Phạm Ngọc Nam
(nampham1011)
New Member
ĐIỂM MỚI LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
Luật pháp được ví như là hành lang cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nhân (hành lang pháp lý). Tuỳ từng thời kỳ và giai đoạn phát triển kinh tế mà Nhà nước quyết định mở rộng ra hoặc thu hẹp lại hành lang pháp lý này.
Trong năm 2005, Quốc hội đã ban hành một đạo luật quan trọng, có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của giới doanh nghiệp là Luật doanh nghiệp (Luật DN). Đạo luật này sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7/2006 tới đây.
Chúng tôi xin phân tích 4 điểm mới cơ bản mà chúng tôi cho là quan trọng nhất của đạo luật này, (từ góc độ của một doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước). Một phân tích tổng thể hơn sẽ được chúng tôi cung cấp trong một bài viết khác có cùng chủ đề.
1. Đặt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào một khung pháp lý chung
Trước đây, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản khác nhau. Điều này ít nhiều đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước do có sự khác biệt về thủ tục. Với sự ra đời của Luật DN, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bất kể là trong nước hay ngoài nước, vốn sở hữu nhà nước hay vốn sở hữu tư nhân đều sẽ chơi trong một sân chơi chung.
Điều 1 Luật DN quy định “Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phẩn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế”.
Các quy định nói trên, một mặt tạo ra môi trường pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những thử thách rất lớn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường là rất hùng mạnh, rất chuyên nghiệp trong một môi trường kinh doanh về cơ bản là bình đẳng. Chúng tôi nói “về cơ bản” là vì việc mở cửa môi trường đầu tư trong từng ngành, từng lĩnh vực còn phụ thuộc và kết quả đàm phán giữa Việt Nam và các quốc gia trong quá trình hội nhập.
2. Quyết tâm loại bỏ các “giấy phép con” gây bất lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã thể hiện rất rõ quyết tâm trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một loạt các giấy phép đã lỗi thời, không còn cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhở các giấy phép kinh doanh trong một số ngành nghề được coi là nhạy cảm. Tuy nhiên, trên thực tế, một số Bộ ngành vẫn quản lý theo tư tưởng “khả năng đến đâu, mở cửa đến đó”. Điều này dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều các loại giấy phép con, giấy phép trá hình được thể hiện dưới dạng các điều kiện kinh doanh, thậm chí là cả các giấy phép đã bị bãi bỏ nhưng tồn tại dưới hình thức khác.
Khoản 5 Điều 7 Luật DN quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh”. Như vậy, thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh, thẩm quyền ban hành các giấy phép chỉ thuộc về Chính phủ theo một trình tự, thủ tục khắt khe hơn nhiều so với việc ban hành dưới dạng một văn bản quản lý cấp Bộ.
3. Bổ sung hình thức Công ty TNHH có một thành viên là cá nhân
Nếu như trước đây, một cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập mà không muốn liên kết với các tổ chức, cá nhân khác thì cá nhân đó buộc phải lựa chọn hình thức Doanh nghiệp Tư nhân (DNTN). Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm thì hình thức DNTN còn có một nhược điểm rất lớn là tính chịu trách nhiệm vô hạn, tức là nếu doanh nghiệp phá sản, chủ doanh nghiệp sẽ phải dùng cả phần tài sản cá nhân (bên cạnh phần tài sản đã đăng ký cho hoạt động đầu tư kinh doanh) để trả nợ cho doanh nghiệp.
Luật DN mới đã cho phép cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập được lựa chọn thêm một hình thức mới là Công ty TNHH có một thành viên là cá nhân (trước đây quyền này chỉ thuộc về một tổ chức). Doanh nghiệp này sẽ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn mà chủ sở hữu đã đăng ký cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong trường hợp Công ty phá sản, chủ doanh nghiệp sẽ không bị lâm vào tình trạng “khánh tận” do phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
Khoản 1 Điều 63 Luật DN quy định “Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”.
4. Quy định rất cụ thể và chi tiết về Công ty cổ phần (Công ty CP)
Trong Luật DN cũ (ban hành năm 1999), quy định về Công ty CP cũng là phần quy định chặt chẽ nhất, chi tiết nhất. Tuy nhiên, với Luật DN mới, các quy đinh này còn cụ thể hơn, chi tiết hơn và tiến rất gần tới chuẩn mực chung của thế giới về công ty cổ phần. Trong số 111 Điều quy định về các hình thức doanh nghiệp, có tới 52 Điều quy định về Công ty CP. Điều này thể hiện rất rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này, một loại hình doanh nghiệp được cho rằng đã giải quyết gần như triệt để các nhược điểm của Công ty TNHH, đặc biệt là trong thời gian tới Quốc hội lại chuẩn bị thông qua Luật về Chứng khoán.
Do số lượng các điều luật “mang tính mới” về Công ty CP là rất nhiều, các bạn có thể tham khảo trực tiếp trong Luật DN, chúng tôi sẽ không trích cụ thể trong bài viết này.
Người làm kinh doanh trong giai đoạn hiện nay chắc chắn phải hiểu biết pháp luật, hiểu biết để không vượt quá ranh giới của hành lang mà pháp luật đã đặt ra nhưng cũng là để tận dụng những khoảng rộng của chính hành lang đó để tăng tốc, bứt phá.
Trong bài sau, chúng tôi sẽ phân tích một số điểm mới cơ bản của Luật Đầu tư (được Quốc hội ban hành năm 2005 và bắt đầu có hiệu lực vào 1/7/2006) mà chúng tôi cho là cần thiết dưới góc độ của một nhà đầu tư trong nước.
Luật pháp được ví như là hành lang cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nhân (hành lang pháp lý). Tuỳ từng thời kỳ và giai đoạn phát triển kinh tế mà Nhà nước quyết định mở rộng ra hoặc thu hẹp lại hành lang pháp lý này.
Trong năm 2005, Quốc hội đã ban hành một đạo luật quan trọng, có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của giới doanh nghiệp là Luật doanh nghiệp (Luật DN). Đạo luật này sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7/2006 tới đây.
Chúng tôi xin phân tích 4 điểm mới cơ bản mà chúng tôi cho là quan trọng nhất của đạo luật này, (từ góc độ của một doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước). Một phân tích tổng thể hơn sẽ được chúng tôi cung cấp trong một bài viết khác có cùng chủ đề.
1. Đặt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào một khung pháp lý chung
Trước đây, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản khác nhau. Điều này ít nhiều đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước do có sự khác biệt về thủ tục. Với sự ra đời của Luật DN, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bất kể là trong nước hay ngoài nước, vốn sở hữu nhà nước hay vốn sở hữu tư nhân đều sẽ chơi trong một sân chơi chung.
Điều 1 Luật DN quy định “Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phẩn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế”.
Các quy định nói trên, một mặt tạo ra môi trường pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những thử thách rất lớn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường là rất hùng mạnh, rất chuyên nghiệp trong một môi trường kinh doanh về cơ bản là bình đẳng. Chúng tôi nói “về cơ bản” là vì việc mở cửa môi trường đầu tư trong từng ngành, từng lĩnh vực còn phụ thuộc và kết quả đàm phán giữa Việt Nam và các quốc gia trong quá trình hội nhập.
2. Quyết tâm loại bỏ các “giấy phép con” gây bất lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã thể hiện rất rõ quyết tâm trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một loạt các giấy phép đã lỗi thời, không còn cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhở các giấy phép kinh doanh trong một số ngành nghề được coi là nhạy cảm. Tuy nhiên, trên thực tế, một số Bộ ngành vẫn quản lý theo tư tưởng “khả năng đến đâu, mở cửa đến đó”. Điều này dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều các loại giấy phép con, giấy phép trá hình được thể hiện dưới dạng các điều kiện kinh doanh, thậm chí là cả các giấy phép đã bị bãi bỏ nhưng tồn tại dưới hình thức khác.
Khoản 5 Điều 7 Luật DN quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh”. Như vậy, thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh, thẩm quyền ban hành các giấy phép chỉ thuộc về Chính phủ theo một trình tự, thủ tục khắt khe hơn nhiều so với việc ban hành dưới dạng một văn bản quản lý cấp Bộ.
3. Bổ sung hình thức Công ty TNHH có một thành viên là cá nhân
Nếu như trước đây, một cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập mà không muốn liên kết với các tổ chức, cá nhân khác thì cá nhân đó buộc phải lựa chọn hình thức Doanh nghiệp Tư nhân (DNTN). Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm thì hình thức DNTN còn có một nhược điểm rất lớn là tính chịu trách nhiệm vô hạn, tức là nếu doanh nghiệp phá sản, chủ doanh nghiệp sẽ phải dùng cả phần tài sản cá nhân (bên cạnh phần tài sản đã đăng ký cho hoạt động đầu tư kinh doanh) để trả nợ cho doanh nghiệp.
Luật DN mới đã cho phép cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập được lựa chọn thêm một hình thức mới là Công ty TNHH có một thành viên là cá nhân (trước đây quyền này chỉ thuộc về một tổ chức). Doanh nghiệp này sẽ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn mà chủ sở hữu đã đăng ký cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong trường hợp Công ty phá sản, chủ doanh nghiệp sẽ không bị lâm vào tình trạng “khánh tận” do phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
Khoản 1 Điều 63 Luật DN quy định “Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”.
4. Quy định rất cụ thể và chi tiết về Công ty cổ phần (Công ty CP)
Trong Luật DN cũ (ban hành năm 1999), quy định về Công ty CP cũng là phần quy định chặt chẽ nhất, chi tiết nhất. Tuy nhiên, với Luật DN mới, các quy đinh này còn cụ thể hơn, chi tiết hơn và tiến rất gần tới chuẩn mực chung của thế giới về công ty cổ phần. Trong số 111 Điều quy định về các hình thức doanh nghiệp, có tới 52 Điều quy định về Công ty CP. Điều này thể hiện rất rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này, một loại hình doanh nghiệp được cho rằng đã giải quyết gần như triệt để các nhược điểm của Công ty TNHH, đặc biệt là trong thời gian tới Quốc hội lại chuẩn bị thông qua Luật về Chứng khoán.
Do số lượng các điều luật “mang tính mới” về Công ty CP là rất nhiều, các bạn có thể tham khảo trực tiếp trong Luật DN, chúng tôi sẽ không trích cụ thể trong bài viết này.
Người làm kinh doanh trong giai đoạn hiện nay chắc chắn phải hiểu biết pháp luật, hiểu biết để không vượt quá ranh giới của hành lang mà pháp luật đã đặt ra nhưng cũng là để tận dụng những khoảng rộng của chính hành lang đó để tăng tốc, bứt phá.
Trong bài sau, chúng tôi sẽ phân tích một số điểm mới cơ bản của Luật Đầu tư (được Quốc hội ban hành năm 2005 và bắt đầu có hiệu lực vào 1/7/2006) mà chúng tôi cho là cần thiết dưới góc độ của một nhà đầu tư trong nước.