Ngày Xuân Thăm Làng Gốm Bát Tràng
--- Giáng Vân ---
Gốm Bát Tràng mộc mạc mà tinh tế, tài hoa mà hồn nhiên. Mầu men, xương gốm, nhưng họa tiết trang trí được vẽ bằng tay từng chiếc một, nung qua lửa quyện với nhau, dù đồ gia dụng - bát đĩa, ấm chén, bình hoa, chân đèn... hay gốm mỹ nghệ - những con giống, đĩa treo tường, độc bình trang trí... đều có một vẻ quyến rũ riêng. Từ những thế kỷ trước, gốm Bát Tràng đã theo tàu buôn đến nhiều nước. Về gốm cổ Bát Tràng, một chuyên gia khảo cổ học nổi tiếng đã nhận xét "... có một hạng đồ gốm rõ rệt Việt Nam là đồ gốm Bát Tràng". Trải qua thăng trầm, buồn vui, khi suy, lúc thịnh, hồn đất hồn người gửi gắm trong gốm chưa bao giờ mất.
Nhưng có thể nói, cơn trăn trở của làng gốm nổi tiếng này đã bắt đầu rất lâu từ trong tâm hồn những người con của làng, manh nha và nung nấu từ những năm nghề gốm ở Bát Tràng có nguy cơ thất truyền. Những năm đó, cả làng chỉ còn lại mấy lò nung của hợp tác xã, chỉ làm ra một thứ sản phẩm duy nhất là những chiếc bát ăn méo mó, xấu xí, xám ngoét. Những lò gốm gia đình đã biến mất tự lúc nào. Kinh tế thị trường mở cửa, có một người làm nghề giáo ở Hải Phòng tên là Bùi Xuân Hải vì yêu gốm Bát Tràng đã bỏ nghề về Bát Tràng lập nghiệp. Ông bỏ ra khá nhiều tiền của nhưng phần vì không phải người làng gốm, không nắm được nghề, thị trường về gốm lại còn rất mờ mịt, nên đã thất bại. Tuy vậy sự thất bại của gã Don Quixote này giống như một cú hích vào tâm thức của những người dân làng gốm. Những người cao tuổi và còn nắm nhiều bí mật về nghề gốm của Bát Tràng bắt đầu vào cuộc. Dần dà, gốm bắt đầu sống lại, nhịp đập của cái cơ thể làng gốm lâu đời này bắt đầu lại, thiết tha, và bức xúc. Mỗi một thành công nhỏ của ai đó đều được cả làng bàn tán, theo dõi quan tâm, phấn khích, người kín đáo, người công khai. Hóa ra, đã là dân Bát Tràng, ai cũng đều mong mình được sống trong gốm, gửi gắm mình trong gốm. Chính vì vậy, điều diệu kỳ đã xảy ra: gốm Bát Tràng chẳng những sống lại, mà còn bắt đầu một sinh khí mới với việc tạo ra tên tuổi của những nghệ nhân gốm thế hệ mới.
Trần Độ - người được mệnh danh là vua của "vương quốc men" tuổi chỉ ngoài 40. Đó là một người đàn ông giản dị, ăn nói nhỏ nhẹ. Vẻ ngoài này khiến không ai hình dung được khối lượng công việc đổ lên vai anh mỗi ngày. Ngôi nhà nơi gia đình anh sống giống như một công trường nhỏ. Phòng khách, hành lang, tất cả các phòng la liệt các loại đồ gốm: bát đĩa, ấm chén, âu, liễn, độc bình, các mầu, các kích thước... được đặt một cách vô tội vạ, bụi đất phủ mù mịt. Bên trong là tất cả những công việc của một lò gốm: luyện đất, tạo dáng gốm, vẽ trang trí, sửa chữa, chồng lò, nung... còn bên ngoài, tiếp khách và bán hàng. Mỗi ngày, làng Bát Tràng có từ 5-7000 nhân công từ nơi khác đến làm thuê thì gia đình anh có khoảng 17, 18 người, vợ chồng anh đào tạo nghề cho thợ, quán xuyến mọi công đoạn. Lò nung gốm nhà Trần Độ đốt bằng ga. Cứ ba ngày một lần ra lò, nhưng khoảng hai năm nay, anh làm không kịp cho khách mua.
Học nghề từ năm lên 9, nhưng bên cạnh việc kiếm sống hằng ngày, lúc nào anh cũng canh cánh bên lòng: làm sao và có cách gì để bứt lên được? Nếu cứ lầm lụi làm lụng cật lực mà không có phương pháp như những người dân trong làng thì không sao thoát khỏi cảnh nghèo. Bởi vậy, hễ có thời gian, Trần Độ lại lân la học hỏi những người giỏi nghề. Sự tiếp xúc với các nghệ sĩ điêu khắc của trường Đại học Mỹ thuật quốc gia như Trần Tuy, Tạ Quang Bạo, Vương Học Báo, Huy Oánh... đã cho Trần Độ một cách nhìn dài rộng, một đường hướng lớn cho những suy nghĩ và tìm tòi của anh. Đó là lúc Trần Độ nhận thức ra rằng: nắm được những bí mật về men sẽ tạo được mũi đột phá cho gốm. Anh kiên trì mầy mò với đủ thứ công thức về men. Bao nhiêu thất bại mới có một thành công. Đến giờ, gia tài Trần Độ đã có 69 bài men. Riêng một dòng men ngọc, anh có tới mười hai công thức khác nhau, tạo ra 12 biến tấu của loại men này. Rồi men lam, men rau, men đá, men chảy, men nâu, men đen... Men nâu, đặc biệt là mầu nâu trầm rất lạ chưa thấy có ở Bát Tràng, Trần Độ đã tìm ra cách đây sáu năm và đến bây giờ mới thực sự hoàn thiện. Nếu như với men ngọc, Trần Độ thắng lớn trong những hợp đồng với châu Âu nhiều năm vừa qua, thì men nâu của anh mới đây đã lọt vào cặp mắt xanh của các doanh nhân người Nhật qua cuộc triển lãm gốm Việt - Nhật tại Hà Nội vào giữa tháng 11-2000. Triển lãm xong họ theo anh về tận nhà và chọn mang đi 150 mẫu để giới thiệu ở các nước.
Tôi hỏi Trần Độ.
- Anh tự thấy mình thành đạt khi nào?
- Học nghề đã 30 năm nay, nhưng thành thật mình chỉ dám cho là đã thành công khoảng tám năm. Nhưng ăn nên làm ra thì mới được hai năm thôi.
- Nghe nói anh được người sành về gốm tôn và "vua về men" với 69 bài men trong gia tài, vậy là nhiều hay ít?
- Thực tình so với di sản còn lại của gốm Bát Tràng thì mình đã phong phú hơn, đẹp hơn, nhưng cũng còn nhiều thứ xưa các cụ làm được mà nay trên mặt chưa ra.
Những con đường riêng
Hóa ra trong cái cộng đồng không lấy gì làm đông đảo của làng gốm này, cái tôi của mỗi người rất mạnh. Sức mạnh của những cái tôi đó lớn chừng nào thì sức mạnh cộng đồng lớn lên chừng đó. Cũng làm gốm nhưng Bát Tràng có hàng chục cách thức để góp mặt, để tồn tại.
Thoạt đầu, lúc làng gốm bắt đầu hồi sinh, người thổi lên niềm hứng khởi cho nó là những họa sĩ hoặc từ Hà Nội yêu thích gốm. Cảm quan về cái đẹp của họ, ít nhiều ảnh hưởng qua lại với cảm quan về cái đẹp truyền thống của người làng gốm. Trong số này, nếu không thạo nghề gốm thì họ vẽ thuê cho các lò gốm. Từ đây xuất hiện kiểu những chủ lò đứng ra làm người nung thuê. Người chơi gốm tài tử có thể đến đây, sẵn vật liệu, sẵn công cụ, tha hồ vắt nặn tùy thích, chủ lò sẽ nung với một giá không quá đắt. Lại có người, mọi công đoạn đều thuê, anh ta chỉ vẽ trang trí và mang đi bán. Loại sản phẩm này bán khá chạy nhờ những họa tiết rất sống động, tinh tế, kỹ lưỡng và mang đậm phong cách người vẽ. Dân học mỹ thuật ra, ngoài lối vẽ theo các mô-típ truyền thống như tôm cá, chim muông, hoa lá... họ còn đưa vào các phong cách ấn tượng, lập thể, tạo các mảng miếng mầu rất táo bạo trên một sản phẩm. Phong cách này tạo nên một khuynh hướng mới trong gốm Bát Tràng hiện đại.
Bên cạnh khuynh hướng sản xuất hàng đại trà của nhiều lò gốm lớn, Bát Tràng vẫn có những tay được coi là "gàn dở". Tuấn "đồng nát" là một đại diện tiêu biểu. Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật, nhưng vì nghèo nên Tuấn không có lò ga. Với chiếc lò than, tất cả thời gian anh dùng để tạo ra những thạp giả cổ, chum chóe và những chiếc chân đèn, lư hương giả cổ. Ngoài thứ đồ gốm giả cổ, các đồ khác của anh đều bị bóp méo, vặn vẹo không kiểu này cũng kiểu kia, những ngôi nhà bằng đất nung nhại kiểu phố cổ Hội An, hay phố cổ Hà Nội... Nói chung, là những thứ trông rất "đồng nát". Tuấn cho biết, thỉnh thoảng anh cũng bán được mấy cái cho ai đó thích với giá cực đắt, bù lại bao công lao khó nhọc. Lại còn không biết thực hay hư, Tuấn bảo, triển lãm Cổ vật Thăng Long, phần về gốm cổ, người ta đã thuê một số đồ của anh với giá rất được.
Nếu Trần Độ đột phá bằng men, thì gốm Quang lại gây ấn tượng bằng lối tạo hình độc đáo. Khác với lối tạo hình truyền thống: cân đối, tròn trịa, vững chãi, gốm Quang chú ý nhiều về đường thẳng, tam giác, so le, cắt vát. Đi với lối tạo hình này là các nước men sáng mầu, ít vẽ trang trí. Tất nhiên, gốm Quang cũng rất chú ý đến những loại men mới, kiểu tráng men hai lớp khác nhau trong một sản phẩm.
Gốm Chi cũng có nét đặc biệt. Khởi nghiệp của ông không ở Bát Tràng mà ngay trong lòng Hà Nội, phố Mai Hắc Đế, nhưng gốm Chi làm theo phong cách, kỹ thuật truyền thống của gốm Bát Tràng. Sản phẩm chủ yếu là những đồ gốm thô, gốm men chảy. Cách tạo hình của gốm Chi rất phong phú. Những chiếc lọ cắm hoa, không chiếc nào giống chiếc nào về mầu sắc, hình dáng, kích cỡ. Những tay chơi gốm thích gốm Chi và biết tiếng ông từ giữa những năm 80 ở vẻ đẹp rất mộc, rất thuần khiết, và có hồn. Nguyễn Văn Chi vừa rồi cũng có mặt trong triển lãm gốm Việt - Nhật tại Hà Nội vào tháng 11. Ngoài những sản phẩm mang phong cách nhiều người đã thuộc, lần này, ông trình bày một thứ đồ gốm rất mỏng. Loại gốm mỏng, xưa nay chỉ mới thấy người Tàu làm được, thường gọi là gốm "thấu minh", nghĩa là soi lên thấy được ánh sáng. Còn gốm Bát Tràng cổ có đặc trưng là khá dày, nặng rất dễ nhận ra. Đây cũng là một nhược điểm trong sự cạnh tranh trên thị trường với các loại sản phẩm khác. Việc tạo những sản phẩm mỏng nhẹ, cộng với những ưu việt khác của gốm là một bước đột phá và là sự đóng góp của nghệ nhân Nguyễn Văn Chi.
Trang mới của gốm Bát Tràng được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những chiếc lò nung bằng ga. Thoạt đầu vào khoảng giữa năm 1998, một công ty của quân đội đem công nghệ lò ga nung gốm từ Đài Loan để lắp đặt cho Hợp tác xã Song Cường với giá 35.000 USD. Chiếc lò ga này có dung tích 2,5m3 về sau một kỹ sư của Viện Silicát tên là Nguyễn Đình Vần, nghiên cứu mẫu lò này và tự chế tạo ra được nó. Anh lắp đặt cho khoảng 20 gia đình tại Bát Tràng với giá thành chỉ còn 60 đến 70 triệu đồng/chiếc. Bây giờ thì Bát Tràng có gần 200 chiếc lò ga. Chiếc vĩ đại nhất là của gia đình Nguyên Ly có dung tích 15m3.
So với lò nung bằng than, lò ga có nhiều ưu việt. Đầu tiên phải kể đến khả năng kiểm soát được nhiệt độ. Trong nghề gốm truyền thống, ai điều khiển được lửa, nắm được phép nhiệm màu của men, coi như nắm được những bí mật quan trọng nhất. Lửa, men, đất giống như ba đại lượng trong một phương trình. Chỉ cần thay đổi một thì sẽ cho ra một kết quả khác.
Trước đây, với lò than, lửa là yếu tố khó kiểm soát nhất. Chỉ những người giỏi nghề, và lâu năm trong nghề mới đủ kinh nghiệm điều khiển được nó. Nhưng bây giờ với lò ga, việc đó trở nên đơn giản hơn nhiều. Điểm chốt được mở, thế là khả năng được giải phóng, cùng với sự ra đời của vô vàn mẫu mã, mầu sắc khác nhau của gốm.
Ưu việt thứ hai là ở nước men: bóng, sáng, đẹp hơn nhiều so với nước men nung bằng lò than. Mỗi sản phẩm có thể tráng hai mầu men trong và ngoài khác nhau. Trước đây điều này rất khó thực hiện.
Ưu việt thứ ba, cũng do kiểm soát được lửa, nên không sợ nó làm biến dạng phần xương của sản phẩm, nên một công đoạn vô cùng phiền phức được bỏ hẳn. Đó là những chiếc bao thâu dùng để bảo vệ sản phẩm khỏi bị biến dạng. Trước khi chồng lò, các sản phẩm gốm được xếp rất cẩn thận vào giữa những bao thâu, rồi giữa các bao thâu lại được chèn bằng gạch. Không còn các bao thâu, những thợ gốm có thể tùy thích tạo ra những sản phẩm có kích cỡ lớn, có chiều cao gần bằng chiều cao của lò. Có những lọ độc bình cao tới tận trần nhà, nửa trần nhà, được làm vô cùng tinh xảo kỹ lưỡng. Đó là sản phẩm của các lò ga dung tích lớn. Thêm nữa, bỏ đi những bao thâu, số sản phẩm mỗi lần nung tăng lên đáng kể. Đặc biệt, tỷ lệ hàng phế phảm giảm từ 30% xuống chỉ còn 5%.
Ưu việt thứ tư, mở ra khả năng giải quyết nạn ô nhiễm môi trường vốn rất trầm trọng ở cái làng gốm này. Đến giờ, tuy mới có gần 200 lò ga trên tổng số 3.000 lò ở Bát Tràng, nhưng dương như đường làng đã phong quang hơn, không khí đỡ bức bối ngột ngạt hơn, nhà cửa, bộ mặt của làng đỡ nhem nhuốc hơn.
Những lò nung hiện đại đã thực sự tạo ra một trang mới của gốm Bát Tràng.
Thay cho lời kết
Có nhiều người nghi ngại: "Liệu Bát Tràng có còn là Bát Tràng nữa không khi xuất hiện những chiếc lò ga". Có lẽ, đó là nỗi lo của những người bẩm sinh có thiên hướng hoài cổ. Tôi rất thích nhìn những chiếc xe đạp thồ hàng gốm Bát Tràng đi bán rong, những thứ phẩm của Bát Tràng cũng đã thấy đẹp hơn xưa. Còn nếu muốn, bạn hãy một lần, luồn lách chiếc xe máy hiện đại của bạn vào khu làng Bát Tràng cổ một vòng, rồi dạo thăm vài ba cửa hàng, vài ba lò nung của gia đình để cảm thấy cái sinh khí mới của làng. Rồi chắc chắn bạn sẽ bị thứ đồ gốm "rất rõ rệt Việt Nam" của Bát Tràng quyến rũ, và mừng cho Bát Tràng hôm nay khách khứa vào ra tấp nập. Tài hoa Bát Tràng đang ở trong giai đoạn tỏa sáng.
Tuy nhiên, người viết bài này, bên cạnh niềm vui, vẫn còn điều day dứt: Phần đông người Bát Tràng còn nghèo lắm. Kiếm sống hằng ngày còn chật vật lấy đâu ra tiền làm lò ga. Từ khi xuất hiện lò ga với bao thứ hơn hẳn như vậy, những đồ gốm nung bằng lò than của họ càng lép vế, khó tiêu thụ ở thành phố. Tiền bán sản phẩm đã chậm thu về, lại chẳng hơn mấy so với tiền mua nguyên vật liệu, than củi. Nên chăng, thành phố Hà Nội dành kinh phí đầu tư phát triển để hỗ trợ cho những hộ nghèo ở Bát Tràng lắp đặt lò ga. Điều này còn giúp thành phố giải quyết vấn đề nhức nhối về môi trường đã kéo dài bao nhiêu năm nay. Về phía các doanh nghiệp làm ăn với Bát Tràng, thiết nghĩ cũng nên đầu tư kinh phí, hỗ trợ thêm cho họ. Chẳng hạn, Tổng công ty Petrolimex, đơn vị chuyên cung cấp ga đốt cho Bát Tràng, hằng tháng hiện đã cấp cho các lò ga ở đây tới 300 tấn ga, tại sao không nghĩ tới việc hỗ trợ đầu tư lắp đặt lò ga cho các gia đình nghèo, kèm theo là các hợp đồng cung cấp ga cho họ.
Nghe nói cũng đã có nhiều dự án đầu tư cho làng gốm, nhưng không hiểu vướng mắc từ đâu mà vẫn chưa được thực hiện. Hy vọng một mùa xuân mới, sẽ đem đến cho Bát Tràng những cơ hội mới để làm tỏa rạng hơn nữa nết đất, nết người Thăng Long qua bàn tay tài hoa của những người thợ gốm.