Thích chuyện chữ hả? Nhưng ko biết có được post lên đây không?
Thôi cứ post thử 1 cái
Nếu không được thì post vào chỗ khác
AI HÁT GIỮA RỪNG KHUYA? :-&
Khi chuyến tàu Hà Nội - Vinh ghé một phút tại ga Đồng Giao để trút xuống mỗi một người hành khách và một kiện hàng, thì kim đồng hồ nhà ga chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời đen tối; mưa phùn rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm; khí hậu nặng nề ẩm thấp; quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung quanh nhà ga đều là đồi núi từng cây, khiến càng tăng thêm vẻ hoang vu rùng rợn.
Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một nơi đồi núi hiểm hóc, chỉ có thể làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn nấp, hoặc làm trường mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyên và Chúa Trịnh khi Bắc Nam xung đột binh đao. Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp giớn hai xứ Bắc và Trung kỳ, nó chia rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng núi liền nhau, vì cớ ấy tục thường gọi là đèo Tam Điệp.
Ai đã từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, chắc cũng đã để ý đến một quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc khuỷu, mỗi lợt xe đi qua lại ngửa nghiêng lúc lắc phải ghìm bớt đà lại, làm cho hành khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của bánh xe ép chặt trong máy hãm , giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu quằn quại, lợn ngùng ngoằn như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp hòi, đục ở giũa núi. Ló đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ thấy mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức tường, và toàn thị là một thứ sậy khẳng khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu chui qua khỏi núi ra tới nơi đất phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông bát ngát lởm chởm những đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không tên tuổi, lan rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ thuần một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữa. Thứ cây đó chả hiểu là những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc chen lẫn với lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một khu hoang vu xanh thẫm, rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội cỏ. Trong muôn vàn thứ cây đó, thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim ; có thứ lại có hoa trắng và hoa tím, điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ tẻ cằn cỗi của ngàn lau.
Từ mấy năm nay, có một ông hào phú được nhà nước cho phép khai khẩn chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng dáng chừng sự khai hoang khó khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó tay chịu thua Tạo hóa, chỉ để lại trên đường sắt một tấm biển báo hiệu cho công chúng biết đất Đồng Giao là nơi sắp thành ấp nay mai. Ai đi qua Đồng Giao mà chẳng thấy tấm biển gỗ to, đứng sừng sững trên ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một hàng chữ đập mạnh vào đồng tử người quá khách: "Concession Nguyễn Văn X... "
Sự mở mang khu đất rộng giáp với đường sắt ở vùng Đồng Giao hẳn phải là một công trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi, sức người khó nỗi làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành khoảng đồng phì nhiêu phong phú, tất phải bỏ ra mặt số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ xấu, hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏi đá gồ ghề. Công trình ấy cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống lại còn phải xây nhà cửa, nuôi súc vật và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú kia đành nhẩn nha làm việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một cách mau chóng hơn nữa.
Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai đã ở vùng ấy độ dăm bảy tháng ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền giáp giới Bắc Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ninh đến điếc tai cũng khó lòng tránh khỏi. Khí hậu thực là kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà Đồng Giao về phương diện thời tiết cũng chả khác gì những chỗ ở mạn thượng du, và có lẽ còn độc hơn các tỉnh ly vùng thượng du nữa. Đêm thì lạnh buốt phải đắp chăn tới sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự Ốm đau quặt quẹo. Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời lên cao lắm mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó lòng trông thấy mặt nhau. Trong vụ quí xuân, mỗi khi có mưa râm rả rích, sự nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm. Có lẽ vì vùng Đồng Giao ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao bọc, nên tuy không xa đồng bằng mấy, mà khí hậu thời tiết khác hẳn các miền ở đồng bằng. Quanh năm không khí bao giờ cũng đầy hơi nước; sự ẩm thấp không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ được tươi tốt những áo quần đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không ắt bị mốc bị mục một cách mau chóng lạ thường.
Đem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ nước độc, tại vì bốn chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi lau; nhưng lá cây mục nát từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.
Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được, lá cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên vạn đại cũng cha tiêu. Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòi. Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sinh hoạt thường ngày.
Đấy, chỉ xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn cỏi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ chứa đầy các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ phồn thịnh cua cỏ cây.
Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào là hãm hiếp, giam kìm vân vân... Những trò thương tâm ấy đều là của loài người tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm. Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé ra từng mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một câu chuyện trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật lai.
Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.
Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi trao. Tôi cũng chả buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mui thế nào. Vả lại tối lắm.
Bước vào mé trong ga. tôi thấy ấm áp dễ chịu. Anh sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân to.
Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả người. Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhỡn.
- Tôi đợi anh đã lâu. Sao tàu chậm thế?
Tôi mới nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một nhà thầu khoán to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Đồng Giao. Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đều. Một nửa giờ như thế, xe ngừng lai. Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.
Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy lợp bằng ngói hay bằng gồi, tiến vào thì thấy nền nhà cao ráo, phòng ốc rộng rãi, tườg tuy bằng rơm và phên trát vữa, nhưng có cửa kính cứa chớp chắc chắn, mé trên thì cũng có trần như các nhà tây. Trong nhà có ghế xa lông rơm và dăm bộ phản, cùng một bộ bàn ăn. Bài biện rất sơ sài, song thực là ngăn nắp và sạch sẽ, thoạt mới vào ai cũng phải vò đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn thận, ưa sự thực tế mà ghét thú xa hoa. Trên tường, quét vôi trắng toát, chả có tranh ảnh gì cả. Gian giu?a, thì thấy treo một khẩu súng trường hai nòng và ba thứ khi giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất và một cái nỏ. Thế là hết. Các đồ trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ trụi mạt tường không.
Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó mà vội liệt chủ nhân vào hạng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra, Thủy là một thiếu niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng chịu sống trong cảnh trơ tẻ như thế chì bời chàng muốn theo đúng chí hướng của cha, muốn tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để làm thí dụ cho đứa con thơ và cho vợ. Cái nhà ở Đồng Giao này, chả qua chỉ là chỗ sống tạm bợ mà thôi, hà tất phải vẽ vời trang hoàng, bày biện mỹ lệ làm gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày, có đi sâu vào tâm lý chàng, mới có thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm, dễ mơ mộng, dẫu bề ngoài chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược của mình đi.
Tlhoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn bát đũa và các món ăn nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc nhiên nhất, nhưng cũng vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng loáng, rất tươm tất bày trên một cái sạp gụ Ở góc phòng.
Trước khi xuống chi với Thủy, tôi đã sắp sẵn trong va-li đủ các khí cụ cho sự nghiện hút của tôi rồi. Tôi vẫn biết bạn không ưa thuốc phiện mà chỉ trọng thể thao săn bắn nên chắc rằng anh chả để ý gì đến sự tìm kiếm khay đèn cho tôi. Ngờ đâu anh chu đáo quá! làm cho tôi vừa cảm kích vừa hổ thẹn nghĩ đến tình bạn đối với mình lại quí mến bạn biết bao!
Ăn cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái Thủy, bạn tôi và tôi chuyện trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn khỏe như hùm. Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như lai đóa hoa thành thị, lạc loài vào bãi tho mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu đem đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn náo nhiệt phồn hoa. Vợ con Thủy tức là cái mục gia của chàng, cái mục gia mà mỗi lần quá mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì kluây hẳn nỗi lo sầu lao khổ. Có ở một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ mà "lau già trút vỏ nẩy mầm quanh hiên", thì mới biết bàn tay mềm mại của người đàn bà và tiếng nói líu lo của đứa trẻ con, thực quả rất cần thiết cho sự sinh hoạt thường ngày. Mất hai thứ quí báu ấy cuộc đời dễ tẻ dễ chán lắm, và, mỗi lần phải xông pha những cuộc khó khăn để đạt tới công danh hay phú quí, thì không làm gì có sự khuyến khích thiết tha tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.
Trong đời kẻ anh hùng, đem toàn thân thờ một quan niệm siêu quần, có lẽ vợ con là một điều trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời một kẻ sống một cách tầm thường bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn rầu, một động lực làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.
Bới thế, đối với Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem vợ con cùng ra ở Đồng Giao là một điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất này không được lành như ở đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn ở đúng phép vệ sinh, nên cả nhà anh ít bị Ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe mạnh cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước độc rừng thiêng.
Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ theo gót tôi cùng lại sập gụ Ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung quanh bàn đèn, nói chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót nước lọc ra ấm, đặt lên đèn cồn, đun một ấm nước sôi. Rồi lại tự tay nàng lấy cốc lấy đường, pha cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà phê rõ đặc.
- Hút thuốc phiện có hãm cà phê đắng mới thú vị, em nghe cậu em ngày trước vẫn nói như vậy. Ở đây tuy có cà phê nhưng tự rang lấy không được ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi mua từ Hà Nội xuống đây. Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội nhắn mua cho kỳ được, nếu không cn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt cho đến khổ! Ấyy nghiện cà phê còn như thế, nghiện thuốc thì đến thế nào?... Nhưng mà... anh thử uống xem có phải đúng Moka hảo hạng đó không?
Hôm đó thực là ngày hội. Nào là Lệ Thi, nào cháu Thu Nhi, nào Thủy, nào tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại cười ầm lên. Tôi hút bữa thuốc phiện đêm ấy sao mà không thấy đủ, dẫu rằng thứ tôi hút là một thứ "thuốc Mẹo" cũ kỹ đã có váng mốc, mà bạn tôi đem tự Lào về rồi giấu đi để dành cho tôi đã hơn một năm nay. Thì ra vừa hút vừa nói, thuốc phiện đi đâu mất hết. Tôi cứ nằm dài hút mãi, tiêm xong lại hút, hút lại tiêm, không có ai là bạn "đối hấp" cả.
Lệ Thi nói chuyện chán quay vào quấy nhiễu bàn đèn, đòi tiêm cho tôi hút. Thủy vội vàng gạt đi, nhưng tôi lại chiều ý, đến nỗi thuốc phiện rơi vãi ra khay tứ tung nhoe nhoét, dính hàng tảng vào nhĩ tẩu, và rỏ xuống tắt cả đèn. Có đến thế nàng mới chiu thôi, dắc con đi ngủ. Chỉ còn hai anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh bàn thờ Phù dung nữ chúa mà thói. Thủy đứng dậy bỏ màn xuống cho đỡ muỗi.
Đêm lúc ấy đã khuya. Chim rừng queng quéc báo hiệu đầu giờ Tý. Bạn và tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú tinh mịch của canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô ích; đã là đôi bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau cũng đủ rồi. Chúng tôi được gần kề nhau được thấy mặt nhau, còn gì sung sướng khoan khoái hơn nữa? Tội gì đem lời nói phá tan sự khoan khoái ấy đi. Trong cái êm đềm quạnh quẽ, tình thân yêu qui mến còn nồng nàn hơn lúc nói cười. Có biết nằm yên để lẳng lặng nhìn nhau, đó mới thực là tương ái đến tột điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng một lối , miễn là đều có tín ngưỡng rằng cả hai cùng được gần nhau. Thế là đủ, trong tất cả cuộc đời thân thiện của Thủy và tôi, chúng tôi tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.
Tôi bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt, trong người nhẹ nhàng êm ái, say sa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm điềm tĩnh bên khay đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữa.
Thực là một thú vị ngây ngất, êm đềm và huyền ảo , không tài nào tả rõ được. Trong lúc bàng hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh, và cũng đương trầm ngâm mơ mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn hết xa đến gần, thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được, linh hồn nửa tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cỏi Yên Hà. Bất giác tôi nghĩ đến đôi câu đối khắc trên yên dọc tẩu của tôi, tôi bèn ngâm váng lên một cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.
Cao ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;
Ấn cư cầu chí, trù mâu phong vũ đối cô đăng...
Bạn tôi có lẽ đương lim dim ngủ, giật mình tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ, bấy giờ vào khoảng hơn một giờ đêm, đầu giờ sửu. Thủy với tay lấy cốc cà phê, ghé lên mồm uống một hớp nhỏ. Tiếng cùi dĩa sắt đụng vào thành cốc leng keng.
Liền lúc ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe tiếng đờn ca não nuột. Tôi lắng tai chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích, tiếng gió phả vì vèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc, tiếng một con chim rừng kêu quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gối.
Bỗng đâu, một nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào tai tôi, nhỏ lắm, xa lắm, tưởng chừng ở cõi vô hình đưa lại. Dưới mãnh lực của Phù dung, xúc động hết giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một cách lạ thường. Tôi áp tai xuống phản.
Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có tiếng hát ở đâu đây? Tôi hết sức lắng nghe. Từng quãng một, như xa như gần, như khoan như nhặt, âm thanh kia réo rắt từng hồi. Càng ngày nghe càng quen, càng rõ. Một chốc, tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm kia ở mãi ngọn đồi, chân ải, ở một vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm thước, không biết xuất phát từ hướng nào. Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt sang, nghe rõ nửa câu, vài điệu; lại có khi gió quay đi chiều khác, chỉ nghe lờ mờ văng vẳng mà thôi.
Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia là giọng cô đào hát nói. Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi nghe thoáng có nhịp phách chấm câu. Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng đây, có nhà hào mục, tổng lý nào được sắc ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò tiêu khiển thanh cao nhã đạm ấy. Nếu không phải thế thì trong hạt này làm gì có cái của hiếm, giống những nơi xa hoa phồn thịnh, tức là cái thú cô đầu?
Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:
- Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng không? Bạn tôi mắt nhắm mắt mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp nốt mấy ngụm cặn cuối cùng. Xong ml hỏi tôi:
- Cái gì thế? Anh không hút nữa à!
- Tôi thôi hút đã lâu; tôi muốn hỏi ở đây có nhà tổng lý nào được sắc ăn khao mà hát xướng om sòm lên thế?
- Làm gì có ăn khao, làm gì có hát xướng! Chả qua vì say thuốc phiện anh ù tai đấy mà thôi.
- Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng đến nửa giờ, có tiếng hát đào văng vẳng, nên mới tư ởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao...
- Anh nghe thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc thật! Tôi ở đây đã mười mấy tháng trời , mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe thấy gì cả!
- Anh nói cái gì tôi không hiểu? Nghe cái gì?
- Nghe hát.
- Hát gì? Hát cô đào...
- Cô đào ở đâu?
- Ở trong rừng?
- Sao lại ở trong rừng?
- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, chứ sao!
- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô đào ở trong rừng?
- Thế mà ở trong rừng mới lạ chớ!
- Thôi, hẳn có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ không sai! Anh Thủy ôi! Anh làm ơn kể cho đệ nghe với nào!
- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể cho mà biết; chứ dễ thường mỗi lần anh muốn thỏa chí tò mò hiếu sự, thì anh cứ việc đang đêm hôm dựng cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh nghe đấy ư?
- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được thành sách, thì quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh, Lệ Thi và cháu Thu Nhi! Thế là món quà quí nhất của tôi đó!
- Ừ , thì được, nhng mà hãy thong thả một chút. Để tôi đánh thức Lệ Thi dậy, bảo đun nước pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo đã, nhiên hậu mới kể được cặn kẽ cho anh nghe.
- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội Lệ Thi như thế.
- Không được! Chỉ có vợ tôi pha tôi uống mới ngon thôi, vì nó biết tính tôi rồi. Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường, lại chỉ được lọc nửa cốc thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không, uống sẽ đắng mà không thơm. Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn tí!
Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới ánh đèn lờ mờ, trông nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha hai cốc cà phê. Và nàng lại rót mía đường chèo chất đầy một dĩa cho chồng hãm giọng và bạn hãm thuốc.
Đương khi chờ đợi, Thủy uống hớp cà phê đầu thì cho lòng hiếu kỳ của tôi được mãn nguyện, và muốn cho câu chuyện đợm thêm vẻ nỗng nàn đằm thắm, tôi lại khêu to đèn tiêm thuốc hút nữa, khiến cho thời gian chung quanh mình cũng bớt phần ảm đạm, nặng nề.
Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi sốt ruột. Lệ Thi quay vào buồng đắp kín chăn cho con bé cháu, xong quay ra giắt màn cho chúng tôi cẩn thận rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau lưng chồng, góp thêm trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng dịu dàng bên hai chiếc bóng cứng cỏi của tôi và Thủy.
Ngoài thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như một khúc nhạc rầu rĩ êm đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi cành, xào xạc rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe cửa, rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dài. Mưa, nghe chừng đã tạnh, nên không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữa. Vạc, hàng dãy, xé không trung bằng những tiếng ri rắc, ngắn ngủi không hề có gợn dư âm.
Lệ Thi vươn tay qua mình chồng, lấy cái lọc cà phê bỏ ra ngoài. Thủy hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái bắt đầu nói chuyện.
Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình thiếu phụ mơ màng.