Tiểu sử các danh nhân

Trần Lương Thành
(tranluongthanh)

Member
Tiểu sử các danh nhân:













-------------------------------------------​

CHE GUEVARA
Con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta



che-guevara-lg.jpg

Ernesto Guevara de la Serna (1928-1967) thường được biết đến với tên Che Guevara hay El Che là một nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng người Argentina và là một trong những người lãnh đạo phong trào cách mạng Cuba.



Tuổi thơ và truyền thống gia đình:

Che_Guevara_3.jpg
Che lúc 3 tuổi​

Che sinh ngày 16 tháng 6 năm 1928 tại Rosario, Argentina. Cha là Ernesto Guevara Lynch, mẹ là Celia dela Serna một phụ nữ cấp tiến. Gia đình rất giàu truyền thống. Ông nội là Roberto người sáng lập nên Hội Nông thôn Argentina, một tổ chức nhiều thế lực của những đại địa chủ. Còn ông ngoại Juan Martin là nhà hoạt động chính trị rất tích cực trong những ngày đầu của Liên đoàn Công dân Cấp tiến (UCR). Đây chính là đảng phái chính trị đầu tiên ở Argentina đã giành được sự ủng hộ rông rãi của dân chúng khi ra đời vào thời điểm xảy ra cuộc Cách mạng năm 1890. Che còn có một cụ tổ là người đã từng đi tìm vàng ở vùng California, Hoa Kỳ.

Gia đình sống tại thị trấn Caraguatay, tỉnh Misiones, vùng đông bắc Argentina, sau chuyển tới San Isidro, một quận lị ngoại ô thủ đô Buenos Aires rồi tới ngụ cư tại Altor Gracia một thị trấn vùng đồi là thuộc tỉnh Cordoba.

Năm 2 tuổi Che bị viêm phổi nặng, điều này đã làm khởi phát căn bệnh, mà như mẹ Che nói, nó là một yếu tố rất quan trọng cấu thành nên ý chí sắt đá của Che, là bệnh suyễn.

Hồi nhỏ Che rất thích đọc thơ và những câu chuyện phiêu lưu của Jack London, Jules Verne.

Tuổi trẻ phiêu lưu

che_young.jpg

Khi học xong trung học tại trường Dean Funes, Che theo học ngành y tại Đại học Buenos Aires và chọn bệnh suyễn làm chuyên ngành nghiên cứu.

Chuyến đi khởi đầu

Ngày 01 tháng 01 năm 1950, Che bắt đầu cuộc hành trình đầu tiên của mình với dự định kết hợp vui chơi và công việc, bằng chiếc xe đạp Micron có gắn động cơ. Bắt đầu chuyến đi hướng về phía tây, băng qua khu đồng bằng Pampas ở phía bắc. Cuộc hành trình có chiều dài lên tới 4.500 km. Anh đã sống, giúp việc trong khu người mắc bệnh phong Chanar một thời gian và làm việc trong đội xây dựng xa lộ quốc gia, rồi đội thuyền buôn của Argentina. Tháng 10 năm 1951 anh đã hội ngộ với một người bạn thân là Alberto Granado tại Córdoba. Anh đã đề nghị hai người cùng thực hiện chuyến đi Bắc Mỹ.

Hành trình xuyên Mỹ Latinh

Alberto đã đồng ý, và không lâu sau đó, ngày 29 tháng 12 năm 1951 hai người đã lên đường, bắt đầu chuyến hành trình đến các nước châu Mỹ latinh khác bằng chiếc xe mô-tô La Poderosa II 500 phân khối của Alberto. Họ đã đi qua hầu hết các nước trong vùng. Hai tháng sau ngày khởi hành, họ tới Chi lê, tại đó chiếc xe máy bị hỏng và phải bỏ lại giữa chừng. Hai người vẫn tiếp tục đi qua Chile, Bolivia và Pê-ru.

Tại Peru, hai người đã tới thăm khu người mắc bệnh phong Sanpablo. Sau đó họ lại xuôi theo dòng sông Amazon đến [[Colombia) và Venuzuela trên chiếc bè có tên là Mambo Tanga. Tại Venuzuela hai người chia tay nhau, Alberto ở lại, nhận việc chăm sóc bệnh nhân phong còn anh quay trở lại Argentina để hoàn tất chương trình học đại học.

Trong Nhật ký du hành của mình, Che đã cho thấy sự thay đổi trong con người Anh là rất lớn. Cuộc hành trình đã hình thành trong anh lòng thương cảm những con người nghèo hèn và tinh thần chống đế quốc mãnh liệt.


Tiếp tục lên đường

Hoàn thành chương trình học không mấy khó khăn, ngày 16 tháng 6 năm 1953 tốt nghiệp bác sĩ, Anh lại tiếp tục cuộc hành trình trở lại Châu Mỹ latinh cùng Carlos Calica Ferre một người bạn thân từ nhỏ ở Córdoba.

Chuyến đi bắt đầu ngày 7 tháng 7 năm 1953, hai người đi xe lửa tới Bolivia, họ tới thủ đô Lapaz vào ngày 24 cùng tháng. Lúc này tình hình chính trị ở quốc gia này rất căng thẳng. Vài tháng sau, hai người lại đi chu du khắp Peru, Ecuador, rồi Costa Rica, sau đó ở lại Guatemala trong khoảng 9 tháng. Tại đây, Che đã gặp Hilda Gadea, một phụ nữ Peru lưu vong, người sau này đã trở thành vợ. Cô đã giới thiệu hai người với những người Cuba trong phong trào 26 tháng 7, đang sống lưu vong tại đây, trong số đó có Nico Lopez, người mà về sau đã đặt cho anh biệt danh Che.

Sau một thời gian làm việc tại bệnh viện, anh lại lên đường dến Mexico, tại đây, anh đã được giới thiệu với Fidel Castro Ruz (tháng 7 năm 1955) và không lâu sau lần gặp gỡ đó, anh đã tự nguyện tham gia vào nhóm viễn chinh của những người Cu ba.

Chiến đấu

rev01.JPG

Tháng 4 năm 1946, anh bắt đầu được huấn luyện quân sự cùng với những người Cu ba khác và là một trong những học viên xuất sắc nhất.

Hai tháng sau, ngày 24 tháng 6 Che và Fidel cùng những người Cu ba lưu vong khác đã bị chính quyền Mexico bắt giữ và giam tại nhà tù Miguel Schultz. Ngày 31 tháng 7 họ ra tù và lại tiếp tục khóa huấn luyện.

Ngày 25 tháng 11 năm 1956 cùng với 82 người khác vượt biển trở về Cu ba trên con tàu Granma (là từ viết tắt của Grand Mother -- bà) với tư cách là một thành viên trong Tổng tham mưu của quân du kích. Ngày 2 tháng 12 họ đã bí mật đổ bộ lên hòn đảo Cuba.

Chiến tranh du kích

Sau khi đổ bộ vào đảo quốc Cuba, quân du kích đã sử dụng nghệ thuật chiến tranh du kích, phát động nhiều cuộc chiến như :trận Algeria del Pio (21 thành viên bị tử trận) chiếm giữ được trại La Plata, trận Arroyo del Infierno, El Uvero... Nhờ sử dụng chiến tranh du kích nên chỉ với lực lượng ít nhưng họ vẫn dành nhiều chiên thắng quan trọng như vào tháng 6 năm 1958, 320 quân cách mạng đã phải chống lại 1 vạn quân chính quy của chế độ Batista. Cuộc chiến kết thúc, chính quyền vẫn không tiêu diệt được quân cách mạng mà còn bị tổn thất 1.000 quân và 400 quân khác thì bị quân cách mạng bắt làm tù binh. Ngày 21 tháng 7 năm 1957, Che được Fidel Castro thăng hàm Thiếu tá trước cả Raul Castro và Juan Almeida và giao trách nhiệm thành lập Đội quân số 4 của quân nổi dậy. Chỉ một tháng sau đó, Che đã lãnh đạo quân của mình chiến thắng tại trận El Hombrito (ngày 30 tháng 8).

Trận đánh quyết định

Tháng 8 năm 1958 Che và Camilo Cienfuesgos lãnh đạo các đội quân của mình bắt đầu phát động cuộc xâm chiếm từ phía tây đảo quốc. Họ đã hành quân chặng đường 554 km trong 47 ngày với quân dụng nghèo nàn, chủ yếu là đi bộ. Theo một hiệp ước sau đó, giữ các lực lượng, Che thống nhất chỉ huy các nhóm quân chống chế độ Batista. Quân nổi dậy bắt đầu tấn công vào Santa Clara, trung tâm kinh tế, đầu mối giao thông quan trọng. Ngày 31 tháng 8 năm 1958 quân nổi dậy chiếm được Santa Clara làm cho chế độ Batista nhanh chóng đi vào chỗ diệt vong. Batista phải chạy trốn ra nước ngoài, bắt đầu cuộc sống lưu vong. Ngày 4 tháng 1 năm 1959 Che cùng với những chỉ huy quân nổi dậy khác tiến vào La Havana trên vị thế của những người chiến thắng.

Những ngày vinh quang

Che_Fidel.jpg

Sau những đóng góp của mình cho đảo quốc này, Che được trao quyền công dân Cu ba. Chính quyền mới của quân cách mạng được thành lập, Che là một trong bộ ba lãnh đạo của đất nước này. Ngày 8 tháng 10 năm 1959 Che được bổ nhiệm giữ chức Trưởng ban Nông nghiệp của Viện Cải cách ruộng đất quốc gia. Với cương vị này, Che đã ra quyết định tịch thu toàn bộ ruộng đất tư hữu. Ngà 26 tháng 11 được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Ngân hàng quốc gia. Tháng 4 năm 1960 kiêm nhiệm thêm chức chỉ huy Ban huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 2 năm 1961 được bầu làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, Che đã ra quyết định đặt hàng trăm công ty quốc doanh dưới quyền kiểm soát của Trung ương.

Thời gian này xảy ra nhiều sự kiện ảnh hưởng tới Cu ba như sự kiện Vịnh con Heo, Hoa Kỳ cấm vận, khủng hoảng tên lửa, khủng hoảng ngoại giao... mà Che đã giải quyết.

Tiếp tục chiến đấu

Tháng 3 năm 1963, đang ở vị trí của một nhà lãnh đạo quan trọng, Che đã từ bỏ hết tất cả kể cả quyền công dân Cuba của mình để lên đường tiếp tục cuộc đấu tranh cho các vùng đất bị áp bức.Sau những việc làm của mình, mong muốn được đóng góp cho loài người bị áp bức mà Che đã từ bỏ mọi thứ để lên đường.

Đầu tháng 4 năm 1963, Che cùng một số người khác rời Cuba đi Congo, tại đây sau những dự định không thành, phái đoàn Cuba đã rút đi( tháng 11 năm 1965). Che đến Prague (Tiệp Khắc) vào tháng 3 năm 1966 rồi bí mật trở về Cu ba (tháng 7 năm 1966) để lên kế hoạch cho chiến dịch Bolivia. Đầu tháng 11 cùng năm Che vào Bolivia.Những cuộc chiến của quân du kích do Che lãnh đạo ở Bolivia diễn ra trong tình thế bị cô lập, trang bị thiếu thốn, sự chênh lệch lực lượng quá lớn và điều quan trọng nhất đối với một cuộc chiến tranh du kích là có sự hậu thuẫn của dân chúng thì họ đã không có được do nhân dân nơi đây quá nghi kị và bị chính quyền che mắt. Ngày 8 tháng 10 năm 1967 Che bị thương và bị một nhóm quân biệt kích bắt giữ. Một ngày sau Che đã bị đưa ra hành quyết theo lệnh của chính quyền Bolivia có sự đồng ý của CIA

Những cuộc hôn nhân

Cuộc hôn nhân đầu tiên của Che là với Hilda Gadea. Hôn lễ được tổ chức ngày 18 tháng 8 năm 1955 lúc đó Hilda đang mang thai. Ngày 15 tháng 2 năm 1956 đứa con đầu lòng chào đời, được đặt tên là Hilda Beatriz. Cuộc hôn nhân tồn tại chưa đến 4 năm, tháng 1 năm 1959 hai người ly hôn. Tháng 6 năm 1959, Che kết hôn cùng Aleida March, một chiến sĩ cách mạng cùng hoạt động ở Cu ba.

Cheyninjo05.jpg
Cheyninjo11.jpg


Huyền thoại

che_3peso.jpg
IMG_01111_140703_162530_Cuba_Havana_Che_Guevara_thm.jpg


Những câu nói nổi tiếng về Che
"Ông là thành viên hấp dẫn nhất trong bộ ba lãnh đạo. Ông có nụ cười ngọt ngào, buồn buồn làm những người phụ nữ phải nghẹt thở. Che đang lèo lái con tàu Cuba bằng một đầu óc tính toán lạ lùng, bằng tài năng hiếm có, bằng trí thông minh xuất chúng và bằng óc khôi hài thú vị".
Tạp chí Time, ngày 8 tháng 8 năm 1960.

"Đó là một con người chân chính, một người bạn tuyệt vời và là người mà ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể".
Fidel Castro

"Nếu phải diễn tả hình ảnh tương lai của thế hệ con cháu mà chúng ta muốn chúng trở thành, chúng ta sẽ nói rằng: Hãy giống như Che. Nếu phải bày tỏ lòng mong ước con cháu mình sẽ được giáo dục như thế nào, chúng ta sẽ nói không chút ngần ngại rằng: Chúng ta muốn chúng được giáo dục theo tinh thần của Che."
Lời phát biểu của Fidel Castro trong buổi lễ tưởng niệm Che, ngày 18 tháng 10 năm 1967.

"Là con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta".
Jean Paul Sartre.
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Re: Bio

HENRY FORD
Làm ăn với thế giới

180px-Henry_ford_1919.jpg



Henry Ford (30 tháng 7, 1863 – 7 tháng 4, 1947) là người sáng lập Công ty Ford Motor. Ông là một trong những người đầu tiên áp dụng sản xuất kiểu dây chuyền lắp ráp trong sản xuất ô tô. Ông không chỉ cách mạng ngành công nghiệp sản xuất ở Hoa Kỳ và châu Âu mà còn có nhiều ảnh hưởng tới kinh tế và xã hội thế kỷ 20 tới mức sự phối hợp giữa sản xuất hàng loạt, tiền lương cao và giá thành sản phẩm thấp cho người tiêu dùng đã được gọi là "Chủ nghĩa Ford." Ông đã trở thành một trong hai hay ba người giàu nhất thế giới; ông để lại hầu như toàn bộ tài sản của mình cho Quỹ Ford, nhưng vẫn thu xếp để gia đình ông mãi giữ được quyền quản lý công ty.

Tuổi trẻ

150px-Henry_Ford_1888.jpg

Henry Ford năm 1888​

Ford sinh ra ở một trang trại thịnh vượng ở hạt Springwells (hiện ở thành phố Dearborn, Michigan) do cha mẹ ông sở hữu, William Ford (1826-1905) và Mary Litogot (c1839–1876), là những người nhập cư từ Quận Cork, Ireland. Gia đình Ford có nguồn gốc từ tây nước Anh – họ đã buộc phải rời khỏi đất đai ở Somerset và 'di cư' đến Ireland. Những anh chị em ruột của ông gồm: Margaret Ford (1867–1868); Jane Ford (c1868–1945); William Ford (1871–1917) và Robert Ford (1873–1934).

Vào mùa hè năm 1873, Henry lần đầu nhìn thấy một cái máy tự chạy trên đường, một cái động cơ hơi nước đứng yên được dùng để đập lúa hay để cung cấp sức lực cho một máy xay. Người điều khiển nó, Fred Reden, chất nó lên trên mấy cái bánh được nối với một sợi xích lái. Henry bị cái máy quyến rũ và trong năm sau Reden dạy Henry cách khởi động và điều khiển cái máy đó. Sau này Ford nói, chính kinh nghiệm đó "đã chỉ cho tôi thấy rằng tôi là một kỹ sư từ trong bản năng."

Henry đem theo sự đam mê máy móc về nhà. Cha ông đã cho ông một cái đồng hồ đeo tay khi ông bắt đầu sang tuổi thanh niên. Tới mười lăm tuổi, ông đã nổi tiếng là một người sửa chữa đồng hồ giỏi, đã từng tháo ra và lắp lại các loại đồng hồ của bạn bè và hàng xóm hàng chục lần.

Mẹ ông chết năm 1876. Đó là một sự kiện làm Henry bị sốc nặng. Cha ông hy vọng rằng cuối cùng Henry sẽ quản lý trang trại của gia đình, nhưng ông không thích nghề nông. Và cùng với cái chết của mẹ, không còn nhiều điều hứng thú có thể giữ ông ở lại trang trại nữa. Sau này ông nói, "Tôi không bao giờ có bất kỳ một tình cảm đặc biệt nào với trang trại. Chính mẹ tôi ở trang trại mới là điều tôi yêu quý."

Năm 1879, ông rời gia đình để đến thành phố gần đó Detroit và làm việc với tư cách thợ học việc, đầu tiên với James F. Flower & Bros., và sau đó với Detroit Dry Dock Co. Năm 1882, ông quay trở lại Dearborn để làm việc ở trang trại gia đình và trở thành người lão luyện trong việc điều khiển máy hơi nước loại nhỏ Westinghouse. Vì vậy ông được Công ty Westinghouse thuê để bảo dưỡng các loại máy móc.

Lúc ông lấy Clara Bryant năm 1888, Ford tự kiếm sống bằng cách lao động ở trang trại và điều hành một nhà máy cưa. Họ chỉ có một đứa con: Edsel Bryant Ford (1893–1943).


Năm 1891, Ford trở thành một kỹ sư ở Edison Illuminating Company, và sau khi ông được thăng chức lên làm kỹ sư trưởng năm 1893, ông đã có đủ thời gian và tiền bạc để dành cho sự chú tâm của mình tới việc thực nghiệm máy chạy xăng. Những cuộc thực nghiệm đó lên tới đỉnh điểm năm 1896 khi ông hoàn thành một phương tiện tự hành đầu tiên của mình được đặt tên là Quadricycle, ông đã lái thử nó vào ngày 4 tháng 6 cùng năm. Sau nhiều lần lái thử nghiệm, Henry Ford bất chợt nghĩ ra nhiều cách để cải thiện chiếc Quadricycle.


Công ty ô tô Detroit

Sau thành công ban đầu này, Ford tới Công ty chiếu sáng Edison năm 1899 cùng nhiều nhà đầu tư khác, sau đó họ thành lập Công ty ô tô Detroit. Công ty ô tô Detroit nhanh chóng phá sản sau đó bởi vì Ford tiếp tục cải tiến thiết kế, chứ không bán xe. Ford cho xe của mình chạy đua với xe của các công ty khác để thể hiện các ưu thế trong thiết kế của ông. Vì ông chú ý tới xe đua, ông đã thành lập nên một công ty thứ hai, Công ty Henry Ford. Trong giai đoạn này, chính ông là người lái xe và chiến thắng trong cuộc đua với Alexander Winton, một tay đua nổi tiếng và rất được hâm mộ vào ngày 10 tháng 10 năm 1901. Ford bị các nhà đầu tư buộc phải rời công ty và người thay thế ông là Henry M. Leland năm 1902, và công ty được tổ chức lại thành Cadillac.

Công ty Ford Motor

Henry Ford, cùng với mười một nhà đầu tư khác và $28,000 tiền vốn lập ra Công ty Ford Motor năm 1903. Ford đã lái một chiếc xe được thiết kế mới hoàn toàn tới một cuộc triển lãm trong đó chiếc xe đã chạy qua khoảng cách một dặm trên mặt băng hồ St. Clair trong 39.4 giây, đó là một tốc độ kỷ lục trên mặt đất mới. Bị thuyết phục bởi thắng lợi này, tay đua nổi tiếng Barney Oldfield, người đã đặt tên model "999" mới này của Ford để tỏ lòng trân trọng với một cuộc đua xe lửa mới ngày hôm đó, đã lái chiếc xe chạy vòng quanh đất nước và làm cho thương hiệu Ford trở nên nổi tiếng trên khắp Hoa Kỳ. Henry Ford cũng là một trong những người đầu tiên ủng hộ giải đua Indianapolis 500. Henry Ford đã làm các nhà tư bản bạn ông sửng sốt khi tăng lương ngày lên gấp đôi cho đa số công nhân của ông vào năm 1914, mười một năm sau khi ông lập nên nhà máy ô tô đầu tiên của ông. Ông biết điều mình đang làm. Khả năng mua sắm của công nhân tăng lên, và nó kích thích nhu cầu tiêu thụ của họ. Ford gọi đó là 'động cơ lương.' Việc áp dụng hệ thống chiều dọc và một số mưu kế kinh doanh khác cũng góp phần vào thành công của công ty.


Model T

Năm 1908, Công ty Ford tung ra Model T được thiết kế bởi một người Hungary, Jozsef Galamb. Từ 1909 đến 1913, Ford bước vào tháo rời những chiếc Model T trong các cuộc đua, hoàn thiện trước (mặc dù sau đó không đạt quy cách) trong một cuộc đua "hai đại dương" (xuyên Hoa Kỳ) năm 1909, và thiết lập một kỷ lục tốc độ khi chạy trên đường tròn ở Detroit Fairgrounds năm 1911 với tay đua Frank Kulick. Năm 1913, Ford cố gắng chế tạo lại Model T trong cuộc đua Indianapolis 500, nhưng được thông báo rằng các quy định đòi hỏi chiếc xe phải được tăng thêm trọng lượng 1,000 pounds (450 kg) trước khi nó có thể tham gia đua. Ford bỏ cuộc, và nhanh chóng sau đó từ bỏ hẳn các cuộc đua và chỉ trích rằng ông không hài lòng với các quy định của môn thể thao đó và lúc ấy ông cần dành thời gian cho việc chế tạo Model T đang ngày càng phát triển.

Tới năm 1913, đua xe không còn là cách cần thiết để quảng cáo xe với công chúng nữa bởi vì Model T đã nổi tiếng và có mặt ở mọi nơi trên những con đường nước Mỹ. Chính vào năm này, Henry Ford đã đưa dây chuyền lắp ráp chuyển động vào trong các nhà máy của mình, nó cho phép tăng năng xuất lên rất cao. Mặc dù tên Ford thường gắn liền với các ý tưởng, một số nguồn khác tạm thời cho thấy rằng ý tưởng và sự phát triển của nó bắt nguồn từ từ Clarence Avery, Peter E. Martin, Charles E. Sorensen, và C.H. Wills. (Xem Piquette Plant)

Tới năm 1918, một nửa số ô tô ở Mỹ là Model T. Thiết kế của Model T, vốn được Henry Ford nồng nhiệt tán thưởng và ủng hộ, tiếp tục tồn tại đến năm 1927 (sau khi sự nổi tiếng trong đại chúng của nó đã nguội), với tổng số sản xuất lên đến mười lăm triệu chiếc. Đây là một kỷ lục còn tồn tại trong 45 năm tiếp sau đó. Mọi người cho rằng Ford đã nói, "Bất kỳ khách hàng nào có thể có một chiếc xe được sơn bất kỳ màu ông ta muốn cho tới khi nó vẫn là màu đen," dù câu chuyện này có vẻ không chính xác. Trước đó Model T được sơn nhiều màu, kể cả màu đỏ cho tới khi sự phát triển của dây chuyền lắp ráp áp đặt màu đen bởi vì nó có thời gian khô khô nhanh hơn,

Tháng 12, 1918, sau khi thua trong cuộc chạy đua chức nghị sỹ, Henry Ford chuyển quyền quản lý Ford Motor cho con trai Edsel Ford. Tuy nhiên, Henry vẫn giữ quyền quyết định tối hậu và thỉnh thoảng đảo ngược ý kiến của con trai. Henry và Edsel mua tất cả cổ phiếu còn lại từ các nhà đầu tư khác, vì thế gia đình họ sở hữu riêng cả công ty.

Tới giữa thập kỷ 1920, doanh số bán Model T bắt đầu sụt giảm vì sự cạnh tranh đã tăng mạnh. Những nhà sản xuất ô tô khác tung ra các kế hoạch thanh toán giúp khách hàng có thể mua xe của họ, thường là có thêm các đặc tính kỹ thuật hiện đại và kiểu cách mà Model T không có được. Dù có những thúc ép của Edsel, Henry vẫn kiên quyết từ chối tích hợp thêm các tính năng mới vào Model T hay tạo dựng một kế hoạch tài chính khách hàng.


Model A và thời gian sau đó


Tới năm 1926, doanh số bán thấp kém của Model T đã thuyết phục được Henry về điều Edsel đã nhiều lần nhấn mạnh: cần một model mới. Ông già Ford vẫn theo đuổi kế hoạch về một cải tiến lớn trong thiết kế kỹ thuật động cơ, chassis và các sự cần thiết cơ khí khác, trong khi bỏ phần phát triển thiết kế thân xe cho con trai. Edsel cũng gắng sức thuyết phục cha về sự chống đối lúc đầu của ông trong kết luận về truyền động thay đổi kiểu trượt (sliding-shift transmission). Kết quả rất thành công Ford Model A, được giới thiệu vào tháng 12, 1927 và được sản xuất tới 1931, với tổng số xuất xưởng hơn bốn triệu chiếc. Sau đó công ty chấp nhận một hệ thống thay đổi model hàng năm và hiện nó vẫn được các nhà sản xuất ô tô áp dụng.

Ford là một người ủng hộ ngành hàng không từ rất sớm. Ông tài trợ rất nhiều cho Stout Metal Airplane Company, công ty này phát triển Ford Tri-Motor, một máy bay dân dụng loại lớn đầu tiên.

Trong thập niên ba mươi, Ford cũng đã vượt qua được sự phản đối của mình đối với các công ty tài chính, và Universal Credit Company của Ford đã trở thành một tổ chức tài chính lớn đầu tư vào ngành ô tô.


Cái chết của Edsel

Tháng 5, 1943, Edsel Ford chết, để trống chiếc ghế chủ tịch công ty. Henry Ford tiến cử Harry Bennett người đã hợp tác với ông từ lâu lên giữ chức này. Vợ góa của Edsel là Eleanor, người đã thừa kế cổ phần của Edsel, muốn con mình là Henry Ford II được nắm vị trí đó. Vấn đề được giải quyết sau một giai đoạn khi chính Henry, lúc ấy đã 79 tuổi, phải đích thân giữ chức đó. Henry Ford II ra khỏi Hải quân và trở thành phó chủ tịch chấp hành, trong khi Harry Bennett có một ghế trong hội đồng và chịu trách nhiệm về nhân sự, các quan hệ lao động và quan hệ đối ngoại.

Công ty đã rơi vào thời kỳ khó khăn trong hai năm sau đó, thua lỗ $10 triệu một tháng. Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã phải cấp cho Công ty Ford Motor một khoản tiến cứu trợ để việc sản xuất của họ có thể tiếp tục trong thời chiến. Tới năm 1945, tình trạng suy yếu của Henry Ford đã khá rõ ràng và vợ cùng con dâu của ông buộc ông phải từ chức trao quyền cho cháu trai, Henry Ford II.


Triết lý lao động của Ford


Henry Ford có những ý tưởng rất đặc biệt về các quan hệ với công nhân. ngày 5 tháng 1, 1914 Ford tuyên bố chương trình 5 dollar một ngày của ông. Chương trình này kêu gọi giảm giờ làm từ 9 giờ xuống còn 8 giờ và nâng lương tối thiểu trên ngày từ $2.34 lên $5 cho các công nhân lành nghề. Ford coi trọng việc tăng đền bù như một hình thức chia lợi nhuận hơn là lương. Lương được trả cho người lao động trên tuổi 22, đã làm việc cho công ty sáu tháng hay hơn, và, một điều rất quan trọng, phải sống theo kiểu mà Ford tán thành. Công ty lập nên một Phòng xã hội học gồm 150 nhà điều tra và nhân viên phụ trợ để kiểm tra điều này. Thậm chí với những yêu cầu như vậy, một phần đông công nhân vẫn đủ tư cách được chia lợi nhuận.

Trái ngược hẳn lại, Ford kiên quyết phản đối các liên đoàn lao động bên trong các nhà máy của mình. Để sớm ngăn chặn các hoạt động công đoàn, ông ủng hộ Harry Bennett, cựu boxer hải quân, làm chủ tịch Phòng dịch vụ. Bennett đã sử dụng nhiều mưu kế dọa dẫm để nghiền nát tổ chức công đoàn. Rắc rối nổi tiếng nhất, năm 1937, là một cuộc cãi lộn dẫn tới đổ máu giữa những nhân viên an ninh công ty và những người tổ chức, sau này được gọi là vụ Trận đánh nhau giữa các Overpass.

Ford là nhà sản xuất ô tô cuối cùng ở Detroit công nhận công đoàn Liên hiệp công nhân ô tô UAW). Một cuộc biểu tình ngồi của công đoàn UAW tháng 4 năm 1914 đã đóng cửa River Rouge Plant. Dưới sức ép của Edsel và vợ và Clara, Henry Ford cuối cùng đã phải đồng ý thu nhận những kiến nghị bên trong các nhà máy của Ford, và hợp đồng đầu tiên với UAW được ký tháng 6, 1941.


Con tàu hòa bình


Năm 1915, ông hỗ trợ tiền cho một chuyến đi đến Châu Âu, nơi Chiến tranh thế giới thứ nhất đang sắp nổ ra, cho ông và 170 lãnh đạo hòa bình nổi tiếng khác. Ông đã nói với Tổng thống Wilson về chuyến đi này nhưng không nhận được ủng hộ từ phía chính phủ. Nhóm của ông tới nước Thụy Điển và Hà Lan trung lập để gặp gỡ với những nhà hoạt động hòa bình ở đó. Ford, mục tiêu của nhiều sự nhạo báng, đã rời khỏi tàu ngay sau khi nó tới Thụy Điển.
Chủ nghĩa bài Do Thái và Tờ The Dearborn Independent

Năm 1918 thư ký chính của Ford là Ernst Liebold bị một nhà báo cáo buộc đã nói chuyện bằng tiếng Đức với một nhà báo từ tờ báo tiếng Đức là Chicago. Tình báo quân đội đã điều tra và hủy bỏ vụ việc vì không có cơ sở. Liebold là người chịu trách nhiệm việc sử dụng tên tuổi của Ford năm 1919 và báo chí để chỉ trích người Do Thái (nhiều năm trước khi phong trào Phát xít bắt đầu). Liebold đã sử dụng quyền lực của Ford để bắt đầu một tạp chí, The Dearborn Independent, năm 1919. Tờ báo hoạt động trong tám năm, trong thời gian đó Liebold đã tái bản "Protocols of the Learned Elders of Zion," vốn hồi đó đã bị tai tiếng là một sự giả mạo. Hiệp hội sử học Do Thái ở Mỹ coi những ý tưởng trong tờ tạp chí đó là "chống nhập cư, chống lại lao động, chống rượu, và bài Do Thái". Tháng 2, 1921, tờ New York World in một bài phỏng vấn Ford, trong đó ông nói "Lời tuyên bố duy nhất tôi có thể đưa ra về các Protocols là chúng phù hợp với những gì đang diễn ra. Chúng đã mười sáu tuổi, và chúng đã phù hợp với tình hình thế giới cho tới thời điểm này. Hiện chúng đang thích hợp với nó."

Tờ Independent cũng cho in, dưới tên Ford, nhiều bài báo chống Do Thái từng được in đầu thập kỷ 1920 dưới hình thức một bộ bốn tập, được tập hợp với cái tên "Người Do Thái trên thế giới, Vấn đề đầu tiên của thế giới." Bị lên án bởi Liên đoàn chống phỉ báng (ADL), tuy nhiên các bài báo rõ ràng lên án những cuộc thảm sát người Do Thái và bạo lực chống lại họ (Tập 4, Chương 80), thích hợp với việc lên án các vụ bạo lực số đông nhằm vào người Do Thái hơn. Trên thực tế chẳng có bài nào trong số này do Ford viết ra, mặc dù có thể chúng được ông ngụ ý đồng ý.

Việc kiện cáo phỉ báng về vụ bài Do Thái dẫn Ford tới hành động đóng cửa tờ Dearborn Independent tháng 12, 1927. Trong thời gian xử án, tổng biên tập tờ báo của Ford là William Cameron, đã chứng minh rằng Ford chẳng có liên hệ gì tới các công việc tòa soạn mặc dù đúng ra chúng là của ông. Cameron nói ông không bao giờ tranh cãi về nội dung các trang báo hay phải gửi chúng tới để xin ý kiến của Ford. [Lewis, The Public Image of Henry Ford, pp. 140-156; Baldwin p 220-221] Ford chính thức rút lui tờ International Jew và Protocols. Tháng 1, 1942, Ford đã viết một bức thư ngỏ tới ADL phản đối lòng căm ghét với người Do Thái và bày tỏ hy vọng của ông rằng sự căm ghét người Do Thái sẽ giảm bớt đi với thời gian. Tuy nhiên, những nhóm cực đoan thường tái sử dụng lại những thứ đó --dù không được phép; nó vẫn xuất hiện trên những trang web bài Do Thái và Quốc xã mới.


Ford làm ăn với thế giới


Ford đã có một cam kết chắc chắn rằng thương mại quốc tế tạo ra hòa bình quốc tế, và ông đã sử dụng Model T để giúp mở rộng điều ông tin tưởng. [Watts 236-40] Ông đã mở xưởng lắp ráp đầu tiên ở Anh Quốc ngay từ năm 1911, và nhanh chóng trở thành nhà sản xuất lớn nhất ở đó. Ông cũng làm như vậy ở Canada. Năm 1912 ông giúp Agnelli của Fiat ở Italia. Trong thập kỷ 1920 ông mở nhiều nhà máy ở Australia, Ấn Độ thuộc Pháp và Đức. Ông thực nghiệm trồng cao su ở vùng rừng Amazon và gọi nó là Fordlândia; đây là một trong số ít những thất bại của ông, và tới năm 1929 ông đã có quan hệ buôn bán thành công trên sáu lục địa. [Wilkins] Năm 1929 Ford chấp nhận lời mời của Stalin để xây một nhà máy hiện đại tại Gorky-- và ông đã gửi các kỹ sư cùng thợ máy Mỹ, gồm cả nhà lãnh đạo lao động tương lai Walter Reuther tới đó. Khi Hoa Kỳ còn đang có hóa bình với quốc gia nào đó, Công ty Ford Motor còn làm ăn với quốc gia đó. Những nhà máy đầu tiên ở Đức được xây dựng trong thập kỷ 1920 với sự ủng hộ của Herbert Hoover và Sở thương mại, họ đồng ý với lý thuyết của Ford rằng thương mại quốc tế là mục tiêu căn bản của Ford cho hòa bình thế giới.

Hình ảnh của Ford làm cho người Châu Âu, đặc biệt là người Đức, kính nể, nó gợi lên "nỗi sợ cho một số người, sự say mê đối với những người khác, và sự mê hoặc cho tất cả" . Tất cả những người Đức bàn về chủ nghĩa Ford đều tin rằng nó tượng trưng cho một thứ gì đó thuộc về phần tinh túy của Mỹ. Một nhà lãnh đạo công đoàn đã nhấn mạnh rằng những công việc của Ford --tầm vóc, nhịp độ, sự tiêu chuẩn hoá, và triết lý coi sản xuất là dịch vụ-- là điều Mỹ nhất mà ông thấy ở Hoa Kỳ. Cả những người ủng hộ và chỉ trích đều nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Ford là hình ảnh thu nhỏ của sự phát triển chủ nghĩa tư bản Mỹ và rằng nền công nghiệp ô tô là then chốt để hiểu được các mối quan hệ kinh tế và xã hội ở Mỹ. Như một người Đức từng giải thích, "Ô tô đã làm thay đổi rất lớn kiểu sống của người Mỹ tới mức hiện nay một người Mỹ khó có thể tưởng tượng rằng anh ta có thể sống mà không có nó. Khó có thể nhớ cuộc sống đã từng thế nào trước khi Ford bắt đầu thuyết giảng học thuyết về sự cứu rỗi." [Nolan tr. 31]. Đối với nhiều người Đức, Henrry Ford là hiện thân của bản chất của chủ nghĩa Mỹ. Một nhà báo của tờ Detroit News đã phỏng vấn Hitler năm 1931 (hai năm trước khi ông lên nắm quyền) và hỏi ông về tấm ảnh Ford trên bàn của ông; Hitler đã nói với cô, "Tôi coi Henry Ford như người truyền cảm hứng cho mình." Năm 1928 lãnh sự Đức ở Cleveland đã trao cho Ford và một quan chức cao cấp của General Motors giải thưởng Grand Cross of the German Eagle vì đã chế tạo xe hơi cho đại chúng. A picture of Ford receiving the Cross is available here.


Quỹ Ford

Henry Ford, cùng con trai là Edsel, đã lập ra Quỹ Ford năm 1936 với một hiến chương rộng để thúc đẩy sự thịnh vượng của con người. Ford đã chia cổ phần của ông thành những số lượng cổ phần có quyền biểu quyết nhỏ và trao chúng cho gia đình, và một lượng lớn những cổ phần không có quyền biểu quyết cho quỹ. Quỹ đã trở nên to lớn và tới năm 1950, đã trở thành một tổ chức ở tầm thế giới. Nó đã bán tất cả mọi cổ phần của nó trên thị trường chứng khoán và không còn giữ quan hệ với Công ty Ford Motor và gia đình Ford.


Cái chết

Ford bị đột quỵ lần đầu tiên năm 1938, sau đó ông chuyển quyền điều hành công ty cho Edsel. Khi Edsel chết năm 1943 ông buộc phải tạm ngừng nghỉ ngơi. Trong tình trạng sức khỏe kém, ông đã chuyển quyền lãnh đạo cho cháu trai Henry Ford II vào tháng 9, 1945, và về nghỉ. Ông chết năm 1947 vì một vụ xuất huyết não ở tuổi 83 tại Fair Lane, trong lãnh địa của ông ở Dearborn, và được chôn trong nghĩa trang Ford tại Detroit.


Những lời trích dẫn

Ford rất hay đưa ra lời châm biếm, và đã thuê các nhà văn sản xuất ra những câu cách ngôn để gán cho mình.
"Lịch sử dù sao cũng là một cái đã qua rồi. Nó là truyền thống. Chúng ta không thích truyền thống. Chúng ta muốn sống trong thực tại, và chỉ duy nhất thứ lịch sử đáng giá bằng một câu chửi thề của người thợ hàn là thứ lịch sử mà chúng ta tạo ra ngày hôm nay."
"Những nhà tài chính quốc tế đứng đằng sau mọi cuộc chiến. Họ là những người được gọi là Do Thái quốc tế -- Do Thái Đức, Do Thái Pháp, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ. Tôi tin rằng ở tất cả các nước đó, trừ Mỹ, những nhà tài chính Do Thái là tối thượng... Ở đây, người Do Thái là một mối đe doạ."
"Không có gì là quá khó, nếu bạn chia nó thành từng công việc nhỏ."
"Bất kỳ ai dừng học tập đều già, dù anh ta ở tuổi hai mươi hay tám mươi. Bất kỳ ai đang học tập đều trẻ. Điều vĩ đại nhất trong cuộc sống là giữ tâm hồn bạn trẻ trung."
"Bất kỳ khách hàng nào cũng có thể có được một chiếc xe sơn bất kỳ màu nào anh ta muốn khi nó còn đang là màu đen."
"Đa số mọi người tiêu phí thời gian và sức lực vào việc đi đường vòng để tránh các vấn đề hơn là tìm cách giải quyết chúng."
"Tôi không tin vào tình trạng sẵn sàng. Nó giống như một người đang cầm một khẩu súng. Con người và các quốc gia mang súng sẽ gặp rắc rối. Nếu tôi có cách, tôi sẽ ném tất cả thuốc súng xuống biển và lột hết quân phục của mọi binh lính và thủy thủ."


Những thí dụ phụ


Henry Ford từ lâu đã chú ý tới sự phát triển các loại nhựa từ các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là đậu nành. Các sản phẩm nhựa từ đậu nành đã được sử dụng ở Công ty ô tô Ford trong thập kỷ 1930 cho những phần nhựa như còi, sơn, vv... Dự án này lên tới đỉnh điểm vào năm 1942, khi Ford được cấp bằng sáng chế một chiếc ô tô hầu như được làm toàn bằng nhựa, được gắn vào một khung hàn hình ống. Nó nhẹ hơn 30% so với xe bằng sắt thép, và được nói là có thể chống lại các lực tác động lớn hơn thép mười lần. Hơn nữa, nó chạy bằng cồn thực vật là (ethanol) chứ không dùng xăng. Thiết kế này không bao giờ được ưa chuộng. [Lewis 1995]

Ford giữ một nơi nghỉ dưỡng (được gọi là "Ford Plantation") ở Richmond Hill, Georgia. Về căn bản ông đóng góp cho cộng đồng, xây một nhà nguyện và một ngôi trường và sử dụng một lượng lớn người địa phương.

Ford chú ý tới việc "sưu tập văn minh Mỹ". Trong thập kỷ 1920s, ông bắt đầu làm việc để biến Sudbury, Massachusetts thành một làng có chủ đề lịch sử. Ông chuyển ngôi trường (mà người ta cho là) được nhắc đến trong bài hát ru, Mary có một chú cừu nhỏ từ Sterling, Massachusetts và mua di tích lịch sử Wayside Inn. Kế hoạch này không bao giờ thành công, nhưng Ford tiếp tục thực hiện nó với việc sáng tạo ra Greenfield Village ở Dearborn, Michigan. Có lẽ nó cũng lấy cảm hứng từ sự sáng tạo Old Sturbridge Village. Cùng lúc ấy ông bắt đầu sưu tập các đồ vật cho bảo tàng của mình, nó có chủ đề công nghệ thực tiễn. Nó được mở cửa năm 1929 với tên Viện Edison và hiện vẫn đang mở cửa mặc dù đã được hiện đại hóa hơn nhiều.

Henry Ford đôi khi được coi là tác giả của phát minh ô tô mà nói chung thuộc về Karl Benz, và dây chuyền sản xuất do Ransom E. Olds sáng tạo ra. Những công nhân của Ford đã thực sự phát triển dây chuyền lắp ráp di động đầu tiên dựa trên kỹ thuật băng tải.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Re: Bio

ALBERT EINSTEIN
Thế giới như tôi thấy

250px-Albert_Einstein.jpg

Hình của Albert Einstein chụp bởi Yousuf Karsh vào ngày 11 tháng 2 năm 1948

Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879 – 18 tháng 4 năm 1955) là nhà vật lý người Mỹ gốc Đức – Do Thái.

Ông là người đã công bố vào năm 1905 ba bài viết gây nên ảnh hưởng có tính cách mạng đến sự phát triển của vật lý hiện đại.

Trong bài viết thứ nhất, ông đã đề xuất thuyết tương đối hẹp mô tả chính xác hơn các hạt vật chất chuyển động với vận tốc cao. Tiên đề cơ bản của thuyết tương đối hẹp là vận tốc ánh sáng cũng như mọi định luật vật lý là như nhau trong mọi hệ quy chiếu quán tính. Einstein biết rõ về kết quả thí nghiệm âm tính của Michelson-Morley, nhưng chưa quen biết với công trình của Hendrik Lorentz sau năm 1895, nên ông đã tự sáng tạo ra biến đổi Lorentz cho mình (Pais 1982, p. 133).

Thuyết tương đối hẹp đòi hỏi nhiều sự thay đổi đối với các định luật cơ học, tuy nhiên các phương trình điện từ của James Clerk Maxwell được phát hiện là thoả mãn hoàn toàn thuyết này mà không cần sự thay đổi gì. Sử dụng thuyết tương đối hẹp, Einstein đã tìm ra được sự tương đương giữa khối lượng nghỉ m0 và năng lượng E của vật chất, mô tả bởi E2-p2c2=m02c4, với c là vận tốc ánh sáng và p là động lượng (tương đối tính). Khi khối lượng tổng cộng (tương đối tính) m=γm0 được dùng (ở đây γ=(1-(v/c)2)½), phương trình đơn giản hoá thành phương trình nổi tiếng E=mc2.

Trong bài viết thứ hai, cùng xuất bản vào năm 1905, Einstein đã giải thích được hiệu ứng quang điện bằng cách giả thiết rằng ánh sáng là các hạt chuyển động (gọi là photon) với năng lượng E=hν, ở đây h là hằng số Planck (gọi tên theo nhà vật lý Max Planck) và ν là tần số của hạt photon. Đây là một mở rộng của lý thuyết lượng tử ánh sáng của Planck. Phương trình mà Einstein tiên đoán từ lý thuyết này đã được kiểm chứng bằng thí nghiệm của Robert Millikan vào năm 1916.

Cũng vào năm 1905 ấy, trong bài viết thứ ba, Einstein đã giải thích chuyển động Brown bằng lý thuyết động học, với lập luận cơ bản là chuyển động của các hạt Brown là do sự va đập hỗn loạn của các phân tử. Einstein đã tiếp tục phát triển lý thuyết này đến một phương trình cho thấy các hạt lơ lửng trong không trung trên mặt đất sẽ dần dần tự sắp xếp theo mật độ giảm dần theo hàm mũ tự nhiên từ thấp lên cao. Sử dụng phương trình của Einstein cho chuyển động Brown và phân bố của các hạt, Jean Perrin đã đo được hằng số Boltzmann bằng thí nghiệm.

Einstein sau đó tiếp tục phát triển thuyết tương đối rộng, dựa trên tiên đề là gia tốc đều tương đương với trọng trường hấp dẫn. Tiên đề này thường được biết đến với tên gọi nguyên lý tương đương của trọng trường. Nó mô tả trọng trường như là độ cong của không thời gian. Lý thuyết tương đối rộng sử dụng rất nhiều tính toán tensor Ricci-Curbastro. Einstein cũng đã nghiên cứu mô hình vũ trụ, và thấy là lý thuyết tương đối rộng không thỏa mãn điều kiện đồng nhất, đẳng hướng và cân bằng của vũ trụ, trừ phi thêm vào lý thuyết này một hằng số gọi là hằng số vũ trụ.

Trong phần lớn cuộc đời còn lại của mình, Einstein đã có những cố gắng không thành công trong việc tạo ra một lý thuyết thống nhất có thể mô tả tất cả mọi loại lực của tự nhiên như là các dạng khác nhau của một lực cơ bản nhất. Các lý thuyết của Einstein thường gây nhiều tranh cãi, ngay cả rất nhiều năm sau khi ông công bố chúng. Trong một bản tiến cử Einstein vào Viện Hàn lâm Khoa học Đức, người ta đã viết "Tóm lại, ta có thể nói là hầu như không có một vấn đề lớn nào của vật lý hiện đại mà Einstein không thực hiện những đóng góp quan trọng. Một vài dự đoán nhầm của ông, ví dụ như giả thuyết về các hạt ánh sáng, cũng không thể đem ra để phản bác lại ông được, vì rằng sẽ không thể đưa ra những ý tưởng mới, ngay cả với những môn khoa học chính xác nhất, mà không thỉnh thoảng sẵn sàng đương đầu với may rủi" (Pais 1982, p. 382).

Một nghiên cứu gần đây về bộ não của Einstein, đã được bảo quản cho đến nay (chi tiết có thể xem Regis 1991), người ta thấy khu vực bên trong của não, phần liên quan đến tư duy toán học, rộng hơn bình thường đến 15% (Witelson và các tác giả khác 1999). Ngoài ra, các đường viền não, bình thường chạy từ sau ra trước, không phát triển đối với não của Einstein. Tuy nhiên, chưa thể khẳng định được sự ảnh hưởng của các yếu tố sinh lý bất thường này đến sự sáng tạo khoa học của Einstein.

Các câu nói nổi tiếng


180px-Max-Planck-und-Albert-Einstein.jpg

Max Planck và Albert Einstein​

Do có gốc gác Do Thái, Einstein đã bị công kích bởi một số người bài Do Thái. Khi một truyền đơn được phân phát dưới tiêu đề 100 tác giả chống lại Einstein, Einstein đã viết "Nếu tôi thực sự sai, chỉ cần một người chống lại là đủ". Một số câu nói nổi tiếng về Chúa của Einstein được liệt kê dưới đây:
"Bất cứ ai cho mình quyền phán xét thế nào là Sự thật và Tri thức đều trở thành hề đối với Chúa."
"Tôi muốn biết Chúa đã sinh ra thế giới như nào. Tôi không quan tâm đến hiện tượng cụ thể này nọ, trong bối cảnh nọ kia. Tôi muốn biết Chúa đã nghĩ như thế nào, tất cả phần còn lại chỉ là chi tiết."
"Chúa rất khó hiểu, nhưng không ma mãnh."
"Chúa không chơi trò may rủi với thế giới này." (God does not play dice with the Universe.)
"Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without religion is lame. Religion without science is blind.)

Einstein cũng đã có nhiều câu nói sâu sắc về khám phá khoa học:
"Sự sáng tạo không phải là sản phẩm của suy luận lô-gic, dù rằng sản phẩm cuối cùng gắn liền với một cấu trúc lô-gic."
"Tự nhiên chỉ cho chúng ta thấy cái đuôi của con sư tử. Nhưng tôi không nghi ngờ rằng con sư tử là chủ nhân của cái đuôi ấy dù nó không thể xuất đầu lộ diện với tầm vóc khổng lồ của nó." (Pais 1982, p. 235)
"Từ trên cao, Tự nhiên mỉm cười nhìn xuống, người đã trao cho chúng ta một lòng khao khát khám phá, nhiều hơn là khả năng trí tuệ để làm việc ấy."
"Đừng lo lắng về khó khăn của bạn trong toán học, tôi đảm bảo với bạn rằng những khó khăn toán học của tôi còn gấp bội."

Khi con ông hỏi vì sao ông nổi tiếng, Einstein đã giải thích công lao của ông một cách dễ hiểu và khiêm tốn:
"Khi con bọ dừa bò theo một cành cây nó không nhận thấy là cành cây bị cong. Cha đã có may mắn nhận thấy cái mà con bọ dừa không nhận thấy con ạ."

Khi được hỏi về cách làm cho ông được thành công, ông đã nói:
"Suy nghĩ, suy nghĩ đi, suy nghĩ mãi"
"Nếu như tưởng tượng rằng những gì chúng ta biết là một hình tròn thì những gì ngoài vòng tròn đó thật lớn biết bao."


Tóm tắt tiểu sử

200px-Einstongue.jpg

Bức ảnh Einstein thè lưỡi nổi tiếng chụp vào ngày sinh nhật, ngày 14 tháng 3 năm 1951, United Press International​

Einstein sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 tại thị trấn nhỏ Ulm bên dòng sông Danube thuộc bang Baden-Württemberg của Đức. Einstein bỏ quốc tịch Đức năm 1896 và nhận quốc tịch Thụy Sĩ năm 1901. Sau khi tốt nghiệp trường Eidgenössische Technische Hochschule (một trường đại học kỹ thuật) năm 1900 ở Zurich, Thụy Sĩ, ông dạy toán tại một trường đại học kỹ thuật khác ở Winterthur, rồi từ 1902 đến 1908, bắt đầu làm việc cho văn phòng cấp bằng sáng chế kỹ thuật tại Bern, với chức vụ giám định viên kỹ thuật hạng III. Đây chính là thời gian Einstein có những phát kiến quan trọng trong vật lý lý thuyết, và cũng là nền tảng cho sự nghiệp của ông sau này, hoàn toàn làm ngoài giờ và không có nhiều liên hệ trực tiếp với đồng nghiệp và tài liệu khoa học.

Einstein nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Zurich năm 1905 và cùng năm này xuất bản 3 công trình khoa học trong đó có thuyết tương đối hẹp. Sau khi phát kiến ra nguyên lý tương đương của trọng trường năm 1907, Einstein trở thành giảng viên tại Đại học Bern năm 1908, rồi thành giáo sư vật lý tại Đại học Zurich năm 1909 và bắt đầu được biết đến là một nhà khoa học hàng đầu. 1911, trong khi chuyển đến giảng tại Đại học Karl-Ferdinand ở Praha (thủ đô của Tiệp Khắc lúc đó), ông đưa ra tiên đoán đầu tiên của thuyết tương đối rộng là ánh sáng phải đi theo đường cong khi qua gần Mặt Trời. Một năm sau đó trở lại Zurich tiếp tục phát triển lý thuyết về trọng trường bằng tính toán tensor, với sự giúp đỡ của bạn học và cũng là nhà toán học Marcel Grossmann. Năm 1914 ông quay lại Đức, trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Đức. Năm 1915, lần đầu thuyết tương đối rộng được xuất bản. Năm 1919, đo đạc với ánh sáng mặt trời khi có nhật thực của một đoàn chuyên gia người Anh đã khẳng định tiên đoán của Einstein vào năm 1911.

Einstein nhanh chóng trở nên rất nổi tiếng trên thế giới, còn ở Đức ông lại bị một số phần tử bài Do Thái tấn công. Từ năm 1920 đến năm 1927, ông đi khắp thế giới để thuyết trình và hoạt động xã hội (1921 Mỹ, 1922 Pháp và Nhật, 1923 Palestine, rồi 1924 Nam Mỹ). Năm 1921 cũng là năm Einstein được nhận giải thưởng Nobel về vật lý, không phải cho công trình nổi tiếng nhưng vẫn còn gây tranh cãi vào thời điểm này là lý thuyết tương đối, mà cho những giải thích về hiệu ứng quang điện. Bắt đầu từ năm 1927, Einstein tham gia vào một cuộc tranh luận với Niels Bohr về thuyết lượng tử. Ông làm việc quá sức và lâm bệnh năm 1928. Mặc dù bình phục ngay trong năm này, cường độ làm việc của ông buộc phải giãn hơn trước. Năm 1932, Einstein nhận giảng tại Đại học Princeton, tại Mỹ, và không quay trở lại nữa vì chính quyền chống Do Thái Đức quốc xã đã cầm quyền ở Đức. Năm 1933, ông tiếp tục chu du Oxford, Glasgow, Brussels, Zurich và nhận được những vị trí danh dự mà ông đã từng mơ ước vào năm 1901 từ Jerusalem, Leiden, Oxford, Madrid và Paris. Năm 1935 Einstein quyết định ở lại Princeton thực hiện những cố gắng trong việc thống nhất các định luật của vật lý. Năm 1940 ông nhận quốc tịch Mỹ, và vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ.

Einstein là một người phản đối chiến tranh và đã gây được 6 triệu đô la tiền quỹ bằng việc bán đấu giá bản viết tay về thuyết tương đối hẹp của mình vào năm 1944. Ông bắt đầu lâm bệnh từ năm 1949 và viết di chúc năm 1950. Năm 1952, chính phủ Israel mời Einstein nhận chức tổng thống, nhưng ông từ chối. Một tuần trước khi mất, Einstein ký tên vào một bức thư kêu gọi các nước không xây dựng vũ khí hạt nhân. Ông mất tại Trenton, New Jersey, 4 giờ chiều ngày 18 tháng 4 năm 1955.

The_gioi_nhu_toi_thay.jpg
 
Re: Bio

Hay lắm Trần Lương Thành, chịu khó sưu tầm, chọn lọc, tổng hợp... cho anh em. Mấy hôm nữa cho mình góp vài nhân vật.

Chúc Thành khỏe - vui vẻ!
 
Re: Bio

Vấn đề là tại sao lại nhét vào CLB Văn Thơ nhỉ...
 
Re: Bio

Văn thơ đâu anh? Rõ ràng đây là "các thể loại khác mà"
Cái này cũng là kiến thức,nếu anh thấy ở đâu thích hợp hơn thì chuyển đi hộ em cái.
 
Re: Bio

Hì, cái này là các thể loại khác trong lĩnh vực văn học nghệ thuật :D
Ngoài văn xuôi, thơ còn có "các thể loại khác" như bút kí, luận đàm v.v..
Moved to "CLB học tập" :p
 
Re: Bio

Ở đâu thì cũng ko quan trọng mấy.Cái chính là việc nội dung của nó có hay hay không :p
Cảm ơn anh.
 
Re: Bio

trời đất bio làm mình cứ tưởng biology!!! Mod làm ơn viết tên topic đầy đủ hộ với ạ
 
Re: Bio

1 người rất nổi tiếng mà không ai không nhắc tới,đó là BillGates:
Sau đây là 1 giai thoại về con người nè:'

BillGates: Người bỏ học lừng danh

Bill-Gates-caricature_gif.jpg

Thứ Sáu, 21/04/2006 - 7:11 AM
Đầu thập niên 70, một sinh viên gầy ốm, học hành không mấy xuất sắc đã tuyên bố với các giáo sư Harvard: anh sẽ trở thành triệu phú năm 30 tuổi. Năm 31 tuổi, người sinh viên ấy trở thành... tỉ phú.

Đó là Bill Gates, người mà một trong các giáo sư này về sau từng nhận xét: "Gates là một doanh nhân kiệt xuất nhưng là một cá nhân quái gở"!

"Đừng đấu với cậu ta"

Cả đời Bill Gates đấu tranh cho sự độc lập, cho việc khẳng định “cái tôi” của mình. Nạn nhân đầu tiên sự tự khẳng định này là cha mẹ ông. Mẹ của Gates, bà Mary, là một giáo viên phổ thông nghiêm khắc. Có lần, bà phạt con trai phải xuống tầng hầm vì tội không chịu dọn phòng. Tới giờ cơm, gọi mãi vẫn không thấy con lên, bà phải xuống nước:

- Tại sao con không trả lời? Con làm gì dưới đó?
- Con suy nghĩ.
- Còn suy nghĩ nữa đấy? - Bà mẹ giận sôi lên.
- Đúng. Con suy nghĩ. Vậy mẹ chẳng bao giờ phải suy nghĩ à?

Khi đó Gates đang học lớp sáu.

Lo âu về cuộc nổi loạn của cậu con, cha mẹ Gates đưa con tới chuyên gia tâm lý. Sau vài buổi làm việc, nhà tâm lý tuyên bố: “Ông bà sẽ thua trong trận chiến với cậu ta thôi. Vì thế tôi khuyên hai người phải thích nghi với cậu bé. Thậm chí đánh đập cũng chẳng ích gì. Đấu nhau với cậu ta là vô vọng, chẳng ích gì đâu.” Cha mẹ Gates nghe theo lời khuyên.

“Đấu với cậu ta là vô vọng, chẳng ích gì.” Năm tháng trôi qua, nhiều nhà khổng lồ Mỹ bằng kinh nghiệm riêng của mình đã hiểu thế nào là đấu nhau với Gates. Trong vòng hai thập niên, William Henry Gates III đã bỏ lại phía sau nhiều kẻ cạnh tranh.

“Sếp sẽ là tôi”

Cha của Gates là một cựu luật sư, đang điều hành công việc từ thiện của con trai, có lần kể lại: “Còn là một đứa bé, Bill đã tự lắc chiếc nôi của mình”.

Từ chiếc nôi tự lắc đó, Bill đã bò ra, bé tí và ốm yếu, nhưng tinh thần kiên cường. Cha mẹ Bill quyết định cho cậu vào học ở một truờng tư địa phương (Gates sinh ngày 28/10/1955 ở Seattle, Washington). Có lúc cậu mê mệt nghệ thuật biểu diễn, từng đóng vai chính trong vở “Hài kịch đen” của nhà hài kịch Scheffer. Thế nhưng cuối cùng, máy tính đã thắng nàng thơ.

Chính ở trường phổ thông Bill Gates 13 tuổi cùng người bạn Paul Allen lần đầu tiên đã chế ra một thiết bị đầu cuối (terminal) thô sơ của máy tính. Sau đó họ viết hai chương trình, Chương trình thứ nhất biến thành một hệ thống toán học, còn nội dung chương trình thứ hai người ta không dám tiết lộ, nhưng có người giải thích: đọc xong tiểu sử Napoleon, Gates đã viết một trò chơi điện tử có tên “Rủi ro”, mục tiêu là thống lĩnh thế giới.

Thuở nhỏ, Gates học chẳng giỏi giang gì (cũng là một hình thức nổi loạn). Thế rồi bất ngờ cậu tốt nghiệp lớp 9 với toàn điểm A mà chẳng hề dòm ngó gì trong sách, đàng hoàng bước vào top 10 học sinh giỏi nhất Mỹ trong kỳ thi năng khiếu. Lớp 10, Bill đã không học, mà dạy vi tính. Khi đó, cậu đã viết chương trình giúp lên kế hoạch hiệu quả hơn cho thời biểu học của lớp. Nhưng chương trình này còn có một mục tiêu bí mật: giúp Gates ghi danh vào các lớp có các nữ sinh đoan trang!

Những năm đó, Bill Gates có người bạn thân là Kent Evans, con trai một mục sư. Bill Gates hồi tưởng: “Lúc đó, chúng tôi cùng đọc Fortune và mơ tới việc làm chủ thế giới. Tới tận giờ, tôi vẫn còn nhớ số điện thoại cậu ấy”. Bill, Kent và Evans cùng nhau thành lập công ty Lakeside Programme Groups và bắt đầu phục vụ cho các hãng xưởng địa phương.

Chính lúc đó, ngay trên ghế nhà trường, Allen đã mưu toan khuất phục Gates và nắm hết mọi việc. Nhưng rất nhanh sau đó Allen hiểu trong việc lập ra mã chương trình cậu hết sức cần con người tài năng và không biết mệt Bill Gates. Paul mời Gates hợp tác. “Được thôi”, Gates đáp, “Nhưng với một điều kiện: sếp sẽ là tôi”.

Microsoft ra đời

Trong suốt chặng đường đời sau đó, nếu Gates phải đi tới một nhượng bộ nào đó thì điều kiện tiên quyết của ông luôn là “sếp sẽ là tôi”.

Để thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng, Evans thường đi leo núi. Một trong những kỳ leo núi của Evans đã kết thúc bằng một tai nạn. Evans qua đời. Đó là bi kịch đầu tiên trong đời Gates. Cho đến trước đó, Gates chưa từng nghĩ về cái chết. Hai tuần liền Bill như trong một làn sương, không thể làm gì.

Cái chết của Evans làm Gates xích gần Allen hơn. Allen thuyết phục bạn trở thành, như sau này người ta nói, “kẻ bỏ học nổi tiếng nhất Harvard”. Thay cho chiếc bằng tốt nghiệp Harvard là sự ra đời của công ty Microsoft, lúc đầu được viết là Micro-Soft (còn có một phương án nữa là Allen and Gates Inc.). Công ty mới có nhiệm vụ cung ứng phần mềm cho các máy tính khi đó mới ra đời, đang rất “mốt”.

Huyền thoại Microsoft được dệt nên như sau: tháng 12/1974, Allen đi tới Harvard để gặp Gates. Trên đường đi, Allen ghé qua quầy báo mua một vài tạp chí. Và điều Allen tìm thấy ở một trong những tờ tạp chí đó đã vĩnh viễn thay đổi cuộc đời của ông và bạn. Trên bìa của tờ “Điện tử phổ thông” là ảnh chiếc máy tính Altair-8080, với hàng chữ to: “Chiếc máy vi tính đầu tiên trên thế giới có khả năng cạnh tranh với các mô hình thương mại”.

Cầm quyển tạp chí, Allen lao vào ký túc xá của Gates. Cả hai nhận ngay ra những chân trời nào đang bừng sáng. Họ hiểu rồi đây sẽ bùng nổ thị trường máy vi tính cá nhân, với hàng triệu con người đang cần phần mềm ứng dụng.

Vài ngày sau Gates liên lạc với nhà sản xuất Altair - công ty MITS và thông báo đã cùng với Allen lập ra phiên bản ngôn ngữ chương trình Basic có thể dùng cho Altair. Gates nói láo. Bởi tới lúc đó đôi bạn chưa viết được một mã số nào. Không những thế, họ còn không có trong tay chiếc Altair nào, dù chỉ là một con chip. MITS, hiển nhiên không biết điều đó, phúc đáp rằng họ quan tâm tới kế hoạch của hai người. Thế là đôi bạn chạy nước rút với Basic.

Gates lo phần mã số, còn Allen lo kích hoạt Altair trên một chiếc máy tính học đường PDP - 10. Nửa tháng sau chương trình hoàn tất. Allen mang tới MITS. Đó mới là lần đầu tiên cậu chạm tay vào máy vi tính Altair. Điều kỳ diệu đã xảy ra - chương trình làm việc! Hợp đồng được ký. “Xuất hiện thị trường cung ứng phần mềm”, Gates vui sướng reo lên. Cùng với đó, Microsoft ra đời.

Khi còn ở Harvard, Gates chơi thân với Steve Ballmer, người sau này trở thành bộ óc của Gates. Khi Gates quyết định tập trung vào việc sáng tạo, ông giao cho Ballmer công việc điều hành Microsoft với chức chủ tịch công ty và giám đốc về công nghệ thông tin (CIO). Gates rủ Ballmer bỏ Procter &Gamble vào năm 1980, khi Microsoft phát triển nhanh tới độ cần một nhà quản lý “không phải dân kỹ thuật”.

Nhưng hai người thường xuyên cự nhau. Gates luôn cho rằng xung đột có ích cho công việc, trong khi sự “lịch sự quý ông” sẽ chỉ cuốn bản chất vấn đề đi. Vì thế, họ cho phép các nhân viên của mình cãi nhau về các quyết định của họ. Microsoft gọi đó là “tâm thế của trường phái toán học”.


Theo TBKTVN
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Re: Biography

Thành Cát Tư Hãn - vị tướng tài ba của Mông Cổ


images26132_w6e.jpg



Tóm tắt về Thành Cát Tư Hãn.

Thành Cát Tư Hãn (tiếng Mông Cổ: Чингис Хаан), sinh ra với tên Thiết Mộc Chân (Тэмүүжин) khoảng năm 1155/1162/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập của Mông Cổ năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại nhà Nam Tống.

Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra Đế chế Mogul ở Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ 17 cho đến khi nó bị thống trị lại bởi người Trung Quốc.


Thời thơ ấu khó khăn

Thành Cát Tư Hãn sinh khoảng giữa 1155 (hay 1162) và 1167, là con trai thứ hai của Dã Tốc Cai (Yesükhei), một thủ lĩnh của bộ tộc Ki Dát (Kiyad). Dã Tốc Cai là người thuộc dòng họ Bột Nhi Chỉ Cân (Borjigin). Mẹ ông là bà Nguyệt Luân (U Luân hay Hoelun) từ bộ lạc Ong-gút (Olkunut). Ông được đặt tên theo tên của một thủ lĩnh rất dũng cảm của một bộ tộc khác đã bị cha ông đánh bại.

Thời thơ ấu của Thiết Mộc Chân cực kỳ khó khăn. Khi ông lên chín tuổi, cha ông đã đưa ông đến gia đình vợ tương lai và ông phải sống ở đó cho đến khi đủ tuổi lấy vợ là 14 tuổi. Một thời gian ngắn sau đó cha ông bị đầu độc bởi bộ lạc Thát Đát (Tartar) láng giềng trên đường trở về nhà và Thiết Mộc Chân đã trở thành thủ lĩnh của bộ tộc của mình. Bộ tộc của ông không chấp nhận ông do họ không muốn ở dưới sự chỉ huy của một đứa trẻ. Trong những năm sau đó, ông và gia đình sống một cuộc đời du cư nghèo khó, sống được là nhờ các loài động vật gặm nhấm. Trong một lần đi săn bắn như vậy ông đã giết chết một người em cùng cha khác mẹ trong một cuộc tranh giành chiến lợi phẩm. Một lần khác, ông đã bị những người cùng bộ lạc cũ bắt trong một cuộc tập kích và bị giam cầm với gông trên cổ. Sau đó ông trốn thoát với sự trợ giúp của những người coi ngục có cảm tình. Mẹ ông đã dạy ông nhiều bài học từ sống sót trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên minh với những người khác, những bài học này đã hình thành nên sự hiểu biết của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của thống nhất.

Năm 16 tuổi, Thiết Mộc Chân lấy Bật Tê (Börte) của bộ tộc Ong-ki-rát (Qonggirat hay Chunggirat) sau này là Quang Hiến hoàng hậu. Bà họ là Hoằng Cát Sắc (Angcatthat), và nhận được áo lông chồn đen như là của hồi môn; đây là tài sản ban đầu để ông tăng thêm sự giàu có về sau từ chiến tranh. Sau đó vợ ông bị bắt cóc trong một cuộc tập kích của bộ tộc Miệt Nhĩ (Merkit) và ông đã nhờ bạn (sau này là kẻ thù) là Trác Mộc Hợp (Jamuka) và người che chở cho ông là Tô Ha Rin (Toghril) của bộ tộc Khắc Liệt (Kereit). Việc sinh đứa con đầu lòng (Truật Xích hay Joci) quá sớm đã dẫn đến sự nghi ngờ của ông và Truật Xích cũng như hậu duệ của ông ta không bao giờ được coi là những người kế vị.


Thống nhất bộ lạc.

Thiết Mộc Chân bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách liên kết với bạn của cha mình là Tô Ha Rin (Toghril), một thủ lĩnh ở địa phương. Ông buôn bán lông thú cho quân đội và gia nhập vào Keriat, một liên minh của người Mông Cổ do Hãn Vương đứng đầu. Sau những chiến trận thắng lợi trước người Tác-ta năm 1202, Thiết Mộc Chân đã được thừa nhận là người kế vị Hãn Vương. Điều này dẫn đến sự thù hận của Tang Côn (Senggum), người lẽ ra có quyền kế vị, Tang Côn lập kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân nhưng ông đã biết được âm mưu của Tang Côn. Cuối cùng Thiết Mộc Chân đã đánh bại Tang Côn, cùng những người ủng hộ Tang Côn, và kế nghiệp ngôi vị Hãn Vương. Thiết Mộc Chân sau đó đã ban hành bộ luật bằng văn bản cho người Mông Cổ gọi là Yassa và ông ra lệnh phải tuân thủ bộ luật này một cách nghiêm ngặt để xây dựng tổ chức và quyền lực trong phạm vi vương quốc của mình.

Với nhu cầu phải bảo vệ biên giới từ các quốc gia phía nam như đế chế nhà Kim và nhà Tây Hạ là những quốc gia trên địa bàn Trung Quốc ngày nay, ông đã tổ chức hệ thống của mình với sự tăng cường sức mạnh quân sự và đã không bị đánh giá quá mức bởi những người Trung Quốc khi đó đã bắt đầu cảm thấy khó chịu với quốc gia mới nổi Mông Cổ dưới thời đại của Thiết Mộc Chân, cuối cùng là những hành động như ngăn cản việc tiếp tế lương thực, thực phẩm đi qua Mông Cổ ngày nay. Với những phẩm chất cá nhân và ý chí mạnh mẽ, Thiết Mộc Chân cuối cùng đã thống nhất được các bộ lạc trong một hệ thống duy nhất, một nét đặc trưng vĩ đại của Mông Cổ, là đất nước có lịch sử lâu đời của những cảnh huynh đệ tương tàn và gian khó về kinh tế.

Năm 1206 Thiết Mộc Chân đã liên kết thành công các bộ lạc Mông Cổ đang bị chia rẽ và tại hội nghị Kurultai (hội đồng các thủ lĩnh Mông Cổ) ông đã được phong là "Thành Cát Tư Hãn" (trong tiếng Mông Cổ thì Чингис Хаан có nghĩa là vua của cả thế giới).


Thành lập đế chế.

Trung Hoa

Cùng thời điểm với hội nghị Kuriltai, Thành Cát Tư Hãn đã bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp với Tây Hạ là quốc gia bắt người Mông Cổ phải phục tùng và nộp cống phẩm hàng năm. Ông đã chiếm được một số thành trì được bảo vệ vững chắc của Tây Hạ. Năm 1209 khi hòa bình với Tây Hạ được ký kết, về thực chất ông đã làm mất sự thống trị của Tây Hạ, đã được các vua Tây Hạ thừa nhận là chúa tể, biến quốc gia này trở thành chư hầu chịu cống nộp cho người Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng như hậu cần cho các chiến dịch trong tương lai của ông.

Mục đích chính của ông là xâm chiếm nhà Kim, vừa để trả thù những thất bại trước đây khi những người Mông Cổ còn thù hận lẫn nhau và giành lấy tài sản cùng sự giàu có của miền bắc Trung Quốc. Ông tuyên bố chiến tranh năm 1211, để cho nhà Kim không thể còn là sự đe dọa thường xuyên đối với Mông Cổ về lãnh thổ, tài sản ở phần biên giới phía nam. Mô hình của cuộc chiến tranh chống lại nhà Kim của người Nữ Chân cũng giống như cuộc chiến chống lại Tây Hạ.

Kết quả của chiến thuật siêu đẳng và sự hoàn hảo của chiến lược là Thành Cát Tư Hãn đã xâm chiếm và hợp nhất phần lãnh thổ nhà Kim đến tận Vạn lý trường thành của Trung Quốc năm 1213. Sau đó ông chỉ huy ba cánh quân tiến vào phần trung tâm lãnh thổ Kim, giữa Vạn lý trường thành và sông Hoàng Hà. Giống như các ông vua khác tin mình là con trời (thiên tử), ông đã xâm chiếm phần miền bắc Trung Quốc, chiếm giữ hàng loạt thành phố và năm 1215 đã bao vây, chiếm giữ và cướp bóc kinh thành của nhà Kim là Yên kinh (sau này là Bắc Kinh). Tuy vậy nhưng vua nhà Kim là Hoàn Nhan Tuần (完顏珣) tức vua Kim Tuyên Tông (宣宗 Xuan Zong) đã không đầu hàng mà chuyển kinh thành về Khai Phong (開封 Kaifeng) vì sự lớn mạnh của người Mông Cổ ở phía bắc. Ở đó những ông vua cuối cùng của nhà Kim là Hoàn Nhan Thừa Lân (完顏承麟) hay Kim Mạt Đế (末帝) đã bị đánh bại vào năm 1234.

Trung Á

Cùng thời gian đó Gút Sơ Lúc (Kuchlug), vị hãn bị phế truất của bộ tộc Nãi Man, đã chạy về phía tây và cướp hãn quốc Tây Liêu, đồng minh phía tây của Thành Cát Tư Hãn. Trong thời gian này, quân đội Mông Cổ đã mệt mỏi do hơn 10 năm chiến tranh chống lại Tây Hạ và Kim. Vì vậy Thành Cát Tư Hãn chỉ gửi khoảng 20.000 quân dưới sự chỉ huy của viên tướng trẻ Triết Biệt (者別 Jebe) để chống lại Gút Sơ Lúc. Một cuộc nổi dậy trong nước với sự giúp đỡ của người Mông Cổ và sau đó Triết Biệt tràn qua đất nước này. Lực lượng của Gút Sơ Lúc đã bị đánh bại ở phía tây của Kashgar; ông ta bị bắt sống và bị hành hình sau đó, Tây Liêu bị sát nhập vào Mông Cổ. Năm 1218 vương quốc Mông Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Bal-kha và tiếp giáp với Kharezm (dịch theo tiếng Hoa là Hoa Thích Tử Mô), một quốc gia Hồi giáo trải dài từ biển Caspia ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam.

Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đoàn sứ giả sang tỉnh phía đông của Kharezm với mục đích thảo luận khả năng buôn bán với quốc gia này. Thống đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ông đã cho 200.000 quân tràn sang để trả thù. Quân đội Mông Cổ với chiến lược và chiến thuật hơn hẳn đã nhanh chóng hạ thành phố này và hành hình viên thống đốc bằng cách đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt ông ta để trả đũa hành động xúc phạm tới Thành Cát Tư Hãn và những ý định tốt đẹp ban đầu của người Mông Cổ.

Cùng thời điểm này (1219) ông quyết định mở rộng ảnh hưởng của Mông Cổ đối với thế giới Hồi giáo. Quân đội Mông Cổ lần lượt hạ các thành phố chính của Kharezm như Bukhara, Samarkand và Balkh, và vua Muhammad đã phải chuẩn bị lực lượng chống lại họ. Tuy nhiên, ông ta đã bị vượt qua bởi những người Mông Cổ nhanh nhẹn và lắm mưu kế hơn và phải liên tục rút lui. Cuối cùng, Muhammad đã phải tự tử năm 1220 và Đế chế Kharezm sụp đổ.

Sau đó quân đội Mông Cổ chia làm hai đạo quân, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh kia do tướng Tốc Bất Đài (Subedei hay Subutai) chỉ huy tiến vào Caucasus và Nga. Không một cánh quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bóc và đánh bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở lại Mông Cổ.

Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào đế chế vốn đã ghê ghớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư Hãn như một chiến binh khát máu trong những người không biết hoặc không muốn biết rằng ông là ông chủ thực sự của thế giới.

Châu Âu

Cánh quân của Tốc Bất Đài đã tiến vào Ba Tư và Armenia, với lực lượng 40.000 quân họ đã tiến sâu vào lãnh thổ Armenia và Azerbaijan (Xem phần Trung Á). Ở đây quân Mông Cổ đã tiêu diệt quân thập tự chinh Gruzia, chiếm pháo đài đầu mối giao thương thành quốc Genova ở Crimea và nghỉ qua mùa đông bên biển Đen. Trong khi đoàn quân này trở về Mông Cổ họ đã giao tranh với đội quân 80.000 người của Đại công tước Mstitslav của Kiev, trong trận chiến gọi là trận chiến sông Kalka năm 1223. Quân Mông Cổ đã đánh bại đại công tước Mstitslav và quân đội của ông ta.


Chiến dịch cuối cùng.

Đế chế chư hầu Tây Hạ đã từ chối không tham chiến chống lại đế chế Kharezm, và Thành Cát Tư Hãn đã thề giành cho họ sự trừng phạt. Trong khi ông đang ở Iran, Tây Hạ và Kim đã hình thành liên minh chống lại người Mông Cổ. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn chuẩn bị chiến tranh chống lại liên minh này.

Cùng thời gian này, ông cũng phải suy nghĩ về việc chọn người kế nghiệp để xóa bỏ những cuộc tranh giành liên miên giữa các con; ông đã chọn người con trai thứ ba là Oa Khoát Đài (Ögedei) làm người kế nghiệp cũng như thiết lập cơ chế lựa chọn những người kế nghiệp trong tương lai với điều kiện họ phải là hậu duệ của ông. Ông đã nhận được những báo cáo tình báo về lực lượng Tây Hạ, Kim và chuẩn bị lực lượng 180.000 quân cho các chiến dịch mới.

Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ với cớ là Tây Hạ chứa chấp kẻ thù của Mông Cổ và để trừng phạt sự phản bội của họ. Tháng 2, ông chiếm các thành phố Heisui, Cẩm Châu (贛州) và Tô Châu và trong mùa thu năm đó ông chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ đã đánh một trận lớn với quân Mông Cổ gần dãy núi Hà liên sơn. ("Hà liên" có nghĩa là "đại mã" trong phương ngôn phía bắc Trung Quốc.) Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11, ông bao vây thành Linh Châu và vượt qua sông Hoàng Hà đánh bại quân cứu viện của Tây Hạ.

Năm 1227, ông tấn công kinh đô Tây Hạ, trong tháng 2 chiếm phủ Lintiao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay) và phủ Tín Đô (信都府). Trong tháng 4 chiếm quận Deshun. Tại Deshun, tướng Tây Hạ Mã Diên Long chống lại quân Mông Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngoài thành. Mã Diên Long sau đó chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi chiếm Deshun, tiến quân tới núi Lưu Pan (thôn Thanh Thuỷ (清水), tỉnh Cam Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt.

Vua Tây Hạ mới, đã chính thức đầu hàng quân Mông Cổ năm 1227. Tây Hạ bị diệt sau khi tồn tại 190 năm, từ 1038 đến 1227. Quân Mông Cổ đã giết vua Tây Hạ và cả hoàng tộc này.

Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế chế của ông cho bốn người con trai. Truật Xích là lớn nhất, nhưng đã chết và quan hệ huyết thống của ông ta cũng bị nghi ngờ, vì thế những vùng đất xa xôi nhất của đế chế như nam Ruthenia đã được chia cho các con của ông này là Batu thủ lĩnh của bộ lạc Xanh, và Orda, thủ lĩnh của bộ lạc Trắng. Sát Hợp Đài (Chagatai) là con trai thứ hai, nhưng là người nóng nảy được chia vùng Trung Á và bắc Iran. Oa Khoát Đài (Ogedei), con trai thứ ba là Đại Hãn và nhận được Trung Quốc. Đà Lôi (Tolui), trẻ nhất, nhận Mông Cổ.

Trên giường bệnh năm 1227, Thành Cát Tư Hãn phác thảo kế hoạch cho Đà Lôi, sau kế hoạch này được những người kế vị sử dụng để triệt hạ dứt điểm nhà Kim.

Trong chiến dịch cuối cùng của mình chống lại nhà Tây Hạ, Thành Cát Tư Hãn đã chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1227. Nguyên nhân cái chết của ông vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ông ngã ngựa vì tuổi già và suy giảm thể lực hay sự ám sát từ phía kẻ thù. Biên niên sử Galicia-Volhynia cho rằng ông bị những người Tanguts giết chế, tuy nhiên đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ.

Sau khi ông ta chết, thân xác ông được đưa về Mông Cổ và được cho là mang về nơi ông sinh ra ở Hentiy, là nơi mà nhiều người cho rằng ông đã được hỏa thiêu ở một nơi nào đó gần sông Onon. Đoàn hộ tống lễ tang đã giết hết mọi người và tiêu hủy mọi thứ lạc vào đường của họ tới nơi thiêu xác ông để không ai có thể khám phá ra nơi họ chôn cất người lãnh tụ đáng kính của mình. Trong đám tang của ông (để giữ bí mật) người ta cho rằng đã có ít nhất 40 cung nữ đã bị hỏa thiêu cùng với ông, vì thế ngay cả các bà mẹ của họ cũng không thể xác định được nơi mà các cung nữ đã bị thiêu. Lăng mộ của Thành Cát Tư Hãn là nơi tưởng niệm ông, nhưng không phải là nơi chôn cất ông ta. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2004, người ta đã cho là tìm thấy "cung điện Thành Cát Tư Hãn", được cho là khu mộ của ông.


Tài năng chính trị và kinh tế của Thành Cát Tư Hãn.

Thành Cát Tư Hãn là một nhà lãnh đạo thực thụ có khả năng. Ông đã tạo ra bộ luật bằng chữ viết của người Mông Cổ mà mọi người trong đế chế phải tuân thủ. Vì sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo và sắc tộc của các công dân và binh lính trong Đế chế Mông Cổ bao gồm cả Trung Quốc, Ba Tư và châu Âu ngày nay, ông đã truyền lại sự trung thành chỉ đối với ông (Đại Hãn) mà không cho một ai khác. Để giữ vững và bổ sung cho các chi phí cho quân đội cũng như các hoạt động khác, ông đã cho phép các thủ lĩnh duy trì quyền lực khi mà họ còn cung cấp được sức mạnh quân sự, nộp cống phẩm và cung cấp nhân lực trong các cơ sở cố định. Chiếm đóng được một khu vực đất đai rộng lớn, ông đã khuyến khích thương nghiệp và trao đổi hàng hóa và người Mông Cổ nhận được hàng hóa và dịch vụ từ những người khác. Các thương nhân, giáo sĩ, đặc sứ đã được đảm bảo sự an toàn và hướng dẫn cần thiết dưới đế chế Mông Cổ, ví dụ một số người trong số họ đã đến Trung Quốc như nhà du hành Giovanni da Pian del Carpini dưới thời Oa Khoát Đài hay nhà du hành người Ý Marco Polo tới Bắc Kinh dưới thời Hốt Tất Liệt, là những người đã viết sách trong chuyến du hành của họ với một độ chính xác cao. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn, mọi "cá nhân và tôn giáo là bình đẳng trước pháp luật Mông Cổ".

Vì sự mở rộng đế chế của ông, Thành Cát Tư Hãn đã có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của nhiều quốc gia châu Á, chủ yếu là Trung Quốc và Nga. Ông đã tiêu diệt tầng lớp quý tộc hiện thời trong các vùng lãnh thổ của mình, tạo ra tầng lớp trí thức thô sơ trong thời kỳ đó. Ông cũng tạo ra hệ thống bưu chính rộng lớn và mở rộng sự phổ biến của việc sử dụng hệ thống chữ cái thế giới, mặc dù trong nhiều năm người ta vẫn tin rằng ông là người thất học vì sự xuất hiện gần đây của chữ viết cũng như tuổi tác của ông tại thời điểm thi hành điều đó. Tuy nhiên, gần đây theo các phát kiến của các nhà sử học Mông Cổ và Trung Quốc ta thấy ông là người có học thức cao. Các văn bản viết tay được cho là của ông cũng như nội dung của chúng cho thấy ông có thể đọc các bài thuyết pháp của Lão giáo [1]. Thương mại và du lịch trong lãnh thổ Trung Quốc, Trung Cận Đông và châu Âu được phát triển mạnh mẽ bởi sự ổn định chính trị nhất mà Đế chế Mông Cổ đã đem lại khi thiết lập lại Con đường tơ lụa. Ông giảm các hình phạt trong các khu vực của mình, miễn giảm thuế cho các lang y và thầy đồ, và thiết lập sự tự do tôn giáo. Các ngôn ngữ khác như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ được phát triển và các loại hình tôn giáo đã nảy nở do có tự do tôn giáo. Quân đội Mông Cổ về sau bao gồm rất nhiều người của các nền di sản khác nhau. Người Mông Cổ mở đầu cho phần lớn châu Á biết đến bàn tính và la bàn cũng như cho châu Âu biết đến thuốc súng và thuốc nổ được phát minh bởi người Trung Quốc cũng như các phương tiện chiến tranh vây hãm mà người Trung Quốc đã phát triển để đối phó với người châu Âu. Ông cũng là người thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, là điều mà một số người cho là thành tựu đáng kể nhất của ông. Người ta cũng cho rằng ông là người đầu tiên ngăn chặn sự phân chia bắc và nam Trung Quốc được bắt đầu từ thời kỳ nhà Tống. Liên quan đến việc thống nhất Mông Cổ (một trong những thành tựu ấn tượng nhất của ông) là ông đã kiểm soát tốt để giành được sự hậu thuẫn của người Mông Cổ.

Ông tổ chức quân đội Mông Cổ thành các nhóm theo cơ số 10 (10 lính là một arban (thập hộ), 100 là một zuun (bách hộ), 1.000 là một myangan (thiên hộ), 10.000 là một tumen (vạn hộ)) và mỗi một nhóm binh sĩ có một thủ lĩnh có trách nhiệm báo cáo với cấp trên cho đến tận tumen. Cơ cấu mệnh lệnh này tạo ra một sự mềm dẻo cao và cho phép quân đội Mông Cổ có khả năng tấn công ồ ạt, chia thành các nhóm nhỏ hơn để bao vây và dẫn dắt kẻ thù vào trong mai phục hay chia thành các nhóm nhỏ 10 người để áp chế các nhóm tàn quân đã tan vỡ và đang trốn chạy. Quân đội Mông Cổ là rất mềm dẻo vì sự kiên định của binh sĩ. Mỗi người lính Mông Cổ có thể có từ 2 đến 4 ngựa cho phép họ phi nước đại trong vài ngày mà không cần nghỉ ngơi hay bị mệt mỏi. Binh sĩ Mông Cổ cũng có thể sống vài ngày chỉ cần uống máu ngựa và ăn thịt bò Tây Tạng khô khi thời tiết khắc nghiệt.

Khi bổ sung binh lính mới cho quân đội, Thành Cát Tư Hãn chia họ ra thành nhiều nhóm dưới quyền của các thủ lĩnh khác nhau để tránh tình trạng có quan hệ về sắc tộc hay xã hội, vì thế ở đây không có sự phân chia theo các liên minh sắc tộc. Trong mọi chiến dịch, binh sĩ được phép đem theo gia đình của họ. Chỉ những chiến binh dũng cảm nhất mới được thăng chức. Mỗi một thủ lĩnh của một nhóm nào đó phải chịu trách nhiệm về sự sẵn sàng chiến đấu của binh lính dưới quyền tại bất kỳ thời điểm nào và có thể bị thay thế nếu như phát hiện được sự tắc trách.

Binh lính Mông Cổ là các khinh kỵ binh (kỵ binh nhẹ) so với các kỵ sĩ châu Âu, điều này cho phép họ tiến hành các chiến thuật và rút lui nhanh chóng. Đây là một thông lệ đối với các đội quân linh hoạt. Người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông là sự hoàn hảo của loại hình quân khinh kỵ bắn cung. Một trong những kỹ thuật mà người Mông Cổ sử dụng trong chiến tranh là sự giả vờ rút lui giữa trận đánh, quân Mông Cổ có thể rút lui bất thình lình, làm cho quân đối phương tin rằng người Mông Cổ đã thua trận. Chỉ sau đó trong một khoảng cách nhất định thì họ mới hiểu là đã bị quân Mông Cổ bao vây và cuối cùng là hàng trận mưa tên bắn về phía họ. Người Mông Cổ không thích hợp với các cuộc cận chiến, họ thích đánh nhau từ một khoảng cách nhất định bằng cung tên với khả năng bắn cung khi đang cưỡi ngựa điêu luyện của mình.

Trong các cuộc chiến, thủ lĩnh quân đội Mông Cổ có thể sử dụng cờ hay kèn hiệu để thực hiện chiến lược, chiến thuật của mình. Đối với người Mông Cổ, chiến thắng có vẻ như là vấn đề quan trọng nhất và họ không thể chấp nhận thua trận cũng như mất người bởi vì họ bị thua sút về tiếp viện (ít nhất là hai lần thấp hơn trong phần lớn các trận đánh nếu tính theo lượng binh sĩ) cũng như họ phải di chuyển xa lãnh thổ của mình. Như đã đề cập trên đây, vũ khí chủ yếu của người Mông Cổ là cung của người Hun và kiếm lưỡi cong, nhẹ và hiệu quả để mang vác và đánh nhau hơn là kiếm dài và nặng của người châu Âu. Một quy tắc đơn giản trong giao tranh đã được làm rõ trong thời đại của Thành Cát Tư Hãn là nếu hai hay nhiều hơn binh sĩ tách khỏi nhóm của họ mà không có sự chấp thuận của thủ lĩnh thì họ phải chết. Kiểu giao tranh của người Mông Cổ có vẻ như là phương thức tự nhiên nhất của cuộc sống du cư của họ, nó có nghĩa là trong các cuộc viễn du thì phải có hành lý gọn nhẹ nhất cũng như tốc độ và sự linh hoạt lớn hơn. Do thế Thành Cát Tư Hãn đã bổ sung thêm một thành phần quan trọng, đó là kỷ luật nghiêm minh đối với quân đội của ông mà nó là tương tự như các đội quân khác của thảo nguyên trong thời gian dựa vào kiểu chiến tranh bằng khinh kỵ binh với cung tên.

Triết lý quân sự của Thành Cát Tư Hãn nói chung là đánh bại kẻ thù với ít tổn thất và rủi ro nhất cho người Mông Cổ, dựa trên lòng trung thành và tài năng trong việc lựa chọn các tướng lĩnh và binh sĩ.

Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện rất thành công các kiểu chiến tranh tâm lý, đặc biệt trong các việc mở rộng sự đe dọa, khủng bố đối với các thành phố, thị trấn khác. Nếu ông nhận thấy là ở đó có sự chống cự, ông có thể đưa ra cơ hội để họ đầu hàng và cống nộp. Nếu lời đề nghị bị từ chối, ông có thể tiêu diệt cả thành phố hay thị trấn đó nhưng cho một số người chạy trốn để loan truyền tin về tổn thất của họ cho cư dân của các thành phố khác. Một khi những tin đồn về sức mạnh của đội quân của ông đã loang rộng thì rất khó cho các thủ lĩnh của các thành phố đó trong việc thuyết phục người dân của họ chống lại Thành Cát Tư Hãn. Quan điểm của Thành Cát Tư Hãn đối với các kẻ thù là: hoặc đầu hàng và chịu cống nộp hoặc là chết. Khi họ đã đầu hàng, Thành Cát Tư Hãn thông thường giữ cho thành phố đó được nguyên vẹn và đảm bảo cho họ sự bảo vệ để họ trở thành nguồn nhân lực và quân nhu cho các chiến dịch trong tương lai. Nếu họ chống lại, ông thực hiện quyền của người cai trị cả thế giới. Người ta cho rằng ông đã giữ được nhiều sinh mạng nhờ chiến tranh tâm lý và sự hăm dọa đối với kẻ thù.

Công nghệ là một mặt quan trọng trong chiến thuật của ông. Những thiết bị vây hãm là một phần trong chiến thuật của ông, đặc biệt trong việc tấn công các thành phố đã tăng cường phòng thủ. Ông sử dụng các nhà kỹ thuật Trung Quốc rất am hiểu các thiết bị vây hãm trong thời gian đó trong quân đội của mình. Các thiết bị vây hãm này được tháo rời và vận chuyển bằng ngựa và được lắp ráp lại ở nơi mà chúng cần sử dụng.

Trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh điển hình và các biến thái của nó, trước khi xâm chiếm, Thành Cát Tư Hãn và các tướng lĩnh của ông thực hiện việc chuẩn bị tích cực ở Kurultai để quyết định xem sẽ chỉ đạo cuộc chiến tranh sắp tới như thế nào cũng như các tướng nào cần tham gia; có nghĩa là họ có thể tích lũy kiến thức hoàn hảo hơn từ những kẻ thù của mình, sau đó sự khiêu chiến sẽ được tính toán, và sau đó họ quyết định bao nhiêu đơn vị là cần thiết. Ở phía khác, các tướng Mông Cổ là những chiến binh với mức độ độc lập cao trong các quyết định khi họ tỏ rõ lòng trung thành với Thành Cát Tư Hãn trong một thời gian dài, điều này làm giảm thiểu sự kiểm tra, giám sát của ông đối với họ trong thời gian diễn ra chiến dịch. Vì bản chất nhẹ của quân đội Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng một mạng lưới tình báo phức tạp trong quân đội Mông Cổ cũng như trong các mạng lưới thương mại hay các nước chư hầu, trong đó tình báo có thể nhanh chóng đến được mọi ngõ ngách của đế chế Mông Cổ. Người ta cho rằng, để chuẩn bị cho chiến tranh, các tướng có thể cử 200 kỵ binh đi theo 4 hướng khác nhau để do thám các hoạt động của kẻ thù và đôi khi binh sĩ đi tới 300 km trong 1 hay 2 ngày, điều này là thông thường trong thời đại của đội quân Mông Cổ.

Mặc dù chiến chiến lược của người Mông Cổ là có sự thay đổi tùy theo phản ứng của kẻ thù, nhưng kỹ thuật của họ có thể vẫn chỉ là một. Người Mông Cổ giao chiến theo hàng dọc, thông thường có ba cánh quân, hai cánh bên hông có thể tách ra từ cánh quân trung tâm khi họ tính toán xem nơi nào họ có thể thọc vào. Các cánh quân bên hông có quân số tương đương có thể đi sâu vào lãnh thổ kẻ thù và bắt đầu chôn vùi kẻ thù bằng các toán quân Mông Cổ được chia thành các cơ, đội 10, 100, 1.000, 10.000 binh sĩ với các thủ lĩnh của họ, nó tạo ra một lực lượng chiến đấu rất tinh tế và có tổ chức cao, gần như không thể ngăn chặn nổi bởi những đội quân nông dân của người châu Âu hay Trung Quốc. Khi họ hiện diện ở một nơi nào đó và do thám các thành phố và cánh đồng xung quanh, họ có thể bằng cách nào đó nhập lại với cánh quân trung tâm và đưa ra đòn đánh quyết định với đội quân chính của kẻ thù. Tư tưởng và ưu thế của việc sử dụng các lực lượng bên hông là lan truyền đe dọa, khủng bố (người Mông Cổ rất giỏi việc này), thu thập tin tức tình báo từ các kẻ thù của họ và loại bỏ các đơn vị nhỏ hơn của kẻ thù để không cho họ không thể hỗ trợ lẫn nhau. Nói cách khác, nó là một dạng của khái niệm phân chia và chế ngự. Các cánh quân bên hông này gửi các thông điệp thông qua tình báo cho các cánh quân khác về những gì xảy ra trên hướng của họ và họ có cần sự hỗ trợ từ các cánh quân đó hoặc hỗ trợ các cánh quân đó hay không. Quân đội Mông Cổ có các cuộc giao chiến với các đội quân nhỏ lẻ trên các cánh đồng trước khi tiêu diệt lực lượng đối địch chính, điều này làm tăng ưu thế của họ trong việc loại trừ khả năng thông tin từ một thành phố cho các thành phố khác của kẻ thù (mà có thể có được sự hỗ trợ từ đó). Người Mông Cổ giỏi chiến tranh vây hãm, giỏi làm lệch dòng chảy của các dòng sông cũng như lương thực, thực phẩm cho các thành phố và gửi những người tỵ nạn tới các thành phố khác để tạo căng thẳng về kinh tế-xã hội cho các thành phố này (lương thực, thực phẩm, nơi ăn ở v.v).

Khi trận đánh chính hay sự vây hãm đã kết thúc, người ta cho rằng quân đội Mông Cổ truy đuổi thủ lĩnh của kẻ thù cho đến khi ông ta hoàn toàn suy sụp để làm ông ta không thể đến điểm thu thập quân đội của mình sau trận đánh. Phần lớn thời gian thủ lĩnh của kẻ thù phải chạy trốn đã nhận ra rằng họ có lẽ đã thua cuộc, nhưng các lực lượng Mông Cổ truy đuổi cho đến khi họ chắc chắn rằng những kẻ này đã chết.


Theo Wikipedia TV.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Re: Biography

kỷ niệm ngày Fidel Castro tròn 80 tuổi, 1 tuần :) !

Fidel Castro - người bạn lớn của nhân dân Việt Nam



Fidel Castro, tên đầy đủ là Fidel Alejandro Castro Ruz (sinh năm 1926), là Chủ tịch nước Cuba, một nhà chính trị nổi tiếng trên thế giới. Hình ảnh chính trị của ông gây được nhiều thiện cảm ở Cuba, các nước xã hội chủ nghĩa và châu Mỹ Latinh đồng thời đường lối chính trị của ông gặp phải nhiều phản đối từ Mỹ và một số nước tư bản.

Ở Việt Nam, nhiều người coi ông là một "người bạn lớn". Ông đã từng giao thiệp với Hồ Chí Minh.


Tiểu sử

Fidel Castro, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1926 (có tài liệu chép ngày 14 tháng 8 năm 1927) tại một thị trấn nhỏ tên Birán của Cuba. Cha mẹ của ông, vốn là di dân từ Tây Ban Nha, là chủ đồn điền trồng mía giàu có. Lúc nhỏ Castro theo học trường Dòng Tên. Ông vào Đại học Havana năm 1945 và tốt nghiệp ngành luật năm 1950.

Trong thời gian ở đại học, Castro tham gia vào nhiều tổ chức chống đối chính quyền. Castro hành nghề luật sư từ năm 1950 đến 1952. Castro trở thành đảng viên của Đảng Chính Thống (tiếng Tây Ban Nha: Partido Ortodoxo) và vận động để tranh cử vào Quốc hội Cuba. Thế nhưng ý định của Castro chưa thành thì cuộc đảo chính của tướng Fulgencio Batista nổ ra. Batista muốn lên nắm chính quyền để ngăn cản sự lớn mạnh của Đảng Chính Thống. Dưới sự cai trị của Batista, hàng ngàn chính khách bị ám sát và dân chúng bị sống dưới sự đàn áp.

Castro bắt đầu vận động chống lại Batista bằng biện pháp quân sự. Ông liên kết được hơn 200 phần tử cách mạng trên toàn quốc và trở thành thủ lãnh của họ. Ngày 26 tháng 7 năm 1953, Castro và các chiến hữu tấn công vào trại lính Moncada. Hơn 80 chiến hữu bị tử trận và Castro bị bắt. Castro bị đưa ra tòa và bị kết án 15 năm tù. Cuối phiên tòa, Castro đã hùng hồn đọc bài diễn văn "Lịch sử sẽ giải oan cho tôi" (La historia me absolverá), một bài diễn văn phản ánh quan điểm chính trị của Castro.

Một năm sau, Batista đại xá cho nhiều tù chính trị, trong đó có Castro, và ông ta được thả. Castro sang Mexico và lập nhóm vũ trang kháng chiến. Nhóm này lấy tên là nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, để tưởng niệm cuộc nổi dậy ngày 26 tháng 7 trước đó. Trong số những người tham gia vào nhóm này có Che Guevara, một sinh viên y khoa đang tập sự tại thủ đô Thành phố Mexico.

Ngày 2 tháng 12 năm 1956, nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, gồm 80 người, trở lại Cuba trên chiếc thuyền Granma dài 18 mét. Họ nhanh chóng bị tiêu diệt bởi quân chính phủ. Chỉ có 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Trong số những người sống sót, ngoài Fidel Castro còn có Raul Castro (em của Fidel Castro), Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ. Tháng 5 năm 1958, Batista huy động nhiều tiểu đoàn tiến đánh quân kháng chiến. Dù bị thua kém về quân số, phe kháng chiến vẫn thắng nhiều trận quan trọng. Quân của Batista đào ngũ và đầu hàng rất nhiều. Ngày 1 tháng 1 năm 1959, Batista chạy trốn khỏi Cuba.

Fidel Castro lên làm chủ tịch nước. Ông hứa sẽ xây dựng một chính quyền trong sạch và tôn trọng hiến pháp Cuba. Tuy nhiên, Castro đã xử tử hàng ngàn người thuộc Đảng Batista.

Hoa Kỳ ban đầu công nhận chính quyền Fidel Castro, nhưng sau khi Castro quốc hữu hóa các công ty Hoa Kỳ tại Cuba thì quan hệ Hoa Kỳ – Cuba trở nên lạnh nhạt. Chính sách kinh tế của Castro làm cho Hoa Kỳ nghi ngờ rằng Castro theo chủ nghĩa Cộng Sản và có quan hệ với Liên Xô – đối địch với Hoa Kỳ trong Chiến tranh lạnh. Tháng 4 năm 1959 Castro viếng Nhà Trắng nhưng tổng thống Dwight Eisenhower từ chối gặp, thay vào đó là phó tổng thống Richard Nixon. Sau cuộc gặp gỡ này, Nixon cho rằng Castro là một người "ngây thơ" nhưng không nhất thiết là Cộng Sản.

Tháng 2 năm 1960, chính quyền của Castro ký một hiệp thương với Liên Xô (nay là Nga), trong đó Liên Xô đồng ý bán dầu hỏa cho Cuba. Hoa Kỳ cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 tháng 1 năm 1961. Cuba tiếp tục thắt chặt quan hệ với Liên Xô và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế.

Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Hoa Kỳ yểm trợ một đạo binh gồm 1400 người Cuba lưu vong đổ bộ lên vùng Vịnh Con Heo (tiếng Anh: Bay of Pigs) nhằm mục đích lật đổ Fidel Castro. Cuộc đổ bộ thất bại và nhiều người bị bắt, chín người bị xử tử. Cũng trong năm đó, ngày 2 tháng 12, Castro tuyên bố rằng ông theo chủ nghĩa Marx-Lenin, và Cuba sẽ đi theo chủ nghĩa Cộng Sản.

Ngày 28 tháng 3 năm 1980, một chiếc xe buýt tông sập cổng tòa đại sứ Peru ở thủ đô Havana. Trong vòng 48 tiếng, hơn 10.000 người Cuba đã nhân cơ hội tràn vào tòa đại sứ xin tị nạn chính trị. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, Castro tuyên bố cho mọi người được tự do rời Cuba qua cảng Mariel ở Havana. Khoảng hơn 100 nghìn người dân Cuba xuống tàu ra đi, trên một cuộc hành trình được mệnh danh là "Đoàn Tàu Tự Do", đa số đến Florida, Hoa Kỳ.

Chính quyền Castro áp dụng chính sách kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Chính sách này làm cho giới trung lưu bất mãn, kể cả những người trước kia ủng hộ kháng chiến. Nhiều người trong số này trốn sang Hoa Kỳ và lập ra những tổ chức chống Fidel Castro tại Florida.

Hiện nay có nhiều lời đồn đãi về sức khỏe của Castro. Tháng 1 năm 2004, Luis Eduardo Garzón, thị trưởng của Bogotá – thủ đô của Columbia – sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta "trông có vẻ rất ốm yếu". Tháng 5 năm 2004, bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.

Ngày 20 tháng 10 năm 2004, Castro bị vấp té sau khi đọc diễn văn trước một cuộc mít tinh. Cú ngã này làm ông bị vỡ xương tay và đầu gối. Ông ta phải trải qua ba giờ giải phẫu. Sau đó Castro viết một lá thư để đăng lên báo, đài. Trong thư ông cam đoan với công chúng rằng mình vẫn khỏe và sẽ "không mất liên lạc với quí vị".


Theo Wikipedia TV.


1 số thông tin về tình hình sức khoẻ Fidel Castro gần đây:

+ Fidel Castro sẽ lãnh đạo Cuba đến năm 99 tuổi ?
+ Fidel Castro sẽ trở lại trong 1 vài tuần tới.
+ Fidel Castro xuất hiện trên nhật báo Cuba.
+ Fidel Castro xuất hiện trên truyền hình sau phẫu thuật.
 
Re: Biography

ADAM SMITH :p


Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7, 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học người Scotland. Bộ sách Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân tạo ra nguồn của cải của các dân tộc (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) là một trong những tác phẩm đầu tiên mà nghiên cứu về lối phát triển lịch sử của công nghiệp và thương mại châu Âu. Tác phẩm đó giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.

Adam Smith (1723-1790) Nhà kinh tế học và tác phẩm "Tài sản quốc gia"

Trong công việc tìm hiểu bản chất con người, bản chất của thiên nhiên và Thượng Đế, các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học… đã biểu lộ niềm tin của mình qua các tác phẩm. Hình ảnh của bản ngã (the self) đã thay đổi trong văn chương, chẳng hạn từ thời Shakespeare qua các giai đoạn lãng mạn và thời đại Victoria, tới chủ nghĩa cá nhân hiện tại. Cho nên muốn hiểu rõ các tác phẩm văn học, cần phải hiểu thêm các tư tưởng triết học, các khuynh hướng trí thức quan trọng qua nhiều thế kỷ. Đã có sự liên hệ giữa cách suy tưởng lý thuyết với các hình ảnh diễn tả trong văn chương. Nhờ lý thuyết về Kinh Tế Học của Adam Smith (1723-1790), Charles Dickens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Các tác phẩm về phân tâm học của Sigmund Freud đã dọn đường cho James Joyce và Virginia Woolf. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chế độ tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga xẩy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Đế Quốc Xô Viết sau trận Thế Chiến Thứ Hai.

1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của Thế Giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" (the Wealth of Nations) và nền triết học về “tài sản” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.

"Tài Sản của các Quốc Gia" là tác phẩm đầu tiên viết về ngành chính trị kinh tế học (political economy), đã thảo luận sự liên hệ giữa tự do và trật tự, phân tích các phương thức kinh tế (economic processes), tấn công hệ thống trọng thương (the mercantile system) của nước Anh bởi vì hệ thống này đã giới hạn nền tự do mậu dịch (free trade).

Tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" đã trình bày các vấn đề căn bản của trật tự xã hội và sự tiến bộ của con người trong một xã hội mà cá nhân đi theo con đường tư lợi (self-interest), đã sản xuất ra các mặt hàng mà các người khác cần mua. Người bán và người mua gặp nhau tại thị trường rồi nhờ thị trường mà có sự hòa hợp xã hội.

[sửa] Cuộc đời của Adam Smith.

Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của nhà Kinh Tế Học này.

Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành phố Edinburg, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Gypsies sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.

Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment). Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về Kinh Tế và Triết Học của ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới "Tiến Sĩ Hutcheson không bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học (self-education) để quán triệt các nền triết học cổ điển và đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.

Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lectures), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học (rhetoric) tới ngành chính trị kinh tế học (political economy). Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Quý Ông" (Gentleman 's Magazine) đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Tô Cách Lan".

Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo Sư Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy), một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo đức học (ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học.

Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm khoa trưởng. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Chính Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia".

Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" (human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi (self-interest) và tự bảo tồn (self-preservation). Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm "Các Tình Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia": “con người tự tìm kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn tay vô hình" (an invisible hand) … mà không ai biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường (market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.

Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (*)đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.

Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại Sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh Tế Học người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia" cho ông Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn sách được xuất bản.

Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith phải trở về London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm 1767. Vào năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.

Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một chức vụ rất nhàn, lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ông rất giàu có. Adam Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị ông ra lệnh đốt bỏ. Ông qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại Canongate và trên mộ chí của ông chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác giả cuốn sách "Tài Sản của các Quốc Gia".

[sửa] Thời kỳ Khai Sáng và tác phẩm "Tài Sản".

Thời kỳ Khai Sáng hay còn được gọi là thời đại của Lý Trí (the Age of Reason) là giai đoạn lịch sử bắt đầu sau Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ (The Glorious Revolution) tại nước Anh vào năm 1688 và chấm dứt trước Cuộc Cách Mạng Pháp 1789, một thế kỷ về sau. Thời kỳ Khai Sáng đáng nhớ không phải bằng năm tháng, mà bằng tên của các nhà triết học danh tiếng như Montesquieu, Voltaire, Condorcet, Descartes, Diderot, Rousseau … tại nước Pháp, Emmanuel Kant tại nước Đức, tại nước Ý có nhà sử học kiêm triết học Giambattista Vico và nhà luật học kiêm xã hội học Beccaria, tại nước Anh có John Locke, Edward Gibbson và Edmund Burke, tại Bắc Mỹ là Benjamin Franklin, còn đại diện cho miền Tô Cách Lan là David Hume và Adam Smith.

Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng bị ảnh hưởng sâu đậm vì các khám phá do ngành Vật Lý, chẳng hạn như định luật về sự rơi tự do của Galileo Galilei tại nước Ý, định luật về chuyển động và trọng lực của trái đất khám phá do Isaac Newton tại nước Anh… Nhờ Toán Học, các nhà khoa học đã tìm ra các định luật của thiên nhiên. Do căn cứ vào các phương pháp khoa học, vào cách quan sát và thí nghiệm, các tiến bộ quan trọng đã được thực hiện tại các bộ môn Toán Học, Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn, Cơ Học … và các nhà triết học chấp nhận ý tưởng của triết gia người Anh là Francis Bacon theo đó "kiến thức là sức mạnh". Kiến thức vì thế được biên soạn thành các bộ Từ Điển Bách Khoa. Các nhà triết học cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học và họ tin tưởng rằng phương pháp khoa học có thể áp dụng vào công trình tìm hiểu bản chất của con người. Nhiều bộ môn Khoa Học Xã Hội như Triết Học, Giáo Dục, Luật Pháp và Chính Trị Học đã được các nhà triết học khai phá, họ so sánh lý trí với sự ngu dốt, với các điều mê tín dị đoan và cách chấp nhận thẩm quyền của người dân, họ vạch ra các bất công xã hội và tấn công chế độ chuyên chế và phê phán giới cầm quyền, nhất là Nhà Thờ Cơ Đốc La Mã (the Roman Catholic Church) đã duy trì sự ngu dốt vì quyền lợi riêng tư của nhà thờ.

Các nhà triết học của thời kỳ Khai Sáng không phải là những kẻ vô thần (atheists). Họ tin tưởng Thượng Đế toàn năng nhưng mục đích của họ là trình bày rằng có thể điều tra được, tìm hiểu được số mệnh (destiny) của con người trên trái đất và họ không chịu chấp nhận niềm tin một cách thụ động do tôn giáo đặt ra. Các nhà lãnh đạo trí thức của thời kỳ này đã dùng các khẩu hiệu như giáo dục, làm sáng tỏ (clarification), phá vỡ điều huyền bí (demystification) trước các áp chế tinh thần.

Tới cuối thế kỷ 18, cách nhìn và cứu xét sự vật của các nhà triết học đã thay đổi. Lý trí không còn được chú trọng mà thay vào là "cảm xúc" (feeling). Trật tự, kỷ luật và cách kiểm soát (discipline, order & control) đã bị thay thế bằng sự đam mê, tính cá nhân và tính cấp thời (passion, individuality & spontaneity) và khi thời kỳ Khai Sáng chấm dứt, phong trào Lãng Mạn bắt đầu.

1776 là năm bắt đầu của một giai đoạn lịch sử mới. Vào thời điểm này, cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ đã diễn ra, cuộc Cách Mạng Pháp đang âm ỉ và tốc độ của cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tăng dần do phát minh về năng lực hơi nước và một số khám phá khác. Vào lúc này tại nước Anh, đời sống kinh tế của người dân nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền: giá cả ổn định, tiền lương của giới lao động thấp, sản phẩm được điều hòa, nền ngoại thương gồm cả nhập cảng và xuất cảng hoàn toàn do chính quyền điều khiển, các giai cấp thống trị phản đối các đề nghị phân phối tài sản, giáo dục chỉ được giành cho một thiểu số được ưu đãi, hình luật thì rất khắt khe và các quyền lợi chính trị của đa số dân chúng chỉ có về mặt lý thuyết.

Qua nhiều thập niên, giới quý tộc chủ đất đã nắm giữ chính quyền và hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia, đang đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất cảng, hạn chế nhập cảng bằng thuế cao, không cho đồng tiền ra khỏi xứ, tiền lương công nhân phải duy trì thấp và giờ lao động phải dài… và tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị Viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là thuyết "Trọng Thương" (mercantilism) với các niềm tin chính như sau: thứ nhất, các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy "vàng và bạc", và muốn có hai quý kim này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa, họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác, thứ hai, họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì bị giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất cảng nhiều sản phẩm kỹ nghệ, nhập cảng nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ.

Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của thuyết "Trọng Thương" thì sai nhầm và có hại. Ông đã bỏ ra nhiều năm quan sát trực tiếp các hoạt động kinh tế, nói chuyện với nhiều loại người liên hệ, đọc sách và suy ngẫm rồi bắt đầu phác thảo cuốn sách "Tài Sản" từ năm 1759, và sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách thứ hai này được xuất bản.

Tác phẩm thứ hai của Adam Smith có tên là "Tìm Hiểu Bản Chất và các Nguyên Do của Tài Sản của các Quốc Gia" (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations), gọi tắt là "Tài Sản của các Quốc Gia", hay "Tài Sản". Thực ra, tầm vóc bách khoa của bộ sách hai tập này không chỉ bàn về bộ môn Kinh Tế Học. Có nhà phê bình đã gọi tác phẩm là "Bộ sách lịch sử và phê bình nền Văn Minh của cả Châu Âu".

Bắt đầu tác phẩm bằng phần thảo luận về cách phân công lao động, tác giả đã cứu xét nguồn gốc và công dụng của tiền tệ, giá cả của các loại mặt hàng, lương bổng của công nhân, lợi nhuận, tiền thuê đất đai, trị giá của bạc, sự phân biệt giữa lao động sản xuất và lao động phi sản xuất. Sau đó là phần trình bày sự phát triển kinh tế của châu Âu kể từ khi Đế Quốc La Mã sụp đổ, các phân tích và phê bình chính sách thương mại và thuộc địa của các quốc gia châu Âu, lợi tức quốc gia, các phương pháp quốc phòng và điều hành luật pháp của các xã hội sơ khai, nguồn gốc và sự phát triển của các đạo quân tại châu Âu, lịch sử giáo dục vào thời trung cổ, sự phát triển các món nợ công (public debts) và cuối cùng là việc cứu xét các nguyên tắc thuế vụ và hệ thống lợi tức công (public revenue). Tại phần V của bộ sách, tác giả Adam Smith đã phác họa bốn giai đoạn (stages) chính của cách tổ chức xã hội: giai đoạn ban đầu gồm những người thợ săn thô sơ (rude state of hunters), giai đoạn thứ hai là nền nông nghiệp du mục (nomadic agriculture), giai đoạn thứ ba là nền canh tác phong kiến (feudal farming) và giai đoạn cuối cùng là sự liên hệ thương mại (commercial interdependence), và đi kèm với mỗi giai đoạn là các định chế (institutions) thích hợp với các nhu cầu của từng giai đoạn.

Luận đề chính của tác phẩm "Tài Sản" được căn cứ vào niềm tin rằng "mỗi con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi " (self-interest) mà điển hình là lòng ham muốn tài sản (desire for wealth). Các động lực ích kỷ là căn cốt của các hành động của con người và tác giả đã tin tưởng rằng tính ích kỷ cá nhân đã dẫn tới sự an lạc xã hội (society's welfare), rằng nếu mỗi người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, không ngừng, thì sẽ dẫn tới sự thịnh vượng của quốc gia. Người hàng thịt, người nấu rượu, người làm bánh mì chỉ vì tư lợi của họ mà khiến cho chúng ta có bữa cơm ăn. Adam Smith còn cho rằng sự phân công lao động và tích lũy tư bản đã dẫn tới nền kỹ nghệ mới. "Một bàn tay vô hình" dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể và về điểm này, Adam Smith đồng ý với Thomas Paine là "một chính quyền tốt nhất là loại chính quyền cai trị ít nhất".

Trong cách phân phối lao động, Adam Smith cho rằng nên phân chia tiến trình sản xuất thành các khâu đoạn nhờ đó gia tăng mức độ sản xuất. Trước vấn đề của chủ nhân và công nhân, Adam Smith đã viết: "giới công nhân muốn đòi nhiều, giới chủ nhân muốn trả ít" và tác giả đã có cảm tình với giới công nhân bởi vì lương bổng cao sẽ khiến cho người công nhân ham hoạt động hơn, chăm chỉ hơn và hưũ hiệu hơn, đồng thời tác giả còn cho rằng các luật lệ về thời gian học nghề là sự can thiệp bất công vào quyền lợi khi người công nhân ký khế ước làm việc, chọn nghề hay đổi nghề từ chỗ trả lương thấp tới nơi trả lương cao.

Phần chính của tác phẩm "Tài Sản" là quyển IV có tên là "Về các hệ thống kinh tế" (Of Systems of Political Economy). Ở đây, tác giả cứu xét hai hệ thống: hệ thống thương mại và hệ thống nông nghiệp và phần nông nghiệp chỉ dày bằng 1/8 của phần thương mại. Adam Smith đã làm phát triển các nguyên tắc "tự do kinh doanh" (the principles of laissez-faire) và tất cả các hoạt động kinh tế dẫn tới tự do mậu dịch (free trade) bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền thương mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể phát triển toàn diện.

Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách "Lịch Sử của Nền Văn Minh", Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng "Tài Sản của các Quốc Gia" có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.

Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương nên trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Nhà Kinh Tế Học Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người Cha của Nền Kinh Tế Mới"
 
Re: Biography

Hay quá :D khỏi phải search google :D
Đọc cái này bổ ích ra phết :)
 
Re: Biography

Mà sao chẳng thấy ai nhắc đến Người Việt nhỉ?




Hồ Chí Minh
Ho_Chi_Minh_1946_cropped.jpg


Hồ Chí Minh sinh 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 - 1969, kiêm Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của ông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ, và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam. Ông đồng thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Pháp và tiếng Nga.

Tuổi trẻ

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác.

Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.

Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 tháng thì bỏ khi nhận ra rằng phải học 3 năm mới thành nghề. Ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
Di sản
Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến.

Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật "Bác Hồ". Trong văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già dân tộc". Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông. Ông được thờ tại nhiều gia đình Việt Nam, cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở Thái Lan, Lào...và một số gia đình ở các nước khác như Na Uy.

Tuy nhiên, tại một số cộng đồng người Việt tại hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ, hình ảnh của ông bị phản đối mãnh liệt. Năm 1999, khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại Little Saigon, hàng vạn người Mỹ gốc Việt và cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tham gia biểu tình phản đối, gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ. Một cuộc triển lãm nghệ thuật về ông tại Oakland, California năm 2000 cũng bị hàng nghìn người biểu tình phản đối. Là một biểu tượng của chính quyền Việt Nam, hình nộm của ông thường bị đem ra treo cổ và hình ảnh ông bị chà đạp trong nhiều cuộc biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp, với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, ông được người dân ở những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi, kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Tại Berkeley, California, nơi có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhiều nhà hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là Công viên Hồ Chí Minh một cách không chính thức. Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên Xô, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica...Tượng đài ông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có La Havana (Cuba), Moskva (Nga), Zalaegerszeg (Hungary), Montreuil (Pháp), Calcutta (Ấn Độ) và Antananarivo (Madagascar).

Tưởng niệm
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông - từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước.

Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất Việt Nam. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm ông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là bến Nhà Rồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông đã xuống tàu "Đô đốc Latouche Tréville" ra đi tìm đường cứu nước, và Nhà tưởng niệm xây dựng năm 1970 ở quê nội của ông. Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh, chẳng hạn như ở Pháp. Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số đền, chùa và gia đình. (Xem thêm Danh sách các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt Nam)
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thị xã Sa Đéc

Nhằm tôn vinh ông, năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chiến dịch quân sự lịch sử xảy ra trên thành phố này, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và mở đầu thời kỳ thống nhất của Việt Nam cũng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tên ông còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; Giải thưởng Hồ Chí Minh dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. "Cháu ngoan Bác Hồ" là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên ông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Mọi tờ tiền giấy tại Việt Nam hiện nay đều in hình chủ tịch Hồ Chí Minh

Các tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành còn được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường, đường phố, trường học.

Hình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với quốc kỳ, tượng bán thân hoặc hình ông được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại Việt Nam.

Danh hiệu

Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. UNESCO đã tôn vinh ông là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông do "các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật", và ông "đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc [trên thế giới]". Tuần báo TIME của Hoa Kỳ bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20


Các câu nói nổi tiếng

* Không có gì quý hơn độc lập, tự do !
* Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
* Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
* Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?
* Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
* Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh.
* Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.
* Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
* Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi.
* Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?

Để biết thêm thông tin chi tiết,vui lòng đăng nhập http://vi.wikipedia.org/wiki/Hồ_Chí_Minh
 
Re: Biography

theo e thì bác hồ sai òi
vẫn có thứ quí hơn độc lập tự do đấy ah
 
Re: Biography

@ Thành: Em ơi chị thêm link vào tên các danh nhân trong bài viết đầu tiên của em và sắp xếp lại theo abc cho mọi người dễ tra cứu nhé ;).

Mọi người tích cực bổ sung thêm các nhân vật khác cho phong phú nhé :x, tớ sẽ update mục lục trong bài viết đầu tiên ^^. Thật ra mấy thông tin này nếu muốn chủ động tìm đọc cụ thể về một người thì google hay sách báo không thiếu, nhưng có những thứ chỉ đôi khi rảnh rỗi tạt vào đây đọc chơi thấy hay hay hay, tự nhiên lại thêm được nhiều điểu bổ ích ^^. Nếu được mọi người cho references ở dưới nhé ;) >:-D<.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Back
Bên trên