vẫn quyết tâm đưa một cái trung tâm nào đó thành trường ĐH. Một loạt dẫn chứng đưa ra cho thấy nhóm tác giả mới nhìn thấy những trường công lập, và cũng chưa kịp nhận ra một vài biến đổi đã bắt đầu manh nha (Gần đây các trường tư mới ngày càng lộ diện nhiều hơn, do phải mất thời gian xây dựng cơ sở vật chất cũng như thu hút đội ngũ giảng viên, sinh viên. Nhưng dựa vào tiến độ thì có thể phán đoán giấy phép của nó đã có dc một vài năm rồi, và các ý tưởng cũng như chủ trương này phải có từ trước đấy một thời gian nữa). Như vậy các ý tưởng này thực chất đã dc thực hiện, bằng một phương pháp có thể coi là hiệu quả với những cái lịch sử để lại: ko phải bằng cách cố gắng thay đổi một hệ thống cũ, có thể mất nhiều thời gian và công sức, thay vào đó là tạo một hệ thống mới song song bên cạnh, rồi cạnh tranh sẽ thúc đẩy bộ phận lạc hậu phải chạy theo.

Các tác giả khuyến nghị công khai ngân sách GD, cái này thì ko sai, thực ra cũng chẳng mất gì, nhưng hy vọng báo chí và phụ huynh học sinh giám sát thì nó hơi giống cái mà họ nói là “những chính sách hoang đường” :D Nếu họ biết khả năng phân tích tài chính của báo chí và ng dân VN ngay cả với thị trường chứng khoán, cái dính chặt tới túi tiền của những ng thuộc loại năng động và có khả năng trên mức trung bình, thì họ chắc sẽ ko đặt mục tiêu này :D Đặt mục tiêu sự trắng trợn bớt đi và giám sát những con số ở tầm quốc gia thì hợp lý hơn.

Thiện nguyện cho GD ở VN nếu có thường dùng hiện vật chứ ko cho tiền, nên việc công khai ngân sách có lẽ ko có nhiều tác dụng trong vấn đề này như các tác giả mong đợi

Chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích các trường đại học của mình xâm nhập
thị trường chất xám toàn cầu, và các trường này đang ngày càng thành công trong việc mời được những nhà khoa học Trung Quốc xuất sắc nhất từ Mỹ và từ các nước khác trở về với mức đãi ngộ và hỗ trợ nghiên cứu cạnh tranh. Trái lại, Việt Nam chưa sẵn sàng chấp nhận tham gia “cuộc chơi” săn lùng chất xám này.
Các tác giả có những so sánh mà tính logic... :-?? Các quốc gia có kinh tế phát triển ko phải có một điều kì diệu tạo ra của cải cho họ, mà họ có một vòng tròn luẩn quẩn ở mức độ cao hơn: lao động với năng suất cao và tiêu thụ những sản phẩm chất lượng cao (Số lượng ko thể nâng lên mãi, mà năng suất tăng theo chiều sâu bằng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao)
http://www.hn-ams.org/forum/showpost.php?p=1489002&postcount=28

Điều kiện kinh tế VN chưa thể sử dụng chất xám như các quốc gia phát triển hơn, nên việc các trường ĐH chưa có các ngành đào tạo, hay chưa thu hút chất xám... có thể nói khách quan là điều hiển nhiên hợp quy luật, ko thể làm khác. Một nền kinh tế như Mĩ có thể đầu tư đội ngũ kĩ sư để tạo ra những sản phẩm như Iphone, nhưng VN mà cũng đầu tư chất xám như vậy thì đầu ra ở đâu? Vấn đề cần giải quyết, là liệu trong tương lai nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ như thế nào, và như vậy giáo dục cũng như thu hút chất xám cần đón đầu một cách tương đối như thế nào (tương lai gần, ko thể đón đầu cách vài chục năm dc, mặc dù phải xây dựng chiến lược cho cả 1 khoảng thời gian dài), chứ ko phải nói chung chung là TQ hay nước nào đó làm thế thì VN cũng nên làm thế ngay. Khi kinh tế TQ chưa phát triển thì cũng rất nhiều ng ở lại Mĩ, chỉ khi nền kinh tế đủ khả năng tận dụng chất xám của họ thì họ mới quay về nhiều.


Túm lại là tôi nghi ngờ sự hiểu biết của nhóm tác giả liên quan đến các vấn đề của giáo dục VN (một phần chứ ko hẳn là tất cả). Những cái họ nói ko phải có thể dễ dàng nói là sai, nhưng những mấu chốt để khẳng định tính đúng đắn của nó thì chưa được giải quyết thuyết phục. Ít nhất phải có dấu hiệu cho thấy họ đã cân nhắc những điểm mấu chốt đó thì các kết luận mới có giá trị, nhưng có vẻ là chưa.

Viết hơi lộn xộn tí, mọi ng thông cảm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Phân tích của nhóm tác giả về chiến lược dựa vào thủy điện thiếu thuyết phục, cũng có thể họ ko có điều kiện để trình bày đầy đủ, nhưng tôi vẫn trình bày lại, là với những thông số họ dựa vào thì chưa đủ để kết luận gì cả. Nguyên tắc đầu tư là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Các tác giả ko hề đưa ra một thông số nào để có thể kết luận với tổng lượng tiền đầu tư cho thủy điện hiện tại, nếu san sẻ một phần cho nhiệt điện thì sẽ có một công suất cao hơn. Giả sử với 200 tr $có thể xây 2 nhà máy thủy điện có điện năng sản xuất trong 1 năm là 1000 MWh, hoặc xây 1 nhà máy nhiệt điện sản xuất 750 MWh, thì bạn chọn cách nào? Hoặc tính cả theo mùa đi, mùa khô 2 nhà máy thủy điện có công suất 70MW, nhiệt điện vẫn chỉ có 60MW thì sao? Chỉ đưa ra kết quả thiếu điện mà ko nói đến chi phí đầu tư, trong khi tổng vốn đầu tư rõ ràng bị hạn chế, thì các tác giả có vẻ quá khinh thường ng đọc. Trong các loại nhà máy điện, nếu tôi ko nhầm thì thủy điện có chi phí thấp nhất (bao gồm cả xây dựng và vận hành). Túm lại kết luận của họ vẫn có thể đúng, nhưng ít nhất ko phải với lập luận sơ sài đến mức thô thiển thế này.

Mình định tìm lại bài báo đã đọc, nhưng ko thấy nên đưa tạm bài này
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=5339997

Đại ý là phát triển kinh tế phải đi kèm giải quyết các vấn đề xã hội, ko thể chỉ nói đến các lợi ích kinh tế. Quy hoạch thành các vùng công nghiệp có thể giúp phát triển kinh tế nhưng nó lại tạo ra rất nhiều vấn đề xã hội (một số dẫn chứng có thể tìm ở bài báo trên, chủ yếu do vấn đề tạm cư gây xáo trộn cả ở nơi đi và nơi đến). Bài báo mình từng đọc có nói đến chủ trương xem xét phân bố các khu công nghiệp về các địa phương (tất nhiên vẫn phải thỏa mãn phát triển kinh tế) để làm giảm áp lực của các vấn đề xã hội. Về điểm này các tác giả cũng đồng ý, nhưng khuyến nghị của họ về phát triển các thành phố, Đông Nam Bộ và các khu vực miền Trung thì lại ngược lại. Điều này thực ra cũng dễ hiểu, vì 2 vấn đề kinh tế và xã hội có những mâu thuẫn, mà nếu thỏa mãn cái này sẽ phải hy sinh 1 phần cái kia. Việc của ng điều hành là tìm một điểm để đạt được lợi ích tối đa với điều kiện nguồn lực bị khống chế. Điều tôi ko đồng tình là nếu thế thì làm thế nào mà chả nói được. Cái dự án này để giải quyết vấn đề xã hội thì ông mang kinh tế ra nói, rồi khi các dự án khác giải quyết kinh tế thì ông mang công bằng với xã hội ra nói, nhưng chẳng đả động gì đến sẽ hy sinh nguồn lực của cái gì để đánh đổi. Khuyến nghị kiểu này rõ ràng chả ai bắt bẻ được, nhưng nếu tạo thành một làn sóng đòi thực hiện thì chẳng khác nào trống đánh xuôi kèn thổi ngược! Chính vì vậy, tôi nghĩ bài viết này cần phải có phản biện để tránh việc nghe một chiều mà nhìn cái gì cũng thấy “gãi đúng chỗ ngứa”.

Túm lại bài viết này mới chỉ làm được nhiệm vụ nêu ra một số vấn đề cần nghiên cứu, cung cấp một số tư liệu cho việc tìm hiểu sâu hơn, còn các lập luận thì cần thảo luận lại hết. Nhấn mạnh lại : ko phải tôi ko đồng ý với các tác giả về các vấn đề như cải thiện giáo dục ĐH, minh bạch tài chính, xem xét vấn đề thủy điện.... Mấy bài viết này chỉ mới đưa ra một điểm: ko thể kết luận với ngần đấy thông số. “Các nhóm lợi ích” mà các tác giả đề cập thì ai cũng biết, nhưng bài viết này cũng như rất nhiều các bài viết khác đã đổ cho nó quá sớm nên nhiều khi chẳng chịu tìm hiểu đấy có thực sự là nguyên nhân quan trọng nhất hay ko, và sự thiếu thuyết phục nảy sinh khi họ đã bị mờ mắt bởi định kiến trước khi xem xét các luận cứ và logic.
 
Đúng, trong kinh tế, chính sách gì cũng có opportunity cost. Tuy nhiên, trong bài viết này, mình không thấy có sự mâu thuẫn (trade-off) lớn giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội với khuyến nghị họ đưa ra. Mà ngược lại, khuyến nghị của họ thỏa mãn sự phát triển kinh tế quốc gia và phát triển mức sống của nhân dân cả nước.

Lấy ví dụ về "đầu tư vào vùng Đông Nam bộ" như Quang đưa ra. Trong bài viết này có nhắc đến công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam rất có tiềm năng, tuy nhiên Việt Nam không có một hải cảng có đủ khả năng đáp ứng sự tăng trưởng này, làm hàng hóa phải đợi lâu và phải vận chuyển đến những cảng quốc tế khác rồi mới vận chuyển đến nơi mình muốn xuất khẩu được làm tăng giá thành sản xuất.

Vấn đề là, cả một đất nước Việt Nam chỉ cần một cái cảng quốc tế thôi cũng đủ đáng ứng cho nhu cầu của cả quốc gia (nguyên cả cái West Coast của Mỹ, dài hơn cả VN mấy lần cũng chỉ có một hai cái cảng quốc tế). Thay vì dùng tiền xây nhiều cảng ở nhiều thành phố, chính phủ có thể đầu tư vào một nơi duy nhất, xây một cảng quốc tế lớn có thể đáp ứng tiềm năng xuất khẩu và nhập khẩu của cả nước. Rồi phát triển thêm hệ thống đường rây từ các vùng khác đến cảng đó. Giá thành rẻ hơn, và lợi xuất cao hơn. Và nơi thích hợp nhất để xây cảng này là nằm ở vùng Đông Nam Bộ vì nhiều lý do: vị trí thuận lợi, đã có cơ sở hạ tầng sẵn, nhân lực có kỹ năng thì dồi dào nhất vv.

Đầu tư vào một vùng không nhất thiết chỉ phát triển vùng đó còn các vùng khác thì không phát triển. Nền kinh tế gồm nhiều nhân tố gắn kết với nhau.

Điều kiện kinh tế VN chưa thể sử dụng chất xám như các quốc gia phát triển hơn, nên việc các trường ĐH chưa có các ngành đào tạo, hay chưa thu hút chất xám... có thể nói khách quan là điều hiển nhiên hợp quy luật, ko thể làm khác. Một nền kinh tế như Mĩ có thể đầu tư đội ngũ kĩ sư để tạo ra những sản phẩm như Iphone, nhưng VN mà cũng đầu tư chất xám như vậy thì đầu ra ở đâu? Vấn đề cần giải quyết, là liệu trong tương lai nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ như thế nào, và như vậy giáo dục cũng như thu hút chất xám cần đón đầu một cách tương đối như thế nào (tương lai gần, ko thể đón đầu cách vài chục năm dc, mặc dù phải xây dựng chiến lược cho cả 1 khoảng thời gian dài), chứ ko phải nói chung chung là TQ hay nước nào đó làm thế thì VN cũng nên làm thế ngay. Khi kinh tế TQ chưa phát triển thì cũng rất nhiều ng ở lại Mĩ, chỉ khi nền kinh tế đủ khả năng tận dụng chất xám của họ thì họ mới quay về nhiều.

Mình có nói chuyện với một tác giả của bài viết này. Nếu mọi người còn nhớ Intel có đầu tư 1.5 tỉ dollars vào VN, họ xây dựng một vài nhà mấy ở VN. Họ cần khoảng 200 kỹ sư có chất lượng cao để điều hành những nhà mấy này. Thế là, họ tìm được khoảng 2000 kỹ sư vừa mới tốt nghiệp giỏi nhất do các trường đại học giới thiệu của Việt Nam. Intel đưa một cái test (một loại test chung mà Intel dùng để tuyển chọn kỹ sư ở khắp thế giới) cho 2000 kỹ sư vừa tốt nghiệp này và chỉ có 50 người pass mức tối thiểu của cái test này. Cuối cùng Intel phải chạy đi thuê 150 kỹ sư còn lại từ nhiều nước khác để điều hành những nhà máy của họ.

Đây là vấn đề về hệ thống giáo dục DH của VN mà tác giả nói đến.



Ngoài ra, bài viết còn phân tích rất sâu về những Tổng Công Ty và hiệu quả kinh tế của họ, và những đầu tư cho cơ sở hạ tầng của VN. Mọi người có ý kiến gì về những vấn đề này?

Ngoài bài viết này, còn rất nhiều bài viết tương tự ở "Chương trìng giảng dạy kinh tế fullbright" ở HCM, dưới sự hợp tác giữa chính phủ VN và Harvard Kennedy School...họ có những bài nghiên cứu cả tiếng Anh và Việt
http://www.fetp.edu.vn/index.cfm (vào "tài nguyên" --> công trình nghiên cứu --> báo cáo nghiên cứu hay nghiên cứu tình huống)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Đây là số liệu một số cảng chuẩn bị dc đầu tư mà các tác giả đề cập (dự án 47->56) http://gda.com.vn//UserFiles/File/S...22811C88FC317-AFEE-42A7-BD4B-34FC066849E3.pdf

Mức đầu tư của các dự án này nếu trừ đi phần cho các dịch vụ ngoài chức năng chính thì ko lớn. Đem so sánh với các cảng ở West Coast thì :-?? Các cảng này cũng dc gắn liền với cả khu công nghiệp. Trong các loại hình vận tải thì đường thủy ít tốn kém nhất, thế nên khi so sánh cái nào rẻ hơn thì ko đơn giản kết luận dùng đường sắt thay thế vậy đâu mà cần có thêm nhiều số liệu nữa. Lấy ví dụ đơn giản: xây một cảng nhỏ ở phía Bắc sẽ ít tốn kém hơn việc vận chuyển bằng đường sắt từ phía Nam ra là điều chắc chắn. Tiếp đến là tìm điểm tối ưu: khoảng cách giữa các cảng và quy mô. (trade off là chi phí xây cảng và chênh lệch phí khi vận hành giữa 2 loại hình). Vấn đề ko chỉ là đáp ứng dc hay ko mà là hiệu quả cái nào cao nhất. Kết luận vẫn là phải tính cụ thể, chưa thể đồng ý ngay dc, mặc dù nó là một cái rất đáng để nghiên cứu.

Đông Nam bộ thì ko phải chưa nhận ra tiềm năng, bởi thực tế hiện nay đây là vùng phát triển nhất. Các vấn đề xã hội mà bài báo trên đưa ra cũng chủ yếu nói đến vùng này, vì đây là vùng thu hút nhiều lao động từ các địa phương khác nhất. Trade off ở đây là thu hút càng nhiều thì phát triển tốt kinh tế nhưng làm các vấn đề xã hội càng căng thẳng. Vậy tiếp theo nên đẩy mạnh đầu tư vào đây ở mức nào, và các nơi khác ra sao, để tìm dc điểm tối ưu.

Nếu mọi người còn nhớ Intel có đầu tư 1.5 tỉ dollars vào VN, họ xây dựng một vài nhà mấy ở VN. Họ cần khoảng 200 kỹ sư có chất lượng cao để điều hành những nhà mấy này. Thế là, họ tìm được khoảng 2000 kỹ sư vừa mới tốt nghiệp giỏi nhất do các trường đại học giới thiệu của Việt Nam. Intel đưa một cái test (một loại test chung mà Intel dùng để tuyển chọn kỹ sư ở khắp thế giới) cho 2000 kỹ sư vừa tốt nghiệp này và chỉ có 50 người pass mức tối thiểu của cái test này. Cuối cùng Intel phải chạy đi thuê 150 kỹ sư còn lại từ nhiều nước khác để điều hành những nhà máy của họ.

Đặt địa vị mình là bộ trưởng giáo dục, cách đây 5 năm, nếu Intel ko vào VN thì những SV đào tạo ra sẽ để làm gì?

Tôi học chuyên ngành IT, và cũng từng trực tiếp nghe giải thích vì sao lại ko áp dụng được nguyên chương trình của các trường trên thế giới. Computer Science chia làm 5 phân ngành hẹp, nhưng ở VN (cụ thể ở BK HN, 1 trong vài trung tâm hàng đầu về đào tạo CS) phải học 8 học kì đầu giống nhau, chỉ có 1 kì cuối và đồ án tốt nghiệp khác nhau. Lý do là để nếu ko có việc đúng phân ngành của mình thì có thể làm ở phân ngành khác!

Phát triển có tính liên tục, nếu xem xét các yếu tố rời rạc như 1 cty lớn nào đó tạo một sự đột biến thì cái chê trách kiểu như trên sẽ là tất yếu. Intel thiếu 150 ng, nhưng trước khi họ vào thì 50 ng kia lại ko có việc làm (tất nhiên còn các cty khác, các yếu tố liên tục và rời rạc khác, nhưng nếu xét theo logic của tác giả thì sẽ thấy như vậy). Ở đây liên quan đến yếu tố tầm nhìn, nhưng khi nói tương lai thì lại nảy sinh việc phải cân đối lợi ích và rủi ro.

Việc Intel phải tìm 150 ng ở các nơi khác tôi cho là còn ít, chứ ko phải vấn đề lớn. Khi nói về tương lai thì ai cũng phải đặt rủi ro nếu ko đúng như mình tính toán thì điều gì xảy ra. Cái này khác với việc sau khi sự việc đã xảy ra lại chê trách sao trước đây mình ko làm thế này hay thế kia. Nếu Intel vào đây và có đủ 200 ng như họ cần, thì cũng có nghĩa rủi ro cực lớn nếu điều đó ko xảy ra. Vấn đề tiếp theo giờ đây là sau bao lâu thì có thể đẩy 150 ng kia về lại nơi họ đã đến.

Về các tổng cty thì đồng ý là nó thiếu cơ sở kinh tế.
 
Mức đầu tư của các dự án này nếu trừ đi phần cho các dịch vụ ngoài chức năng chính thì ko lớn. Đem so sánh với các cảng ở West Coast thì Các cảng này cũng dc gắn liền với cả khu công nghiệp. Trong các loại hình vận tải thì đường thủy ít tốn kém nhất, thế nên khi so sánh cái nào rẻ hơn thì ko đơn giản kết luận dùng đường sắt thay thế vậy đâu mà cần có thêm nhiều số liệu nữa. Lấy ví dụ đơn giản: xây một cảng nhỏ ở phía Bắc sẽ ít tốn kém hơn việc vận chuyển bằng đường sắt từ phía Nam ra là điều chắc chắn. Tiếp đến là tìm điểm tối ưu: khoảng cách giữa các cảng và quy mô. (trade off là chi phí xây cảng và chênh lệch phí khi vận hành giữa 2 loại hình). Vấn đề ko chỉ là đáp ứng dc hay ko mà là hiệu quả cái nào cao nhất. Kết luận vẫn là phải tính cụ thể, chưa thể đồng ý ngay dc, mặc dù nó là một cái rất đáng để nghiên cứu.

Những nhà kinh tế học cho rằng, xây một cảng lớn và đường sắt dẫn đến một cảng lớn đó sẽ có lợi tức kinh tế hơn là xây một đống cảng nhỏ.

Bởi vì cảng nhỏ thì chỉ có tàu nhỏ mới có thể vào nổi, mà da phần các tàu trên thế giới trong khu vực kinh doanh thế giới hầu hết là tàu lớn, không vào cảng nhỏ được. Cho nên muốn vận chuyển được hàng hóa, chúng ta phải xây một đoàn tàu nhỏ nội địa để vận chuyển hàng, cộng cái đó vào thì vừa tốn thêm nhiều tiền và thời gian

Trong khi đường ray thì chúng ta đã có sẵn rồi, đoàn xe lửa cũng có, mở rộng đường ray 2 chiều có thể tăng tốc độ vận chuyển hàng hóa và giá thành cũng tương đương với vận chuyển hàng thủy. Đường sắt nó mắc là mắc lúc đầu (initial investment, kiểu như economies of scale vậy), còn về sau thì rất rẻ. Đây cũng là một lý do đa phần các nhà kinh tế hệ thống cơ sở thường chú tâm vào xây dựng một cảng lớn cho cả một đường biển của họ, rồi dùng đường rây để kết nối.

Một điều có lợi nữa của đường ray là nó có thể đi vào những trong vùng xâu vùng xa, kết nối với những vùng nào vào thị trường trong nước và thế giới. Tạo một có lợi rất lớn cho phát triển kinh tế của vùng này.

Đặt địa vị mình là bộ trưởng giáo dục, cách đây 5 năm, nếu Intel ko vào VN thì những SV đào tạo ra sẽ để làm gì?

Tôi học chuyên ngành IT, và cũng từng trực tiếp nghe giải thích vì sao lại ko áp dụng được nguyên chương trình của các trường trên thế giới. Computer Science chia làm 5 phân ngành hẹp, nhưng ở VN (cụ thể ở BK HN, 1 trong vài trung tâm hàng đầu về đào tạo CS) phải học 8 học kì đầu giống nhau, chỉ có 1 kì cuối và đồ án tốt nghiệp khác nhau. Lý do là để nếu ko có việc đúng phân ngành của mình thì có thể làm ở phân ngành khác!

Phát triển có tính liên tục, nếu xem xét các yếu tố rời rạc như 1 cty lớn nào đó tạo một sự đột biến thì cái chê trách kiểu như trên sẽ là tất yếu. Intel thiếu 150 ng, nhưng trước khi họ vào thì 50 ng kia lại ko có việc làm (tất nhiên còn các cty khác, các yếu tố liên tục và rời rạc khác, nhưng nếu xét theo logic của tác giả thì sẽ thấy như vậy). Ở đây liên quan đến yếu tố tầm nhìn, nhưng khi nói tương lai thì lại nảy sinh việc phải cân đối lợi ích và rủi ro.

Việc Intel phải tìm 150 ng ở các nơi khác tôi cho là còn ít, chứ ko phải vấn đề lớn. Khi nói về tương lai thì ai cũng phải đặt rủi ro nếu ko đúng như mình tính toán thì điều gì xảy ra. Cái này khác với việc sau khi sự việc đã xảy ra lại chê trách sao trước đây mình ko làm thế này hay thế kia. Nếu Intel vào đây và có đủ 200 ng như họ cần, thì cũng có nghĩa rủi ro cực lớn nếu điều đó ko xảy ra. Vấn đề tiếp theo giờ đây là sau bao lâu thì có thể đẩy 150 ng kia về lại nơi họ đã đến.

Một câu chuyện của Richard Florida, tác giả của The Creative Class. Vào thập niên 90s, ông ta làm việc ở Pittsburg. Ông ta học kinh tế ở đó (Carnegie Mellon). Lúc đó, conventional wisdom ("kiến thức cổ truyền") để phát triển kinh tế một vùng là gồm có 3 điều căn bản. Thứ nhất là phải tạo việc làm, muốn tạo việc làm thì phải thu hút các công ty đến vùng của mình (thứ hai), để thu hút các công ty đến vùng của mình để tạo việc làm thì chính phủ vùng đó phải "hối lộ" các công ty đó đến vùng của mình: giảm thuế (tax reduction và tax rebate), xây dực cơ sở hạ tầng vv. Pittsburg đều làm những điều này

Tuy nhiên, vào năm 1995, Lego chuyển nguyên cả quá trình sản xuất của họ từ Pittsburg lên Boston khi Boston không hề giảm thuế cho họ, Boston cũng không có xây dựng thêm cơ sở hạ tầng gì mới, chính phủ của Boston cũng không có hề nói chuyện với những nhà lãnh đạo của Lego. Ông Florida liền gọi điện cho Lego và hỏi tại sao? Họ trả lời là họ chuyển đến Boston để có access tới một nguồn lao động có kiến thức và kỹ năng cao đã có sẵn ở Boston.

Đây là câu chuyện đã khiến Florida làm một research (khoảng 10 năm) về một trend ở Mỹ đó là hầu hết các công ty của Mỹ đều đổ dồn về một số thành phố ở Mỹ (Boston, San Francisco, DC, Seattle etc) và thế giới (London, Paris, Shanghai etc). Và lý do chính của họ, ngoài hệ thống cơ sở hạ tầng đó là một nguồn lao động có kiến thức vào kỹ năng cao (The creative class).

Cái research này chỉ ra một điều đó là, để phát triển kinh tế trong một thị trường toàn cầu hóa hiện này, thì một điều mà chính phủ cần phải làm đó là đào tạo một đội ngũ nhân công có kiến thức và kỹ năng cao trước. Sau đó thì phát triển kinh tế mới có thể phát triển.

Thử đứng vào tầm nhìn của một công ty, xem nên đầu tư ở chỗ nào, thì nhân công có kỹ năng cao là một yếu tố gần như hàng đầu, trên cả thuế thấp (thuế ở Boston, San Francisco, Alexandria etc đều cao hơn so với rất nhiều vùng, và cơ sở hạ tầng của họ cung không khá hơn mấy, tuy nhiên công ty vẫn đặt cơ sở hạ tầng của họ tới đó).

Vì thế, nếu nói phải có công ty đến thì mới đào tạo nhân công có kỹ nghệ cao thì đã nhìn vấn đề lạc hướng. Phải đào tạo nhân công kỹ nghệ cao trước rồi công ty mới đến.
Đất nước VN có khoảng 85 triệu dân, và kinh tế phát triển 7-8%/năm mà không đào tạo nổi 200 kỹ sư tốt nghiệp có kỹ năng tối thiểu với tầm cỡ quốc tế thì có lý luận thế nào cũng khó có thể biện minh cho sự yếu kém của hệ thống đại học VN.

Thứ hai, có câu "supply creates its demand" (sản phẩm sẽ tạo ra sự nhu cầu cho sản phẩm đó), hay gần hơn các công ty không chỉ cung cấp những mong muốn đã có sẵn mà họ nhiều khi sản xuất ra những nhu cầu mới, ví dụ ipods, iphones, xBox etc. Cái này đặc biệt đúng đối với nhân công có kỹ năng và kiến thức cao. Con người rất có tính sáng tạo và entrepreneurship, chỉ cần họ có kỹ năng và kiến thức cao, thì họ sẽ tự tao ra công ăn việc làm chứ không sợ phải thất nghiệp (cái này được researched rất kỹ bởi Richard Florida và nhiều nhà kinh tế học khác từ những dẫn chứng như Sillicon Valley, Boston, Washington DC, San Diego etc)

Một chuyện cười cho cái lý thuyết đó là: thả 10,000 người mà không có nhiều học thức vào một thành phố nhỏ, thì họ sẽ tạo ra thất nghiệp, kinh tế trì trệ, người dân sẽ chuyển ra khỏi thành phố đó rất nhanh để kiếm việc làm (cung và cầu). Tuy nhiên, nếu thả 10,000 nhân công có kỹ năng và kiến thức cao (không cần phải chuyên môn gì cả) thì ngược lại, họ tụ họp với nhau, tự thành lập công ty, công ăn việc làm mới, rồi không lâu sâu người dân từ các vùng khác chạy tới thành phố đó để kiếm việc làm.
 
Vì thế, nếu nói phải có công ty đến thì mới đào tạo nhân công có kỹ nghệ cao thì đã nhìn vấn đề lạc hướng. Phải đào tạo nhân công kỹ nghệ cao trước rồi công ty mới đến.
Nếu nhìn nhận các cty đến rồi mới đào tạo thì tất nhiên là sai. Nhưng nếu nhìn nhận nó có một sự cân đối hợp lý: đào tạo 1 phần rồi khi họ đến sẽ có phần còn lại thì sao? Nó cho phép giảm bớt rủi ro nhưng vẫn đáp ứng những yêu cầu mà bạn đưa ra. Điểm khác biệt khi nhìn nhận liên tục và rời rạc ở chỗ bạn sẽ thấy như khi bước 2 chân, sẽ có lúc chân này lên trước và ngược lại, còn người bạn thì chuyển động liên tục. Khi Intel vào thì ko phải đào tạo 150, mà sẽ là 200, và lại có 50 dư thừa. Kiểu suy nghĩ là vậy.

Đất nước VN có khoảng 85 triệu dân, và kinh tế phát triển 7-8%/năm mà không đào tạo nổi 200 kỹ sư tốt nghiệp có kỹ năng tối thiểu với tầm cỡ quốc tế thì có lý luận thế nào cũng khó có thể biện minh cho sự yếu kém của hệ thống đại học VN.

Kỹ sư tốt nghiệp IT ở VN có một tỉ lệ khá được công nhận đáp ứng chuẩn tương đương tại Nhật. Rất nhiều kĩ sư IT tốt nghiệp ở VN đc đưa sang Nhật làm việc. (tất nhiên có cả các quốc gia khác nhưng Nhật là nhiều nhất, có hẳn một làn sóng và cty chuyên cung cấp kĩ sư cho Nhật)

Thứ 2 là phân ngành liên quan đến Intel (liên quan nhiều đến phần cứng) vốn ít phát triển ở VN, vì nó đòi hỏi cơ sở vật chất lớn mà nếu ko có các cty lớn vào thì ko thể phát triển. Cái này thì có muốn phát triển thì những ng có khả năng cũng ko chọn. Thực tế những sinh viên VN tốt nhất ko chọn phân ngành này (ở chỗ tôi học nhìn thấy rất rõ, nhìn trên cách thức phát triển và suy nghĩ chung cũng ko khó để khẳng định)

Bài trên chỉ là nói chung về nguyên lý, còn nếu nói cụ thể thì có thể khẳng định 2000 kĩ sư thi vào Intel có rất ít những kĩ sư hàng đầu. Những ng hàng đầu ko chọn phân ngành chủ yếu liên quan đến phần cứng như Intel (mặc dù chương trình học gần như giống nhau, nhưng định hướng phát triển của cá nhân cũng rất quan trọng). Những sinh viên hàng đầu lại có xu hướng chung là tìm học bổng để tiếp tục ra nước ngoài học. Họ cũng có con đường ra nước ngoài làm việc, hoặc các cty nước ngoài khác tại VN, hoặc tự mở cty, nên Intel cũng chẳng phải là một cái gì đó ghê gớm. Cá nhân tôi có nghe nói nhưng nó cũng chẳng gây ấn tượng gì lắm. Ko phải coi thường, nhưng ở chỗ tôi học thì phân ngành liên quan đến Intel SV hầu như chỉ chọn khi ko đủ điểm vào phân ngành khác.

Câu chuyện về Lego là một kinh nghiệm tốt, nhưng đặt câu hỏi ngược lại là tại sao Intel vẫn quyết định vào VN, tại sao vẫn có một làn sóng đầu tư vào VN, có bao nhiêu cty như Lego, thì có lẽ câu trả lời là ko phải cty nào cũng nghĩ như vậy, hoặc ít nhất đó ko phải điều kiện đủ. Với 1 cty thì cái đặt lên hàng đầu ko phải cái gì khác ngoài lợi nhuận, tất cả các yếu tố khác chỉ là những nhân tố để tính toán cái mục đích cuối cùng này thôi. Tất cả các nhân tố bạn nêu đều sẽ quyết định lựa chọn của họ, ko có cái nào là quan trọng nhất, cũng ko phải trên, mà về mặt toán học nó là một hàm lợi ích mà các biến có trọng số ưu tiên khác nhau (trọng số lớn có nghĩa nó có tầm ảnh hưởng mạnh hơn, nhưng ko có nghĩa có nó thì sẽ đạt dc). Để đạt được các yếu tố đó thì đều phải trả giá, và nguyên tắc lựa chọn của chúng ta cũng là cân đối cái đạt dc và cái bỏ ra, chứ cũng ko phải là bằng mọi giá. Với sự phát triển của VN hiện giờ đương nhiên cũng đã loại bỏ rất nhiều cty khác, nhưng phải chấp nhận rằng thời điểm này cố gắng kéo họ về thì có thể phải bỏ ra nhiều hơn cái thu lại. Mỗi bước phát triển sẽ giải quyết cái đấy theo thời gian. (bạn cứ hình dung cách đây 10 năm mà cố gắng đầu tư đến mức đủ sức thu hút dc Intel vào VN thì liệu có lợi hay thiệt nhiều hơn?)

để phát triển kinh tế trong một thị trường toàn cầu hóa hiện này, thì một điều mà chính phủ cần phải làm đó là đào tạo một đội ngũ nhân công có kiến thức và kỹ năng cao trước. Sau đó thì phát triển kinh tế mới có thể phát triển.
Cái này thì ko phải phản đối hoàn toàn, nhưng tôi cho rằng mới chỉ nói dc 1 nửa vấn đề. Nếu ko có kinh tế phát triển thì ko thể có “một đội ngũ nhân công có kiến thức và kỹ năng cao”, nó phải phát triển song hành. Để thu hút nhân lực vào một ngành nào đó ko thể ko có đầu ra cho họ. Ko có các công việc đầu ra rõ ràng thì ai sẽ chịu học? Ko có một ngành công nghiệp ở đó thì lấy đâu ra chỗ thực tập, lấy đâu đầu ra cho các nghiên cứu? Mặt khác, một đội ngũ kĩ sư như Mĩ, nếu có đến VN thì cũng phải đi thôi, lý do giải thích bên dưới.

có câu "supply creates its demand" (sản phẩm sẽ tạo ra sự nhu cầu cho sản phẩm đó)
Nếu bạn create Ipod ở VN thì chắc chắn bạn sẽ phá sản, vì trong demand có một đòi hỏi quan trọng là ngoài việc họ muốn mua thì họ còn phải có khả năng trả tiền, mà cái này thì supply ko thể làm dc. Đây cũng là điểm cần lưu ý khi áp dụng các bài học của Mĩ vào VN. Cái khả năng trả tiền này đòi hỏi 1 nền kinh tế trong đó có các tác nhân phát triển tương đối gần nhau và tạo thành vòng tròn, ko có cái nổi trội dc. Nếu thế giới hòa nhập thành một toàn cầu hóa lý tưởng thì có thể khắc phục cái này (và tạo vấn đề khác), nhưng còn rất xa để đạt điều đó.

Câu này cũng ko có nghĩa hòan toàn sai, mà tôi muốn nhấn mạnh supply vẫn ko thể create theo nghĩa nó chủ động hoàn toàn trong mối quan hệ với demand, nhất là với nền kinh tế của 1 nước đang phát triển như VN.

Về vấn đề cảng thì tôi cũng nói là còn vấn đề về số liệu để tính toán, chứ chưa khẳng định điều gì cả. Khi vấn đề đặt ra là có 2 cái tác động trái chiều thì phải tính cụ thể chứ ko thể kết luận ngay. Các nhà kinh tế và chính phủ sẽ có những con số này và họ sẽ làm thêm việc đó. Nếu chúng ta ko có những con số đó để tính toán thì chỉ có thể nhìn họ làm chứ xác định là ko nên ủng hộ ngay 1 bên nào vì làm gì có cơ sở.

Tạm thời tôi trả lời một vài điểm bạn đưa ra:
Bởi vì cảng nhỏ thì chỉ có tàu nhỏ mới có thể vào nổi, mà da phần các tàu trên thế giới trong khu vực kinh doanh thế giới hầu hết là tàu lớn, không vào cảng nhỏ được. Cho nên muốn vận chuyển được hàng hóa, chúng ta phải xây một đoàn tàu nhỏ nội địa để vận chuyển hàng, cộng cái đó vào thì vừa tốn thêm nhiều tiền và thời gian
Cái đoàn tàu nhỏ này thì ko hẳn là ai xây. Nếu nó đem lại lợi ích thì sẽ có các cty tận dụng, nếu kém hiệu quả (so với đường sắt hay bất cứ loại hình nào) thì họ sẽ ko đầu tư. Như vậy bài toán tối ưu này ko nên phán đoán, vì thực tế hiện nay vẫn có những ng đang đầu tư vào đây (có thể nói là ko ít).

Việc cảng lớn hay nhỏ tất nhiên cũng phải tính toán tùy thuộc tàu, nhu cầu vận chuyển.... chứ ko hẳn là cứ xây cảng nhỏ, đấy là ví dụ thế thôi. Cũng ko hẳn cảng nào cũng cần xây để đón tàu lớn của thế giới. Ngay cả việc có cảng nhỏ cũng vẫn có hệ thống đường sắt để vận chuyển hàng được đưa qua tàu lớn (giả sử là hàng quốc tế như bạn nói) về cảng khác rồi chuyển về vùng này.... Nói chung là còn rất nhiều cái có thể đan xen nhau...

Có 1 điểm tôi ko có điều kiện nghiên cứu, nên đặt ra rồi chờ ai đó trả lời :D Ko biết trên thế giới có hệ thống vận tải trên sông ko? Nếu đặt vấn đề đường biển của VN như một con sông lớn ko cần nạo vét, và thử so sánh hệ thống cảng biển VN với hệ thống cảng sông của một con sông lớn nào đó có lẽ sẽ cho một kết quả tốt hơn nhiều là so với West Coast của Mĩ (hoặc có thể có một sự kết hợp).
 
Nếu bạn create Ipod ở VN thì chắc chắn bạn sẽ phá sản, vì trong demand có một đòi hỏi quan trọng là ngoài việc họ muốn mua thì họ còn phải có khả năng trả tiền, mà cái này thì supply ko thể làm dc. Đây cũng là điểm cần lưu ý khi áp dụng các bài học của Mĩ vào VN. Cái khả năng trả tiền này đòi hỏi 1 nền kinh tế trong đó có các tác nhân phát triển tương đối gần nhau và tạo thành vòng tròn, ko có cái nổi trội dc. Nếu thế giới hòa nhập thành một toàn cầu hóa lý tưởng thì có thể khắc phục cái này (và tạo vấn đề khác), nhưng còn rất xa để đạt điều đó.

Lập luận này tớ phản đối. Ở VN giá ô tô cao gấp 3-4 lần ở bên Mỹ. 1 ô tô trung bình đổi được vài trăm cái Ipod. Bây giờ tớ nghe nói muốn có ô tô đi ngay, không phải chờ vài tháng thì phải trả thêm cho người bán $2000. Vậy mà các công ty ô tô ở VN vẫn giàu nứt đố chứ có phá sản đâu.
 
Back
Bên trên