---------
Sau đây là trích đoạn bài "Chữ quốc ngữ qua những biển dâu" của nhà ngữ học Đoàn Xuân Kiên:
---------
. . . . .
Trong cách viết chữ quốc ngữ hiện nay, có hiện tượng bất nhất khi viết i và y. De Rhodes ghi chú như sau về cách viết hai chữ này ở thời ông: "Tiếng xứ này chỉ dùng chữ I làm nguyên âm, vì chữ I phụ âm được thay bằng chữ G (sic). Muốn tránh lẫn lộn, ta dùng I ở giữa hay ở cuối tiếng: biết, bĩ. Cũng cần chú ý là ta dùng âm Y ở cuối tiếng khi nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách biệt: Éy (ấy), nhưng phải dùng I khi nào nguyên âm kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai. Ðể tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một chữ, ta không đánh hai dấu chấm trên chữ I. Chỉ cần nhớ với nhau một lần rằng viết Y ở sau một nguyên âm không phải để đọc thêm một vần tách biệt mà chỉ có ý phân biệt vần như trong cây và cai. Ta cũng dùng Y trước một số nguyên âm nhưng cũng không xem là phụ âm, bao giờ, chẳng hạn Yéo (tức là yếu, Ỷa (tức là Ỉa)". (Ibidem).
Nguyên tắc này được áp dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento Thiện (1659) cho đến những tự vị của Génibrel (1898) và của Hội Khai Trí Tiến Ðức (1931).
Có thể nêu ra "qui tắc" chung về cách viết I và Y như sau:
Chỉ viết Y trong những trường hợp sau đây:
(a) ở đầu một tiếng và sau đó có âm Ê; ví dụ: yên, yêu, yết.
(b) ở sau âm chúm môi /u/ (ngoại trừ khi viết với qu). Ví dụ: uy, tuy, khuya, chuyện ...
(c) ở sau qu nhưng theo sau đó có Ê hoặc NH. Ví dụ: quyền, quyết, quỳnh.
(d) sau âm ngắn của /a/ (tức là chữ Â). Ví dụ: may, mây, dây, đày.
(đ) đứng độc lập thành một tiếng. Ví dụ: Y, Ý. Tuy vậy, trong khi chúng ta viết ỷ (lại), thì sự thiên vị trong tâm lí ngôn ngữ đã tạo nên thói quen viết: (âm) ỉ, (ầm) ĩ, (đi) ỉa theo đúng nguyên tắc âm vị học. Cũng tâm lí thiên lệch đó, khiến chúng ta viết lý, yêu với niềm tin rằng vẻ thẩm mĩ của chữ y sẽ tạo ấn tượng "tốt đẹp" mà tự thân chữ viết không hề mang lại.
Chỉ viết I trong những trường hợp sau đây:
(a) ở phần âm chính của vần: Ví dụ: bí, chim, đi, hí, kì, kim, lì, lính, sĩ, tị, tím, vì vịnh ...
Theo qui tắc này thì sau qu chính là phần âm chính của tiếng, vậy phải viết với i: quí, quít, quỉ, (hoa) quì.
(b) sau một nguyên âm làm âm chính, hay là trong những trường hợp I là một bán nguyên âm. Ví dụ: ngùi, đói, người, củi, hời, chuối, hỏi, trai.
Trong một số sách báo viết tiếng Việt, chúng ta có thẻ lượm lặt rất nhiều kiểu viết bất nhất về chữ I và Y. Dường như người viết chỉ theo trực cảm hoặc theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên chi có hiện tượng tên người Sĩ được viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị (nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ (nạn) ... Dựa theo Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh, chúng tôi nhậnt hấy có thể ta có những trường hợp sau đây viết lẫn lộng I thành Y: sau các âm khởi đầu m, t, l, k, qu, h. Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán việt theo cách khác, e là không chính đáng, vì chữ viết kí âm không bao giờ "chia hán/nôm" mà chỉ quan tâm đến việc ghi âm sao cho đúng như khi người nói phát âm ra. Vì thế, không có lí do gì để phân biệt mỹ (thuật) với (bánh) mì, hoặc là phân biệt (biệt) ly với li ti, lấy lý do là một bên viết với y vì là từ hán việt, bên kia với i vì là một từ nôm na. Vả lại, thật là khó chấp nhận sự kiện cho rằng có thể cả hai cách viết i và y đi kèm với những âm khởi đầu m, t, l, k, qu, h đều được coi là đúng, là hợp cách như một tác giả đã ghi nhận (L. Thompson, A Vietnamese Grammar. Seattle, 1965, tr. 65).
Thật ra, khi chúng ta viết, Lý, Kỹ, Mỹ với y, ta đã chọn thói quen và trực cảm chủ quan hơn là dựa trên chính dự kiện ngôn ngữ để viết chữ quốc ngữ. Có lẽ vì thế mà Việt Nam Tự Ðiển (1931) của hội Khai Trí Tiến Ðức - một công trình đồ sộ của các học giả có trình độ làm việc cao, ra đời cùng một thời với Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh - đã không theo thói quen này.
Hiện tượng bất nhất nói trên đã diễn ra từ thời kì nào? De Rhodes và những nhà sáng chế quốc ngữ xem ra rất tách bạch về cách dùng chữ này - như lời dẫn trong sách của ông đã cho thấy. Ðến những Từ Ðiển Huình Tịnh Của (1895-6) hay là của Génibrel (1898) thì đã có dấu hiệu của sự phân hóa giữa hai qui tắc: các ông vẫn viết I ở phần chính: huình, quình, huịch, huiên, nhưng cũng có chỗ viết huyền, khuyên, truyền, ly ... nghĩa là bắt đầu đi vào "qui tắc" của cách viết Y mà chúng tôi vừa nêu ở một đoạn trên. Ta thấy rõ có sự lẫn lộng I là nguyên âm chính với Y là bán nguyên âm hay nguyên âm phụ.
Ðến những năm đầu thế kỉ XX thì sự lẫn lộn đã trở nên phổ biến. Ðào Duy Anh soạn Hán Việt Từ Ðiển thì chuộng Y khi viết với m, t, l, k, qu, h. Tự Ðiển của Khai Trí Tiến Ðức thì nhất loạt theo qui tắc mà chúng tôi nêu ở trên. Uy tín của hai bộ tự điển đã kéo theo sự phân hóa về chính tả đã được minh thị trong các ấn bản Chương Trình Trung Học do Bộ Giáo Dục xuất bản hằng năm, rằng phải theo qui tắc viết của Việt Nam Tự Ðiển. Tuy thế, dường như nhà trường phổ thông không thiết tha gì với chính tả, và dường như không mấy ai để ý đến quyển từ điển này đã viết chữ quốc ngữ ra sao! Có người còn nói liều rằng, quyển từ điển này đã lạc hậu rồi. Phải, sẽ phải quên nó đi thôi, nếu quả thật là nó đã bị vượt bỏ. Nhưng mà cho đến nay vẫn chưa có bộ tự điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong lối chọn mục từ, giải nghĩa, và dẫn chứng văn liệu chính xác như nó. Ðó là điều đáng buồn chung cho những ai thích sự tiến bộ. (Chúng tôi không nghĩ là chiều dày của bộ từ điển Lê Văn Ðức đã đủ để được tôn là bộ từ điển có giá trị về mặt phương pháp cùng nội dung biên soạn).
Trở lại hiện tượng I và Y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này tương đối mới mẻ so với lịch sử 300 năm của chữ quốc ngữ. Có thể tạm xác định mốc những năm đầu thế kỉ XX. Vả chăng, bản đề nghị của Ủy Ban Cải cách chữ quốc ngữ (1902) đã xác nhận giả thuyết này.
. . . . . .