Re: Triết Học và Đảng
VIỆT NAM 60 NĂM PHÁT TRIỂN
1945-2005
Kinh tế phát triển bền vững, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện là thành tựu lớn nhất của Việt Nam trong suốt sáu mươi năm xây dựng đất nước
I. SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ.
GIAI ĐOẠN 30 NĂM ĐẦU PHÁT TRIỂN 1945-1975.
1. Năm 1945, Việt Nam giành độc lập trong tình trạng suy thoái trầm trọng cả về Kinh Tế và Xã Hội
Năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời trên nền kinh tế kiệt quệ, với hơn 2 triệu người dân chết đói, ruộng đất hoang hoá, nền công nghịêp nghèo nàn, kho bạc chỉ còn vài trăm ngàn đồng tiền rách nát.
Ngay từ khi giành được chính quyền, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp phục hồi kinh tế kịp thời như cấp ruộng đất cho nông dân, bãi bỏ các loại thuế do chính quyền thực dân phong kiến áp đặt, phát động Tuần lễ vàng để quyên góp tiền bạc tăng ngân sách nhà nước, vận động nhân dân tăng gia sản xuất.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ tiếp tục những chính sách khuyến khích sản xuất, với khẩu hiệu vừa kháng chiến vừa kiến quốc, kinh tế ở những vùng tự do và vùng mới giải phóng đã được khôi phục và phát triển.
2. Giai Đoạn 1954-1975: Khôi phục và Phát triển KT trong hoàn cảnh Chiến tranh
Chính phủ và nhân dân nỗ lực khôi phục nền KT thoát khỏi tình trạng trì trệ, để phục vụ cho nhu cầu nhân dân và thực hiện kháng chiến thống nhất đất nước. Giai đoạn này có một số thành tựu rất đáng kể đối với Việt Nam- khi đó còn là một nước nông nghiệp lạc hậu:
Ðến năm 1954, sản lượng lương thực qui thóc đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Lương thực đủ cung cấp cho nhân dân vùng Chính phủ kháng chiến quản lý và bộ đội đánh giặc. Nhiều cơ sở công nghiệp được xây dựng mới, nhiều ngành công nghiệp phục vụ cho đời sống và kháng chiến phát triển như vũ khí, đạn dược, than đá, phân bón, vải và giấy viết.
Hoà bình lập lại (1954), đất nước chia hai miền. Miền Bắc, hậu phương lớn của miền Nam, tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, nhiều diện tích ruộng đất hoang hoá được khôi phục, nhiều hệ thống thuỷ nông, đê điều được xây dựng. Ðến năm 1960, nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu phục hồi một cách mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm này đã đạt 18,2%.
Trong suốt thời kỳ 1954 đến 1975, cả miền Bắc là một công trường xây dựng, vừa phát triển kinh tế vừa chi viện miền Nam vừa chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ðây cũng chính là thời kỳ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, sản lượng nông nghiệp giảm mạnh, không đủ tiêu dùng phải nhận viện trợ và vay nợ.
Tuy nhiên, công nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, nhiều cơ sở công nghịêp được xây dựng và phục hồi. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tính bình quân đầu người năm 1975 tăng 16,6 lần so với năm 1955, bình quân mỗi năm tăng 14,7%. Một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng cao là điện, than, xi măng, giấy, vải và đường. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1975 đạt 28,7% .
II. ĐẤT NƯỚC HOÀ BÌNH, VIỆT NAM ĐI LÊN THEO CON ĐƯỜNG XHCN.
GIAI ĐOẠN 30 NĂM PHÁT TRIỂN 1975-2005.
1. Trong 10 năm sau ngày giải phóng, cơ chế quan liêu bao cấp kìm hãm sự phát triển KT-XH
Trong 10 năm sau khi miền Nam được giải phóng (1975), do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu và bao cấp nên hiệu quả đầu tư không cao, kinh tế không phát triển được. Tình trạng làm không đủ ăn, thu chi ngân sách phải dựa vào vay và viện trợ nước ngoài. Trong thời gian này, lạm phát đã lên tới mức kỷ lục 774,7%.
2. Giai Đoạn 1986-2005: Kỉ nguyên của Phát triển đa ngành và Hội nhập sâu rộng
Ðể đưa đất nước thoát qua tình cảnh khủng hoảng kinh tế kéo dài, đại hội VI của Ðảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã ra quyết định quan trọng, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện. Kết quả nổi bật của 20 năm đổi mới là tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
SỐ LIỆU TỔNG HỢP
Trong giai đoạn 1991-1995, GDP tăng bình quân 8,2%/năm. Giai đoạn 1995-2000 là thời kỳ khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ các nước châu Á, nhưng mức độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của Việt Nam vẫn đạt 7%. Giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 6,79%, 6,80%, 7,08% và 7,69%. Riêng sáu tháng đầu năm 2005 tăng 7,7%.
Theo thông tin của công ty tư vấn AT Kearney (nêu ra trong Hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam, được tổ chức hồi đầu năm nay), tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam luôn đứng trong nhóm dẫn đầu ở châu Á, GDP tính theo đầu người tăng từ 289 USD năm 1995 lên 490 USD năm 2003. Tỷ lệ đói nghèo giảm khoảng một nửa với 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế của đất nước cũng ngày càng đa dạng. Bên cạnh kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo (38-39%), đã và đang phát triển mạnh các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, tập thể và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài và Luật hợp tác xã lần lượt ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động. Hiện đã có trên 125.000 doanh nghiệp tư nhân, xấp xỉ 16.000 hợp tác xã đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, tập trung phần lớn trong khu vực dịch vụ, nông nghiệp. Ngoài ra, còn có 5.563 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế ngày càng đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân. Dự báo, đến hết năm 2005, thu nhập kinh tế của khu vực nhà nước chiếm 38,5%, kinh tế ngoài quốc doanh là 47% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,5%.
+ Hiện cả nước có 125 khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút 3.500 dự án trong và ngoài nước, giải quyết việc làm cho trên 673.000 lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi bộ mặt của nhiều vùng nông thôn.
+ Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng nhanh. Trước năm 1986, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu trao đổi sang các nước xã hội chủ nghĩa, gồm lương thực, thực phẩm và động vật sống, đồ uống, thuốc lá, than đá. Ðến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 11,5 tỷ USD, đến năm 2004 đã đạt trên 26 tỷ USD. Bảy tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 17,4 tỷ USD. Nhiều sản phẩm trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước và có vị thế trên thị trường quốc tế như gạo, may mặc, da giày, hải sản, cà phê, dầu thô, đồ gỗ... Sản phẩm của Việt Nam đã có mặt trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ.
+ Hệ thống tài chính, tiền tệ cũng đã từng bước được cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành kinh tế. Các ngân hàng ngày càng thông thoáng và có nhiều dịch vụ hơn. Ðặc biệt là phát triển hệ thống ngân hàng điện tử.
Trên cơ sở những thành tựu về kinh tế, nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cho rằng kinh tế Việt Nam đang ngày càng tiến dần tới xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Nhiều bộ Luật mới hoặc sửa đổi ngày càng phù hợp với thực tế phát triển đất nước và gần với những qui ước, thông lệ quốc tế.
MỘT SỐ THÀNH TÍCH NỔI BẬT
+ Việt Nam là tấm gương về thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ: "Các thành quả của Việt Nam đã tiến xa hơn dự liệu và rất tốt đẹp so với nhiều nước đang phát triển khác, đặc biệt là trong công tác cắt giảm hơn một nửa mức nghèo khó trong nước trong thập kỷ qua, trong công tác cải thiện chương trình giáo dục căn bản và nâng cao tỷ lệ người biết đọc, biết viết"
+ Việt Nam từ chỗ là một nước phải nhập khẩu lương thực nay đã trở thành một nước xuất khẩu Nông-Lâm-Thuỷ sản hàng đầu Thế giới. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 Thế giới, sau Thái Lan. Gạo Việt Nam không những nâng cao về sản lượng mà ngày càng có chất lượng tốt: 3 quý đầu năm 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất vào thị trường Nhật khoảng 90.000 tấn gạo, tăng đến 60% so với cùng kỳ năm 2004. Nhật Bản là thị trường khó tính nhất Thế giới, bộ tiêu chuẩn đối với sản phẩm gạo nhập vào nước này có tới 579 tiêu chuẩn.
+ Việt Nam là một nước có hệ thống Y tế tốt, tự sản xuất được nhiều loại thuốc phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Năm 2008, Việt Nam sẽ đạt 1 tỷ USD giá trị tổng thị trường thuốc trong nước, và chỉ tính riêng 3 quý đầu năm 2005, giá trị xuất khẩu của ngành dược đã đạt 14 triệu USD, tăng 13% so cùng kỳ năm 2004.
+ Việt Nam là một trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất bình quân hàng năm về số máy điện thoại. Hiện VNPT (Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam) đã hòa mạng cho khách hàng thuê bao điện thoại thứ 12 triệu, đạt tỷ lệ 14,6 máy/100 dân. Nếu như năm 1998, Việt Nam mới chỉ có 2 triệu khách hàng thuê bao điện thoại, đạt mật độ 2,65 máy/100 dân thì đến nay, số lượng máy điện thoại đã tăng gấp gần 5 lần so với thời điểm năm 1998. Với tốc độ phát triển máy điện thoại này, VNPT đã rút ngắn thời gian mà Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã đề ra là đạt mật độ điện thoại 7 đến 8 máy/100 dân vào năm 2005.
+ Trong những năm qua, mạng lưới viễn thông trong nước và quốc tế đã không ngừng được đầu tư, phát triển. VNPT đã tăng cường dung lượng các tuyến cáp quang biển, cáp quang trên đất liền thay thế các kênh vệ tinh đi quốc tế. Đến nay, mạng truyền dẫn quốc tế có 4 tuyến cáp quang và 7 trạm thông tin vệ tinh mặt đất, 113 trạm vệ tinh VSAT. Với sự phát triển này, Việt Nam đã có gần 6.000 kênh liên lạc trực tiếp với khoảng 50 quốc gia, lãnh thổ trên thế giới, 61/64 tỉnh, thành phố đã có truyền dẫn cáp quang liên tỉnh; 42/64 tỉnh, thành phố đạt chỉ tiêu 100% huyện, thị xã có truyền dẫn cáp quang từ huyện về trung tâm tỉnh. Tổng chiều dài cáp quang liên tỉnh đạt 6.500km và tuyến cáp quang nội tỉnh là 15.700km
+ Hiệp hội Du lịch châu Á-Thái Bình Dương (PATA) nhận định trong 3 năm tới Việt Nam sẽ đứng thứ 5 ở Đông Nam Á về thu hút khách du lịch nước ngoài, sau Malaixia, Thái Lan, Xinhgapo và Inđônêxia. Theo PATA, trong năm 2005 Việt Nam có thể đón khoảng 3,36 triệu khách quốc tế, chiếm xấp xỉ 6% tổng lượng khách quốc tế đến 10 nước Đông Nam Á. Lượng khách này sẽ tăng lên con số hơn 3,6 triệu lượt vào năm 2006 và gần 3,9 triệu lượt vào năm 2007. Theo PATA, nhiều du khách nước ngoài muốn đến Việt Nam vì đây là một trong những điểm đến an toàn, lý tưởng nhất trong bối cảnh nhiều vụ khủng bố đang xảy ra trên thế giới.
III. VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ HÀ NỘI NÓI RIÊNG KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN.
KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC: CÁI NHÌN QUA NHỮNG THỐNG KÊ.
1. Tình hình Kinh Tế- Xã Hội Việt Nam 8 tháng đầu năm 2005
Về tình hình kinh tế- xã hội tháng 8 và 8 tháng của năm 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đánh giá là tiếp tục phát triển tốt. Sản xuất, kinh doanh trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, công nghiệp tháng 8 ước đạt 40,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% so với tháng 7 và tăng 18,1% so với tháng 8 năm 2004. Tính chung 8 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 285,7 nghìn tỷ đồng, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước. Một số sản phẩm công nghiệp tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như: Than sạch, thuỷ sản chế biến, động cơ điện, ô tô....Nhiều địa phương có tốc độ sản xuất công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Vĩnh Phúc tăng 38,1%, Hà Tây tăng 21,4%, Hải Dương tăng 29,3%, Bình Dương tăng 33,8%...
Về sản xuất nông nghiệp, trong 8 tháng đầu năm cả nước đã gieo cấy được 1.472 nghìn ha lúa mùa, hiện nay, lúa mùa đang được chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và phát triển khá tốt. Khu vực chăn nuôi đàn gia súc và gia cầm trong cả nước đang được duy trì và phát triển ổn định, ngành thú y phối hợp với các hộ chăn nuôi chủ động theo dõi và chăm sóc tốt đàn vật nuôi, phòng tránh các mầm bệnh trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp.
Về nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, sản lượng trồng, khai thác thuỷ sản nội địa và khai thác hải sản 8 tháng đạt 1.011 nghìn tấn, bằng 65% kế hoạch năm và 1.218 nghìn tấn, bằng 70% so với kế hoạch năm.
Về lâm nghiệp, trong tháng 8, do lượng mưa đều, thời tiết thuận lợi nên trồng rừng, chăm sóc và trồng cây phân tán đạt hiệu quả cao. Trong 8 tháng đầu năm, diện tích trồng rừng tập trung ước đạt 139,2 nghìn ha, trồng cây phân tán đạt 164,4 triệu cây và chăm sóc rừng trồng đạt 202,4 nghìn ha.
Hoạt động du lịch, dịch vụ tiếp tục phát triển, trong 8 tháng qua Việt Nam đã đón trên 2,32 triệu lượt khác quốc tế, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước. Dịch vụ bưu chính viễn thông Internet trong nước, quốc tế, mạng thông tin hàng hải tiếp tục phát triển và hoạt động ổn định.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính viễn thông Internet trong nước và quốc tế, mạng thông tin hàng hải tiếp tục phát triển. Trong tháng 8, phát triển mới 301 ngìn thuê bao điện thoại, nâng tổng số thuê bao điện thoại phát triển trong 8 tháng đầu năm 2005 lên 2,35 triệu thuê bao và tổng số thuên bao điện thoại trên toàn mạng đạt 12,65 triệu máy, trong đó thuê bao di động chiếm xấp xỉ 52%, đạt mật độ 15,3 máy/100 dân.
Cũng trong 8 tháng qua, xuất nhập khẩu tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu tháng 8 đạt mức cao nhất trong các tháng đầu năm, ước đạt 2,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (không kể dầu thô) đạt 950 triệu USD, tăng 2,7% so với tháng trước. Tính trung bình 8 tháng xuất khẩu tăng 18,7%, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a… ngày càng chiếm lĩnh được vị thế cao. Kim ngạch nhập khẩu tháng 8 năm 2005 ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng 7. Tính chung cả 8 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 24,19 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2004, nhiều mặt hoạt động xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực, tai nạn giao thông giảm dần.
Về đầu tư phát triển, vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cung cấp đến ngày 15/8/2005, đạt 1.530 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1.317 triệu USD và vốn viện trợ đạt 213 triệu USD. Tổng giá trị vốn ODA giải ngân ước đạt 1.120 triệu USD, đạt khoảng 60% kế hoạch giải ngân của cả năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm cả 8 tháng đạt khoảng 3.464 triệu USD, tăng 49,2% so với cùng kỳ năm 2004. Vốn FDI thực hiện ước đạt 2.147 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2004.
Giá cả, chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 tăng 0,4% so với tháng trước. Tính chung cả 8 tháng, chỉ số giá tiêu dùng tăng 6%, trong đó nhóm hàng lương thực và thực phẩm tăng cao nhất, ở mức 8%.
Trong tháng 8 đã có khoảng 15 vạn người được giải quyết việc làm, đưa số người lao động được giải quyết việc làm 8 tháng đạt 1 triệu người đạt 62% kế hoạch năm. Số lao động xuất khẩu trong tháng 8 ước đạt 5 nghìn người đưa tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài lên trên 4,24 vạn người.
Về trật tự an toàn giao thông, sau một thời gian đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường lực lượng kiểm tra, giám sát, ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân đã bước đầu được nâng cao. Số vụ tai nạn giao thông, số người chết và số người bị thương đều giảm so với cùng kỳ, sau 8 tháng cả nước đã giảm 18,4% về số vụ, 5,5% về số người chết, 24,1% về số người bị thương so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, khó khăn trong 4 tháng cuối năm còn rất lớn, đặc biệt là sự biến động của giá xăng dầu đã gây sức ép tăng giá các mặt hàng khác, đồng thời diễn biến thời tiết khó lường cũng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân; năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm thấp, một số vấn đề xã hội còn bức xúc.
2. Tình hình Kinh Tế- Xã Hội Hà Nội 8 tháng đầu năm 2005.
Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội tháng Tám năm 2005 tăng 5% so tháng trước trong đó kinh tế Nhà nước tăng 4,8% (kinh tế Nhà nước Trung ương tăng 5,5%, kinh tế Nhà nước địa phương tăng 2,6%), kinh tế ngoài Nhà nước tăng 4,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,9%. Dự kiến 8 tháng năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng 14,9% so cùng kỳ năm trước trong đó kinh tế Nhà nước tăng 6,5% (kinh tế Nhà nước Trung ương tăng 4,2%, kinh tế Nhà nước địa phương tăng 15,3%), kinh tế ngoài Nhà nước tăng 19,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,4%.
a/ Sản xuất công nghiệp Trung ương: Giá trị sản xuất công nghiệp Nhà nước Trung ương tháng Tám năm 2005 tăng 5,5% so tháng trước và 8 tháng năm 2005 tăng 4,2% so cùng kỳ năm trước.
Trong 8 tháng năm 2005, có một số doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất nên sản xuất vẫn ổn định và đạt tốc độ tăng cao là Cty rượu Hà Nội (tăng 101,7%), Cty thuốc lá Thăng Long (tăng 31%), Cty dệt vải công nghiệp (tăng 25,8%), Cty may Đức Giang (tăng 27,5%), Cty in tiền quốc gia (tăng 23,3%), Cty hoá chất Đức Giang (tăng 22,8), Cty xà phòng Hà Nội (tăng 56,3%), Cty vật liệu xây dựng bưu điện (tăng 45,7%), Cty cơ khí ngân hàng (tăng 56,6%), Cty bóng đèn phích nước Rạng Đông (tăng 11,9%), Cty cơ khí 19/8 (tăng 69,3%), Cty ô tô Hoà Bình (tăng 37,9%), Cty pin Hà Nội (tăng 24,5%)...
Các sản phẩm công nghiệp 8 tháng năm 2005 vẫn giữ được uy tín trên thị trường, có lượng tiêu thụ tốt, đạt tốc độ tăng khá là: bia (tăng 34,5% so cùng kỳ), thuốc lá (tăng 48,3%), vải lụa thành phẩm (tăng 6,6%), động cơđiện (tăng 21,5%), quạt điện dân dụng (tăng 14,7%), ô tô lắp ráp (tăng 143,4%)...
b/ Sản xuất công nghiệp Nhà nước địa phương: Giá trịsản xuất công nghiệp Nhà nước địa phương tháng Tám năm 2005 tăng 2,6% so tháng trước và tăng 16,8% so cùng kỳ năm trước. Dựkiến 8 tháng năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp Nhà nước địa phương tăng 15,3% so cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp có sản xuất tăng khá do có đầu tư đổi mới thiết bị sản xuất: Cty khoá Việt Tiệp (tăng 110%), Cty xe đạp xe máy Thống Nhất (tăng 135%), Cty cơ điện Trần Phú (tăng 60%), Cty kim khí Thăng Long, Cty chế tạo điện cơThống Nhất, Cty giày Thượng Đình, Cty may 40, Cty cổ phần dệt 10/10...
c/ Sản xuất công nghiệp ngoài Nhà nước: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Nhà nước tháng Tám năm 2005 tăng 4,3% so tháng trước và tăng 16,4% so cùng kỳ năm trước. Dự kiến 8 tháng năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Nhà nước tăng 19,5% so cùng kỳ năm trước trong đó các Cty TNHH tư nhân tăng 20,1%, Cty cổ phần tăng 30,5%, doanh nghiệp tư nhân tăng 16,1%, hợp tác xã tăng 4,6% và hộ cá thể tăng 4,8%. Cả14/14 quận, huyện đều có giá trị sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ năm trước trong đó các quận, huyện đạt tốc độ tăng khá là: Ba Đình (tăng 24,1%), TừLiêm (tăng 21%), Thanh Trì (tăng 21,8%)...
d/ Sản xuấtcông nghiệp khu vực có vốn đầu tưnước ngoài: Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tháng Tám năm 2005 tăng 5,9% so tháng trước và tăng 4,1% so cùng kỳ năm trước. Dự kiến 8 tháng năm 2005 giá trịsản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,4% so cùng kỳnăm trước với 12/19 ngành sản xuất tăng trong đó những ngành sản xuất tăng khá là: chế biến thực phẩm (tăng 35,2%), chế biến gỗ(tăng 71,4%), sản xuất hoá chất (tăng 130,8%), sản xuất cao su plastic (tăng 253,6%), sản xuất khoáng phi kim loại (tăng 42,5%), sản xuất sản phẩm bằng kim loại (tăng 202,7%), sản xuất thiết bị văn phòng (tăng 30,8%), sản xuất xe có động cơ (tăng 62,8%), sản xuất phương tiện vận tải khác (tăng 34,1%)... 7/19 ngành sản xuất giảm là: công nghiệp dệt (giảm 46%), sản xuất trang phục (giảm 16%), xuất bản-in (giảm 31,4%), sản xuất kim loại (giảm 17,8%), chế tạo thiết bịmáy móc (giảm 5,2%), sản xuất dụng cụ chính xác (giảm 14%), sản xuất giường tủ đồ khác (giảm 3%).
Xây dựng cơ bản
Dự kiến vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngân sách Nhà nước địa phương tháng Tám năm 2005 đạt 296 tỷđồng (xây lắp 170 tỷ đồng, thiết bị23 tỷ đồng) tăng 9,2% so tháng trước. Theo kế hoạch, trong tháng Tám năm 2005 hoàn thành bàn giao trường THCS Quang Trung (Đống Đa) 24 phòng học, trường tiểu học Mễ Trì B (Từ Liêm) 26 phòng học, trường tiểu học Xuân Phương (Từ Liêm) 33 phòng học. Dự kiến 8 tháng năm 2005, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngân sách Nhà nước địa phương đạt 2117 tỷ đồng (xây lắp 1190,5 tỷ đồng, thiết bị136,7 tỷ đồng) tăng 39,8% so cùng kỳ năm trước, đạt 61,6% kế hoạch năm 2005.
Thương mại- Dịch vụ
* Nội thương: Dự kiến tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ trên địa bàn Hà Nội tháng Tám năm 2005 tăng 1,7% so tháng trước, trong đó bán lẻ tăng 2,1%. Trong tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ so tháng trước ngành thương nghiệp tăng 1,8%, khách sạn, nhà hàng tăng 0,8%, ngành dịch vụ tăng 2,1% và ngành du lịch lữ hành tăng 0,6%. Dự kiến 8 tháng đầu năm 2005 tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng 21,8% so cùng kỳ, trong đó bán lẻ tăng 19,1%.
* Ngoại thương: Tháng Tám năm 2005 so tháng trước, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 2,2% trong đó xuất khẩu địa phương tăng 2,8%, kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 2,6%, trong đó nhập khẩu địa phương tăng 2%. Dự kiến 8 tháng năm 2005 so cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 20,2%, trong đó doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tăng 15,3%, doanh nghiệp Nhà nước địa phương tăng 18,5%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 13% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 34%. Các mặt hàng xuất khẩu tăng nhiều là: hàng nông sản (tăng 20,8%), hàng điện tử (tăng 27,6%), máy in phun (tăng 59,3%), xăng dầu (tạm nhập tái xuất) (tăng 52,3%)... Kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 21,5%, trong đó doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tăng 19,8%, doanh nghiệp Nhà nước địa phương tăng 10,8%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 20,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 34,6%. Hàng hoá nhập khẩu các ngành hàng đều tăng: máy móc thiết bị phụ tùng (tăng 14,6%), vật tư nguyên liệu (tăng 15,4%), xăng dầu (tăng 29,4%), hàng tiêu dùng (tăng 30,3%).
Vận tải
So tháng trước, tháng Tám năm 2005 khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 0,3%, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 3,8%, doanh thu vận chuyển hàng hoá tăng 9,6%, khối lượng hành khách vận chuyển tăng 2,6%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 2,8%, doanh thu vận chuyển hành khách tăng 2%. Dự kiến 8 tháng năm 2005 so cùng kỳ năm trước, khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 16,1%, khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 18%, doanh thu vận chuyển hàng hoá tăng 28,3%, khối lượng hành khách vận chuyển tăng 28,8%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 26,2%, doanh thu vận chuyển hành khách tăng 32,4%.
Sản xuất nông nghiệp
Tính đến 15/8/2005, toàn Thành phố đã cấy được 23471 ha lúa mùa, đạt 98,6% so dự kiến và bằng 97,5% so cùng kỳ năm trước. Diện tích lúa mùa được bón phân và làm cỏ đợt 1 là 18141 ha (đạt 77,3% diện tích đã cấy), làm cỏ đợt 2 là 12366 ha (đạt 52,7% diện tích đã cấy). Cùng với gieo cấy và chăm sóc lúa mùa, các quận, huyện đã gieo trồng được 3946 ha rau, mầu các loại, so cùng kỳ năm trước tăng 19%, trong đó ngô hè thu 206 ha (bằng 112%), lạc hè thu 50 ha (bằng 185,7%), đậu tương 714 ha (bằng 94,4%), rau các loại 2137 ha (bằng 120,5%).
Trật tự an toàn xã hội và thực hiện chính sách xã hội
Kỷ niệm 58 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947 — 27/7/2005) Uỷ ban nhân dân Thành phốHà Nội ra quyết định tặng quà với kinh phí 5,2 tỷ đồng cho các đối tượng hưởng chính sách thương binh liệt sĩ trên địa bàn Thành phố Hà Nội, tổ chức tốt việc thăm hỏi tặng quà các gia đình thương binh liệt sĩ, bà mẹViệt Nam anh hùng tiêu biểu và một số đơn vị điều dưỡng nuôi dưỡng người có công, đơn vị sản xuất kinh doanh của thương binh và người tàn tật của Thành phố. Thực hiện chi trả trợ cấp thường xuyên cho 39661 người có công với kinh phí 13,5 tỷ đồng. Chi trả trợ cấp theo Nghị định 59/2003/NĐ-CP và người hoạt động kháng chiến với kinh phí trên 3 tỷ đồng.
Tín dụng - Ngân hàng
Dựkiến đến cuối tháng Tám năm 2005, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội tăng 1,51% so tháng trước, trong đó tiền gửi dân cư tăng 1,8%, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 1,3%. Dư nợ cho vay của các ngân thương mại tháng Tám tăng 1,81% so tháng trước trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 1,95%, dư nợ trung và dài hạn tăng 1,65%.
IV. KẾT LUẬN
Cùng đà tăng trưởng và đổi mới nền Kinh Tế- Xã Hội sôi động như hiện nay, nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể có một cái nhìn tươi sáng cho tương lai của đất nước. Mặc dầu còn nhiều khó khăn thách thức trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng và những chính sách thông thoáng của chính phủ, cùng nguồn lao động dồi dào ngày càng nâng cao tri thức, cộng với tiềm lực to lớn về nhiều mặt của đất nước, Việt Nam hứa hẹn có những bước nhảy vọt mới trong những năm tới, mà cụ thể ở những lĩnh vực: Công Nghiệp kỹ thuật cao, Dịch vụ, Xây dựng, Phát triển công nghệ mới, Nông nghiệp, Y Tế, Giáo dục, Quốc phòng. Những mục tiêu đề ra của kế hoạch 5 năm tiếp theo từ 2005 đến 2010 sẽ là nền móng vững chắc cho một Việt Nam hiện đại, văn minh trong thế kỷ 21- thế kỷ đưa đất nước ta lên vị thế một con hổ châu Á.
Nguyễn Hoàng Dương (tổng hợp)
(2005)