Thị trường chứng khoán và bàn tay hữu hình

Nguyễn Minh Hiền
(talawas)

New Member
*Nguồn: minh biện blog ( www.minhbien.org )

Minh Biện là một trang blog của tập thể các tác giả chuyên bình luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa (nhưng không có thể thao, chia buồn với các anh em thích đá bóng), giáo dục và khoa học. Vì là một trang blog, Minh Biện hướng tới các bài viết sôi nổi nhưng không nông nổi, hài hước không giống những blog đi trước (freakonomics chẳng hạn) trên tinh thần duy lý và tôn trọng sự thật khách quan.

Bài này viết với văn phong khá phổ thông, hi vọng mọi người thích ( nếu ai thực sự quan tâm thì có thể bỏ thời gian đọc hơn 100 cái comments bên dưới bài viết, có những comments rất giá trị http://www.minhbien.org/?p=236#comments )

Thị trường chứng khoán và bàn tay hữu hình
Nguyễn An Nguyên -- 06 tháng 03, 2008 -- Bản để in Bản để in

Thất bại của “giải pháp cung cầu”

VNindex từ đỉnh cao 1100 điểm đổ sụp xuống chỉ còn xung quanh 600 điểm sau bốn tháng ngắn ngủi kể từ 11/2007. Trong bốn tháng ấy, đã có sức ép ghê gớm từ nhiều bên có lợi ích liên quan đòi hỏi chính phủ phải can thiệp “cứu” TTCK, bằng cách “giảm cung” (thông qua việc hoãn tiến độ IPO các doanh nghiệp nhà nước), và mới đây là “tăng cầu” (thông qua việc cho Tổng công ty Quản lí vốn Nhà nước SCIC mua lại cổ phiếu trên thị trường). Những sức ép này đang thắng thế (IPO của nhiều doanh nghiệp lớn đã bị trì hoãn), và mới đây Thủ tướng đã ra Quyết định 319/TTg mở đường cho SCIC mua cổ phiếu để “kích cầu”.

Cái gọi là “giải pháp hạn chế cung” dù đã áp dụng vẫn không ngăn được VNindex sụp đổ, đơn giản là vì quy luật cung cầu không tồn tại trong TTCK (xem bài “Cung cầu chứng khoán: một quan niệm sai lầm”). TTCK chỉ có một quy luật vận hành là cân bằng “lợi nhuận kì vọng”: Khi lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu giảm so với trước hoặc so với các hình thức đầu tư khác (mua vàng, đầu cơ bất động sản, gửi tiết kiệm) thì giá của từng cổ phiếu giảm và ngược lại. Giá của mỗi cổ phiếu chỉ được quy định bởi chênh lệch giữa mức sinh lợi của doanh nghiệp đó với mức sinh lợi của hình thức đầu tư khác có mức sinh lợi cao nhất. Vì thế, nếu không bị hạn chế về thanh khoản, thì việc hoãn lên sàn các doanh nghiệp mới như đề nghị của trường phái “cung cầu chứng khoán” không thể tác động đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp hiện tại.

Sụp đổ hợp lý

Gần đây, một số nhà đầu tư (chẳng hạn, ngân hàng HSBC) cho rằng giá cổ phiếu đã ở mức hợp lý so với các nước cùng trình độ (P/E trên toàn thị trường là 13). Nhưng việc so sánh P/E của VN với các nước chỉ có ý nghĩa khi lãi suất ổn định ở mức thấp và không có khủng hoảng. Đồ thị dưới cho thấy tỉ lệ P/E trên thị trường Mỹ giảm rất mạnh trong các cuộc khủng hoảng.

030608-1832-thtrngchn1.png


Hiện tại, có nhiều yếu tố khiến nhà đầu tư tin rằng lợi nhuận kì vọng của chứng khoán sẽ giảm xuống trong 2008. Đầu tiên, lãi suất ngân hàng vừa qua tăng rất nhanh làm cho hình thức đầu tư cổ phiếu giảm nhanh sự hấp dẫn tương đối so với gửi tiền tiết kiệm. Hai là, lạm phát dự kiến tăng cao và có khả năng đẩy nền kinh tế vào tình trạng suy thoái sẽ ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp trên sàn (giá vốn tăng do lãi suất tăng, giá đầu vào tăng do giá nguyên/nhiên liệu tăng, giá trị thực của lợi nhuận giảm vì lạm phát, sức mua của người tiêu dùng giảm do thu nhập giảm v.v.). Ba là, nhiều doanh nghiệp trên sàn sau khi thu hút được số vốn khổng lồ từ TTCK đã đầu tư tràn lan vào bất động sản. Một khi thị trường nhà đất đóng băng (hệ quả của thu hẹp tín dụng) thì giá trị của các doanh nghiệp đó cũng tụt giảm.

Nếu Vnindex sụt giảm vì ba nguyên nhân trên, thì đó là cân bằng tất yếu của thị trường để phản ánh giá trị thực của các doanh nghiệp trên sàn, và việc cưỡng lại sự xuống dốc sẽ vô cùng tốn kém và không hiệu quả.

Thanh khoản và TTCK

Người viết bài này cho rằng, hiện tại, nếu VNindex xuống thấp hơn giá trị thực, thì chỉ có một nguyên nhân là: sự thiếu hụt thanh khoản cho các nhà đầu tư đã ngăn cản TTCK điều chỉnh về mức cân bằng.
Từ cuối 2007, chủ trương của NHNN siết tỉ lệ cho vay chứng khoán đã chặn đứng, thậm chí đảo chiều, dòng vốn đang đổ vào TTCK, (vì đa số các ngân hàng thương mại đã cho vay quá tỉ lệ). Tình trạng thiếu tiền mặt)của nhiều ngân hàng đầu năm 2008 đã khiến việc cho vay mới bị chững lại và lãi suất tăng vọt. Cộng thêm việc tỉ giá bị neo chặt, các ngân hàng không thể đổi USD cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là đa số các nhà đầu tư đều thiếu thanh khoản, người đang nắm thì muốn bán để có tiền mặt, người mua thì lại không có tiền mặt để mua, khiến giá chứng khoán giảm mạnh. Điều này tương tự như kết luận của nhà kinh tế trọng tiền Milton Friedman rút ra từ cuộc Đại khủng hoảng 29-33 ở Mỹ: việc thắt chặt tiền tệ quá nhanh sẽ làm sụp đổ TTCK và gây ra khủng hoảng kinh tế.

Bàn tay hữu hình SCIC có lợi và hại gì?

Trong các nền kinh tế phát triển, rất ít khi chính quyền can thiệp trực tiếp vào TTCK bằng cách mua cổ phiếu của doanh nghiệp trên sàn, trừ trường hợp nó có khả năng gây ra sụp đổ hệ thống tài chính-ngân hàng (như trường hợp Anh quốc hữu hoá ngân hàng Northern Rock).

Việc SCIC mua cổ phiếu trên TTCK có thể giải quyết vấn đề tâm lý ngắn hạn cho một số nhà đầu tư. Nhưng nó sẽ không thể có ảnh hưởng tích cực lâu dài hay căn bản lên TTCK: Nó không hề tác động đến cái động cơ vận hành của TTCK là lợi nhuận kì vọng, bởi vì nó không làm thay đổi kì vọng về các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm, mua vàng (là kết quả của chính sách tiền tệ). Nó cũng không hề thay đổi nguồn vốn hay khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp trên sàn (vì chỉ tác động đến thị trường thứ cấp). Cuối cùng, nó cũng không giải quyết được vấn đề thanh khoản của nhà đầu tư.

Lợi ích thì không rõ ràng, nhưng những hệ luỵ của việc Chính phủ can thiệp trực tiếp vào TTCK là nghiêm trọng và lâu dài:

Một là, việc nhà nước can thiệp vào TTCK sẽ bóp méo tín hiệu của thị trường vốn. SCIC sẽ dùng tiêu chí nào để xác định là chứng khoán đang ở dưới giá trị thực, trong khi giá thị trường chính là cái đáng lẽ phải phản ánh giá trị thực của chứng khoán? Làm sao một doanh nghiệp không có động cơ tối đa hoá lợi nhuận (thua về cả khả năng tính toán so với hàng triệu nhà đầu tư cả tổ chức và cá nhân, lẫn tính năng động tìm kiếm cơ hội) có thể thông minh hơn thị trường về giá trị thực của nó? Với sự tham gia của các quan chức cao cấp của Chính phủ (gồm cả bộ trưởng Bộ Tài chính, thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thứ trưởng Bộ Công thương) vào Hội đồng Quản trị của SCIC, trong trường hợp doanh nghiệp quốc doanh này gặp bê bối về mua bán cổ phiếu, uy tín của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Hai là, nếu diễn biến xấu trên TTCK kéo dài, việc mua cổ phiếu của SCIC có thể dẫn đến bội chi ngân sách và trầm trọng thêm vấn đề lạm phát. Lí do là để “cứu” khẩn cấp TTCK, thì SCIC phải bơm vào một lượng tiền rất lớn trong thời gian rất ngắn. Tổng giá trị thị trường (market capitalization) vào cuối 2007 đã lên tới khoảng 500 nghìn tỉ đồng (tuy đã mất đi khoảng một phần ba trong hai tháng qua). Tuy phản ứng ban đầu của TTCK trước cam kết “bảo kê” của SCIC là khá tích cực, kì vọng này sẽ còn thay đổi. Liệu SCIC có đủ tiền và có nên bỏ ra hàng chục nghìn tỉ đồng trong vài ngày hay vài tuần để “cứu” thị trường trong lúc chính Bộ Tài chính cũng đang thiếu tiền mặt để chi tiêu? SCIC hay Bộ Tài chính sẽ lấy tiền mặt với số lượng như thế ở đâu mà không làm khủng hoảng thanh khoản thêm trầm trọng, hay in thêm tiền để làm tăng lạm phát?

Ba là, dù có bịt được việc “xả hàng” của một số tổ chức đầu tư, thì việc SCIC giành lại quyền sở hữu một khối lượng lớn cổ phiếu sẽ đảo ngược quá trình cổ phần hoá (giao vốn vào khu vực tư năng động hơn). Việc này đồng thời làm chậm lại quá trình IPO vốn đã nhỏ giọt: SCIC sở hữu càng nhiều thì nó càng muốn tiến trình cổ phần hoá chậm lại để không làm “lụt” thị trường (đúng hơn là cạn kiệt thanh khoản).

Việc SCIC có quyền quá rộng trong việc mua cổ phiếu cũng tạo ra một khoảng trống cho sự thiên vị của SCIC với một số công ty nhất định. Nguy cơ này càng lớn khi SCIC được phép giữ bí mật về danh mục các cổ phiếu được mua, số lượng tiền bỏ ra để mua, thời gian mua v.v. Từ đây, giá cổ phiếu thay vì phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, lại phản ánh doanh nghiệp nào được chính quyền “ưu ái” bảo kê (bail out) mỗi khi gặp khó khăn. (Điều này đã từng xảy ra với các doanh nghiệp cánh hẩu của nhà độc tài Suharto trên thị trường chứng khoán của Indonesia). Các doanh nghiệp được “bảo kê” sẽ càng tự do hơn trong các khoản đầu tư của mình, vì biết “tội vạ đâu đã có SCIC gánh đỡ”.

Năm là, việc can thiệp vào TTCK sẽ khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước về quan niệm thị trường của Chính phủ. Nếu như TTCK, nơi thông tin đầy đủ nhất, người mua bán hiểu biết và linh hoạt nhất mà còn cần điều khiển, thì tất cả các thị trường khác đều cần có sự can thiệp vào giá của nhà nước! Hành động mà các nước phát triển coi như một cấm kị này có thể được diễn giải là một bằng chứng rằng Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế thị trường. Và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong các vụ kiện bán phá giá, vốn đang là rào chắn ghê gớm cho việc thâm nhập các thị trường phát triển.

Cuối cùng, việc SCIC -được Chính phủ tài trợ vốn- mua cổ phiếu để “cứu” thị trường, thực chất là dùng tiền đóng thuế của dân để “bảo hiểm rủi ro” cho một nhóm nhỏ nhà đầu tư giàu có, chủ yếu là các quỹ đầu tư nước ngoài và các “đại gia” trong nước. Điều này nếu kéo dài có thể gây nên mối bất bình về tính chất bình đẳng trong chính sách kinh tế của Chính phủ.

Kết luận:

VNindex tụt xuống mức 600 điểm là một cuộc sụp đổ (crash) của TTCK, nhưng mức sụt giảm là tự nhiên và đúng quy luật, trong tình trạng lạm phát tăng và lãi suất tăng. Muốn VNindex tăng, thì cách lâu dài và căn bản nhất là ngăn chặn lạm phát, xì hơi bong bóng nhà đất và hạ nhiệt nền kinh tế từ từ. Việc SCIC can thiệp vào TTCK ít khả thi, có thể phải trả giá đắt về chính sách vĩ mô, trong khi lợi ích của nó nếu có chỉ là ngắn hạn. Nếu có lí do để tin rằng VNindex thấp hơn giá trị thực, thì việc nhà nước nên làm trong ngắn hạn chỉ là giải quyết bài toán thanh khoản.

Phụ lục: Cung-cầu chứng khoán: một quan niệm sai lầm

Dường như có một sai lầm cơ bản nhưng phổ biến của nhiều nhà đầu tư VN và cả của nhà quản lý (cụ thể là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) là áp dụng “quy luật” cung cầu cho TTCK. Khái niệm “cầu” của hàng hoá thông thường được xây dựng dựa trên ích lợi mà chúng mang lại cho người tiêu dùng: Đứng trước một chiếc xe máy, mỗi người sẽ tính xem mình đỡ được bao nhiêu thời gian và sức lực dành cho việc đi lại. Nhu cầu tiêu dùng xe máy của mỗi người là tự thân và ổn định, mặc dù ích lợi thu được với từng người là khác nhau. Mỗi người sẽ chỉ mua xe máy nếu phần tiết kiệm thời gian và sức lực lớn hơn số tiền mà anh ta phải bỏ ra. Với mỗi mức giá, sẽ có một số người thấy đáng mua và một số người không. Giá càng rẻ thì càng nhiều người thấy đáng mua. Khi xe máy đi nhanh hơn, tiện lợi hơn thì nhiều người muốn mua hơn (cầu tăng).

Ngược lại, người mua và bán chứng khoán không có ích lợi tự thân nào từ “tiêu dùng” cổ phiếu (vì thế, “cầu” cổ phiếu theo đúng nghĩa là bằng không). Lý thuyết cung cầu không áp dụng được cho chứng khoán.

Thay vì cung cầu, lợi nhuận kì vọng chính là quy luật vận hành của TTCK. Nhà đầu tư cổ phiếu chỉ có một quan tâm duy nhất, là làm sao số tiền thu về từ cổ phiếu (cổ tức và giá bán lại) lớn hơn số tiền mua. Mỗi người chỉ mua cổ phiếu khi tin rằng giá hiện tại của nó nhỏ hơn thu nhập kì vọng (giá cổ phiếu cộng với cổ tức) (tức là giá cổ phiếu đang “rẻ”), và bán ra trong trường hợp ngược lại. Vì kì vọng của mỗi người lại khác nhau, nên họ mua bán với nhau trên TTCK. Khi số người tin rằng cổ phiếu đang “đắt” nhiều hơn số người cho rằng cổ phiếu đang “rẻ” thì giá cổ phiếu đi xuống, và ngược lại. Nếu không bị giới hạn về thanh khoản, việc có thêm nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp mới trên TTCK sẽ không thể ảnh hưởng đến giá trị của các cổ phiếu của các doanh nghiệp khác, bởi vì mỗi loại cổ phiếu đều có thu nhập kì vọng riêng của nó, không liên quan nhiều đến các cổ phiếu của doanh nghiệp khác.
 
Invisible hands cuối cùng vẫn mạnh hơn thoai. Invisible hands lúc nào cũng tồn tại. Tay hữu hình gì đó cố đung đưa kéo đẩy cuối cùng vẫn phải lo maximize profits, end up rơi vào trap của invisible hands.
 
Dạo này mình cũng đọc mấy cái này nhưng lười chẳng nhảy vào phản biện, viết 1 lần ở đây cho vui :D

Phản biện “sự sụp đổ hợp lý”
- Tác giả cho rằng lãi suất tiết kiệm cao đã hút 1 phần tiền từ chứng khoán, nhưng tác động đến đâu? Lợi nhuận và rủi ro của 2 hình thức này cách nhau quá xa. Những ng dám chịu mạo hiểm đầu tư CK ở VN ko phải là những ng chịu hài lòng với 12% 1 năm. Do vậy việc thay đổi 1 vài % lợi nhuận này chỉ có rất ít tác dụng hút vốn từ CK, nếu có sự rút ra, thì chủ yếu do lo ngại giá CP tiếp tục giảm sâu, hoặc đã bị lỗ nặng mà sợ hãi.

- Lạm phát tăng cao có khả năng đẩy kinh tế vào suy thoái và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp? Thực tế quan niệm cho rằng lạm phát làm giảm sức mua và các vấn đề liên quan mà tác giả đề cập là sai lầm phổ biến khi đánh giá về lạm phát nếu tính trên dài hạn (cái này đã được chứng minh trong sách về kinh tế, lạm phát chỉ gây ra các vấn đề như chí phí mòn giầy- shoeleather cost, chi phí thực đơn -menue cost, nhầm lẫn.....). Nó cũng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng tác động ko lớn đến mức khủng khiếp như cách hiểu thông thường vì các doanh nghiệp sẽ nhanh chóng điều chỉnh. Cái này đã có trong sách, tìm đọc là nhanh và chính xác nhất :D Đến nay chưa có ai cho rằng kinh tế VN có thể tăng trưởng dưới 7% chứ đừng nói là suy thoái.

- Nguyên nhân thứ 3 thì đồng ý với tác giả, nhưng còn ảnh hưởng lớn đến đâu thì sẽ xem xét tiếp.

Mục “thanh khoản và TTCK”

Câu hỏi là có thực chính sách tiền tệ đang bị thắt chặt quá mức? Điểm lại một số mốc liên quan: tháng 6 2007 nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi kì hạn dưới 12 tháng từ 5% lên 10% (trừ NH NN&PTNT). Đầu năm 2008 nâng tiếp lên 11%. Tháng 3 phát hành 20 300 tỉ tín phiếu bắt buộc, trong đó các NH quốc doanh mua 9000 tỉ, các NH TMCP chia nhau phần còn lại: ACB mua 1500 tỉ, STB mua 1200....

Chỗ này cần điểm qua 1 con số: trung bình mỗi quý năm 2007, ACB và STB tăng tổng tài sản tầm 12 000 tỉ => lượng tiền mua tín phiếu chỉ cỡ 1 tuần huy động của các NH này, các NH khác chắc cũng tương đương (nhưng nó đã được báo chí thổi phồng quá nhiều). Về dài hạn, lượng tiền này bị hút ra cũng sẽ làm giảm lượng huy động của các NH (vì nếu NH cho vay thì bằng các con đường khác nhau trở lại hệ thống NH, làm tăng tổng tài sản), tuy nhiên, ngay cả với trường hợp lý tưởng thì lượng tiền này cũng ko thể nhân quá 1/r (r là tỉ lệ dự trữ bắt buộc, xem lý thuyết nhân tiền của các NH), tức ko quá 1 quý huy động. Thực tế có thể chưa đạt đến lý tưởng mà sẽ trình bày tiếp sau.

Con số 1/r là kết quả của (1-r) + (1-r)^2 + ..... +(1-r)^n khi n tiến đến vô hạn. Nhưng khi n còn khá nhỏ thì sẽ không thể có kết quả lý tưởng đó. Vậy tại sao tôi lại cho rằng n còn rất xa mới đạt đến vô hạn?

Xem xét số liệu của các NH TM có thể thấy trong nhiều năm qua, tổng tài sản của các NH tăng ko năm nào dưới 50%. Đây ko thể là con số của lượng tiền được in ra và đưa thêm vào lưu thông.

Thứ 2 công thức trên thường được giải thích trong sách là các NH cho nhau vay, thực tế nếu vay liên NH thì ko thể nhân đến 1/r dc (dư nợ cho vay trên tổng tài sản của các NHTM thấp nhất cũng 40%). Chỉ có thể giải thích các NH cho vay ra bên ngoài rồi bằng các con đường khác nhau trở lại hệ thống NH mà nhân n vòng. NH ở VN mới chỉ phát triển hơn 10 năm, do vậy có cơ sở để cho rằng số vòng này còn xa mới đạt đến vô hạn và như vậy nó còn có thể tiếp tục tăng. Tăng trưởng tín dụng trong các năm qua luôn trên 30% cũng phù hợp với nhận xét này.

Nếu điều này đúng, ngay cả việc hút bớt tiền khỏi lưu thông và tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng chưa chắc làm giảm được lượng tiền M2 nếu tốc độ hút chậm hơn tốc độ tăng của n. Đây là điều khác với các nước phát triển khi n đã tương đối ổn định, và có vẻ TQ cũng phải đối mặt tương tự khi liên tục tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Mục tiêu của chính phủ VN năm nay cũng là tăng trưởng tín dụng ko quá 30%, chứ ko phải giảm bớt ngược lại lượng tiền như nhiều ng nghĩ.

Có thể nói mục tiêu tăng trưởng tín dụng ko quá 30% đã cho thấy mục tiêu là ko để tiền tệ thả lỏng, chứ ko phải thắt chặt ngược lại. Kết hợp với lý thuyết lạm phát ko đến mức là kẻ thù ko đội trời chung thì ko đến mức phải hy sinh quá nhiều tăng trưởng (tất nhiên nếu lạm phát cao và kéo dài thì cũng ko ổn).

Mục “Bàn tay hữu hình SCIC có lợi và hại gì?”

Tôi cho rằng việc nghĩ SCIC cứu thị trường là một quan niệm sai lầm, bởi chắc chắn ko ai có thể cứu 1 thị trường trừ chính nó trả về cân bằng. Việc SCIC tham gia chỉ có tác dụng hỗ trợ tâm lý đang hoảng loạn chứ ko thể nâng giá CP. Ng cầm tiền cũng là NĐT chứ ko phải chỉ ng đang cầm CP mới là NĐT. Vì vậy cái chính phủ cần là một thị trường ổn định chứ ko phải 1 thị trường có giá CP cao. Nếu hiểu điều này thì sẽ hiểu SCIC ko phải vào nâng giá CP, mà chỉ để những ng đang hoảng loạn tĩnh tâm đánh giá lại. Lượng tiền của SCIC cũng ko thể đủ cho 1 TTCK. Nếu coi chính phủ dại dột muốn nâng giá CP (điều ko thể với 1 thị trường như TTCK) thì sẽ thấy sai lầm, nhưng nếu ko đánh giá thấp họ thì sẽ thấy mục tiêu ổn định tâm lý lại ko quá xa vời. Nếu đồng ý với quan điểm này thì sẽ thấy các vấn đề như “bảo kê”, bội chi ngân sách, đảo ngược CPH.... ko phải vấn đề vì SCIC sẽ ko mua nhiều đâu, chỉ vừa phải thôi để còn cân bằng với các lợi ích khác :D Mặt khác cũng ko thể phủ nhận ai đó cho rằng giá CP hiện giờ quá rẻ. Quan điểm SCIC mua bây giờ với mục đích đầu tư có vẻ ko dễ phản bác đến thế.

Cũng cần lưu ý khi cho rằng tự thị trường điều chỉnh trả về cân bằng. Một con lắc lò xo bình thường sẽ tự trả về cân bằng, nhưng nếu biên độ đi quá giới hạn chịu đựng của lò xo thì sẽ có những tổn thương. Thay đổi cái điểm cân bằng này thì ai cũng hiểu là ko thể, cái có thể làm là tránh cái biên độ đi quá giới hạn tổn thương này. Khủng hoảng 1930 ở Mĩ có lẽ vì nguyên nhân này nhiều hơn là các lý do trong bản thân nó. Hồng Kông và một số nước khác cũng đã phải có những biện pháp để can thiệp khi cần.....

VNindex tụt xuống mức 600 điểm là một cuộc sụp đổ (crash) của TTCK, nhưng mức sụt giảm là tự nhiên và đúng quy luật, trong tình trạng lạm phát tăng và lãi suất tăng.

Báo chí và các “chuyên gia” VN thì chỉ toàn phân tích định tính, rất ít khi chịu định lượng nên các kết luận thường được giải nghĩa theo kiểu “rơi tự do”. Lạm phát tăng vài %, lãi suất tăng vài %, tiền tệ mới chỉ bị giảm tốc độ tăng, nhưng thị trường CK tụt 40% cũng vẫn tại mấy lý do trên!!! Và gần như chắc chắn có tụt thêm vài chục % nữa thì cũng vẫn vì những lý do đó :)) Mĩ tăng trưởng chỉ 3%, có nguy cơ suy thoái (tức kì vọng tương lai thay đổi cả trăm %) thì thị trường giảm khoảng 15%, mỗi khi giảm 1-2% đã coi là “chao đảo”. Trong khi VN giảm tốc độ tăng trưởng từ 9% xuống 8.5% (vốn cái phần lẻ chẳng ai thèm nhớ làm gì) thì đã chao đảo với vài chục %, và vẫn giảm tiếp với cái kiểu “hợp quy luật ko kèm con số” thế kia 8-} Tất nhiên nó cũng có thể do trước đây lên quá cao, nhưng kết luận như đúng rồi của khá nhiều ng ủng hộ quan điểm này thì ứ cần biết.

Nếu cũng dùng con số để so sánh: tăng trưởng Mĩ giảm vài %, lạm phát dc cho là cao cũng chắc chắn ko quá 5%, giá vàng từ năm ngoái đến giờ đã tăng 50% thì sẽ không ngạc nhiên khi FED giảm lãi suất xuống 2.25% mà giá vàng lại tụt 10% và $ tăng giá so với các đồng tiền khác.
 
bài này có lâu rồi nhưng mình chỉ toàn đọc qua,vì thấy nó vô cùng nhảm nhí.Chú này là tiến sỹ ở Mỹ,nhưng phát ngôn cứ như đạt giải Nobel đến nơi,tự cho mình khôn hơn tất cả các chuyên gia khi phát ngôn câu:''TTCK chỉ có một quy luật vận hành là cân bằng “lợi nhuận kì vọng”: Khi lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu giảm so với trước hoặc so với các hình thức đầu tư khác (mua vàng, đầu cơ bất động sản, gửi tiết kiệm) thì giá của từng cổ phiếu giảm và ngược lại.''
không hiểu chú này tốt nghiệp từ cái trường KT nào ra mà dám bảo ko có quy luật cung cầu trong chứng khoán.''lợi nhuận kỳ vọng'',đúng,bởi vì đầu tư chứng khoán là mua hôm nay bán tương lai,nhưng cũng chỉ là 1 trong những quy luật vận hành thị trường,cung-cầu cũng là một quy luật quan trọng.Nếu nói về nguyên nhân khiến ttck giảm sâu trong thời gian qua,có thể đưa ra 5 lý giải sau:
-tâm lý tháo chạy
-chính sách bất cập
-sự kỳ vọng lợi nhuận giảm
-cung cầu
-áp lực bán ra cp cầm cố
Còn SCIC,nên coi đó là hỗ trợ về tâm lý thôi,hiệu quả đến đâu thì chưa biết,nhưng nhìn 1 tuần vừa qua là thất bại.Trong lúc này việc giảm biên độ có lẽ còn hay hơn
 
Ổng nói:
"'TTCK chỉ có một quy luật vận hành là cân bằng “lợi nhuận kì vọng”: Khi lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu giảm so với trước hoặc so với các hình thức đầu tư khác (mua vàng, đầu cơ bất động sản, gửi tiết kiệm) thì giá của từng cổ phiếu giảm và ngược lại.''
cũng có sai đâu, khi mà cổ phiếu A và B, cổ phiếu A expected là có higher profit thì investors sẽ đổ về mua cổ phiếu A. Giống như thế nếu cổ phiếu higher profit hơn bất động sản và vàng thì cổ phiếu sẽ được chọn. Cung cầu ở đây là vốn thôi. Investors biết là nó có lời nhưng không đủ vốn để đầu tư. Lúc đó mới nói đến cổ phiếu phát hành nhiều mà không có tiền mua. Nhưng vốn thì vô cùng vô tận, trong nước, nước ngoài, nếu thực sự là có thể đẩy lợi nhuận lên thì vốn khắp nơi đổ về không thể thiếu cầu được. Vì vậy ổng mới nói cung cầu ở đây vô nghĩa, khi nói là cứ cho cổ phần hóa nhiều quá thì cung sẽ quá lớn là không đúng.

Giá cổ phiếu phụ thuộc vào lợi nhuận kì vọng của công ty không hiểu là sai chỗ nào?
 
Em chưa thấy việc giảm biên độ có điểm gì hay cả. Ngược lại nó chỉ làm cho nhà đầu tư hoang mang, nghi ngờ vào sự phục hồi của thị trường.
Còn cái quan điểm "lợi nhuận kì vọng" của ông kia thì em cũng đồng ý :)
 
:D chú Dược, vốn vô cùng vô tận thật, nhưng mà khả năng lưu thông phải được tính đến, chú không thể nào đưa toàn bộ vốn của thế giới về VN trong nháy mắt dù là thị trường Việt Nam cực kỳ lãi, và vì vậy vốn không phải là vô cùng vô tận xét trên khía cạnh đó. Khi vốn thì có hạn mà cổ phiếu, trái phiếu, vàng, bất động sản v.v ... nhan nhản ra thì tất nhiên là sẽ có cái đi xuống. Giá vàng thì theo giá thế giới, bất động sản thì chỉ có hạn (đất không thể nào sinh sôi nảy nở ra được) cho nên giá "khó" đi xuống hơn. Nếu chứng khoán cứ dồn dập lên sàn với mật độ lớn thì chắc chắn là giá sẽ bị ảnh hưởng. Cái tương quan cung cầu trong trường hợp này nó là như thế.

Giá chứng khoán phụ thuộc lợi nhuận kỳ vọng của công ty: đúng, nhưng chưa đủ. Ngoài việc lợi nhuận kỳ vọng, giá cổ phiếu còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như kế hoạch sát nhập với công ty khác, xu hướng chung của ngành nghề mà cổ phiếu đó nằm trong v.v... Tất cả các yếu tố này tóm gọn lại trong một khái niệm là quan điểm của nhà đầu tư. Mỗi người sẽ có quan điểm khác nhau và vì vậy có người mua, kẻ bán => thị trường do đó mời tồn tại. Nếu mọi thứ rõ ràng như 1+1=2, nói ví dụ nếu ai cũng nghĩ là lợi nhuận (giá cổ phiếu) sẽ đi lên thì sẽ không ai bán cả.

Chả biết chú viết cái bài được post đầu tiên kia học cái gì ra, nhưng mà nếu hoàn toàn tách rời khái niệm tương quan cung cầu ra khỏi "thị trường" (dù là thị trường gì) thì quả là một cái nhìn rất ... cá tính và mới mẻ ... nhưng mà như vậy sẽ tự làm khó cho các lập luận của mình.

BAT.
 
Cái giảm biên độ này các báo phân tích chủ yếu nói đến ổn định tâm lý nhà đầu tư, còn theo anh thì đẩy chỉ là phần nổi, mục đích chính nằm ở điểm khác.

Đến thời điểm này có thể khẳng định 100% các món nợ cầm cố đã vượt qua vùng an toàn, đẩy các NH vào tình thế phải giải chấp. Đến cuối 2007 vay cầm cố khoảng trên 10 nghìn tỉ, nếu thời điểm này các khoản vay vẫn còn khoảng chừng đó, thì mỗi lần sàn 5% sẽ đẩy áp lực giải chấp 500 tỉ, bằng tổng lượng mua của sàn HOSE. Các NH thì đương nhiên sẽ bán giá sàn, nên có thể khẳng định bất kể có ai hoảng loạn lao theo hay ko thì cũng chắc chắn sàn (cái này tạm tính gần đúng, chi tiết thì có thể giảm bớt, nhưng cũng gần như chắc chắn sàn). Cái này sẽ tạo thành vòng xoáy, NH này giải chấp lại đẩy các NH khác giải chấp và thị trường cắm đầu đi xuống bất kể các điều kiện khác. Để ngăn lại bắt buộc phải ngăn cái giải chấp này, nhưng ko thể bằng cách vận động mồm. Trước đây anh nghĩ đến phải dùng cách như Hồng Kông, đưa NHNN ra nhận thế chấp thay cho các NHTM. Nhưng cách thay biên độ này cũng là một giải pháp cho vấn đề này. Việc này sẽ giúp NH này xả ko đẩy NH khác cũng phải xả theo, và nó cắt đc vòng xoáy, lúc này thì các biện pháp vận động mồm mới có thể thực thi dc. Chỉ cần tối đa 3 ngày là các đợt xả sẽ cắt cơn, trả thị trường về cung cầu thực của nó, lúc đấy ko lên mới lạ với cái giá hiện nay. Thực tế đã dc kèm theo cái vận động nên đã cắt nhanh hơn. Với phân tích này, chắc ko có chính phủ thì miễn bàn tất cả các loại cung cầu hay giá trị gì cả.
 
:D chú Dược, vốn vô cùng vô tận thật, nhưng mà khả năng lưu thông phải được tính đến, chú không thể nào đưa toàn bộ vốn của thế giới về VN trong nháy mắt dù là thị trường Việt Nam cực kỳ lãi, và vì vậy vốn không phải là vô cùng vô tận xét trên khía cạnh đó. Khi vốn thì có hạn mà cổ phiếu, trái phiếu, vàng, bất động sản v.v ... nhan nhản ra thì tất nhiên là sẽ có cái đi xuống. Giá vàng thì theo giá thế giới, bất động sản thì chỉ có hạn (đất không thể nào sinh sôi nảy nở ra được) cho nên giá "khó" đi xuống hơn. Nếu chứng khoán cứ dồn dập lên sàn với mật độ lớn thì chắc chắn là giá sẽ bị ảnh hưởng. Cái tương quan cung cầu trong trường hợp này nó là như thế.

BAT.

Mình vẫn chưa hiểu làm sao bạn lại đi đến kết luận là giá chứng khoản sẽ giảm nếu có thêm nhiều công ty niêm yết. Đoạn phân tích về đất đai với vàng của bạn mình cho là không có liên quan, vì lên sàn hay không lên sàn thì theo bạn vàng với nhà đất nó vẫn cứ vậy, giá vàng theo giá thế giới, còn đất thì không sinh sôi nảy nở được. Thế thì rõ ràng việc đề cập đến giá vàng với giá đất không giúp gì đến lập luận về giá chứng khoán cả.

Bây giờ tóm lại bạn giải thích lại cho mọi người là tại sao nếu chứng khoán lên sàn dồn dập thì lại ảnh hưởng đến giá? Đoạn này thì mình chưa có hiểu. Cổ phiếu đâu có phải hàng hóa thông thường, kô mua đc cổ phiếu này thì mua cổ phiếu khác?
 
Bây giờ tóm lại bạn giải thích lại cho mọi người là tại sao nếu chứng khoán lên sàn dồn dập thì lại ảnh hưởng đến giá? Đoạn này thì mình chưa có hiểu. Cổ phiếu đâu có phải hàng hóa thông thường, kô mua đc cổ phiếu này thì mua cổ phiếu khác?

Em nghĩ cái này có thể đúng trong 1 cái short term nhất định khi mà thị trường vốn ko được linh hoạt (nói cách khác nếu mà xem xét nguồn vốn đầu tư là không đổi, hoặc thị trường đã bảo hòa)
IPO thì giá chắc chắn là giá thấp hơn giá trên thị trường thứ cấp (assumption là company is healthy), thì người ta sẽ tranh mua. Khi vốn chảy về cổ phiếu mới (với cái expectation là price của nó sẽ tăng) thì giá của thằng cũ phải giảm thôi.


Cái này là 1 cách giải thích, mặc dù em ko nghĩ nó đúng ở thời điểm hiện tại. Nhưng sau cái vụ giảm biên độ này thì biết đâu đấy.

Tuy nhiên, khi mà nhà nước đã quyết tâm giải quyết lạm phát trước thì có thể coi việc giảm biên độ cũng là một biện pháp tạm thời khá nhân đạo với thị trường rồi

HM
 
Em chỉ biết sơ qua về thị trường CK nhưng cũng xin có chút ý kiến như sau (sai ở đâu mong các anh chị chỉ bảo thêm :D):
+ Ko thể phủ nhận quy luật cung cầu ko tồn tại trong thị trường CK nhưng tác động của quy luật cung cầu lên thị trường tùy từng điều kiện mà có ảnh hưởng đáng kể hoặc ko đáng kể !
Với giả thiết nguồn vốn có hạn và ko đổi:
+ Khi nhà đầu tư đặt kì vọng cao vào thị trường cũng là lúc quy luật cung cầu tác động đáng kể nhất đến thị trường ! Nghĩa là những vận động lên xuống của nguồn cung chứng khoán sẽ ảnh hưởng ko nhỏ tới giá CK !
+ Ngược lại nếu kì vọng chung = 0 thì những biến động của nguồn cung CK hoàn toàn ko ảnh hưởng tới giá cả CK.
+ Ý em là khả năng tác động đến giá của quy luật cung cầu tỷ lệ thuận với độ kì vọng vào thị trường của nhà đầu tư.
Theo nhận định đó em cho rằng trong bối cảnh hiện nay: giá chứng khoán giảm liên tục, nhà đầu tư hốt hoảng tìm cách tháo chạy, kì vọng vào thị trường tuy chưa đến nỗi = 0 nhưng cũng ngấp nghé tạm gọi là thấp ! Như vậy hiệu quả của chính sách ngừng các đợt lên sàn của CK lúc này hòng hạn chế bớt sự tụt giá cũng thấp tương ứng !
 
tác giả bài này là Nguyễn An Nguyên, tiến sĩ Rice University ( Houston - Texas ), chắc bác Cường này MBA, MD, BA mấy trường Ivy League nên mới phát ngôn ngạo nghễ thế ?

nếu bác pro thật thì mời bác vào minhbien post comment, ở đó có lẽ cũng ko đến nỗi thiếu các PhD, Dr, Prof để "hầu" bác

em thì chỉ đọc cho biết thôi :D ( em sẽ thử copy- paste mấy cái phản biện lên trên minhbien xem tác giả respond thế nào )
 
anh chả là cái gì cả,nhìn khóa của anh thì biết,anh mới chỉ là cử nhân trường KTQD.Nhưng anh thấy chưa có ông nào dám khẳng định 1 cách chắc chắn chỉ có 1 quy luật duy nhất vận động trên ttck,mà lại còn đi phủ nhận cả quy luật cung cầu.Nếu vậy chả hóa ra,ông Nguyên này khôn hơn cả dàn hội đồng tư vấn tài chính quốc gia,khôn hơn cả HSBC sao?
lên minhbien.org thì thấy tác giả cũng bị phản đối ầm ầm chứ có gì đâu :-??
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bây giờ tóm lại bạn giải thích lại cho mọi người là tại sao nếu chứng khoán lên sàn dồn dập thì lại ảnh hưởng đến giá? Đoạn này thì mình chưa có hiểu. Cổ phiếu đâu có phải hàng hóa thông thường, kô mua đc cổ phiếu này thì mua cổ phiếu khác?

bác nào trước nói đúng là cung-cầu có ảnh hưởng khác nhau ở những thị trường khác nhau.Thực ra việc tăng cung chỉ tính đến khi có IPOs,hay các công ty phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn,còn việc đưa DN lên sàn cũng ko ảnh hưởng gì đến cung.Nhưng tại tt VN,nói thế này cho đơn giản,mình là nhà đầu tư nhỏ lẻ,ko đủ vốn lớn chơi OTC,bây giờ có thêm công ty lên niêm yết,mình đương nhiên có thêm nhiều lựa chọn hơn,đương nhiên tăng cầu với cp này và giảm cầu với các cp khác.
Còn để giải thích cho quy luật cung cầu ở tt VN,mình đưa ra ví dụ thế này:một đợt IPOs VCB vừa rồi,đưa ra đấu 975 tỷ mệnh giá với giá đấu 100k,vậy là nếu bán hết sẽ cần khoảng 10000 tỷ.Tiền ở đâu?đừng trông chờ vào nước ngoài vì giới hạn room.Nguồn tiền các tổ chức các quỹ,nhưng có phải cứ đợt IPOs nào họ cũng in được tiền đi mua được đâu.Nguồn tiền trong dân thì kẹt,vì ko thể đem cp đi cầm cố mà mua được do 03.Vậy thì muốn có tiền mua VCB,các tổ chức,các quỹ,các công ty,dân đầu tư phải bán cp ra,mà bán cp ra tức là càng nhiều hàng,gặp lúc ko ai mua nữa thì giá giảm.Đấy mới chỉ là 1 VCB,vừa rồi chúng ta có Sabeco,Habeco,theo kế hoạch trong 2 năm sắp tới sẽ phải cổ phần hóa BIDV,Incombank,mobifone,vinafone,viettel,vietnam airlines...nếu tính 1 cách''tương đối'' ra thì sẽ cần 1 lượng tiền khoảng 60000-100000 tỷ để tiêu hóa hết lượng cung này.Vốn hóa của thị trường cp VN hiện nay chỉ có 60000 tỷ.
ah quên,comment về cái vụ giảm biên độ :D đây chỉ là giải pháp tạm thời ngăn chặn tt giảm quá sâu và tạo điều kiện cho các công ty CK,ngân hàng giải quyết đám cp cầm cố.Nhưng có điều,từ hôm giảm biên độ tới giờ,cầu thì nhiều nhưng cung lại hết :-?? các ngân hàng ko bán nữa chăng?hay họ bán hết rồi?hay họ thấy giá chưa vào vùng nguy hiểm đến mức phải bán?
 
Chỉnh sửa lần cuối:
tác giả bài này là Nguyễn An Nguyên, tiến sĩ Rice University ( Houston - Texas ), chắc bác Cường này MBA, MD, BA mấy trường Ivy League nên mới phát ngôn ngạo nghễ thế ?

nếu bác pro thật thì mời bác vào minhbien post comment, ở đó có lẽ cũng ko đến nỗi thiếu các PhD, Dr, Prof để "hầu" bác

em thì chỉ đọc cho biết thôi :D ( em sẽ thử copy- paste mấy cái phản biện lên trên minhbien xem tác giả respond thế nào )

tác giả cũng học trường HN-Ams khóa 92-95
 
Can thiệp lành mạnh và vai trò của Chính phủ (1)

Tác giả Vũ Quang Đông, NCS chuyên ngành tài chính, tiền tệ - ĐH Georgetown, Mỹ
(CafeF) - Chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường với một điều kiện tiên quyết: lợi ích mang lại được kỳ vọng lớn hơn nếu để thị trường tự điều chỉnh.
>Thị trường chứng khoán và bàn tay hữu hình

Nói chung, sự can thiệp của chính phủ đựơc coi là cần thiết với các nền kinh tế mới chưa có nội lực chịu đựng với các luồng vốn quốc tế lớn và cũng một phần hỗ trợ tăng trưởng nhờ ngoại lực.

Với các nền kinh tế phát triền, chính Mỹ, nền kinh tế hàng đầu thế giới vừa mới đây cũng đã phải viện đến sự can thiệp của Cục Dự Trữ Liên Bang (FED), mua lại 200 tỷ USD nợ địa ốc quá hạn với mục tiêu ổn định thị trường tài chính.

Gần đây chính phủ Anh cũng phải mua lại hàng loạt các ngân hàng tư nhân trên con đường phá sản. Rõ ràng sự lây lan từ một mắt xích nhỏ ra toàn bộ nền kinh tế là hoàn toàn có thể.

Kinh nghiệm thành công của Hồng Kông đối phó với khủng hoảng Châu Á 1997, với việc mua lại rất mạnh lượng đầu cơ cổ phiếu bị bán tháo khi khủng hoảng xảy ra nhằm ổn định thị trường chứng khoán và tài chính là một bài học đáng xem xét.

Sự phục hồi của thị trường chứng khoán sau suy thoái thường diễn ra rất lâu trong các nền kinh tế đang phát triển mặc cho các hoạt động kinh tế phục hồi khá nhanh sau đó.

Thị trường chứng khoán Trung Quốc đã phải vật lộn bốn năm 2001-2005 mới bắt đầu phục hồi được sau những chính sách không can thiệp khi thị trường tuột dốc không phanh không có lý do vào những năm 2000-2001. Lưu ý rằng, giai đoạn đó kinh tế Trung Quốc đang phát triển rất nhanh.

Như vậy Chính phủ có thể có hoặc không can thiệp vào thị trường với một điều kiện tiên quyết: lợi ích của sự can thiệp mang lại được kỳ vọng lớn hơn nhiều so với chi phí của cả nền kinh tế phải bỏ ra nếu để cho thị trường tự điều chỉnh.

Vấn đề còn lại của những người làm chính sách chính là: khi nào nhận thấy cần can thiệp và cách thức can thiệp.

Nhìn lại sự can thiệp của SCIC

SCIC tham gia thị trường chứng khoán trong thời điểm vừa qua và hiện tại không phải là ngoại lệ và có tiền lệ đi trước ủng hộ. Hành động này cũng không có gì trái với quy luật kinh tế và vận hành của thị trường chứng khoán.

Trong kinh tế học hiện đại, tài sản là bất kể thực thể nào có thể lưu giữ được giá trị và thực thi được quyền giao dịch trong tương lai. Do vậy, chứng khoán, tiền, bất động sản, rượu quý hiếm, kim cương, vàng,..đều có thể được coi là tài sản (Krugman và Obstfeld, trang 317) .

Trên bất kỳ một thị trường nào, việc diễn ra hành vi trao đổi tài sản bởi vì các tài sản đó có cung và có cầu, tức là có người bán và người mua và cung cầu vẫn được hình thành từ giá trị ích lợi mang lại cho mỗi đơn vị tài sản bán ra (cung) và mua vào (cầu) . Quy luật cung cầu trên thị trường chứng khoán vận động tương tự như trên thị trường ngoại hối và thị trường vàng.

SCIC tham gia vào thị trường chứng khoán hoàn toàn không có gì là trái với quy luật cung cầu vì SCIC tham gia theo đúng giá cả của thị trường. SCIC có thể bán mà cũng có thể mua.

Quy luật cung cầu không bị bóp méo về bản chất mà bị bóp méo do hiểu sai về bản chất: tức là SCIC không chỉ tham gia thị trường để mua nhằm nâng đỡ cầu (chuyển dịch đường cầu đi lên) hoặc bán nhằm nâng đỡ cung (dịch chuyển đường cung) và cũng hiểu là SCIC sẽ có mức giá kỳ vọng đầu tư nhất định chứ không mua bán bằng bất cứ giá nào.

Do vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng UBCK vừa đá bóng, vừa thổi còi hoặc Chính phủ can thiệp thô bạo vào thị trường chứng khoán vì SCIC tham gia dưới một khung pháp lý thiết lập trước và UBCK khác với SCIC.

Chúng ta cũng tránh hiểu lầm vừa đá bóng, vừa thổi còi vì bản thân SCIC là doanh nghiệp nhà nước chứ không phải cơ quan quản lý giám sát thị trường

Chi phí và lợi ích của hành vi can thiệp của SCIC

Các lý thuyết cũng như thực tiễn nghiên cứu cho thấy ba kết quả quan trọng.

Thứ nhất, thị trường thứ cấp là vô cùng quan trọng, quyết định đến sự tồn tại của thị trường sơ cấp và do vậy ảnh hưởng đến sức khỏe tăng trưởng của nền kinh tế.

Thứ hai, sau khi cổ phần hoá thì các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Thực tiễn cổ phần hoá ở Việt Nam trong nhiều năm qua cho thấy điều đó.

Thứ ba, việc chuyển đổi cổ phần hoá trong một thị trường chứng khoán chưa phát triển đầy đủ hoặc thiếu ổn định sẽ làm lợi cho một bộ phận nhỏ các thành phần có sẵn tiềm lực tài chính trục lợi. Ngay cả khi kết quả cuối cùng của “doanh nghiệp” là như nhau nhưng hiệu quả của hiệu ứng phân phối thu nhập qua cơ quan quản lý nhà nước bị triệt tiêu.

Chúng ta nhìn nhận vấn đề này như thế nào trong mối tương quan của các nhóm lợi ích. Chúng ta không bàn đến điểm thứ nhất vì rất rõ ràng và không thể phủ nhận. Hai điểm sau cần nhìn thận trọng và kỹ càng trong kế hoạch ngắn và dài hơi của Chính phủ Việt Nam với nền kinh tế.

Điểm thứ hai về ích lợi của cổ phần hoá là rõ ràng và thực tế chứng minh ở Việt Nam trong thời gian qua là các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi đã hoạt động hiệu quả.

Việc càng chuyển đổi sớm, sẽ làm cho động lực tăng trưởng mạnh mẽ hơn và là sức kéo đối với sức tăng trưởng dài hạn. Kết quả cuối cùng của cổ phần hoá là doanh nghiệp được chuyển đổi hình thức chủ sở hữu. Nếu chúng ta không chỉ quan tâm tới kết quả cuối cùng thì câu hỏi tiếp theo đặt ra sẽ là: ai là người tham gia sở hữu doanh nghiệp (những người nắm giữ cổ phiếu hiện tại) trong hơn 80 triệu dân số Việt Nam.

Điểm thứ ba chính là nội dung trả lời cho câu hỏi trên: những người có tiền và những người đầu cơ với kỳ vọng lợi nhuận sau này.

Lợi ích của những người còn lại, những người không thể có được tiềm lực tài chính tham gia cổ phần hoá (nông dân, giáo viên, sinh viên,..) là gì khi mà họ cũng là người “sở hữu” “các doanh nghiệp Nhà nước”.

Câu trả lời chính là “thặng dư” thu lại được sau khi cổ phần hoá và sử dụng nguồn thặng dư này nhằm thúc đẩy tăng trưởng ở những nơi cần tăng trưởng. Do vậy lợi ích từ thặng dư vốn và sử dụng thặng dư này là vô cùng quan trọng là kênh tái phân phối cho toàn bộ nền kinh tế bên cạnh kết quả cuối cùng là doanh nghiệp được cổ phần hoá.

Điểm thứ ba cần phân tích kỹ hơn trong điều kiện của Việt Nam và các bài học từ quá khứ còn nóng hổi để cho thấy kết quả cho câu hỏi đặt ra: so sánh chi phí và lợi ích và từ đó cho thấy SCIC đang làm lợi cho ai trong kế hoạch của Việt Nam.

Kinh nghiệm chứng khoán gần đây ở Việt Nam (giai đoạn 2002-2004), Trung Quốc (2001-2005) và Thái Lan (1997-2007) cho thấy tại các nền kinh tế có sức chịu đựng yếu hoặc thị trường chứng khoán phát triển chưa hoàn chỉnh, sẽ mất rất nhiều thời gian để thị trường có thể vực dậy sau suy thoái.

Có lẽ thị trường chứng khoán Việt Nam cũng sẽ cần thời gian dài như vậy để phục hồi nếu rơi vào suy thoái nặng nề một thời gian dài.

Khi đó mặt bằng giá mới trong các kế hoạch IPO tới đây sẽ ở mức giá thấp và mức độ tham gia của người dân không nhiều khi rủi ro thanh khoản và bóng ma lởn vởn của suy thoái vẫn còn trong khi nước ngoài và các nhóm lợi ích nhỏ với tiềm lực tài chính lớn là người hưởng lợi nhiều nhất khi thị trường phục hồi trở lại (như của Trung Quốc).
Trong khi đó, theo cam kết Việt Nam phải tiến hành hàng loạt các cổ phần hoá cho đến năm 2010, tức là còn khoảng 2 năm để thực hiện. Nếu quá trình đi xuống của thị trường chứng khoán xảy suy thoái thì chắc chắn rằng quá trình cổ phần hoá vẫn diễn ra nhưng sẽ không đạt được kết quả tổng thể tốt nhất vì cần phải xem thêm điểm thứ ba ở trên có đạt được tối ưu hay không.

Do khuôn khổ trang tin tức nên chúng tôi có biên tập lại bài viết và bỏ đi các chú dẫn. Toàn văn bài viết của tác giả Vũ Quang Đông chúng tôi sẽ đính kèm cùng với kỳ 2 bài viết của tác giả cho những độc giả có nhu cầu tham khảo.
Kỳ sau: Các kịch bản cho TTCK Việt Nam

Vũ Quang Đông
http://cafef.channelvn.net/News/200846103127134/can-thiep-lanh-manh-va-vai-tro-cua-chinh-phu-1.chn
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nói chung thì thị trường hoạt động được (việc mua-bán diễn ra được) là do người mọi người có các quan điểm khác nhau. Và vì vậy các vấn đề liên quan đến kinh tế thường có nhiều cách giải thích khác nhau mà thường là chẳng có cách nào đúng tuyệt đối hoặc sai tuyệt đối.

Trên minhbien đúng là có nhiều bác học rộng, tài cao, nhưng nói ví dụ như bác Dr.Tran, có vẻ như quá tâng bốc tư bản (điển hình là Mỹ). Nền kinh tế Mỹ cũng đang lao đao bỏ xừ ra, tỉ lệ thất nghiệp tăng chóng mặt, vậy mà bác ý phân tích như thể nước Mỹ cố tình làm thế vì như vậy có lợi hơn hay sao ý :(

Em Hiền: em post ý kiến của mấy người ở HAO lên đó làm cho tự nhiên mấy người bị mắng oan ;))

BAT.
 
Nghe bị mắng nhảy vào xem mà chả thấy ý gì :D
 
dạo này mấy bác tu nghiệp nước ngoài được dịp thi nhau viết phân tích bình luận.Quan điểm thì cũng khác nhau nhưng cũng là kênh tham khảo tốt.Như trước đây có bác Huỳnh Thế Du post bài VCB giá 40k bị dân chửi lên chửi xuống,giờ nhìn lại thấy đúng thật :p
Mọi người đọc thử bài này và cho nhận định.Khá bi quan.Nhưng cá nhân em cho là cách tiếp cận của tác giả về việc tăng cung tiền dẫn đến nguy cơ lạm phát lên tới 50% không đúng lắm.
vụ minhbien.org bị chửi thì đúng là cũng tức thật,nhưng các bác ấy toàn pro rồi cãi sao được.Anh em ta cứ trao đổi thảo luận thẳng thắn trong HAO thôi.
VIỆT NAM ĐỒNG ĐANG Ở ĐÂU VÀ SẼ ĐI VỀ ĐÂU

Những số liệu được công bố cho biết trong 3 năm từ 2005 đến 2007 tăng trưởng GDP của Việt Nam là 27% (tạo ra thêm khoảng 434 ngàn tỷ đồng giá trị sản phẩm quốc nội) nhưng lượng cung tiền lại tăng tới 135%. Điều này có nghĩa rằng nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn hơn gấp nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên. Nếu lượng tiền đó được lưu thông hết vào thị trường thì sẽ tạo ra khả năng lạm phát lên đến 80% trong quãng thời gian này.

Thế nhưng con số lạm phát danh nghĩa từ 2005 đến 2007 đã được công bố là 27,6% (2005: 8,4%, 2006: 6,6%, 2007: 12,6%), như vậy mức độ lạm phát thêm 52,4% nữa sẽ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào từ đầu năm 2008 trở đi. Nếu loại trừ các yếu tố lạm phát không do tiền tệ (giá đầu vào tăng, kỳ vọng của người dân, v.v..) trong con số 27,6% nêu trên thì mức độ lạm phát tiềm tàng còn cao hơn 52,4% nhiều. Con số này chưa xảy ra vào cuối năm 2007 nghĩa là có trên 600 ngàn tỷ đồng (tương đương 52,4% GDP của năm 2007) đã được phát hành nhưng đang bị ghim giữ bởi một số cá nhân và tổ chức nào đó chưa đẩy cho lưu thông vào thị trường.

Tiền đồng đang ở đâu?

Người dân Việt Nam không có thói quen giữ tiền đồng làm dự trữ an toàn, trong tình hình lạm phát tăng nhanh thì biện pháp này lại càng không được lựa chọn. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì luôn trong tình trạng cần vốn, phải đi vay. Các ngân hàng thương mại không có lý do gì cầm giữ một lượng tiền đồng lớn mà không cho vay ra để phải gánh chịu lãi suất huy động trừ các khoản dự trữ bắt buộc. Khả năng duy nhất là một lượng lớn tiền đồng đang bị ghim giữ bởi các quỹ đầu cơ (hedge fund) buôn chứng khoán tại Việt Nam.

Cuối năm 2006 đến cuối năm 2007 đô-la Mỹ bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới, lãi suất của nó liên tục giảm; trong thời gian đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách duy trì tỷ giá tiền đồng thấp; đầu năm 2007 nước ta chính thức gia nhập WTO. Vậy là đã hội đủ các yếu tố cần để tạo thời cơ tuyệt vời cho bầy thú điện tử sừng mềm – cách gọi của Thomas Friedman dành cho các quỹ đầu cơ tài chính trong thời đại toàn cầu hóa – tấn công trục lợi nhanh tại Việt Nam. Các hedge fund mau chóng được thành lập và huy động vốn bằng đô-la Mỹ với lãi suất thấp để đầu cơ vào Việt Nam.

Những tháng cuối 2006 đến 2007 các quỹ này đã rót khoảng 160 ngàn tỷ đồng (tương đương với 10 tỷ đô-la Mỹ) vào thị trường chứng khoán, bơm giá cổ phiếu tăng đến chóng mặt, tạo ra một ma lực cuốn hút người dân đổ tiền vào cổ phiếu. Ước tính đã có hơn 350 ngàn tỷ đồng bị hút vào chứng khoán từ nguồn tự có, vay mượn và thế chấp của người dân. Giá cổ phiếu ít thì tăng vài ba lần, nhiều thì đến vài chục lần, vượt xa hoàn toàn khả năng tạo ra giá trị thực tế của nó.

Khi mọi người đã đạt đến cơn say ghim giữ cổ phiếu bởi giấc mộng làm giàu nhanh thì tai họa ập xuống. Nhưng tai họa không chỉ đến một lần. Mỗi khi các cổ phiếu được đầu cơ bị bán ra ồ ạt để thu lợi, chỉ số chứng khoán sụt giảm thì ngay sau đó sẽ xuất hiện những thông tin hỗ trợ từ chính phủ, từ nước ngoài và được tuyên truyền quá nhiệt tình bởi các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống. Người dân lại được hâm nóng bằng những hy vọng mới, bầy thú tiếp tục nhồi tiền làm mồi nhử, cổ phiếu lại lên giá, dân lại hồ hởi mua vào. Cái vòng xoáy hút – nhồi ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt năm ngoái đến nay. Tiền trong dân tuôn ra ngày càng nhiều, guồng máy hút – nhồi này lại càng tăng công suất, các ngân hàng trong nước càng nhiều nguy cơ.

Kết quả cuối cùng như thế nào thì giờ đây ai cũng thấy, nhưng thật đáng tiếc là chính phủ vẫn không chịu nhìn thấy, vẫn tiếp tục bị thao túng bởi những kẻ cơ hội để ra những quyết sách tiếp tay cho bầy thú điện tử. Tổng công ty SCIC dễ dàng tuôn ra 5 ngàn tỷ đồng để gọi là “cứu” chứng khoán nhưng thực tế là giúp cho những con thú điện tử bán ra những cổ phiếu sắp chết để mua vào những cổ phiếu có tiềm năng thực với giá rẻ mạt, chuẩn bị cho một sự thâu tóm.

Còn nhớ vào đầu năm 2007, khi mà chứng khoán đang trong giai đoạn bị làm giá bởi bầy thú để đầu cơ trục lợi, đã có ý kiến đề nghị SCIC nhanh chóng bán ra số lượng cổ phần của các công ty niêm yết mà tổng công ty này đang nắm giữ để giảm sốt cho thị trường, tăng lượng tiền dự trữ của chính phủ để dự phòng cho người dân đang bị cơn say ma lực. Là một cổ đông lớn nhất trên thị trường, nắm giữ một lượng lớn cổ phiếu của rất nhiều các công ty niêm yết có trị giá vốn hóa đến gần 50 ngàn tỷ đồng vào lúc cao điểm, SCIC hoàn toàn đủ sức làm đối trọng để chống những hành vi lũng đoạn thị trường, làm cho nó phát triển lành mạnh. Nhưng họ đã hoàn toàn bất động, trái hẳn với sự năng động xông vào “cứu” chứng khoán vừa rồi.

Giờ đây, khi mà hàng triệu người đã trở về với “cái máng lợn” thì những con thú điện tử sừng ngắn đã tích lũy được những khoản lời kếch xù, ít thì cũng bằng số vốn bỏ vào, nhiều phải đến một vốn bốn lời. Ngược lại, giá trị tài sản của SCIC đã bốc hơi đến vài chục ngàn tỷ đồng, thế nhưng họ vẫn đang tiếp tục “ôm” vào những cổ phiếu sắp chết. Hiện nay các chỉ số chứng khoán đã lùi về thấp hơn mức trước khi bầy thú tham gia vào thị trường, điều này đồng nghĩa với mấy trăm ngàn tỷ đồng không tự mất đi mà chỉ được dịch chuyển từ túi người dân và túi nhà nước vào túi bầy thú.

Các quỹ đầu cơ này đang kiểm soát một lượng tiền đồng khoảng 500 ngàn tỷ và được giữ tại các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trong khi mức dự trữ trong dân đang dần cạn kiệt. Và đây chỉ mới là khúc dạo đầu của một kế hoạch. Sau giai đoạn chứng khoán bị làm giá rồi rơi tự do, sẽ đến giai đoạn tiền đồng bị làm giá. Đồng tiền quốc gia của 86 triệu dân đã bắt đầu bị lũng đoạn.

Tiền đồng đi về đâu?

Để hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài tăng vọt trong năm 2007, ngân hàng Nhà nước đã được lệnh phát hành thêm tiền đồng vượt mức an toàn để mua đô-la Mỹ. Lý thuyết này sẽ khả thi nếu như nền kinh tế trong nước hấp thụ được lượng vốn ngoại đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh làm ra thêm của cải cho xã hội, dòng vốn được lưu thông thì ngân hàng Nhà nước dễ dàng hút tiền đồng về nhanh chóng để tránh lạm phát. Nhưng sẽ thật là mạo hiểm và vô trách nhiệm khi những nhà quản lý vĩ mô không nhìn ra và tiên liệu những tình huống ngược lại như thực tế đã diễn ra.

Áp dụng cách thức này trong lúc các điều kiện cần để tạo ra thời cơ tuyệt vời cho bầy thú điện tử đầu cơ đã hội tụ, chính là đưa đến điều kiện đủ cho một cuộc tấn công lũng đoạn có thể bắt đầu. Có nhiều chỉ trích rằng ngân hàng Nhà nước đã không tích cực hút tiền về nên làm lạm phát mạnh, nhưng cần hiểu là không thể thực hiện được điều đó khi mà chính ngân hàng Nhà nước đã tự đặt mình vào bẫy, để quyền điều tiết tiền đồng cho bầy thú kiểm soát.

Luồng vốn đầu tư gián tiếp tập kích ồ ạt vào chứng khoán nhưng hầu như chẳng được đưa vào đầu tư thực sự, nó chạy lòng vòng từ người này qua người khác theo cái vòng xoáy hút – nhồi để cuối cùng quay trở lại túi của bầy thú với trị giá được nhân lên nhiều lần. Các doanh nghiệp niêm yết huy động vốn xong lại tiếp tục đổ vào chứng khoán, chẳng có bao nhiêu tiền từ nguồn này được đưa vào đầu tư mở rộng kinh doanh tạo thêm sản phẩm cho xã hội.

Rất nhiều các lãnh đạo doanh nghiệp niêm yết vô trách nhiệm còn tiếp tay cho bầy thú điện tử lừa cổ đông để cùng hưởng lợi. Một tỷ lệ nhỏ tiền văng khỏi vòng xoáy của bầy thú, vào túi những kẻ tiếp tay. Số vốn này cuối cùng được đầu cơ vào bất động sản hoặc được cất giữ an toàn tại ngân hàng nước ngoài. Còn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2007 chỉ thực hiện được một phần tư so với đăng ký do những rào cản hành chính, yếu kém hạ tầng và thiếu thốn nguồn nhân lực được đào tạo. Triển khai đầu tư chậm, dòng vốn lưu thông ì ạch thì tiền đâu mà ngân hàng Nhà nước hút vào.

An sinh của gần 86 triệu dân hiện nay đang phụ thuộc hoàn toàn vào sự rộng lượng của “những con sói”. Nếu vài trăm ngàn tỷ đồng đang bị ghim giữ được tung ra đổi thành đô-la Mỹ thì lạm phát sẽ đẩy người dân đến thảm họa. Lượng đô-la này nếu bị đảo chiều – chuyển ra khỏi Việt Nam – thì toàn bộ dự trữ ngoại hối của quốc gia sẽ bốc hơi trong tích tắc nhưng cũng chỉ là muối bỏ bể trước sự thâm hụt cán cân thanh toán và thương mại quốc tế trầm trọng. Một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất không thua gì vụ giá–lương–tiền hồi giữa thập niên 80 của thế kỷ trước sẽ nổ ra ngay sau đó. Tiền đồng – VND sẽ mất giá và rơi tự do.

Ngay đầu năm 2008, rất nhiều các chuyên gia và tổ chức nước ngoài đệ trình lên chính phủ các giải pháp nâng giá tiền đồng so với đô-la Mỹ, thắt chặt tiền tệ, gia tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Các giải pháp này lẽ ra đã phải được khuyến nghị để thực hiện từ giữa 2006 nhằm chống nguy cơ tấn công của bầy thú điện tử trước khi gia nhập WTO, giảm tăng trưởng ảo của nền kinh tế, kiểm soát lạm phát để kéo dần lãi suất ngân hàng xuống nhằm thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh thực thụ, nhờ đó nền kinh tế sẽ được tăng trưởng dần theo hướng có chất lượng bền vững.

Thật tiếc rằng các giải pháp vĩ mô trong 2006 – 2007 đi theo hướng hoàn toàn ngược lại, các nguy cơ không những không được tháo gỡ mà còn bị làm cho trầm trọng hơn. Chiến lược tăng trưởng nhờ thu hút đầu tư nước ngoài để gia tăng xuất khẩu đã ngăn cản việc nâng giá tiền đồng hợp lý nhằm gia tăng sức mua và nhu cầu nội địa – tức là gia tăng mức sống của người dân, một yếu tố quan trọng để tăng trưởng bền vững.

Việc duy trì tiền đồng yếu trong lúc đô-la Mỹ mất giá trung bình khoảng 20% so với các ngoại tệ khác trên thế giới chỉ tạo ra những sức hút ngắn hạn cho các nhà đầu tư nước ngoài khai thác lợi thế giá rẻ nhờ bảo hộ tỷ giá của nhà nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh nhưng đa số là nhập khẩu nhanh những công nghệ lạc hậu vào Việt Nam rồi khai thác nhân công giá rẻ, nguyên liệu rẻ để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng lợi lớn, lợi kép nhờ tỷ giá. Những khoản lợi nhuận này được để bên ngoài Việt Nam bằng cách khai tăng giá nhập thiết bị và vật tư phục vụ xuất khẩu (thuế suất nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp). Giá trị còn lại trong nước chỉ là tiền công và nguyên liệu rẻ mạt, đi kèm với môi trường bị hủy hoại do công nghệ lạc hậu, và sự suy yếu sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.

Đã có những cảnh báo về các nguy cơ rối loạn kinh tế lẫn xã hội nếu luồng vốn ngoại không cân đối làm suy yếu nội lực trong nước. Nhưng sự tuyên truyền ầm vang không mệt mỏi của các phương tiện thông tin đại chúng ca ngợi sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư nước ngoài, tô hồng viễn cảnh sáng sủa của nền kinh tế đã át hẳn những tiếng nói có trách nhiệm. Dân chúng tránh sao được sự ảo tưởng và rơi vào vòng xoáy ma lực. Nhiều đề xuất, khuyến nghị chính phủ cần xem xét lại chính sách thúc đẩy xuất khẩu kiểu này nhưng kết luận cuối cùng là càng phải tăng mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu.

Nhưng sự thật trớ trêu là càng xuất khẩu kiểu đó thì nhập siêu càng lớn. Lý do là sức mua của toàn dân sụt giảm nghiêm trọng do tỷ giá tiền đồng thấp hơn thực tế, mà nhu cầu thì ngày càng tăng lên. Trong khi đó lại hoàn toàn thiếu vắng các chính sách hỗ trợ cho việc đáp ứng các nhu cầu nội địa, biểu thuế suất nhập khẩu hàng ngàn mặt hàng (đặc biệt là nông sản) giảm xuống do gia nhập WTO. Lượng nhập khẩu tăng lên là đương nhiên để đáp ứng các nhu cầu trong nước. Giá nhập khẩu cũng phải tăng mạnh do 2 tác động kép của tỷ giá tiền đồng thấp và giá cả thế giới tăng.

Nhập siêu 2007 phi mã đến 12,5 tỷ đô-la Mỹ (hơn 2,5 lần mức 2006) là vẫn còn may mắn. Nếu dầu thô thế giới không tăng giá để mang thêm về cho Việt Nam gần 2,5 tỷ đô-la Mỹ (40 ngàn tỷ đồng) từ xuất khẩu trong 2007 thì tình hình sẽ còn tồi tệ hơn nhiều. Thế nhưng người dân đã không được hưởng gì từ khoản thặng dư của tài nguyên quốc gia này sau khi chính phủ quyết định cắt bỏ 10 ngàn tỷ đồng bù giá xăng dầu trong nước. Sức mua của người dân bị ép giảm sút nặng nề để tăng lợi thế cho đầu tư nước ngoài và xuất khẩu mà ở đó chỉ một nhóm nhỏ các nhà xuất khẩu, chủ yếu từ nước ngoài hưởng lợi.

Giờ đây khi mà tiền đồng đã mất giá thực sự do lạm phát tiền và nội lực trong nước suy kiệt thì các giải pháp nâng giá tiền đồng lại được thực hiện. Lại một cái bẫy. Quyền lợi lại thuộc về nước ngoài. Đầu tháng 3/2008 ngân hàng Nhà nước mới yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc lên thêm 1% (tương đương khoảng 10 ngàn tỷ đồng) và phát hành tín phiếu bắt buộc trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng; chỉ hút hơn 30 ngàn tỷ đồng mà đã làm cả hệ thống tài chính ngân hàng điêu đứng, náo loạn đua nâng lãi suất để động viên người dân chuyển đổi ngoại tệ thành tiền đồng gửi vào ngân hàng. Tiền đồng trở nên khan hiếm, đô-la Mỹ bị mất giá.

Người dân lại bị cuốn hút vào một cuộc chơi mới của bầy thú điện tử. Các quỹ đầu cơ này đang cần đổi tiền đồng sang đô-la Mỹ, một tỷ giá đô-la Mỹ thấp sẽ rất có lợi cho họ. Tiền đồng bị siết chặt, biên độ tỷ giá đô-la Mỹ được nới lỏng. Đô-la Mỹ rơi xuống gần 15,5 ngàn đồng/USD nhưng bán cũng không ai mua. Trong tuần thứ ba của tháng 3/2008 này bầy thú điện tử đã tung hơn 30 ngàn tỷ đồng để mua vào khoảng 2 tỷ đô-la Mỹ. Ngay lập tức lạm phát gia tăng thêm 3%, đạt mức kỷ lục 9.2% trong chưa đầy 3 tháng đầu năm 2008. Cùng lúc, các ngân hàng chuẩn bị giảm lãi suất huy động.

Cái vòng xoáy hút – nhồi, tăng lên – giảm xuống sẽ được lặp lại nhiều lần như chứng khoán, đến khi mà bầy thú đã nắm trong tay một lượng lớn đô-la Mỹ thì sức mua của tiền đồng sẽ rơi tự do không phanh. Chỉ số giá tiêu dùng CPI sẽ tăng thêm cỡ 50% nữa, con số này chưa bao gồm những tác động của việc tăng giá đầu vào và sự mất niềm tin của dân chúng. Yếu tố niềm tin này có thể dẫn đến sự sụp đổ không ai có thể lường hết được, nó sẽ vượt quá nhiều lần mọi tính toán kỹ thuật nếu như người dân nhận ra mình đã bị lừa.

Thâu tóm và thôn tính

Nhưng mục tiêu của bầy thú không chỉ đơn giản như vậy. Bây giờ có lẽ chính phủ đã nhận ra được những nguy cơ của lạm phát sẽ tác động khủng khiếp thế nào đến sự bất ổn xã hội. Nếu không muốn cuộc khủng hoảng này bùng nổ ngay trong năm 2008, chính phủ phải thương lượng mua lại khoản tiền đồng khổng lồ của bầy thú. Quá trình thâu tóm đang bắt đầu.

Nhưng tiền đâu để mua khi mà dự trữ ngoại hối của quốc gia quá yếu ớt. Ngay cả có huy động được mọi nguồn lực để có đủ số tiền này thì bầy thú sẽ nói họ không cần đô-la Mỹ vì họ có thể mua nó dễ dàng từ thị trường. Họ muốn quyền kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những tập đoàn được hưởng đặc quyền và đầy lợi thế của nhà nước. Các doanh nghiệp này đã được bảo hộ chặt chẽ trong các điều khoản gia nhập WTO để không chịu sức ép cạnh tranh lớn khi hội nhập. Nhưng giờ đây chúng sẽ được trao quyền kiểm soát chi phối bằng sở hữu đa số thông qua các hiệp định song phương đang được đàm phán vội vã.

Dân chúng đừng vội mừng vì hy vọng vào sự tốt lên của các doanh nghiệp này sau khi có bàn tay của nước ngoài. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy trong một đất nước mà thiếu vắng các chiến lược để tạo ra lợi thế quốc gia trong một hệ thống toàn cầu hóa, và nguồn nhân lực thì thiếu kỹ năng được đào tạo đúng mức, cộng với tham nhũng chi phối các chính sách nhà nước thì bầy thú điện tử sẽ chỉ dùng các doanh nghiệp khổng lồ trong nước được bảo hộ để khai thác thị trường nội địa, buộc người dân phải trả giá cao để có siêu lợi nhuận. Hiệp hội các nhà sản xuất ô-tô (VAMA) vừa vận động nâng thuế nhập khẩu xe hơi để “chống nhập siêu” là một minh chứng cụ thể cho việc đó.

Áp lực đang được gia tăng lên rất mạnh để các điều khoản đảm bảo cho việc thâu tóm dễ dàng đạt được. Bầy thú đang nhả tiếp tiền đồng ra đổi lấy đô-la Mỹ khiến nó lên giá, lạm phát tiếp tục tăng vọt. Trong tình hình này có lẽ những điều kiện cần để thâu tóm sẽ phải hoàn tất trong vòng trên dưới 2 tháng nữa. Từ nay đến đó chứng khoán sẽ tiếp tục hoành hành để gây rối và gia tăng áp lực đàm phán. Đến khi mọi việc được ký kết thì tới lượt bất động sản sẽ được thổi bùng lên, giá trị thật giá trị ảo sẽ lại điên loạn lên một lần nữa – một cuộc chơi mới theo bài cũ. Nó sẽ tạo ra bất ổn đến cuối năm, không chỉ để trục lợi mà còn nhằm lũng đoạn dễ dàng các chính sách vĩ mô để phục vụ cho những kế hoạch tiếp theo.

Nhà nước nếu không cẩn thận thì sẽ bị những kẻ cơ hội tiếp tục thao túng để bơm ra lượng tiền đồng khổng lồ đã thu hồi về nhờ bán rẻ tài sản toàn dân. Trong lúc rối ren, thật giả lẫn lộn thì không khó gì để viện ra những lý do nghe xuôi tai để làm được việc ấy. Lúc đó sẽ không còn gì có thể cứu vãn được nữa. Đó chính là sự kết thúc.

Nhưng đấy cũng là khởi đầu của sự thôn tính.

Cộng sinh trong toàn cầu

Đất nước ta đang thực sự rất nguy kịch, tiến thoái lưỡng nan mà chỉ có sức mạnh của toàn dân mới có thể giúp vượt qua được. Người dân cần được chia sẻ những thông tin thật để lường trước những khó khăn xấu nhất. Người dân cần được tạo niềm tin từ sự chân thật để cùng nhà nước tìm ra những biện pháp thoát hiểm. Từ trước đến nay dân chúng bị cuốn hút vào những cuộc chơi mà mình không những không có được thông tin đầy đủ mà còn bị làm sai lệch.

Trong khi đó bầy thú thì không thiếu bất kỳ thông tin gì nhờ lấy được từ các định chế tài chính quốc tế như ngân hàng Thế giới (WB), quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Chính phủ phải cung cấp định kỳ cho họ. Thông tin quốc gia là một loại tài nguyên quốc gia quan trọng hàng đầu, nó càng quan trọng hơn trong thời đại ngày nay. Sự thất bại thuộc phía người dân là tất yếu.

Kinh tế học không phải là môn khoa học tự nhiên như toán học, vật lý. Nó là một khoa học dựa vào hành vi con người và hướng đến con người dù rằng nó dùng các công cụ toán học để mô phỏng và phân tích. Các tính toán lý thuyết kinh tế sẽ không có giá trị gì nếu không gắn nó với việc hiểu ứng xử và động lực của con người.

Không thể điều hành vĩ mô một nền kinh tế thị trường thành công bằng bàn tay hữu hình của chính phủ, vì kinh tế thị trường vốn được vận hành theo qui luật của bàn tay vô hình – cách mà các nhà kinh tế học gọi tên một cơ chế thúc đẩy sự vận động kinh tế thông qua việc tác động vào động lực con người. Thật tiếc là các thế lực bên ngoài đã áp dụng cách này thật nhuần nhuyễn ở Việt Nam.

Chỉ khi nào những người cầm cân nẩy mực hiểu được dân, biết được điểm mạnh của dân, nhìn được điểm yếu của dân, cảm được nỗi đau của dân, hạnh phúc vì niềm vui của dân thì mới có thể xây dựng được những chính sách hợp lòng dân. Còn không thì cho dù là lý thuyết nào đi nữa, được ủng hộ bởi những tổ chức danh giá đến đâu đi nữa, dựa vào mô hình thực tế thành công của thể chế nào đi nữa cũng không thể tránh khỏi sự thất bại.

Trong một đất nước mà sự phát triển dân chủ còn rất nhiều hạn chế, nhà nước ở đó phải thương dân như con thì mới có thể xây dựng một nền kinh tế mạnh, xã hội vững chắc. Đầy tớ mà có trách nhiệm thì thật là hiếm hoi, mà dù có trách nhiệm thế nào thì cũng không bao giờ có tình thương với chủ.

Cái giá của một nền kinh tế trọng ngoại như nước ta sẽ còn những tác hại rất lâu dài. Sẽ không có một thần dược ngoại nào có thể chữa ngay khỏi bệnh. Chỉ có niềm tin của dân, sức mạnh tập hợp của toàn dân trong lẫn ngoài nước mới có thể tạo ra một nội lực đủ sức đề kháng với sự tấn công tiêu cực của ngoại lực, rồi tiến tới trung hòa cộng sinh với nó. Lúc đó đất nước mới có thể phát triển vững bền.

Chỉ khi nào nền kinh tế đất nước hội nhập một cách cộng sinh với hệ thống toàn cầu hóa thì lúc đó mới có thể tránh khỏi những cuộc tấn công như vậy. Người ta không thể đánh vào chính mình. Thật buồn là chúng ta đã tự làm như thế. Hội nhập mà không tạo ra những lợi thế tương hỗ, ràng buộc trong một guồng vận hành khốc liệt của toàn cầu hóa thì không khác gì tự biến mình thành một cái hố hứng rác thải của cái cỗ máy ấy mà thôi.

Tham nhũng và sụp đổ

Hơn lúc nào hết, chính phủ phải nhìn thẳng vào sự thật cho dù nó khắc nghiệt đến mức nào. Khủng hoảng toàn diện một cách trầm trọng là không thể tránh khỏi. Tránh né sự thật, trì kéo mua thời gian bằng cách vay mượn tương lai để tạm qua năm tháng hiện tại sẽ chỉ làm cho nó trầm trọng hơn mà thôi. Sự khốn cùng của dân chúng sẽ càng tồi tệ. Nền kinh tế nước ta từ nhiều năm nay đã tăng trưởng theo kiểu vay mượn tương lai cho thành tích hiện tại. Cuộc khủng hoảng này sẽ là một điểm dừng phải có để chấm dứt cái hệ thống vận hành sai qui luật này.

Trái qui luật nhưng nó vẫn tồn tại một thời gian khá dài chính là nhờ tham nhũng. Tham nhũng tạo ra động lực và bị biến thành công cụ cho một nhóm nhỏ những người cầm quyền và bầy thú điện tử. Quyền tạo ra tiền, tiền biến thành quyền, quyền cần có thành tích để củng cố. Thành tích không thể thật vì tham nhũng nhưng phải được tuyên truyền và thổi phồng làm người dân ảo tưởng, chấp nhận chịu đựng vì hy vọng vào những tương lai tốt đẹp mà chính quyền hứa hẹn. Nhưng niềm tin không thể được xây dựng trên những gì giả tạo. Trong sấm Trạng Trình có câu:

Phú quí hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Thật đúng với thời cuộc. Sự giàu có (phú quí) ở những nơi đô thị (hồng trần) chỉ là ảo (mộng). Đến khi dân chúng rơi vào nghèo khổ cùng cực (bần cùng) thì sự thật (bạch) sẽ phơi bày (phát sinh). Sự sụp đổ niềm tin có sức tàn phá khủng khiếp. Nếu nó không được dẫn dắt bằng lòng nhân ái và quyền lợi dân tộc thì sức mạnh đó sẽ bị lợi dụng cho mục tiêu chính trị ngược lại.

Nên nhớ rằng cuộc khủng hoảng đang xảy ra nhanh chóng vì đã có một sự phá vỡ cái thế cân bằng ảo. Đất nước không được xây dựng để cộng sinh trong hệ thống toàn cầu hóa, nhưng lại hình thành sự cộng sinh giữa những kẻ tham nhũng, cơ hội trong chính quyền với bầy thú điện tử để chi phối các hoạt động xuyên suốt của đất nước mà nhiều người lầm tưởng là sự ổn định. Nhưng giờ đây bầy thú không thể bỏ qua thời cơ tuyệt vời để có nhiều quyền lợi hơn và đứng lên trên cái hệ thống cộng sinh đó. Sự cân bằng bị phá vỡ vì thế.

Sức dân và mệnh nước

Toàn dân cần được chuẩn bị để đối phó với cuộc khủng hoảng mà đỉnh điểm của nó sẽ rơi vào năm sau – Kỷ Sửu 2009. Tất cả những gì nhà nước cần tập trung lúc này là HẬU SỨC DÂN. Làm sao phải gia tăng sức mạnh vật chất lẫn tinh thần cho dân đủ sức chịu đựng khó khăn để vượt qua và xoay chuyển tình thế. Bổ sung sức mạnh vật chất là cần thiết nhưng trong điều kiện hiện nay thì không thể đủ mạnh. Chỉ có sức mạnh của niềm tin và sự đồng lòng mới có thể tạo ra vận thế mới.

Chính phủ đang kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng và đề ra các giải pháp “chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô” như vừa rồi thì không thể hậu sức dân. Chỉ đơn cử việc giảm đầu tư công. Các bộ ngành, địa phương đang bàn về cắt giảm ngân sách đầu tư bằng việc cắt bớt các dự án. Giảm đầu tư trong nước tức là giảm nội lực. Cấu trúc hiện nay của nền kinh tế đang phụ thuộc rất lớn vào đầu tư công vì nó chiếm đến 40% tổng đầu tư quốc gia. Trong khi mà chưa có những cơ chế, chính sách để cho phép và hỗ trợ khu vực dân doanh đầu tư thay thế nhà nước thì việc rút giảm đầu tư công sẽ tạo ra một khoảng trống cực kỳ tai hại.

Toàn dân vẫn cần những đầu tư ấy để tạo ra hạ tầng, công ăn việc làm – những thứ mà Việt Nam còn thiếu thốn nhiều một thời gian dài nữa. Việc chính phủ cần làm là đảm bảo hiệu quả đầu tư công, hay nói theo kinh tế học là giảm chỉ số ICOR xuống. Thống kê chỉ số này của nhà nước cho thấy ICOR của đầu tư công là 8 (tức đầu tư đến 8 đồng mới làm ra thêm 1 đồng tăng trưởng). Đầu năm 2007, một thành viên của chính phủ trả lời trước công chúng giải thích rằng chỉ số này cao vì năng suất lao động của đất nước còn thấp.

Nhưng không thấy có ai hỏi tiếp rằng tại sao cùng với những người lao động Việt Nam mà khu vực dân doanh, dù trình độ quản lý cũng chưa hiện đại nhưng chỉ số này chỉ có 4 (chỉ cần 4 đồng đầu tư sẽ tạo ra 1 đồng tăng trưởng), của khu vực nước ngoài là 2.7. Không hỏi vì ai cũng biết rằng hiệu quả đầu tư công thấp là do tham nhũng.

Chỉ cần làm được như khu vực dân doanh thì cùng một dự án đầu tư nhà nước có thể giảm được một nửa số vốn bỏ ra mà dân chúng vẫn được hưởng thành quả không đổi. Một nửa ấy từ trước đến nay do tham nhũng mà thất thoát. Theo kế hoạch 5 năm từ 2006 – 2010, mỗi năm đầu tư công lên đến 270 ngàn tỷ đồng, một nửa số tiền đó mà tiết kiệm được và dùng để hậu sức dân thì thật là có ý nghĩa. Còn nếu cắt giảm theo kiểu số lượng thì chỉ gia tăng sức mạnh cho những kẻ tham nhũng, cơ hội. Lạm phát sẽ càng tăng dù trị giá đầu tư có giảm. Hiện nay đã bắt đầu xuất hiện tình trạng chạy để được giữ lại các dự án. “Mạnh vì gạo”, ai chi nhiều hơn thì sẽ được tiếp tục đầu tư, tỷ lệ thất thoát sẽ càng gia tăng, chất lượng đầu tư càng giảm, lạm phát càng tăng là vì thế. Dân sẽ vẫn lãnh đủ.

Giải pháp hiệu quả nhất hiện nay thật đơn giản mà không đơn giản: triệt tiêu tham nhũng. Làm được việc này thì sẽ gia tăng nguồn lực cho dân, củng cố niềm tin của dân. Chính là hậu sức dân. Nhưng điều này thật quá khó cho chính quyền hiện nay khi mà luật pháp trong nước bị bóp méo bởi những kẻ tham nhũng – cơ hội, và những định chế quốc tế bị chi phối bởi bầy thú điện tử. Một kẻ như Bùi Tiến Dũng lại được ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam khẳng định là không có dấu hiệu tham nhũng để rộng đường cho một phiên tòa chỉ xử tội đánh bạc. Nguyễn Việt Tiến cũng vừa được thả ra và phục hồi quyền lợi mà không qua xét xử. Cái hệ thống cộng sinh này là như thế đấy.

Chính phủ thực hiện các giải pháp vĩ mô như hiện nay sẽ tiếp tục hậu ngoại lực, ép nội lực dù vô tình hay hữu ý. Càng nhiều bàn tay hữu hình thò ra thì càng dễ bị giật dây điều khiển. Chưa hết tháng 3/2008 mà nhập siêu đã phi đến 7 tỷ đô-la Mỹ, bằng 56% của cả năm 2007, vượt xa con số 4,8 tỷ của 2006. Ấy vậy mà nhận định mới nhất của chính phủ trước thường vụ Quốc hội là vẫn tin tưởng cân đối được cán cân thanh toán quốc tế do Việt Nam vẫn đang là điểm sáng của thu hút đầu tư nước ngoài.

Sao vẫn tiếp tục trông chờ vào ngoại lực mà không nhìn nhận thực tế là đất nước này đang còn cầm cự được phần nào trước sự thâm hụt mậu dịch lâu nay là nhờ vào kiều hối 2 tỷ đô-la Mỹ của gần nửa triệu lao động Việt đang phải chịu cực khổ, tủi nhục, cả bỏ mạng ở nước ngoài, 5 tỷ đô-la Mỹ của hơn 3 triệu đồng bào Việt định cư ngoài nước gửi về hàng năm mà không kèm bất kỳ điều kiện và đòi hỏi nào; nhờ vào tiền công lao động rẻ mạt của hàng triệu lao động nghèo trong nước còn giữ lại được từ xuất khẩu; và của hàng chục triệu nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời làm ra những nông sản để xuất khẩu. Không hề thấy chính phủ phân tích và đề cập đến việc chăm sóc các nguồn lực này như thế nào trong các giải pháp hiện nay và trước đây.

Những người lao động nghèo này chính là lực lượng tiên phong phải đương đầu trước tiên với cạnh tranh toàn cầu, ngay khi Việt Nam gia nhập WTO trong khi chưa hề được chuẩn bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Họ chẳng hiểu toàn cầu hóa là gì nhưng các cam kết để gia nhập WTO đã dỡ bỏ ngay lập tức trợ cấp xuất khẩu nông sản và hàng dệt may; giảm ngay xuống mức thấp thuế suất nhập khẩu các mặt hàng nông sản, may mặc.

Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước đang kiểm soát hoàn toàn các ngành dịch vụ tài chính – ngân hàng, bưu chính – viễn thông, năng lượng – dầu khí được nuôi dưỡng và hưởng đặc quyền lâu nay, nắm giữ những nguồn lực lớn nhất của quốc gia thì vẫn tiếp tục được bảo hộ theo lộ trình từng bước 3 năm, 5 năm sau khi gia nhập WTO. Tiềm năng phát triển rất lớn của thị trường nội địa trong các lĩnh vực này, thay vì phải được dùng làm hậu phương vững chắc để tiến công ra thị trường toàn cầu, làm lực lượng tiên phong bước ra cạnh tranh để giảm áp lực cho những nông dân, công nhân may mặc cần thời gian để hiểu và chuẩn bị cho hội nhập, thì lại được quây rào để dành cho bầy thú điện tử thâu tóm.

Chuyện này khác gì trong một cuộc chiến, những người dân đen cùng đinh bị đưa ra trước để làm bia đỡ đạn trong khi quân chủ lực vẫn đang còn say sưa chè chén. Đến khi giặc vào tới thì hèn nhát, không phải là bỏ chạy mà là đầu hàng bán rẻ đồng đội. Thế nhưng những kết quả đạt được trong đàm phán WTO được ca ngợi là thành công, là ngoạn mục. Có thể dễ dàng đọc được trên các website của các bộ ngành để nghe họ khen tặng, tâng bốc về cái thành quả này như thế nào.

Hội nhập toàn cầu là một quá trình phải được bắt đầu một cách chủ động từ trước khi ký kết hiệp định quốc tế. Sự thụ động và chạy theo thành tích thì tránh sao khỏi rơi vào những cái bẫy đàm phán. Người ta không cần nhưng vẫn khăng khẳng đòi mở cửa xuất bản ngay. Còn ta thì châm châm bảo vệ sự kiểm soát nó tuyệt đối bằng mọi giá mà không hiểu rằng internet đã thay đổi mọi thứ. Nếu anh muốn giữ chặt cái này thì anh phải nhả cho tôi ngay cái khác: hoặc là nông sản và dệt may; hoặc là các dịch vụ tài chính – ngân hàng, bưu chính – viễn thông, năng lượng – dầu khí. Họ muốn ta nhả cái thứ nhất để tạo bất ổn xã hội, mục tiêu lớn như vậy mà chẳng phải vất vả gì để đạt được. Họ thừa biết các nhóm lợi ích trong các lĩnh vực dịch vụ này dư sức chi phối các quyết định đàm phán cuối cùng.

Đừng nghĩ là chính quyền kiểm soát báo chí, tuyên truyền mà dân chúng không đủ hiểu biết để nhìn ra những vấn đề quá lớn mà các chính sách vĩ mô đã tạo ra cho họ. Người dân thậm chí còn bảo rằng chẳng phải nhà nước mắc bẫy, chẳng qua vì quyền lợi cá nhân mà nhà nước đưa dân vào hoàn cảnh như ngày hôm nay. Luật thuế thu nhập cá nhân sắp có hiệu lực từ đầu năm sau sẽ là một giọt nước tràn ly đối với lòng dân.

So sánh chiến lược về lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia thì bộ luật này, với mức khởi đầu là 5% cho thu nhập 4 triệu đồng/tháng và 35% cho phần thu nhập từ 80 triệu đồng/tháng trở lên, đã đặt Việt Nam vào một quốc gia có tương lai dựa trên lao động giá rẻ thiếu kỹ năng, chứ không phải một nơi nuôi dưỡng chăm sóc cho con người có đủ tri thức để làm nền tảng phát triển vững chắc của đất nước. Chắc chắn rất nhiều nước đã vỗ tay vui mừng bộ luật này. Lại mắc bẫy hay do thiếu hiểu biết, người dân tự sẽ nhận ra và phán xét.

Không củng cố niềm tin thì hậu quả thật khó lường hết bằng các con số. Các tính toán kỹ thuật cho thấy khả năng tiền đồng sẽ nhanh chóng chỉ còn hơn 20 ngàn/USD. Nhưng một khi người dân không còn niềm tin gì vào nhà nước thì con số này có thể là 30 ngàn, 40 ngàn hay cao tới mức mà không ai có thể dự báo nỗi. Nó cũng không khác gì việc đáy chứng khoán được dự báo không biết bao nhiêu lần. Mức trên dưới 500 điểm như hiện nay vẫn chưa phải là đáy. Còn xa mới tới đáy vì bầy thú không chỉ muốn thâu tóm, mà là thâu tóm rất rẻ để dồn tiền cho sự thôn tính chính trị.

Vận nước đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử. Đây là một biến cố lớn sẽ chắc chắn tạo ra sự xoay chuyển. Con tạo xoay vần, nhưng xoay về đâu, đó là trách nhiệm của tầng lớp trí thức của đất nước. Những con Lạc cháu Hồng ưu tú sẽ tập hợp lại tạo nên sức mạnh của cả dân tộc thuộc mọi tầng lớp để hóa giải thế cờ, xoay chuyển biến cố thành một vận hội mới.

Có một Con đường như vậy.

“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Trong họa có phúc.

Trần Đông Chấn

Mùa xuân tháng 3, 2008.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Có một giả định không hợp lý lắm là con số lạm phát mà chính phủ công bố là chính xác. Năm 2007 lạm phát có lẽ ở khoảng 20%, 2 năm trước đó cũng khoảng 10-12% là ít, 2008 mà lạm phát thực tế mà dừng ở 18% thì phải nói là cực kỳ may mắn. Khi tạm dùng mấy con số đấy mà lập luận thì có vẻ nước ta cũng không bị thôn tính quá khủng khiếp.
 
Back
Bên trên