Quê Hương

Chu Anh Duy
(boytotbung)

Điều hành viên
Bài viết này tập trung những bài viết về quê hương .... ai có bài thì gửi lên để mọi người cùng đọc nha !
Chân thành cảm ơn |-) 0:)



Mùa hoa lộc vừng

--- Hoàng Trọng Muôn ---



Cứ mỗi độ tháng sáu, tháng bẩy âm lịch, khi cái nắng như thiêu như đốt của mùa hè chợt tan đi nhè nhẹ trong những cơn gió heo may se lạnh, khi những chùm hoa phượng cháy đỏ như thắp lửa suốt những ngày hạ dài chợt biến thành những chùm quả treo lúc lỉu trên cành là lúc cây lộc vừng bung nở những chùm hoa đỏ thắm, soi mình bên bờ ao, đung đưa thả xuống như buông mành trên những cánh hoa bèo tim tím đang ngóc cổ vươn dậy trên mặt nước, sáng rực rỡ như những vầng hào quang lung linh trước bãi rong riềng, những bụi tre và vô vàn các loài cỏ dại nơi góc ao tù vốn tối tăm, ẩm ướt.

Mùa hoa lộc vừng thường bắt đầu từ tháng sáu cho đến hết tháng chín, đầu tháng mười âm lịch. Lạ một điều là vào mùa hoa, hoa nở liên tục hết đợt này đến đợt khác suốt mấy tháng liền. Hoa kết thành những sợi dây dài đến vài chục phân, treo lúc lỉu với vài chục bông hoa nhỏ li ti, tròn như hạt đậu và những cánh hoa nhỏ, mỏng tơ bung ra mềm mại, trông thật thích mắt. Những dây hoa thường đu mình trên những cành lộc vừng nho nhỏ, vươn dài ra phía ngoài thân cây với lớp vỏ sần sùi, trông xa như ai đó đang treo đèn kết hoa chào đón đêm hội hoa đăng. Chỉ đến cuối mùa, hoa mới kết thành những chùm quả hình thoi có bốn cạnh cân đối rất đẹp, bóc lớp vỏ xanh ra, bên trong là màu hồng tươi. Những dây quả treo lúc lỉu trên cành và khi đã ra quả rồi thì cây không còn ra hoa nữa, mà phải đợi đến tháng sáu âm lịch năm sau. Có lẽ điều đó đã làm cho hoa lộc vừng có một vẻ đẹp thật riêng, thật lạ mà những ai yêu thích nó không thể nào quên được.

Bà tôi thường kể cho chúng tôi nghe về sự tích hoa lộc vừng đến nỗi đứa nào cũng thuộc. Chuyện kể rằng, từ lâu lắm rồi, ở một làng bản xa xôi kia có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết. Họ cùng nhau thề rằng nếu không được sống cùng nhau, họ sẽ chết cùng nhau. Chàng trai đâu biết rằng vẻ tuấn tú và tài năng của chàng đang là niềm mơ ước của nhiều cô gái và cũng là nỗi ghen tức, căm giận của nhiều chàng trai quanh vùng. Còn cô gái vốn xinh đẹp, nết na nên có rất nhiều chàng trai muốn lấy về làm vợ, trong đó có tên công tử con nhà trưởng bản. Biết không thể nào chiếm được trái tim cô gái, hắn tìm kế hãm hại chàng trai. Hắn sai chàng vào rừng tìm báu vật cho lễ hội của làng. Rừng thiêng nước độc đã quật ngã chàng, làm cho chàng chết đi trong bệnh tật và kiệt sức. Cô gái chờ đợi mãi, quá nóng lòng nên quyết tâm trốn nhà, lặn lội đi tìm người yêu. Cô đi mãi, đi mãi cho đến lúc đôi chân rã rời không muốn bước thì tìm thấy xác người yêu. Cô đau đớn ôm xác người yêu khóc vật vã. Chôn cất người yêu xong, cô khóc ngày khóc đêm cạnh nấm mồ đó. Nước mắt rơi xuống cứ cạn dần, đến một ngày cô không còn khóc được nữa và ngã gục xuống bên cạnh nấm mồ. Khi cô chết đi, trên nấm mồ của chàng trai, nơi những giọt nước mắt của cô chảy xuống bỗng mọc lên một loài cây có thân sần sùi, cành lá xum xuê và đặc biệt là có những chùm hoa thả xuống cạnh mồ như hỏi han, như che chở cho nấm mộ chàng trai. Người ta gọi đó là hoa lộc vừng - một loài hoa tượng trưng cho tình yêu chung thuỷ của người con gái. Có lẽ vì vậy mà màu hoa đỏ đến nao lòng.

Ngày xưa, cây lộc vừng mọc nhiều lắm, mọc khắp nơi từ bờ ao, ngõ xóm đến những bờ đê chang chang nắng và suốt mùa hoa, tất cả những nơi đó lại đỏ rực hoa vừng, đẹp đến mê hồn. Cành lộc vừng rất dẻo nên chúng tôi thường chơi đuổi bắt trên cây và ngắt những chùm hoa xuống tết thành những chiếc vương miện, đội cho nhau đóng làm vua, làm hoàng hậu. Trong số những bạn bè ấu thơ, tôi chơi thân nhất với Loan. Tôi và Loan nhà gần nhau, học cùng lớp chuyên văn ngoài trường huyện và cùng sinh vào giữa mùa hoa lộc vừng. Chúng tôi luôn quấn quýt bên nhau, không rời nhau nửa bước. Cuối năm lớp chín, khi chúng tôi cùng nhau ra gốc lộc vừng ôn thi vào lớp mười, tôi đã lấy hoa tết mũ cô dâu cho Loan và Loan cũng tết cho tôi một chiếc vòng quàng cổ bằng hoa để làm chú rể. Chúng tôi chơi trò đám cưới thật vui, chỉ có hai đứa dưới rặng cây lộc vừng đỏ thắm hoa, soi mình bên dòng sông xanh, hiền hoà chảy, vi vu hát ca trong gió chiều. Rồi Loan lên Hà Nội học cấp III, chúng tôi ít gặp nhau. Từ đó chúng tôi chẳng liên hệ với nhau nữa dù trong mỗi đứa, ký ức tuổi thơ, ký ức về những mùa hoa lộc vừng vẫn còn vẹn nguyên, đầy ắp những cảm giác ngọt ngào.

Làng tôi đổi mới, mọi vật thay đổi. Người ta chặt đi không thương tiếc những cây lộc vừng to, già cỗi nơi bờ ao, ngõ xóm để lấy đất làm nhà, làm cửa, làm những công trình khác nhau. Những gốc lộc vừng nhỏ trở nên có giá trị. Người ta lấy những gốc cây về trồng lên bồn, lên chậu, cắt, tỉa, chăm sóc chừng một năm là bán được vài trăm nghìn, thậm chí có cây vài triệu. Thế là người ta đua nhau đi tìm kiếm, bới móc khắp nơi. May sao lần ấy tôi còn kịp về, giữ lại được cây lộc vừng to nhất cạnh bờ ao để mỗi mùa hoa nở, tôi lại được thả mình vào miền thơ ấu xa xôi, để người bạn của tôi bên trời Tây, có lúc nào đó trở lại thăm quê vẫn còn nhận ra một chút dấu vết tuổi học trò còn đằm sâu trong ký ức, để khỏi ngậm ngùi thương nhớ những năm tháng đã qua.
 
Cuộc sống tâm linh của người xưa

--- Nguyễn Hữu Thông ---



Nằm bên bờ Bắc sông Ô Lâu, thuộc làng Văn Quý, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, có một khu nghĩa trang của làng xã. Giống như những nghĩa trang khác, đây là một vùng đất hoang vắng, xa đường cái, ít người qua lại, có chăng chỉ là những trẻ chăn trâu. Nhưng vừa qua, trong một cuộc du ngoạn điền dã, những người nghiên cứu thuộc trung tâm nghiên cứu văn hoá dân gian miền Trung đã phát hiện được một nhóm 5 ngôi mộ kỳ lạ, nằm rải rác trên diện tích khoảng 1.000m2, xen lẫn với những ngôi mộ mới ngày nay.

Thoạt nhìn, những ngôi mộ này không có gì đặc biệt, chúng bị chìm lấp trong cây cỏ bờ bụi mọc um tùm, lâu ngày không ai để ý. Hơn nữa, cùng với thời gian, một lớp đất dày đã lấp dần lên những bờ tường của thành lăng và những nấm mồ, nên hình dáng lăng mộ xưa không còn được rõ nét. Những lăng mộ này được xây bừng vôi trộn mật, không có cốt gạch với hợp chất xây còn giữ lại nhiều vỏ hàu hến chưa giã nát có thể nhận ra dễ dàng. Đây là loại vật liệu thường thấy ở các lăng mộ rải rác trên các nghĩa trang miền Trung, mà người dân thường gọi là mả Tàu hay mả Vôi.

Nhưng điều đáng chú ý là mỗi nấm mồ lại được đắp thành một hình khác nhau, có dáng dấp như một công trình điêu khắc hoàn chỉnh. Ngôi mộ thứ nhất có hình con rùa, với đầu, mai rùa và khoảng cách từ mai đến chân được phân định rõ ràng. Mộ thứ hai có hình quả đào, có thể nhìn thấy đường lõm chạy theo chiều dọc trên thân quả, các chi tiết ở đầu và cuống đều được thể hiện chân thực. Một ngôi mộ khác có hình lá sen đặt úp với những đường gân lá nổi lên rõ rệt...

Bao quanh nấm mồ là tường lăng, cũng được xây bằng cùng thứ vật liệu như mộ. Các trụ cửa được xây theo một phong cách giống nhau, trên mặt trước của lăng số một còn thấy hai bức phù điêu đắp nổi bằng vôi, phần lớn đã bị chìm lấp dưới đất, nhưng vẫn còn nhận dạng được một hình con lân với nét khắc sâu, dứt khoát mạnh mẽ. Muốn khảo sát kỹ khu lăng mộ này cần phải có thời gian đào bới để gạt bỏ lớp đất phủ bên trên.

Đây quả là một kiến trúc độc đáo, chưa từng thấy ở các lăng mộ phía Bắc cũng như phía Nam. Thông thường trong các lăng mộ, nấm mồ được đắp thành hình tròn (hoặc bầu dục) hay hình chữ nhật, tuỳ theo nơi và tuỳ theo thời gian. Thậm chí ngày nay có những nấm mồ được đắp cầu kỳ với hình cánh hoa sen xếp tròn, với nhiều hình dáng khác nhau, nhưng ít khi thấy tạo thành một tác phẩm điêu khắc hoàn chỉnh như ở đây. Đấy cũng là điều khiến những người khảo sát phải đi tìm để xác định xem đấy là lăng mộ của ai và ở thời nào?

May mắn là ở một ngôi mộ, còn phát hiện được tấm bia bằng sa thạch, tuy bị vỡ mấy chỗ nhưng vẫn còn đọc được chữ và những hoa văn trang trí hình "lưỡng long triều nhật" khá quen thuộc. Dòng chữ ghi trên bia là: "Đầu khảo Quảng Nam Tướng thần lại ty Cai hợp Trần quí công chi mộ". Không nghi ngờ gì nữa, đấy là mộ của một vị Cai hợp họ Trần, thuộc Tướng thần lại ty ở Quảng Nam. Đấy là một chức quan dưới thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Trong hệ thống cai trị của các Chúa Nguyễn, phủ Chúa có ba Ty, trong đó có Tướng thần lai ty. Đứng đầu Ty này là một vị Cai bạ và hai vị Cai hợp, Thủ hợp giúp việc, đảm trách việc thu thuế, chi phát lương thực cho quân các đạo.

Như vậy đã rõ một trong những lăng mộ này là của một viên quan dưới thời chúa Nguyễn, do "Hiếu tử nam nhi, nữ tứ đồng lập thạch" (hai con trai và bốn con gái cùng lập bia). Từ chỗ giống nhau của phong cách xây dựng, có thể suy ra rằng những ngôi mộ ở đây được chôn cất trong cùng thời gian, khi trị sở của các chúa Nguyễn còn đóng tại Dinh Cát ở Quảng Trị. Đó là thời gian các chúa mới vào lập nghiệp ở phía Nam đầu thế kỷ XVII, nếu mở rộng việc tìm kiếm, chắc chúng ta sẽ còn biết thêm những dấu tích khác về thời các chúa ở khu vực này.

Đây là một phát hiện quý. Vì những dấu vết vật chất thời các Chúa Nguyễn đến nay chỉ còn lại rất ít. Thời gian và những cuộc nội chiến đã khiến khá nhiều di tích bị huỷ hoại, đặc biệt trên dải đất từ Quảng Bình đến Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Qua các lăng mộ này, ta biết thêm một phong cách mới trong việc xếp đặt nơi trở về cõi vĩnh hằng dành cho người đã khuất. Lăng mộ, nơi yên nghỉ của người quá cố phải là một nơi tĩnh lặng, và được xây dựng với tất cả tấm lòng quí trọng của người đang sống. Có thể xưa kia, khi người Việt mới khai phá, nơi đây còn là những khu rừng thiêng cây cối um tùm, tạo nên không gian bao quanh kiến trúc của lăng mộ với những hình dáng đa dạng, càng làm tăng thêm không khí huyền ảo của nơi tưởng niệm.

Khu lăng mộ Quảng Trị tuy chỉ mới là một phát hiện khiêm tốn, nhưng sẽ là một chứng tích vật chất giúp ta tìm hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử đến nay còn ít được biết đến. Mong rằng trong tương lai, với vị trí cách thành phố Huế không xa, nơi đây sẽ trở thành một điểm tham quan cho những ai muốn trở về với những dấu vết văn hoá xưa của dân tộc.
 
Cảm nhận mùa bầu

--- Phan Lệ Hoa ---



Từ thuở ấu thơ, quả bầu đã cho tôi tình yêu quê hương tiềm ẩn trong lời mẹ nằm võng ru tôi lắng sâu vào giấc ngủ trưa hè ở làng quê thanh bình với câu ca:

Ve kêu rạc nắng vườn trưa
Gian bầu trĩu quà đu đưa gió nồm

Nhớ hồi tôi còn bé, mỗi khi đến mùa trồng bầu, ông nội tôi thường lấy ở thùng đựng thóc trong buồng nhà ra một quả bầu to, dài, khô, rỗng. Trong quả có chứa những hạt bầu già đã được ông tôi phơi khô để làm giống. ở tuổi lên năm, tôi ôm quả bầu dài bằng người. Tôi nhoẻn miệng cười nhìn ông, tay tôi vỗ về quả bầu tưởng như đang vỗ về ôm ẵm một đứa em. Tôi nâng quả bầu lên xóc mạnh cho những hạt khô ở trong quả nảy lên va chạm nhau kêu lọc xọc. Khi đưa quả bầu cho ông giốc hạt ra lòng bàn tay để đem gieo, tôi chợt nghĩ và hỏi:

- Ông ơi, tại sao mẹ cháu lại nói: "Muốn ăn lâu trồng bầu tháng chín" hả ông?

Ông nheo mất cười nhìn tôi, rồi đáp:

- À đó là câu tục ngữ nhắc nông dân ta nên trồng bầu đúng thời vụ, vì nếu gieo hạt giống muộn thì mùa bầu sẽ ngắn và cây bầu sẽ ra quả ít hơn cháu ạ!

Làng Sặt quê tôi nằm bên chân đê tả ngạn sông Đáy thuộc vùng đất bãi, chuyên sống bằng nghề trồng rau màu và cây quả các loại như cải hành, cà, đậu, bầu, bí, mướp... đến vụ thu hoạch bầu, sớm, chiều xóm bãi rậm rịch xe, người gồng gánh, hồ hởi tiếng nói, cười dưới những dàn bầu rợp xanh bóng lá ở các vườn, bãi. Tiếng trẻ con, người lớn í ới gọi nhau cắt hái bầu xếp đầy xe cải tiến, sọt thồ xe đạp và quang gánh chuyên chở về từng ngõ, từng nhà. Tay người cầm những quả bầu xanh tươi, óng mượt lông tơ, lòng thầm vui với thành quả lao động đã đem lại bằng mồ hôi thấm đất gieo trồng, ướt đẫm lưng áo người vun tưới.

Vào thời vụ này, những phiên chợ ở quê tôi đậm đặc màu xanh của những quả bầu được mùa. Mẹ tội cất bầu ở vườn nhà, xếp đầy quang rổ gánh đi bán ở chợ làng. Trước khi xào hoặc nấu, gọt vỏ quả bầu, rồi dùng dao sắc băm nhẹ xung quanh quả nhát dao băm sâu vừa đến phần ruột bầu rồi nghiêng lưỡi dao vát lấy phần cùi bầu ở ngoài, còn phần ruột thì bỏ đi, bầu thường nấu với tôm he bóc vỏ, gỡ lấy thịt, ngắt đầu tôm cho vào bát giã nhỏ, đổ nước sôi ở nồi canh vào chắt lấy nước ngọt để nấu.

Ngoài ra, bầu còn nấu canh với trai bằng cách: rửa sạch trái, cho vào nồi luộc đun sôi cho trai há vỏ, thịt trai đem thái miếng mỏng xào qua mỡ. Canh bầu nấu gần chín thì đổ thịt trai xào vào, đun tiếp cho bầu chín tới, tra hành dăm thái nhỏ rồi bắc ra.

Bầu xào với tỏi giã dập, phi mỡ thơm, khi ăn rắc bột hạt tiêu cũng là món ăn hấp dẫn về mùa hè.

Với tôi những bữa cơm có món canh bầu nấu tôm, ăn với cà bát muối xổi nhai ròn dưới ánh trăng lên lấp ló sau ngọn tre vườn nhà vào buổi tối mùa hạ đã trở thành những kỷ niệm ngọt ngào thời niên thiếu Đến nay, tuy tôi đã là một sinh viên sống xa nhà, nội trú trong ký túc xá trường đại học, nhưng tâm hồn tôi vẫn mang đậm dấu ấn về những mùa bầu ở làng quê.

Có lần vào ngày chủ nhật, tôi đạp xe về nhà lấy gạo đựng vào túi xách và cắt hái đôi ba quả bầu ở vườn nhà, xếp vào rọ xe đèo đến ký túc xá nhà trường. Trong những bữa cơm góp gạo thổi cơm chung cùng ăn với bạn học gái, trong mâm cơm có thêm bát canh bầu nấu với tôm nõn, khiến chúng tôi cảm thấy ăn ngon hơn, khác nào những bữa cơm ấm tình gia đình.

Quả bầu khô đã được nhân cách hóa với tình người thương yêu, đùm bọc trong cộng đồng dân tộc bằng câu ca dao:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn...

Ôi những mùa bầu xốn xang, háo hức tình quê. Những mùa bầu gọi giục lòng tôi nhớ về mảnh vườn nhà với giàn bầu xanh tươi ký ức một thời.
 
Cánh diều tuổi thơ

--- Lê My ---



Tuổi thơ ai hẳn cũng đã một lần rong chơi trên đồng cỏ, hồ hởi neo những cánh diều no gió chở ước mơ lang thang. Qua bao cánh đồng, bao luỹ tre làng thân thuộc, trò chơi hồn nhiên ấy đã thành nét văn hoá đẹp nhất trong ký ức hồn nhiên.

Không hồn nhiên sao được, khi giữa một chiều vàng thu rực rỡ, trên con đường đê chạy dài hay lối mòn nhỏ đan dọc ngang những ô ruộng bàn cờ, chợt lấp lánh xuất hiện trên bầu trời một cánh diều mảnh dẻ. Con diều nhỏ bay chấp chới, bỏ mặc cặp sách, vở bút trên vệ cỏ, người thả diều vừa rời trường làng. Lại cũng có đôi mắt trẻ tròn xoe dõi theo, la chí choé nếu cánh diều lạng đi không cất nổi mình trước gió. Đó là đám bạn lau nhau cùng đi chăn bò, chăn trâu. Trẻ con thuở ấy cũng chẳng khác là bao với đám trẻ bây giờ, vẫn hồn nhiên tinh nghịch, không kịp ca véo von dặn trâu như lời bà dạy trong truyện kể, vội vã đóng cọc, neo trâu vào một đám cỏ xanh. Con trâu ăn cỏ vòng quanh chiếc cọc. Còn cánh diều cứ vi vút mãi giữa trời. Diều liệng tròn, bay bổng, diều sà xuống thấp... hút hồn bao đôi mắt trẻ. Cánh diều thì mỏng manh lắm. Một vài thanh tre chuốt vụng, hai mặt giấy bồi cũng cuộn chỉ mẹ để dành may áo sang đông... đã có một cánh diều chở đầy tình yêu và sự sống.

Giữa không gian bao la, nếu bất chợt gặp một cánh diều bay trên trời cao, cánh diều công phu, nhiều màu, mô phỏng nhiều hình chim, bướm... hẳn sẽ càng bồi hồi như gặp lại người thân. Nhưng ngày nay, diều chim Lạc-Việt, diều trống đồng Đông Sơn, diều Tấm Cám, diều Thạch Sanh... dù đã bay trên bầu trời bè bạn năm châu, các nghệ nhân cũng không thể làm sống lại niềm háo hức hồn nhiên vừa thổi sáo, vừa cuốn diều của tuổi thơ trong trẻo. Cũng may, trên vệ cỏ bờ đê nào đó, trong lớp sương chiều mờ ảo, bọn trẻ vẫn còn biết quay những ống bơ lửa để ủ ấm ước mơ, để vụng về chắp cánh những thân diều...
 
Thu Hà Nội

--- Trương Cộng Hoà ---



Thăng Long - Hà Nội sắp bước vào tuổi 1000 - tuổi thiên niên kỷ. Mấy năm nay, thành phố thay da đổi thịt từng ngày. Ngoại ô càng lùi xa. Làng mạc, đồng ruộng nhường chỗ cho các trục giao thông, khu công nghiệp và khu đô thị. Vóc dáng cả Thủ đô mới hình thành từ các quận mới lập như Tây Hồ, Thanh Xuân, ở các huyện "ngấp nghé" lên quận như Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm...

Đừng nghĩ Hà Nội chỉ đổi thay ở chỗ làng thành phố, đồng ruộng thành nhà máy, xí nghiệp. Cánh đồng màu Tây Tựu ngày nào, nay đã trở thành cánh đồng hoa. Đi giữa đồng hoa Tây Tựu thấy lòng được an ủi trước sự mất đi của làng hoa Ngọc Hà, làng đào Nhật Tân. Trong suy nghĩ của mình, người nông dân Hà Nội không chỉ còn quẩn quanh với những cây lúa, củ khoai, mà đã mạnh dạn trồng những thứ mà xã hội cần, nuôi những loài mà xã hội yêu cầu. Đến những cánh đồng rau sạch ở ngoại thành Hà Nội, càng thấy vui khi người dân làm nhà kính để trồng hoa, làm giàn phủ lưới nhựa, phủ ni lông để trồng rau, không ỉ lại vào phân bón hoá học, vào thuốc trừ sâu và đang tiến tới loại bỏ dần chúng. Và những ruộng, những ao, những đầm nuôi cá chim trắng, cá điêu hồng và tôm càng xanh, làm phong phú thêm bữa ăn cho người Hà Nội.

Từ một đô thị hành chính thời thuộc Pháp, Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đạn nổ, bom rơi thời "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", thời những ụ súng máy thượng lên đỉnh trụ cầu Long Biên bắn máy bay Mỹ cháy đỏ một góc trời, Hà Nội trở thành "Thủ đô của phẩm giá và trái tim", trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Chiến tranh lùi xa, giờ đây Hà Nội là "Thủ đô của hoà bình".

Từ chỗ là một đô thị mà sản xuất hầu như không có gì, Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là một trong những đơn vị hành chính ít ỏi của Việt Nam làm ăn có lãi, nộp ngân sách cho Nhà nước. Riêng già nửa đầu năm nay, tổng đầu tư toàn xã hội ở Thủ đô là 10.115 tỷ VND. Đó chính là niềm tự hào của người dân Thủ đô.

Trong sự đi lên của Thủ đô, có nhiều điểm chưa vui. Đường phố theo lối "chuột chạy", giao thông theo kiểu "kiến bò". Lòng đường, vỉa hè hết đào lại lấp, hết lấp lại đào. Rất, rất nhiều nhà bên trong thì sạch, nhưng rác bẩn tràn ngập đầy đường. Tệ nạn xã hội không phải không còn, tai nạn giao thông tăng mạnh. Có nhiều người đổ lỗi: "Người Hà Nội bây giờ là người tứ xứ, văn minh đô thị chưa ngấm vào họ". Có thật chỉ vì như vậy hay không?

Có dịp đi lên khu "ba sáu phố phường", tôi thường ghé rạp hát Tố Như (trụ sở đoàn Chuông Vàng hiện nay). Ở rạp hát này, vào một đêm đông của "60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Liên khu 1" hơn nửa thế kỷ trước, có những người con Hà Nội thắt cho mình chiếc khăn quàng đỏ, thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Rồi sau đó, khi đã hoàn thành nhiệm vụ, họ lặng lẽ luồn qua khu phố cổ mà điểm cuối cùng là ngõ Phất Lộc, luồn qua gầm cầu Long Biên, vượt sông Hồng lên chiến khu Việt Bắc để rồi 8 năm sau, "trùng trùng đoàn quân tiến về" Hà Nội, tạo nên một hào khí Điện Biên mới trong lòng Hà Nội. Họ là ai, là những người lao động lam lũ: chú bé đánh giày, anh bán bánh giò, chị tiểu thương, là học sinh, sinh viên Hà Nội. Trong số họ, không hẳn người nào cũng là dân Hà Nội chính gốc. Nhưng từ ngọn nguồn truyền thống của tổ tiên, cha ông để lại, được giác ngộ lý tưởng mới mà ngọn cờ tháng Tám mang lại, họ đã tham gia một cách tích cực tạo nên truyền thống của người Hà Nội. Có lẽ cái thiếu để làm nên cái chất truyền thống của Hà Nội bây giờ chính là ở chỗ đó. Có thể trong một thời gian quá dài, chúng ta lo đến miếng cơm manh áo mà quên đi truyền thống văn hóa của tổ tiên, của sức mạnh văn hóa mà Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội đã hun đúc được.
 
Hương Lúa

--- Nguyễn Mai Hồng ---




Tôi sinh ra ở một làng quê nhỏ, nơi có con sông Đáy thơ mộng. Mẹ tôi bảo tôi sinh vào cuối thu, đúng vào mùa lúa chín. Có lẽ chính vì thế, từ khi chào đời, cùng với dòng sữa và tiếng ru ngọt ngào của mẹ, tôi đã được bao bọc bởi hương lúa dịu êm.

Khung trời đầu tiên còn lại trong trí nhớ của tôi mênh mang một màu xanh và cánh đồng bát ngát, con cầu nhỏ bắc qua sông, cánh diều trắng. "Món ăn" mà tôi thích là những quả sung, quả ổi, hay quả mít thôn quê. Trò chơi đầu tiên mà tôi tham gia chính là trò đuổi bắt hay trốn tìm bên đống rơm nếp ngày mùa thơm nức. Đôi khi chúng tôi bắt được một ổ trứng gà trong đống rơm, có khi lãng đi, đến lúc gà mẹ dẫn về sân một đàn con kêu liếp chiếp thì cả nhà mới biết.

Và mùa đông tới. Mùa đông trong trí nhớ của tôi dường như rét hơn bây giờ. Rét căm căm, gió táp vào mặt lạnh buốt. Vậy mà mẹ vẫn phải sục chân xuống nước, xuống bùn lạnh cóng, gặt về những gánh lúa vàng. Còn chúng tôi, được náu mình trong ổ rơm trong góc nhà để tránh rét. Để làm chiếc ổ rơm này, cha tôi phải chọn những đám rơm nếp sạch nhất, phơi khô, sau đó rải thành một tấm nệm dày ở góc nhà. Tôi thường nằm thật yên lặng, úp mặt xuống tấm nệm rơm đó hít đầy lồng ngực hương thơm ngọt của rơm nếp. Và hơi nóng ấm của rơm truyền sang tôi tự lúc nào, lan từ chân đến đầu, ru tôi vào giấc ngủ êm đềm. Sau này, được đắp chăn bông, chăn len, nằm nệm mút ấm hơn nhiều; tôi cứ thấy thiếu vắng mùi ổ rơm nồng ấm thân thuộc ấy...

Rồi tôi theo bố mẹ ra thành phố. Cha tôi không thích ở nơi phố phường đông đúc, ông chọn một mảnh đất nơi ngoại thành để cả gia đình sinh sống. Tôi vẫn gặp quanh mình khung cảnh thân yêu nơi làng quê: chung quanh nhà là cánh đồng lúa, là ao cá, bụi tre...

Vào mùa gặt, tôi thường theo bọn trẻ trong xóm đi mót thóc. Ẩn trong những gồi rạ là những bông lúa dù bé nhỏ cũng là niềm vui lớn lao của chúng tôi. "Năng nhặt chặt bị", mẹ thường bảo vậy, nên tôi đi mót rất chăm chỉ. ở những nơi mọi người bó lúa hoặc chất lúa lên xe bò, có nhiều thóc rơi. Những hạt thóc rụng như thế thường rất mẩy, bọn trẻ chúng tôi thường lấy đất nhão chấm những hạt thóc vàng đó và mang về đãi. Tôi và chị gái tôi đã nuôi được nhiều gà từ số thóc mót ấy. Sau mỗi lần bán gà, mẹ thường mua cho chị em tôi những bộ quần áo mới.

Con đường đến trường của tôi xuyên qua cánh đồng. Chính vì thế, tôi có thể cảm nhận và phân biệt rõ hương lúa khi đang trỗ đòng khác với hương lúa khi đang ngậm sữa hay khi lúa đã chín.

Những chiều mùa đông mưa rét, khi đi qua cánh đồng, tôi thường phải bỏ dép ra lội bộ. Bàn chân dầm trong nước lạnh buốt, nhưng hương lúa khi đó lại dường như nồng hơn. Những bông lúa nếp trĩu hạt, vàng óng như chuỗi cườm đung đưa trước mắt như những bàn tay khẽ vẫy, an ủi, động viên tôi. Vào những ngày đó, bọn trẻ chúng tôi rất thích ăn thóc rang - thường gọi là cắn chắt. Những hạt thóc nếp vừa rang xong, nóng hổi, nở bung như những bông hoa trắng lấm tấm, giòn tan. Nhưng "mưa rét là chuyện của trời"- với chúng tôi nằm trong chăn và cắn chắt đó là một niềm thích thú.

Tôi lớn dần qua từng mùa lúa. Rồi tôi phải xa bố mẹ, anh chị đi học đại học, rồi đi làm. Mỗi mùa lúa chín, tôi nhớ nôn nao mùi hương đồng quen thuộc và thường mơ được ăn bát cơm trắng thơm phức ngày mùa. Ngày xưa nhà nghèo, thường phải ăn cơm độn khoai, độn sắn, đến ngày mùa mới được ăn bát cơm trắng, không có thức ăn gì ngoài mắm tép mà chị em tôi ăn bốn - năm bát, no rồi mà vẫn thấy ngon.

Mới rồi tôi theo cha về thăm quê. Lại đi qua con đường với những cánh đồng lúa bát ngát. Những kỷ niệm tuổi thơ ùa về. Tôi như thấy cảnh bà tôi đang ngồi nấu bếp, ánh lửa hồng làm khuôn mặt của bà như trẻ lại. Nồi cơm đang được vùi trong tro rơm thơm nồng. Khi bắc ra, bà khẽ hớt lớp cơm trên cùng có vương ít tro bếp rồi lấy đũa cả đánh tơi nồi cơm, hương cơm bốc ra thơm nức. Trong hương thơm ấy, đượm cả hương của rơm nếp...

Tôi về đến làng vào lúc chiều tối, vậy mà làng xóm tịnh không thấy vương làn khói mỏng quen thuộc ngày nào, những cây rơm cũng chỉ còn lác đác. Tôi buông xe chạy ào xuống bếp. Bác tôi đang nấu cơm trên bếp than tổ ong. Tôi ngạc nhiên: "Sao bác phải nấu cơm bằng bếp than tổ ong?". Bác tôi mỉm cười bảo: "Bây giờ ở quê mình, cả làng nấu bằng bếp than rồi cháu ạ". Tôi lại hỏi: "Thế còn rơm thì để đi đâu ạ?". "à, bây giờ người ta thường đốt rơm rạ luôn ở ruộng để cho đất tốt hơn" - Bác tôi trả lời. Sáng hôm sau, tôi sang nhà chú tôi chơi, chú khoe: Mấy năm nay được mùa nên nhà chú sắm được ti vi, quạt điện và cả nồi cơm điện nữa. "Nồi cơm điện ư?", tôi tự hỏi khi tựa lưng vào đống rơm sau nhà.

Chưa lúc nào tôi nhớ bà như lúc này. Tôi rút ào một nắm rơm to. Mùi rơm ngọt. Tôi chạy vào bếp: "Bác ơi, bác để cháu nấu cơm cho". Bác tôi bảo: "Bếp than bác quạt đã hồng rồi đây này!". "Không cháu nấu bằng bếp rơm cơ". Tôi sung sướng ngồi bên bếp lửa, những ngọn lửa nhảy nhót như múa vui. Hương lúa ngào ngạt quanh tôi. Và tôi thấy đâu đây đôi mắt đang nheo cười của bà... Tôi thì thầm khẽ gọi: "Bà ơi!".
 
Hương Ước Xưa Và Quy Ước Nay

--- Vũ Hạnh Nhiên ---



Nói tới "hương ước", đối với tuổi trẻ nông thôn, cảm giác như xa lạ, đối với những bậc già cả, có chút hồi tưởng, có vui, có buồn. Buồn thì nhiều lắm. Chẳng hạn giữa đình làng đã xảy ra cái cảnh chiếu trên chiếu dưới, ăn uống chè chén rồi các vị có "máu mặt" trong làng khích bác nhau, chửi cạnh khóe nhau tạo ra cái việc làng đậm mầu hủ tục. Còn bao nhiêu thứ chuyện đắng cay hơn: Gọt gáy bôi vôi với những ai trót "không chồng mà chửa", và hàng chục những thứ phạt vạ khác, nhẹ thì đóng tiền, nặng thì trói đánh theo lệ làng bất thành văn mỗi thời lại được bổ sung. Nhưng những điều vui cũng không thiếu. Trước hết, hương ước xưa tạo nên chất keo kết dính tình làng nghĩa xóm, hạn chế những bất đồng, những thói hư tật xấu, đề cao những lễ nghĩa, duy trì những giá trị đạo đức như "uống nước, nhớ nguồn", "kính lão đắc thọ", "tôn sư trọng đạo"...

Ngoài những hương ước tinh thần, làng cũng đặt ra những lệ đóng góp vật chất để xây dựng quê hương với những hình thức tuy không bắt buộc, nhưng khôn khéo như kiểu "nộp cheo" đối với những đôi trai gái lấy chồng, lấy vợ ở xa, gửi tiền đóng góp trong trường hợp những ai được thăng quan tiến chức chốn triều đình hay làm ăn phát đạt ở nơi tỉnh thành. Nhờ đó, làng có thêm điều kiện sửa sang, xây dựng cầu đường, đình, trường học...

Trong hương ước xưa, cũng có nhiều điều "khuyến". Trong bài viết Truyền thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua hương ước (Tạp chí Xưa và Nay - số tháng 10-1998) đã công phu ghi lại nhiều điều (thành văn) trong hương ước một số làng ở Hà Nội mà nội dung là khuyến học, mà đọc lên, nghe thật thấm thía. Thí dụ: Hương ước làng Nhật Tân, điều 102, ghi: Dạy trẻ con có học thức phổ thông là nghĩa vụ của người làm phụ huynh, không ai được từ. Hương ước làng Phù Xá Đoài lập năm 1906, có điều khoản ghi bắt buộc trẻ ở độ tuổi lên 5, lên 6, cả trai lẫn gái, phải đi học "bằng không cho đi học, chỉ nuông con để nghịch giặc, chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi trầu (10 quả cau, giá tiền một hào)". Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98, ghi: "Làng trích tiền công để mua giấy cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể mua được...".

Xưa kia có câu "phép vua thua lệ làng". Điều đó cũng dễ hiểu, trong bối cảnh thấp kém về trình độ quản lý của Nhà nước phong kiến, thì lệ làng có thể khai thác để giành quyền nhất định. Hơn nữa "phép vua" thời phong kiến, tất cả không phải vì lợi ích của nhân dân, và tương lai của sơn hà xã tắc, khiến cho làng phải đi tới những lệ để đề kháng. Nhưng xin hiểu lệ thắng được phép không phải là hiện tượng phổ biến. ở đây là sự vận dụng khôn khéo, đôi khi như một kiểu "cách".

Ở miền bắc hương ước cổ truyền tất không thể tồn tại, thay vào đó là nhiều hình thức quy ước trong đời sống thôn xã; còn ở miền nam, một số điều khoản của hương ước xưa vẫn lay lắt tới ngày giải phóng. Sau đó nông thôn cả hai miền đều có những phong trào xây dựng nếp sống mới theo hướng chỉ đạo chung của một số cơ quan trung ương. Diễn biến của các phong trào đó như thế nào, không thuộc phạm vi của bài viết này. Chúng tôi muốn nói tới việc xây dựng các quy ước ở nông thôn hiện nay.

Các quy ước này ra đời xuất phát từ các cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa (Bộ Văn hóa-Thông tin), phát động từ nhiều năm nay các thông tri, chỉ thị về "Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" (ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), "Xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư", "Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở" (Thủ tướng Chính phủ)... Nhiều vùng nông thôn đã lồng ghép các cuộc vận động nói trên trong phong trào xây dựng thôn, ấp văn hóa với những mô hình, thiết chế cụ thể trong đó có việc lập quy ước.

Đương nhiên, các quy ước trong thôn ấp hiện nay không cho phép tồn tại những lề thói khắc nghiệt, hủ lậu, phi lý của hương ước xưa, nhưng đồng thời cũng mong muốn khơi dậy tinh thần hương ước để xây dựng cuộc sống mới ngày càng tốt đẹp. Tinh thần đó là: tình họ hàng; tình nghĩa xóm làng hướng vào các mục đích như hỗ trợ nhau trong sản xuất - kinh doanh, định hướng cuộc sống hạnh phúc gia đình trong êm ngoài ấm, kính già, thương trẻ, sắp xếp nhà cửa ngăn nắp, vệ sinh, góp phần xây dựng cảnh quan xóm làng, bảo vệ trật tự trị an",...

Có xây thì có chống, chống hàng đầu là vi phạm pháp luật, chống các tệ nạn như cờ bạc, ma túy, sử dụng và chứa chấp văn hóa đồi trụy, bài trừ các thói lố lăng, lãng phí trong ma chay, cưới xin, giỗ, Tết... Chúng tôi đã từng hỏi: Những quy ước của một số thôn ấp, có được bà con đông đảo trong thôn ấp bàn bạc không? Tất cả đều trả lời có. Khi hỏi bà con có nhất trí không? Được trả lời: Rất nhất trí. Làm sao không nhất trí được, vì mọi điều của nội dung quy ước đều là lợi ích của mọi người. Nhưng thành thật mà nói, đọc nhiều bản quy ước, cho nhận xét, nó như từ trên rớt xuống, như những khẩu hiệu dài và phần lớn, giống nhau như đúc (được in sẵn từ tỉnh, huyện đưa về phân phối đến từng nhà). Tình trạng đó khiến cho quy ước không trở thành hình ảnh "cầu tiến" riêng của từng thôn ấp.

Nhớ lại những hương ước xưa, có tới hàng trăm khoản vậy mà bà con đời này qua đời khác vẫn nhập tâm. Lý do: nó thiết thực với thực tế, với bản sắc, với tâm lý của từng thôn ấp. Tất nhiên, làm quy ước bây giờ không nên khôi phục lối quá nhiều khoản như hương ước xưa bởi vì trình độ đã khác, không cần đến những "nội quy" quá tỉ mỷ. Càng không có chuyện phạt những hiện tượng gì ngoài luật định. Cũng có nơi tiếp nhập quy ước từ cấp trên hướng dẫn xuống "rất vui vẻ" nhưng kèm đó là những "hương ước ngầm", chủ yếu nặng về ép buộc đóng góp hoặc quyên góp tự nguyện ngoài những quy định của những Nhà nước. Những tiền thu được này nặng về xây đình, lập chùa, cúng giỗ không thiết thực cho đời sống mới...

Vì đã có "quy ước" do dân bàn, tự nguyện ký tên cam kết thực hiện với tư cách đường đường, chính chính rồi, cho nên những "hương ước ngầm" cũng ngầm luôn cả việc chi tiêu "hương quỹ", dẫn đến tư túi, chia bôi bất chính, gây bất ổn trong đời sống thôn xã. Thêm một vấn đề nữa: Ai là người đứng đầu điều hành việc thực hiện quy ước? Xưa là các ông tiên chỉ, ông hội đồng, các bậc kỳ lão... (không phải ai cũng có uy tín dài dài, không ít người trở nên mất nết). Nay là các trưởng ấp, trưởng thôn. Trưởng ấp, trưởng thôn hiện nay đều trẻ, có học vấn nhất định lại là đại diện của chính quyền ở cơ sở... cho nên gánh vác trách nhiệm này và đương nhiên nhiều thuận lợi. Nhưng vì trẻ, cho nên họ dễ "kẹt" khi phân xử những phải trái trong những quan hệ tế nhị, nhất là những mối quan hệ ở lớp người lớn tuổi, thuộc hàng cha chú. Nhiều nơi, tìm được giải pháp: mời các cụ có uy tín nhất trong các ban mặt trận.

Hương ước hay quy ước thôn ấp, theo thiển nghĩ, chỉ là cách gọi, nhưng nội dung và phương pháp "hành xử" đã hoàn toàn khác biệt nhưng trong đó vẫn có phần dành cho sự kế thừa "gạn đục khơi trong". Những quy ước trong đời sống nông thôn hiện nay được xây dựng đều hướng vào mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", do vậy được lòng dân. Dư luận cuộc sống ở cơ sở chỉ mong, đối với các ban, ngành cấp trên trong công tác chỉ đạo, chớ có đánh trống bỏ dùi hay đánh trống khua chiêng hình thức, đối với cán bộ thôn ấp, đừng từ quy ước sản sinh ra những hương ước không thành văn với những điều khoản gây phiền hà cho nhân dân, dẫn đến những vi phạm quy định, luật pháp của Nhà nước.
 
Rét Đậm

--- Băng Sơn ---




Trong đêm lang thang Hà Nội nhớ nhà và cô đơn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương viết não nề: "... đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng...". Năm mươi năm sau, trong những đợt gió mùa rét đậm người được gọi là ca nhi ấy có còn hát và ôm bóng mình trong cõi hư không?

Rét đậm là những mũi dao xuyên da thịt, nhưng gió không gây tội ác như lũ ăn sương, dù rằng gió nức nở than vãn trên mái cây, hành hạ những ai thiếu một góc nhà có thể pha một ấm trà mà tự tâm sự một mình.

Rét đậm. Ai đang đi ra phía ngoại ô? Ai đang từ phía ấy vào những cái chợ còn đang ngái ngủ theo những tấm vải bạt che kín các quầy hàng?

Chợt âm vang không thành tiếng câu ca bài: "Ba mươi sáu giọng" trong điệu "hát vặn" cửa đình:

Nửa đêm về sáng, giăng bằng cái ngọn cây tre
Đã yêu nhau xin trọn một bề...

Nửa đêm về sáng, gió đánh bạt trăng về một góc địa cầu , ai cất tiếng thì cũng chỉ là hư tưởng với bóng mình co ro cùng sênh phách, mà cho đến ông già tẩm quất mù cắp cái chiếu đi rong cũng chẳng thể chọn một bề vì bụng lép và phong phanh tấm áo mùa hè.

Rét đậm. Ai còn một đèn một bóng, thi nhân hay kẻ say vàng đang đếm tiền sau một ngày hối hả? Nói như nhà thơ Maiakovski: "Giờ này ra đường, không là đạo chích thì chỉ có thi sĩ..."

Thức đêm đã thành cái bệnh kinh niên, mãn tính của kẻ bút nghiên, sá gì trăng hay rin rít gió gào đêm tàn rét buốt.

Những góc thành phố, những ngõ nhỏ âm thầm, một con đường chưa có tên, chưa treo số nhà, một căn nhà cũ thiếu tiện nghi, tường là tấm màn gió mỏng manh đã hoen vết tay người vén lên hạ xuống, một căn nhà mới xây ba bốn tầng trang bị đủ đèn chùm máy sưởi, có đệm kê chân, có ấm đun nước khi sôi tự réo như còi... Những thi sĩ văn nhân nào đang vắt vần, đẻ chữ để sẽ có những tập thơ, tập sách ra đời, nhiều khi chỉ để tặng bạn bè.

Rét đậm. Tin thời tiết chắc cũng đã bay theo tốc độ sức gió vào đến phía nam, cô phát thanh viên đã tẩy trang, trùm chăn ngon giấc.

Vườn đào Bắc Sơn năm nay hoa nở muộn. Đầu chạp rồi, những gốc đào vẫn như vừa bị đốn đau. Tại rét đến muộn hay tại rét đến sớm? Nó chờ hay nó lỡ thì? Ai mà biết được.

Khuya này, mặt ao Yên Sở có khi nổi váng vì rét đậm. Chưa băng nhưng buốt chết đàn cá rô Phi. Chiều nay ai ngồi nghe leo reo chảo mỡ rán bánh tôm Hồ Tây, phải kéo cao cổ áo để tránh cái gió gai ghê người từ hai con hồ thổi thốc tung làn tóc, hẳn biết rằng sớm mai đây, mấy cụ già quen ra bờ hồ tập dưỡng sinh sẽ thiếu đi vài cụ, người không dậy nổi vì rét buốt, người nghe cái rét rủ đến chân trời định mệnh tuổi già...

Chiều ba mươi tết (1996) rét đậm xô ngã nhà thơ lục bát tài năng Nguyễn Bính xuống bờ ruộng xứ Nam Hà. Ông mang theo đi bao nhiêu bài lục bát nữa về cõi "hoa chanh nở giữa vườn chanh", mang theo đi bao nhiêu bóng ca nhi soi bóng, những ca nhi chỉ có trong cõi thơ tưởng tượng vì một đời thi nhân nghèo xác. Rét đậm này thì hoa chanh nở rộ, dù chanh ăn quả, dù chanh gội đầu...

Đêm Hà Nội càng về khuya rét càng đậm thêm, người vội vã thêm, cây xào xạc rõ thêm. Có lẽ chỉ còn những nẻo dẫn ra tứ trấn còn loang loáng ánh đèn xe quét. Lên Sơn Tây hay về Ngọc Hồi, Thường Tín. Sang Gia Lâm hay qua Ô Chợ Dừa, vào Phù Lư Chanh, Mai Lĩnh... Rét này bắp cải càng tròn, xu hào bánh xe càng mỡ phấn, cải Đông Dư càng mập mạp cho vại dưa đón Tết, trừ cải ngồng thành món rau luộc đắng nhờ nhợ, nhưng duyên như một nẹt đen giòn, ngon như một dã vị đắng cay để nhớ.

Rét đậm phải chăng cũng là một thứ "lộc" mà trời đất ban tặng cho xứ bắc trong đó có thủ đô Hà Nội. Thuở nay, người thành phố thật đủ đầy các phương tiện chống rét: áo quần, len dạ, măng tô... đủ loại, còn giầy, còn mũ, còn có điều hòa máy lạnh, máy sưởi điện... Nhưng nếu như không có rét đậm hẳn rau cỏ, hoa trái cho đến những cành đào, cây quất của xứ bắc không thể có nổi hương vị ngon lành và thắm sắc cho con người. Rét đậm là thử thách và chắt lọc cho đời những mùa mật ngọt, phải thế không...! Người ở phương nam sợ lắm cái rét phương bắc, người phương bắc lại mơ đến một ngày ấm áp phương nam... Thời tiết cũng là một thứ "luật" của trời đất để cân bằng sự sống, sinh sôi và phát triển...

Người bạn phương nam nhớ về rét bắc, nghe bản tin thời tiết có tắt cái máy điều hòa để đốt lên ngọn than hồng trong tưởng tượng mà bay về ăn một miếng cá bống kho khô với hạt tiêu cùng đĩa dưa cần chua sần sật?

Bạn ta ơi, cứ về đây. Rét đợi.
 
Từ Nếp Nhà Truyền Thống

--- Ngô Huy Huỳnh ---




Nói nội thất phải chăng là nói đến một lĩnh vực văn hóa vật chất của con người mà tiện nghi và mỹ quan là yêu cầu không thay đổi với kiến trúc bên trong nhà ở của bất cứ thời đại nào?

Nội thất không tách rời bộ khung kiến trúc truyền thống. Khi nhà dựng bằng gỗ tre thì giường chõng tre rải chiếu cói đã rất quen với đồng bào nông thôn.

Bộ khung nhà với cột xà, kẻ, chồng, đường chạm khắc và soi chỉ vào gỗ, từ gỗ xoan đến lim, gụ, táu đã từ lâu tạo nên phong cách mang tính quyết định đối với nội thất. Nội thất đây là nói nơi ở của thường dân hay quan lại, người giàu, là nói nơi thờ Phật hay thành hoàng, là nơi quán sơ sài, nơi dừng kiệu của quan lại đi tuần hay là điện huy hoàng trong Đại Nội Huế.

Trong khuôn cảnh do khung nhà, cột, xà, kẻ... tạo ra, đồ đạc trong nhà ở có phong thái riêng biệt.

ở nhà ba gian, cửa mở rộng ra sân, bộ tràng kỷ vàng nhạt màu bằng tre, bương hay vầu chiếm gian giữa. Nếu nhà rộng còn có tấm phản gỗ đặt giữa tràng kỷ và bàn thờ tổ tiên.

Từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long, phản gỗ là hai tấm lim, gụ hay táu dày trung bình 10 phân Tây. Sức bền vững của phản gỗ cho phép truyền từ đời nọ sang đời kia. Không ít tấm phản gỗ quý đã làm nắp hầm tránh đạn thời chiến hay đã cùng đất đá và đồ đạc khác tạo thành ụ vững chống xe tăng giữa đường phố Hà Nội.

Khi công cụ đẽo gỗ còn là con dao, cái rìu, khi sàn nhà và vách ngăn còn làm toàn bằng tre, vầu, thì nội thất quen thuộc của đồng bào Mường, Thái, và nhiều đồng bào khác là ghế mây, tre, bày quanh bếp lửa hồng giữa nhà, rung động màu sắc các thổ cẩm rực rỡ trên thân hình người đẹp hay quanh giường màn dành cho khách mời.

Sập gụ, tủ chè và bàn ghế nhiều chạm khắc và khảm ốc là nội thất của nhiều nhà giàu ở cả bắc, trung, nam Việt Nam. ở Huế, khách ngồi trong nhà nhìn ra sân, còn thấy rui mái hiên khảm ốc. Nội thất và các thành phần của bộ khung nhà truyền thống hòa hợp với nhau, tạo nên phong cách Việt Nam ở nhiều thời đại.

Những nhà quyền quý, quan lại, nội thất không thể thiếu những câu đối trên cột, trên tường và bức hoành phi với mấy chữ đại tự ở vị trí trang trọng trên cao bàn thờ. Càng uy nghiêm hơn nếu có một giá cắm đủ các loại binh khí: thương, giáo, long đao...

Ngày nay, khi kiến trúc nhà ở đã đổi thay theo kết cấu bê-tông cốt thép và gạch nung, phong cách trang trí nội thất truyền thống vẫn còn sức mạnh của nền văn hóa dân tộc sống động. Bàn ghế bằng song, mây kết hợp ghế tựa, tủ chè bằng gỗ quý chạm khắc và khảm xà cừ còn là món hàng ưa chuộng đang bày bán ở nhiều cửa hàng. Sự tách biệt giữa đồ đạc và kiến trúc phòng ở đã ngày càng rõ rệt.

Từ năm 1962, kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức đã chỉ ra một phương án trang trí nội thất: kỹ thuật tân tiến đã đem lại lối thoát cho kiến trúc cổ truyền Việt Nam mà vẻ thanh tao đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn nếu không phải là được tăng thêm lên nữa.

Đó là một trăn trở văn hóa của một nhà kiến trúc gần 40 năm qua. Ngày nay, nhiều kiến trúc sư trẻ vẫn nung nấu những hoài bão phát triển nền văn hóa truyền thống qua kiến trúc và trang trí nội thất. Tuy nhiên, các mặt hàng chế ngự thị trường hiện nay là mọi kiểu ghế bành bọc vải giả da, bọc ni-lông mềm mại như ôm lấy người ngồi...

Sự trang trí nội thất cùng với sự sáng tạo kiến trúc vẫn vươn lên theo hướng phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta cần tiếp tục chứng minh những cố gắng sáng tạo của các nghệ nhân, các nhà kiến trúc và họa sĩ.
 
Hoa Gạo Tháng Ba

--- Hoàng Trọng Muôn ---




Tháng ba, khi cái rét nàng Bân làm tê tái lòng người, khi những đợt mưa bụi cuối xuân làm cho những con đường đất quanh làng nhão nhoét, lầy lội và trơn tuột; khi những cánh hoa xoan li ti màu tim tím nở, đưa hương ngan ngát là lúc những chùm hoa gạo bung ra, đỏ rực như một đài lửa khổng lồ làm sáng bừng cả ngõ xóm. Đứng từ rất xa, người ta vẫn còn nhận thấy tháp lửa đỏ rực vươn lên trên trời cao của cây gạo đầu làng. Hoa gạo gọi về bao nhiêu chim: chào mào, sáo sậu, sẻ quạt, chích choè, chim sâu.... hót ríu ran, ríu rít chuyền cành.

Lũ học trò quê ngày nào đi học về cũng tập trung dưới gốc cây dùng súng cao su bắn chim. Đứa thì lấy dao nạy những mảng gai gạo về nhà hì hục đẽo, gọt thành những dấu chiện, nhúng vào lọ mực xanh Cửu Long, đóng vào bìa quyển vở, quyển sách giáo khoa trông lem nhem rất bẩn nhưng đứa nào cũng thích vì cảm tưởng như mình là một cán bộ cao cấp có con dấu riêng.

Hoa gạo rụng đỏ đường làng, đỏ đầu ngõ. Trời mưa, đất trơn lầy lội, những bông hoa gạo đỏ tươi là vậy, mập mạp là vậy, khi rơi xuống đường, bùn đất dính đầy trông rất bẩn. Nhiều bông bị những người đi xe đạp xéo lên be bét. Lũ trẻ con chúng tôi rất thích ăn hoa gạo nên thường chọn những bông hoa mới rụng, đem xuống hồ bên cạnh khoắng khoắng vài lần là sạch bong, vẩy vẩy nước rồi lau lau, chùi chùi lên áo vài lần là ăn được. Chúng tôi bóc chia cho mỗi đứa một cánh hoa, đứa ăn đài hoa, vừa ăn vừa nhìn lên ngóng hoa gạo rơi. Chẳng biết có phải ngày đó do chúng tôi thường xuyên bị đói cho nên ăn hoa gạo cảm thấy rất ngon, rất ngọt, thấm thía được cái hương vị tuổi thơ ngọt ngào trong những bông gạo vừa rớt cành hay do tuổi thơ lam lũ đã gắn bó chúng tôi hơn với đất, với làng, với những cây gạo tháng Ba hoa sai chi chít, với những buổi trốn học đi chơi, với những nỗi buồn tuổi học trò không được giải toả mà chúng tôi bỏ ra ngồi lì dưới gốc gạo nghĩ vẩn vơ hàng tiếng đồng hồ.

Cái thú nhất của chúng tôi mỗi mùa hoa gạo nở là thi bắn hoa gạo. Mỗi thằng một chiếc súng cao su và một nắm đá viên nhỏ, thằng nào bắn rụng nhiều hoa nhất sẽ được ăn tất cả hoa của những thằng còn lại, được mang hoa về nhà và được bọn nó sách cặp cho. Tôi thuộc hàng xạ thủ nên đi học thường có kẻ ôm sách cho, chỉ việc vừa đi vừa vung vẩy chiếc súng cao su như một viên tướng chỉ huy. Chỗ nào tôi dừng lại, bọn chúng cũng đứng lại, tôi bỏ đi chúng lại lẽo đẽo theo sau. Nhiều lần về học, tôi đã biểu diễn tài nghệ của mình để khao quân bằng một bữa hoa gạo chán chê.

Có lần tôi khao bọn chúng bằng cả một bữa thịt chim quay béo ngậy đầy mùi khói rơm. Đứa nào cũng thích, cũng phục tài tôi. Tất cả những điều đó làm tuổi thơ của tôi trôi qua êm đềm, hạnh phúc, đã nuôi lớn những ước mơ còn non dại của lũ học trò quê chân trần đi học.

Chúng tôi lớn dần lên, mỗi đứa ôm theo mình một khát vọng thành đạt để rời xa cái kham khổ, đói nghèo của một miền quê đồng chiêm trũng. Những mùa hoa gạo cũng lần lượt trôi qua trong lặng lẽ, tủi hờn. Khi mà cả nhóm chúng tôi và nhiều nhóm khác chia tay nhau dưới gốc cây gạo đầu làng để đứa đi làm ăn xa, đứa đi học đại học và cùng hẹn nhau một ngày trở về khi đã trưởng thành. Và rồi cuộc sống bận rộn với bộn bề lo toan vất vả đã xoá dần đi những mùa gạo và ký ức tuổi thơ trong mỗi chúng tôi. Bạn bè của tôi đã trưởng thành cả, Đứa làm ở Việt Nam Airlines, đứa làm ở viện khoa học, viện kiểm sát, toà án, bưu điện, đứa làm trong liên doanh, đứa đi dạy học... và hầu như đều có xe máy cả. Có lẽ vì vậy mà mỗi lần về làng, đi qua gốc gạo, chẳng đứa nào kịp giật mình dừng lại để nhìn lại quãng tuổi thơ lam lũ của mình để sống tốt hơn, thật hơn với lòng mình, để đi thăm hỏi bạn bè - những đứa đã gắn bó với mình suốt quãng đời ấu thơ khó nhọc, để ăn vài cánh hoa gạo xem hương vị của nó bây giờ thế nào.

Đường làng ngõ xóm của chúng tôi đã đổ bê tông cả nên những bông gạo rớt cành bị gẫy dập cánh và bị mọi người vô tình dày xéo. Lũ học trò quê bây giờ không thích ăn hoa gạo và mỗi khi có đứa nào dừng lại nơi gốc gạo thì chỉ vì chúng muốn bắn chim. Chim chóc bây giờ cũng ít lắm rồi, năm thì mười hoạ mới thấy một bóng chim chào mào, sáo sậu, còn lại thì thỉnh thoảng những con chim sâu cần mẫn chuyền cành tìm con mồi.

Súng cao su bây giờ lũ trẻ con cũng không dùng nữa, thay vào đó là những khẩu súng hơi. Chẳng còn ai hiểu được những lời thầm thì to nhỏ của cây gạo cả chỉ còn thời gian phũ phàng phủ lên những mùa hoa gạo một nỗi buồn sâu lắng. Có lẽ chỉ còn bác sửa xe đạp già đã từng bước ra từ khói lửa của cuộc chiến tranh là còn hoài cổ, còn đoái hoài đến những mùa hoa. Đã mấy năm nay, bác dựng quán sửa xe ngay dưới gốc gạo này và ăn ở luôn tại đó. Ngày ngày bác cần mẫn quét những cánh hoa rơi dồn lại cho chúng khỏi bị dập vùi dưới những bánh xe vô tình của thiên hạ và thỉnh thoảng người ta lại thấy bác ca cẩm một mình rôì thở dài thườn thượt.

Bác cũng như cây gạo, không theo kịp với dòng chảy hối hả của thời gian, đang dựa lưng vào nhau để tìm niềm an ủi khi mọi người đã bỏ rơi mình để vượt lên phía trước. Lòng tôi chợt chùng xuống, bàng bạc một nỗi buồn.
 
Hà Nội - Phố

--- Hoài Hương ---




Bước từ một thế giới sôi động ồn ào đầy gió nắng của phương Nam chợt như rơi vào chốn mộng nơi kinh thành đầy huyền thoại phương Bắc.

"… Em ơi, Hà Nội phố, ta còn em, mùi hoàng lan, ta còn em, mùi hoa sữa. Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ, ai đó chờ ai tóc xoã vai mềm" (1)… Hà Nội trong mắt ai thật tình, thật thơ và thật mơ. Màn đêm đồng hành với mùi hương lãng đãng bao lấy từng khoảng không cuốn theo bước chân phiêu du trên phố vắng. Thoáng thảng thốt đến nỗi một nhịp đập trái tim khi cơn gió vô tình nghịch ngợm thổi vào sợi tóc vấn vít ngang mắt, ngang môi như nụ hôn đùa phớt qua, để rồi nhớ đến nao người hình bóng tình yêu đã khắc dấu ấn ngọt ngào một thời ngày xưa còn trẻ. Hương xưa còn đây, người ở đâu, có ai vuốt tóc trên bờ vai mềm ngày ấy… Phố vẫn còn đây, tiếng chân bước xa lắm rồi… "Hà Nội mùa này chiều không buông nắng. Phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô. Quán cóc liêu xiêu một câu thơ. Hồ Tây tím mờ…" (2). Tiếng hát chơi vơi bềnh bồng rơi theo giọt mưa, lăn theo gợn sóng mặt hồ mờ sương, Hà Nội của 1000 năm xưa thấp thoáng ẩn hiện, rêu phong cổ kính, dịu dàng giấu trong mình bao nhiêu truyền thuyết về tình yêu, tình người và tình thơ… Lặng lẽ ở một góc kinh thành cổ, chìm vào ngày xửa ngày xưa… Đâu đó tiếng mái chèo khua nhẹ giữa làn nước trong veo điểm vài chiếc lá sen xanh ngắt lấp ló một nụ hoa phớt hồng, chợt giật mình nghe vang trong không gian tiếng cười thách thức của nữ sĩ họ Hồ, trái tim thổn thức theo chàng thi sĩ tài hoa họ Nguyễn đang khóc cho thân phận nàng Kiều lưu lạc chốn bụi trần. Buông tiếng thở dài như nghe trong tĩnh lặng âm thanh đổ vỡ của kinh thành loạn lạc thời Trịnh - Nguyễn giao tranh… Hà Nội chiều mưa, đọng từng giọt nước, ướt đẫm mắt ai, để rồi hồn thơ phiêu bồng.

"… Hà Nội đẹp sao. Ôi, nước Hồ Gươm xanh thắm lòng. Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng…" (3). Người cứ mềm đi trước bóng liễu thướt tha rũ cành vờn trên mặt nước xanh ngọc bích, ngẩn ngơ dõi theo tà áo dài nhẹ bay như nhìn thấy tố nữ trong tranh mới bước ra tinh khôi, quyến rũ đến cháy lòng. Bắt gặp một cái nhìn lúng liếng giấu sau hàng mi rợp, người ơi gặp gỡ làm chi. Khách phương xa sẽ chết chìm trong mắt người… và bước chân như hút theo vô định… mơ hay thực… Bóng nước nghiêng soi lung linh từng chùm nắng vàng như mật… Phố cứ dài như dòng chảy của những tứ thơ tuôn tràn.

Hà Nội - Đông Đô - Thăng Long. Với khách phương Nam là chốn thả hồn lãng du, là cõi phiêu bồng thoả cơn khát về một thời mộng. Hà Nội là thơ. Hà Nội là tình yêu. Hà Nội vương vấn bao trái tim. Hà Nội để thương để nhớ. Hà Nội muôn thuở…

…"Dù có đi bốn phương trời lòng vẫn nhớ về Hà Nội…" (4).

_________________

(1) Em ơi, Hà Nội phố - Phan Vũ, Phú Quang
(2) Hà Nội mùa vắng những cơn mưa - Trương Quý Hải
(3) Người Hà Nội - Nguyễn Đình Thi
(4) Nhớ về Hà Nội - Hoàng Hiệp
 
Hồ Gươm

--- Hoàng Kim Đáng ---



Hồ Gươm có một bề dày lịch sử và huyền thoại song hành với bề dày lịch sử của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Hồ Gươm là trái tim của Thủ đô đất rồng bay. Nhà thơ Hy Lạp Ludemit đã ví: "Hồ Gươm là lẵng hoa xinh đẹp giữa lòng thành phố". Nói đến Thăng Long - Hà Nội không thể không nhắc tới chùa Một Cột (thời Lý), Cột Cờ lịch sử trong thành Hoàng Diệu, điện Kính Thiên, bến Chương Dương bên sông Hồng, đến vườn hoa Ba Đình lịch sử. Nhưng mọi người dân Việt Nam hay người nước ngoài đến Hà Nội không thể không đến với hồ Gươm và mang theo nó trong ký ức, trong tâm thức thật khó phai mờ. Hồ Gươm có thể còn nhiều tuổi hơn cả kinh thành Thăng Long xưa, và được mang khá nhiều tên: hồ Lục Thủy, hồ Tả Vọng, Hữu Vọng, hồ Thủy Quân... Đặc biệt, đầu thế kỷ XV hồ được mang tên "hồ Hoàn Kiếm" hay thường gọi là hồ Gươm. Đầu thế kỷ XV, hồ được gắn với tên tuổi người anh hùng dân tộc Lê Lợi - lãnh tụ của nghĩa quân Lam Sơn qua sự tích bắt được thanh gươm thần trên sông Thu (quê hương ông). Ông mang bên mình thanh gươm báu ấy suốt 10 năm cùng Nguyễn Trãi lãnh đạo nghĩa quân đánh đuổi quân xâm lược Minh. Năm 1427, khi giặc tan, ông lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Lê Thái Tổ. Một hôm, Lê Thái Tổ ngự thuyền rồng dạo chơi quanh hồ. Bỗng một con rùa vàng nổi lên. Ông vung gươm chỉ vào rùa vàng. Tự nhiên thanh gươm rời khỏi tay và bay về phía rùa vàng. Rùa liền há miệng gậm thanh gươm báu lặn xuống lòng hồ. Vua Lê cho rằng đó là điềm lành của trời đất. Nước Việt Nam ta từ nay sẽ thanh bình, thịnh trị.

Một văn sĩ người Ba Lan bay trên bầu trời Hà Nội, khi về nước đã viết thư cho nhà văn lão thành Nguyễn Tuân: "... tôi muốn đánh ghen với tạo vật, cái thứ tạo vật biệt nhỡn với những con người Hà Nội, không thế sao Thủ đô các anh lại có được một cái hồ xinh nhường ấy! Tôi mệnh danh hồ Hoàn Kiếm của anh, của các anh là viên ngọc Ermos. Thật vậy, khi tàu bay tôi nghiêng cánh mấy lần để chào thành phố Hà Nội anh dũng và duyên dáng, nơi đầu cánh tàu bay tôi lấp lánh một viên ngọc, nó xanh như màu xanh của ước mơ vô tận. Với các anh, tạo vật nhiều lúc khắt khe, nhưng có lúc đã là thợ kim hoàn rất ý nhị. Hồ của các anh nằm giữa thủ đô như một viên ngọc Ermos, nằm giữa cái nền hộp nữ trang bọc nhung xanh, hồng, kẻ đường con cò...". Một anh nhà báo nước ngoài có tên là Anian Xơn lại có một cái nhìn rất thực tiễn cuộc sống và cũng rất hình tượng: "Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội - Việt Nam như một chiếc đèn kéo quân khổng lồ. Người và xe lướt theo nhau vội vã, hối hả bằng một lực đẩy cuộc sống vô hình. Hồ Gươm - chiếc đèn kéo quân ấy cứ quay mãi, quay mãi theo dòng chảy thời gian vô cùng tận..." Còn nhà điện ảnh Xô Viết nổi tiếng Roman Karmen lại có cái nhìn rất lịch sử và giàu ngôn ngữ tạo hình: "...trung tâm Hà Nội và tháp cổ giữa hồ là kỷ vật lịch sử quý báu của nhân dân Việt Nam. Đường quanh hồ với những hàng cây cao chạy quanh và tháp Rùa đã tạo nên một cảnh quan rất đẹp; thậm chí cả trong màn mưa dày hạt, cảnh quan hồ Gươm vẫn rất đẹp!". Mới năm 1998, kiến trúc sư trưởng của một thành phố ở tận phía tây Australia đến Hà Nội lại có một cái nhìn khác: "... hồ Hoàn Kiếm là chiếc máy điều hòa nhiệt độ thiên nhiên vô giá, nếu ta biết giữ gìn. Hồ Hoàn Kiếm là trái tim của Hà Nội, là lá phổi khổng lồ lọc cho không khí thủ đô trong lành. Tôi đã đến nhiều nước nhưng không có nhiều thành phố trên thế giới có diễm phúc đến như vậy!". Còn nữ văn sĩ Cộng hòa Liên bang Đức Annaliese Wulf đã dành cả trang sách để tả về hồ Gươm, ca ngợi hồ Gươm hết lời, còn có một lời khuyên những ai đến Hà Nội - Việt Nam rằng: "Ai chưa một lần tới hồ, dạo quanh hồ, ngắm phong cảnh hồ, chưa nghe huyền thoại về rùa, coi như chưa đến Hà Nội, chưa đến Việt Nam".
 
Cảm Xúc Tháng Ba

--- Bùi Anh Phong ---



Mùa xuân này tôi xa Hà Nội. Một chuyến tàu trong hành trình về phương Nam chật ních người, đã đưa chúng tôi rời ga mang theo cái rét ngọt và không khí Tết của đất Hà thành.

Sài Gòn đón tôi bằng ánh mắt tưng bừng, những phố phường nhộn nhịp, ồn ào, sôi động và bụi bặm, cái rét của miền Bắc lập tức tan vào trong nắng gió phương Nam, tan vào những xe nước đá bon bon trên các nẻo phố.

Hà Nội bây giờ đang là tháng ba. Cái rét tháng ba thường kèm theo mưa phùn nhè nhẹ giăng trên các phố phường. Thứ mưa bụi nhè nhẹ và dai dẳng ấy lại chính là một trong những yếu tố làm nên bản sắc tháng ba. Mưa tạo cái ướt át, cảm giác se lạnh, cảm giác mềm mại và trên cả là sự nhẹ nhàng, mỏng manh. Có lẽ chỉ có mùa xuân mới có một thứ mưa dịu dàng đến thế. Nó gần như là sự tinh khôi... Mưa xuân lặng thầm đánh thức những chồi non trốn mùa đông trong lớp vỏ cứng, cho tới một sáng ngày nào đó thức dậy ta thấy lá òa xanh trên những cành cao, màu xanh non như được thoa thêm một lớp dầu bóng láng mịn. Góc phố của tôi - nơi mà tôi vẫn thường hò hẹn với người con gái đầu tiên trong cuộc đời, những cây bàng chắc giờ đây đã xanh um lá và trong tán xanh nguyên khôi ấy vẫn còn lác đác những chiếc lá của mùa trước, ối đỏ, rực cháy lên một lần cuối trước khi rơi vào quên lãng.

Tháng ba, những hàng cây quanh hồ Gươm mang một vẻ riêng riêng của thời kỳ khởi sắc. Tôi thích một mình tay xỏ túi quần, tha thẩn những vòng chậm rãi quanh hồ, lòng không vướng bận, để mặc những hạt mưa bụi li ti đem cái lạnh thấm qua lần áo, qua da, qua tóc. Trên cao, những tán cây nở hoa li ti trắng xóa của một loài cây với tôi rất quen thuộc, cho dù không biết tên, rất nhiều năm nay tôi gọi nó với cái tên Hoa Xuân. Hàng triệu cánh hoa nhỏ xíu, mỏng mảnh và tinh khiết, rắc lấm tấm trắng xóa vỉa hè, người qua đường bước rón rén sợ làm hỏng mất thảm hoa xuân diệu kỳ mà tạo hóa ban tặng cho con người mỗi độ tháng ba về. Hoa xuân trên phố phường Hà Nội rất phong phú, nhiều sắc màu. Đang đi trên phố bỗng dưng bắt gặp trong gió một mùi hoa, sang trọng, ngọt ngào cả một vùng không gian mênh mông hay tình cờ thấy cả một hàng cây mà ta không biết tên nở hoa tím nhạt suốt một dãy phố dài... Trong ký ức tôi còn lưu mãi hình ảnh một họa sĩ trẻ say mê lao động tại một góc phố cổ. Sau nhiều giờ, trên tấm toan trắng dần hiện lên một bản nhạc dịu dàng trong làn mưa nhẹ. Cây gạo ở đầu phố mọc ngay cạnh ngôi miếu cổ, vươn những cành cây lực lưỡng gân guốc, thắp lên những chùm hoa đỏ rực, sáng cả màu áo và rạng ngời từng gương mặt người qua đường. Tôi rụt rè hỏi tên bức tranh, người nghệ sĩ mỉm cười, nụ cười ướt những giọt nước mưa, hân hoan ngắm nhìn đứa con tinh thần của mình: "Xúc cảm tháng ba". Tôi cũng lây lan niềm vui sướng của người họa sĩ. Hà Nội là mảnh đất tụ hội của nghệ thuật. Tháng ba, trong mưa phùn và hoa nở, có biết bao người nghệ sĩ lặng lẽ trên phố, lòng ngân lên xúc cảm mới mẻ, tạo thành những tác phẩm ngợi ca mùa xuân. Họ, những nghệ sĩ, lặng thầm hòa vào dòng chảy của cuộc sống hàng ngày, hòa vào dòng thời gian rồi bằng tài năng và tình yêu của mình làm bất tử hóa những khoảnh khắc thời gian bằng nghệ thuật.

Giờ đây khi xa, tôi nhớ về Hà Nội bằng một nỗi nhớ thường trực. Nhớ những gánh hàng rong, những quán nước vỉa hè, những mẹt bún riêu, bún ốc, bún đậu mắm tôm vào những buổi tối trên một góc phố nào đó, dăm cô học trò tụm năm tụm ba, quây quần, vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả. Một chén nước chè nóng, vài thanh kẹo lạc, chiếc ghế mộc bên vỉa hè cũng trở thành nơi tụ tập trao đổi của đám sinh viên. Hà Nội có những quán quà quê cũ mèm trong trí nhớ. Hà Nội tháng ba mưa phùn lành lạnh, chợt thèm được thưởng thức một món bánh quen thuộc nào đó - thứ quà dân dã mà ngon lành, được bày bán ở khắp Hà Nội - và trong tôi hiện lên ngay lập tức hình ảnh những mẹt bánh bốc khói bên cạnh bếp than hồng ở vỉa hè như muôn lời mời chào quyến rũ. Những tà áo màu duyên dáng, xúm quanh, những giọng nói ngọt ngào trong trẻo và tiếng cười giòn tan của các thiếu nữ có thể ấm lòng người xa xứ khi liên tưởng về kỷ niệm này...

Tháng ba. Đó là mùa trồng cấy của những làng ven sông Hồng. Đất phù sa xốp mịn được thấm mưa phùn trở nên mềm mại dưới những nhát cuốc vào mùa. Hoa cà trổ nụ, luống rau diếp xanh non, những luống hoa nhiều màu sắc... tất cả ngân lên bài ca đồng bãi. Chiếc cầu Long Biên cũ trở nên mềm hơn, thơ hơn trong làn mưa mỏng tháng ba. Tháng ba quyến rũ biết bao, dòng sông Hồng mùa nước cạn thao thiết chảy, mang màu đỏ phù sa bồi đắp miệt mài cho những bến bờ. Đi lang thang dọc sông Hồng trong làn mưa mới cảm nhận thấy sự hào phóng của thiên nhiên, như thể thiên nhiên giang vòng tay hào phóng để đón nhận chúng ta. Thiên nhiên nơi này còn đượm chất hoang dã, nguyên sơ, không mang tính sắp đặt. Nó làm cho ta có cảm giác được hòa mình thực sự vào thiên nhiên, đắm mình trong một niềm hạnh phúc của sự hòa hợp. Tôi lại nhớ tới câu nói của một nhà thơ, rằng ai đó khi tới Hà Nội mà không một lần tới sông Hồng thì đó là một thiếu sót. Sông Hồng bao bọc lấy mảnh đất địa linh này và chính nó là một phần bộ mặt của đất kinh kỳ.

Khi lang thang trên đất Sài Gòn, trong cái nắng và cái gió phương Nam ấp áp, tôi vẫn âm thầm nhớ về Hà Nội. Những lần tình cờ nghe dự báo thời tiết trên đài, biết ngoài đó đang trong những ngày rét đậm, lòng tôi bất chợt nôn nao. Sống ở nơi khí hậu ôn hòa này lại cảm thấy chống chếnh như thiêu thiếu một cái gì đó, mãi rồi tôi mới hiểu ra rằng đó là sự thiếu vắng của cái rét xứ Bắc - nhiều nghệ sĩ cũng từng cảm nhận điều này và viết thành tác phẩm, mà trước đó tôi đã cười vì sự mơ mộng của họ, chỉ khi mình thực sự trải qua thì mới hiểu rằng họ thật có lý. Thì ra, cái lạnh cũng trở thành một thứ gia vị cuộc sống của người dân xứ Bắc, mà khi thiếu nó thì ta vô cùng nhớ. Cũng như một thứ quà quê thân thuộc tới mức ta không còn cảm thấy quý giá, chỉ khi đi xa mới thấy được ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của mình. Cái rét giờ đây chỉ còn đọng lại trong nỗi nhớ của tôi ngọt ngào sâu kín. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn, phải chăng là như thế.

Giờ này Hà Nội đang mưa và góc phố nhà tôi đang chói ngời những bông hoa gạo. Mùa xuân Hà Nội đang chầm chậm bước đi trong nỗi nhớ của tôi.
 
Phố Hà Nội Bây Giờ...

--- Lại Thúy Hà ---




Thuở trước khu 36 phố phường đất Long Thành được gọi tên bằng các phố hàng để đánh dấu sự phát triển của các phường hội, làng nghề. Đến nay, qua hàng vạn sự biến thiên Thăng Long - Hà Nội được mở rộng ra vùng ngoại thành, phố xá còn tên nhưng nghề còn nghề mất. Qua bao triều đại, bao cuộc binh biến, 36 phố phường giờ trở thành phố cổ.

Nay phố Hà Nội thật phong phú, tên phố nghe gợi thông tin và rất hiện đại. Đầu tiên có lẽ phải kể đến phố xe máy - Phố Huế.

Ở đây bạn có thể mua nguyên chiếc mới hoặc cũ hay bất kỳ phụ tùng nào của xe với đủ "quốc tịch": Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc... nếu thích bạn có thể dán các kiểu nhãn mác vào xe mình, dịch vụ dán đề can sẽ giúp bạn chuyện đó.

Hai Bà Trưng được mệnh danh là phố điện tử, những cửa hàng san sát nhau cung cấp đủ loại đồ điện: tivi, cassette, máy lạnh, điều hoà, dàn máy đẹp, máy vi tính... nhưng giá mỗi nơi khác nhau, cách phục vụ cũng rất riêng.

Phố thiết bị và trang trí nội thất - Cát Linh với đủ các mẫu mã, chủng loại, giá cả... nội địa có, ngoại nhập có, bình dân có, cao cấp có. Nếu cần bạn còn được góp ý luôn về bố cục, thiết kế, trang trí cho ngôi nhà của mình.

Phố vải Phùng Khắc Khoan với đội ngũ người bán hàng đồng thời là người mẫu luôn tấp nập người mua kẻ xem.

Phố đồ may sẵn Trần Nhân Tông tập hợp thời trang cho mọi lứa tuổi, đồ xịn có, đồ dởm có, thử thoải mái, nói thách vô biên.

Phố Tống Duy Tân nổi tiếng với những hàng ăn trở thành phố ẩm thực của Thăng Long - Hà Nội, phố này không dậy mùi xào nấu như phố Mai Hắc Đế nhưng rất đông khách, khách đến đây cũng được thưởng thức những món ăn ngon, đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nó còn quá nghèo nàn để có thể trở thành phố ẩm thực đại diện cho đất Thăng Long.

Bạn đã đến Hàng Hành bao giờ chưa? Nếu chưa bạn không phải là người sành điệu rồi. Phố cà phê, nước giải khát này mới đầu chỉ nổi tiếng với hàng cà phê Nhân, nay nó đã sầm uất với rất nhiều quán khác với những cái tên vô cùng lãng mạn... Phố này là nơi tập trung của những người sành điệu để gặp gỡ bạn bè, để thể hiện mình và để thưởng thức những loại trà "dành cho thế hệ trẻ", cà phê "số 1 thế giới"(!).

Phố hải sản tươi sống Tô Hiến Thành với những món đặc sản biển vô cùng hấp dẫn. Dù ăn hay không, khi đi qua phố này bạn cũng được các nhân viên đon đả chào đón nhiệt tình.

Phố "đàn bà" - là nơi báo Phụ Nữ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam toạ lạc. Phố nghệ sĩ - Trần Hưng Đạo chỉ riêng số 51 là địa chỉ đóng đô của 4 hội nghệ sĩ: nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật, nhạc sĩ. Phố lính - Lý Nam Đế từ đầu đến cuối phố là các cơ quan tập thể của quân đội: báo Quân đội Nhân dân, Phát thanh truyền hình Quân đội, tạp chí Văn nghệ Quân đội, Điện ảnh Quân đội...

Điểm qua một vài phố như thế cũng đủ thấy phố xá Hà Nội bây giờ khác xưa nhiều lắm. Phần nào nó phản ánh sự thay đổi, sự giao lưu mở cửa của thủ đô trong thời kỳ đổi mới. Mặt khác nó thể hiện những phức tạp nảy sinh trong xã hội.
 
Con Đường Làng

--- Băng Sơn ---




Có một câu thơ đầy gợi cảm về con đường làng Việt Nam:

"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo..."

Cụ Nguyễn Khuyến đã nói đúng cái thần, cái hồn trăm năm, nghìn năm không cần bình luận gì thêm cũng đã thấy đầy đủ gương mặt một con đường làng mà ta từng một lần đặt chân, trở về quê mẹ hay hỏi thăm đến nhà người bạn…

Nếu mùa xuân này ta nhớ lại đường xưa, thì đường ơi, có nhận ra nhau, ta có bộ quần áo mới hơn hay đường mang trên mình nhiều màu xanh chiều rộng?

Thông thường đường làng mở đầu (hay kết thúc) từ chiếc cổng làng, nơi giáp với một vũ trụ bao la là cánh đồng dẫn về những nẻo nào, có người sống cả đời trong làng, "ít khi đặt chân đến đó", dù ở đấy có xa lộ cao tốc, có đường nhựa phẳng lì, có đá răm trải thảm…

Đường làng đi giữa xanh tre, bên hàng rào ô rô lá như gai nhọn, chỉ có con trâu con bò chiều về, đi qua, mới ngoái cổ lại, tớp một cái, khinh thường gai nhọn rồi vừa thủng thẳng đi vừa nhai như ngẫm nghĩ suy tưởng điều gì về cuộc đời nhưng không cho ta biết.

Lá tre buông mình lờ lững ngày này sang tháng khác, giạt vào hai vệ đường, có cây nấm dại, cây hoa mò, sợi rau má, lá củ gấu… đường làng im lặng không than thở, cứ thế trườn đi theo cái xóm trong thôn, rẽ vào nhà ai đó, ngoặt phía này, rẽ sang kia, có chỗ thước thợ, có chỗ chữ chi, có nửa đường vòng...

Đón con đường, có chiếc cổng xây bề thế, quét vôi vàng, vôi trắng mỗi khi xuân rập rình trở lại. Cũng có chỗ chỉ là chiếc cổng gỗ, nhưng có mái tranh, y như một ngôi nhà nhỏ, then cửa là chiếc tay thước đã mòn qua bao mùa cấy hái. Đơn sơ hơn, là chiếc cổng nhỏ, phía trên là một cây tre nằm ngang, cánh cổng là mấy thanh tre đan ngang ghép dọc, nếu đóng lại vẫn còn chỗ, cho con gà trống vượt qua, con chó chui lọt để đi tìm bạn… Đôi khi, còn đơn giản hơn nữa, cái cổng chỉ là mấy cành rào giương lên, chống bằng một thanh tre chết róc, hạ xuống thì vẫn có thể nhìn thấu trong nhà, người đứng ngoài đường gọi, người trong thưa, như không có cách ngăn...

Ta thả bàn chân trần trên đường làng, nghe mát lạnh gan chân, hơi đất quê mịn màng hay hồn làng xóm thẩm thấu tận đáy hồn ta, con đường làng bình dị thân thương ít được qui hoạch theo một đường thẳng đông tây, hay xuyên chiều nam bắc. Nó là con đường xương cá, cứ như tự nhiên mà sinh ra, tự nhiên mà nên diện mạo, nhưng không, tuy đường không do người kiến trúc sư tạo tác, nhưng nó được sinh thành bởi muôn vạn bàn chân, những bàn chân nẻ miếng, những ngón chân toè ra vì gian lao, những gót rỗ nhọc nhằn, năm này sang năm khác, mùa nọ tiếp mùa kia, có vườn cải hoa vàng chứng kiến cuối đông, có hương hoa bưởi mông lung mùa xuân ngòn ngọt, có tiếng gà xáo xác những trưa im, có cành xanh loà xoà xuống trêu người, mà còn đôi chỗ ta gặp hàng ruối xén bằng bặn, nhưng bằng bặn bằng bàn tay người thợ xén cây nghiệp dư, và nếu người thợ ấy quên đi thì lộc nõn, cành non lại đơm chồi như mái tóc trẻ thơ ít gặp ông thợ cạo...

Con đường làng nối những tâm hồn lại với nhau, nếu làng ngoài bãi, ven đê, phù sa bồi đắp, như bãi giữa sông Hồng, như làng Thuận Vi, Thái Bình… thì lúc nào nó cũng mang màu nâu non của phù sa trẻ, sau mùa lụt ngập, đường lại hồi sinh, bàn chân người thành chiếc bàn là, thành bánh xe lu cho êm phẳng.

Làng châu thổ, luỹ tre trăm năm ấm bụi, măng mùa xuân gọi bầu trời trong sáng, những làng như thế thường có Hương ước: đám cưới nào cũng phải nộp cheo cho làng bằng mấy trăm viên gạch nung già. Gạch nằm nghiêng bên nhau, viên nọ khít bên kia, có đoạn còn tạo ra hình kỷ hà, đường chéo như mặt sàng đan khéo. Con đường gạch sinh ra từ đấy, nó bắt đầu từ cổng làng, rẽ ra đình, ngoặt sang chùa, vào từng ngõ chính, gặp cổng nhà ai mới thêm vài viên đá xanh, là mảnh vỡ của chiếc cối đá thủng nào kia… Những con đường gạch bền bỉ nắng mưa, không vỡ, không lún, không xô, mà dẫu có làm sao thì gạch cheo, dự trữ vẫn còn...

Ngày mùa, chỗ đường gạch quang quẻ, nó được dùng làm nơi phơi rơm rạ, bước chân người êm như đi trên nhung. Mùa thu mưa bay nỗi Ngâu thương nhớ, con đường mang vẻ quạnh hiu như lòng người nơi cách trở, nhưng xuân về, nó lại được vang lên tiếng guốc kí cốp vui tai. Lạ một điều, không bao giờ có đôi guốc vang hai âm thanh giống nhau, thế nào cũng phải một trầm một cao, một trong một đục, như song ca, như hoả tấu, như nâng đỡ nhau lên, và đường làng rộn rã, tưởng hồi sinh.

Khe gạch có thể vương sợi rơm sót lại, đã nảy mầm thành cây mạ cớm, bước con trâu dẫm bẹp, nó lại đứng lên, nó chẳng sợ gì xe cộ hay tai nạn giao thông, mà chỉ có gánh gồng, chân đất, bước trâu, may ra mới in dăm ba vết hằn lốp xe đạp thồ mạ, thồ phân, thồ thóc.

Những con đường làng lát gạch ấy hiếm dần, nộp cheo cũng đã thưa đi, hiện đại, con đường mang gương mặt xi măng trắng lốp, khô cứng nhưng sạch sẽ, mất một phần thơ mộng nhưng thuận tiện, phong quang, âu đó cũng là nét mới, bổ sung vào câu thơ Nguyễn Khuyến.

Những làng quê xưa nay, ít khi được qui hoạch từ đầu, nên cũng ít những con đường thẳng tắp. Con đường phải lượn theo cái hàng rào, khu vườn, khuôn ao, nếp nhà mới, nhưng nó vui lòng làm sợi chỉ, dẫn vào từng gia đình ấm cúng, vì thế mà nó là "Ngõ trúc quanh co…" chăng? Con đường quanh co, nhưng lòng người lại thẳng, đó là điều ta phải nhuộm sương trên tóc mới nhận ra, đường ạ. Nó sinh ra không phải bằng cái thước và cây bút chì, nói như Lỗ Tấn: "Trái đất vốn không có đường, nhưng chân người đi mãi mà thành đường…". Hai ông thông gia đầu xóm cuối xóm tìm nhau, bà chị đầu thôn gặp bà em cuối thôn, anh trai làng hẹn nàng thôn nữ nơi bờ giếng, cạnh gốc ruối già, đội nhi đồng tập hợp cạnh đình để tùng dinh nhịp trống ếch cổ động, bác kế toán đi họp đội sản xuất, anh tuyên truyền gọi loa… con đường mở lòng đón nhận… Cả những đêm xuân, đâu đó vang nhịp trống hội làng, tiếng rúc rích, tiếng đấm vai thùm thụp, tiếng thì thầm, tiếng chí choé trêu nhau, trai hoà gái, gái bên trai… đường làng nằm mơ trong thanh bình, một chút tấp nập rồi lại lặng lẽ trong khuya...

Nay nông thôn đổi mới, đường làng cũng thoát xác nhiều nơi. Qui hoạch từ đầu, con đường thẳng tắp, ô tô con trên huyện, trên tỉnh về vào tận xóm, đỗ bên ngõ, ngay cái cổng gỗ, tường đá ong, gạch pa panh, thêm mấy cành tre vẫy lá.

Có lẽ chỉ có ngoài "trại", chỗ tách hộ ở riêng, làm nhà mới, mái nhà còn tươi, vườn còn thông thống, con đường làng còn mang nét sơ khai, có khi chỉ là bờ ruộng đắp thêm, bên bụi nía, ao bèo, bè muống...

Những chiếc cổng làng nằm rải rác hai bên con đường, vẫn tuân theo nếp nghĩa ngàn xưa, không ăn thẳng vào nhà, mà lệch đi chút ít. Xứ Huế, còn tạo ra chiếc bình phong xây gạch cuốn thư, hoặc chỉ bằng cây xanh uốn nếp, để từ ngoài đường đi vào, khách cũng phải đi vòng chút ít mới tới bậc thềm. Điều đó giống như mọi căn nhà bao giờ cũng tránh đầu đao đình hoặc chùa hướng thẳng vào gian giữa nhà mình, một điều kiêng cứ bảo lưu?

Có lẽ sẽ đến một ngày đường làng cũng chia ô bàn cờ khi nông dân được đô thị hoá chăng? Còn lâu lắm, ta chờ. Bây giờ, có dịp, ta trở lại con đường làng thuở ấu thơ theo mẹ ra đồng mót lúa, cầm đồng xu ra chiếc quán đầu làng dưới gốc đa mua viên kẹo bột kẹo bi, con đường làng đón ta hồ hởi, hay lòng ta khấp khởi vui reo… khi ngó qua rào, vườn cải nhà ai bừng một vầng nắng vàng tươi hoa nở… Đường làng ơi, con đường tình yêu, con đường thương mến, điều không thể thiếu được trong mỗi hồn làng...
 
Ghánh Hàng Hoa

--- Phương Ngọc ---




Hình ảnh những cô gái tóc vấn đuôi gà, chiếc khăn lụa đen quàng hờ trên vai, quảy kĩu kịt gánh hoa tươi hẳn vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều cụ ông, cụ bà sống lâu năm ở Hà Nội. Cùng với thời gian, dáng vẻ cổ kính, rêu phong của Hà Nội dần được thay bằng một bộ mặt mới hiện đại hơn, không còn ai gánh hoa đi bán. Bây giờ, người ta bán hoa trong những cửa hàng sang trọng, ở những dãy hàng hoa ven lề đường hay chở hoa bằng xe đạp đi bán rong trên khắp các đường phố Hà Nội. Đội ngũ bán hoa rong này xuất hiện ngày càng nhiều cho thấy nhu cầu về hoa tươi của người dân Hà Nội rất lớn; và thực sự hoa đã trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống của mọi người.

Những người bán hoa rong đều là các chị, các cô, có lẽ vì giữa hoa và người phụ nữ bao giờ cũng có một mối liên hệ tương đồng, gần gũi. Nhưng cũng giống như bao người bán rong khác, những người phụ nữ ấy mang đầy vẻ lam lũ của người lao động. Một chiếc xe đạp cũ, đằng sau chở một cái giành to đựng hoa là toàn bộ "đồ nghề" vốn liếng của người bán hoa rong. Tuy những bông hoa họ bán không rực rỡ, kiêu sa như hoa bày trong các cửa hàng, nhưng họ luôn có một lượng người mua đông đảo, thường xuyên là những người nội trợ mua hoa về cắm trên bàn thờ tổ tiên nhân ngày rằm, ngày giỗ hoặc cắm trang trí cho ngôi nhà của mình. Khách hàng còn có thể là học sinh, sinh viên nghèo mua hoa tặng bạn bè, người thân nhân dịp sinh nhật, ngày lễ... Hoa bán rong thường là những loài hoa giản dị, quen thuộc như cúc, hồng, huệ, lưu ly, sen, loa kèn... mùa nào thức nấy. Thỉnh thoảng cũng có những hàng hoa rong bán những loại hoa cao cấp như đồng tiền Hà Lan, rum, salem, phong lan... Nhưng đối với các loại hoa đắt tiền, những người ít vốn không dám lấy nhiều. Mặt khác, khách hàng của những hàng hoa rong chủ yếu là tầng lớp bình dân - những người muốn chọn mua thứ hoa phù hợp với túi tiền của họ.

Loại hoa được bán rong nhiều nhất là hoa hồng vì nó dễ trồng, có hoa quanh năm và một cây hồng có thể thu hoạch được lâu dài. Hiện nay hầu như không còn giống hồng ta thuần chủng - bông và cành nhỏ, mà chủ yếu là hồng lai giống Pháp, Hà Lan với bông to, thân mập hơn, đặc biệt chúng có màu sắc rất phong phú.

Ở một hàng bán hồng rong, tôi đã đếm được tới 6 màu khác nhau: trắng, phớt vàng, vàng, hồng phấn, hồng sẫm, đỏ.

Những người bán hoa rong thường tập trung ở những tuyến phố đông người qua lại như Tây Sơn, Khâm Thiên, Lò Đúc... và trong các chợ lớn, nhỏ. Từ sáng sớm cho đến giờ mọi người đi làm và vào chiều tối từ lúc tan tầm trở đi, nếu đi qua những phố này, bạn sẽ thấy cứ vài mét lại có một người bán hoa rong. Họ thường dắt xe đi chầm chậm dọc các phố, hay dừng lại ở một góc phố nào đó. Có người chỉ bán buổi sáng rồi về, lại có người chiều tối mới mang hoa đi bán. Dựa vào nhu cầu của khách hàng, những người bán hoa rong chia thành 2 "ca": buổi sáng bán cho những người nội trợ mua hoa về cúng hoặc cắm trong nhà, buổi tối bán hoa tặng sinh nhật. Nếu vài năm trước đây, hoa sinh nhật, hoa phục vụ ngày lễ, tết gần như là "độc quyền" của những cửa hàng bán hoa thì bây giờ, họ đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi những hàng hoa rong. Những người bán rong sắm thêm giấy bóng gói hoa, nơ, hoặc bó sẵn những bó hoa tươi tắn, đẹp mắt, sẵn sàng phục vụ nhu cầu của khách hàng. Ưu điểm nổi trội của những bó hoa bán rong là rất rẻ. Nếu một bó hồng gói sẵn trong cửa hàng giá 10.000 - 15.000 thì ở các hàng rong chỉ có 4.000-5.000, thậm chí 3.000, nếu bạn khéo mặc cả. Vào những ngày rằm, ngày lễ như dịp 14/2, 8/3, 20/10, 20/11... lượng hàng hoa rong đổ về các chợ, tràn ra đường phố càng nhiều. Đối với cánh sinh viên nghèo, đặc biệt là các chàng sinh viên thì những hàng hoa rong đã "cứu nguy" cho họ trong những ngày lễ này. Ví dụ trong ngày Valentine, một bông hồng nhung trong shop giá 10.000-20.000 VND, trong khi các hàng hoa rong ở chợ Thanh Xuân bán... 1.000 VND/bông mà chất lượng cũng không thua kém là bao. Mua hoa của những hàng rong, khách hàng đều có thể yên tâm sẽ không mua phải hoa "tủ lạnh" như nhiều cửa hàng thường áp dụng để giữ cho hoa tươi lâu. Chính vì các ưu điểm: tươi, rẻ, tiện lợi khi mua các hàng hoa rong đã thu hút được một lượng khách đông đảo.

Hoa bán rong đều xuất phát từ những làng hoa ở quanh Hà Nội như Quảng Bá, Vĩnh Tuy, Mê Linh (Vĩnh Phúc), Đăm (Tây Tựu)... Những người bán được chia làm 2 loại: mang hoa nhà đi bán và mua buôn từ các làng hoa. Chị L, nhà ở Nhật Tân, mua hoa từ Quảng Bá đi bán rong đã gần chục năm nay. Chị chỉ bán buổi sáng vì nghề chính của gia đình là trồng đào. Hôm nào gặp hoa gì chị mua loại ấy, nhưng thường chỉ là một ít hồng, cúc, mấy cành láng, lưu ly... những thứ hoa rẻ tiền, dễ bán. Hàng ngày, chị phải dậy từ rất sớm (khoảng 4 giờ sáng) để kịp mua được hoa tươi, rẻ rồi chở vào nội thành. Khác với chị L, chị D ở làng Đăm cùng 3 chị em gái mang hoa nhà đi bán rong ở chợ Thanh Xuân khoảng 4 năm nay. Cả làng chị trồng hoa rồi mang đi bán rong ở các chợ, các đường phố của Hà Nội. Gia đình chị D cắt hoa từ chiều hôm trước, sau đó ngâm nước cho tươi để sáng sớm hôm sau chở đi bán. Chị vừa bán buôn, vừa bán lẻ, một ngày bán được khoảng 300-400 bông hồng, hôm nào nhiều thì được 500-600 bông. Bán hoa rong cũng vất vả như bao nghề bán rong khác nhưng lời lãi không được bao nhiêu: 100 bông hồng mua buôn khoảng 7.000-8.000 VND, các chị bán lẻ 200 VND/bông, một cành náng mua 6.000 VND, bán được 7.000 VND... Lãi ít như vậy nên một ngày, những người mua buôn từ các làng hoa thường chỉ kiếm được 15.000-20.000 VND, còn những người mang hoa nhà đi bán thì chủ yếu "lấy công làm lãi". Có năm, người trồng hoa, bán hoa rong phải kêu trời vì hoa quá rẻ, không đủ thu hồi tiền vốn và công sức chăm sóc. Nhưng hiện nay, thị trường hoa đã dần dần trở nên ổn định, nhu cầu về hoa tươi của người Hà Nội ngày càng tăng vì vậy những người trồng hoa, bán hoa cũng cảm thấy yên tâm hơn.

Nghề bán hoa rong thoạt nhìn tưởng sạch sẽ, nhẹ nhàng nhưng theo tâm sự của chị P - thường đứng bán hoa ở phố Lò Đúc: "Hoa cũng bẩn lắm em ạ vì người ta phải phun thuốc sâu cho khỏi rám cành, rỗ cánh do bị sâu ăn. Khổ nhất là vào ngày hè, đến người còn héo chứ nói gì đến hoa!".

Vất vả, bấp bênh là thế nhưng những người bán hoa rong vẫn chấp nhận tất cả đề hoà mình vào đội ngũ bán hoa rong vẫn ngày ngày lang thang kiếm sống trên khắp các nẻo đường Hà Nội. Những con người bình dị, lam lũ ấy không biết có ý thức được rằng họ đã góp phần đem lại niềm vui cho mọi người, tô điểm cho những ngôi nhà, căn phòng thêm rực rỡ, đẹp mắt.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Rơm Vàng

--- Bùi Anh Phong ---




Về làng.

Nhìn từ xa, làng thấp thoáng trong tre trúc, trong màu xanh của ruộng đồng, cây cối. Những mái ngói nâu thân thuộc ẩn hiện. Lại gần hơn nữa là những mảnh vườn với bờ rào xinh xinh. Những mái nhà ngoằn ngoèo bay lên luồng khói mỏng. Cạnh mảnh sân mỗi nhà bao giờ cũng có một cây rơm vàng óng. Làng vào mùa gặt. Chân ta sục trong màu vàng, cảm nhận cái mềm mại, thơm ngát. Rơm. Nặng nặng quấn quýt chân người. Rơm, quấn lấy bánh xe, không ít khi làm cho người đi đường cằn nhằn bực bội. Rơm là thân cây lúa sau khi đã được tuốt lấy hạt, một thứ phế thải, rất nhỏ nhoi và không đáng giá. Nhưng cứ thử tưởng tượng mà xem, bỗng dưng cuộc sống của người dân vùng nông thôn Bắc Bộ thiếu vắng những sợi rơm vàng yếu ớt và mỏng mảnh tưởng như vô giá trị ấy?

Tôi lớn ở một vùng quê Bắc Bộ, gắn liền với ruộng vườn, với bùn đất và rơm rạ. Thuở nhỏ vẫn thường nghe bà nói, cây lúa là thứ cây lành nhất và hữu ích trên đời, hạt thì làm lương thực còn thân thì ứng vào trăm việc. Quả thật rơm rất thân thuộc trong cuộc sống đời thường. Rơm là thứ nhiên liệu chỉ riêng của người nhà quê, nấu vừa nhanh, lại cơm ngon canh dẻo. Những rơm nếp thì để riêng, dùng để vặn chổi, làm lạt buộc. Chẳng gì dẻo và mềm như lạt rơm, bó rau, bó mạ chặt mà không nát. Những ngày rỗi rãi các bà già nhà quê giở rơm nếp ra nhặt để vặn chổi, đám trẻ con nhảy lò cò quanh bà, hát bài "một sợi rơm vàng". Khi tôi nhặt rơm giúp bà, lỡ làm đứt nhiều sợi thì bà tỏ ra tiếc rẻ. Có được một sợi rơm nếp khô ráo và nguyên vẹn là cả một quá trình vất vả. Và với người già thì rơm rất quý giá, có lẽ phần nhiều do ký ức của họ gắn bó mật thiết với chúng. Thuở xưa từng tồn tại thứ đệm cực kỳ ấm có tên là "ổ rơm" của những người nghèo. "Ăn cơm tấm, ấm ổ rơm" là câu nói mang hàm nghĩa về sự no ấm. Trong chiến tranh, những sợi rơm bé nhỏ có thể làm mũ rơm, áo tránh đạn thật tốt. Còn ngày nay, không ít nhà tạo mốt đưa rơm vào trong trang phục, điểm xuyết một cách khéo léo và tạo hiệu quả thẩm mỹ thật bất ngờ.

Tôi yêu màu của rơm rạ. Nó là thứ màu hiền lành, êm ái và no ấm. Thuở nhỏ, tôi có thứ vui nhào lộn trong rơm mỗi khi mùa về. Mùa đông Bắc Bộ rét căm căm, lũ trẻ mang theo những nùn rơm đỏ rực ra bãi thả trâu để giữ chút ấm áp của lửa bên mình. Bạn đã bao giờ được ăn một món cá quả, một khúc sắn hay một bắp ngô nướng trong rơm nếp ngay ngoài bãi chăn thả, tại một bờ sông, vào một ngày đông đầy gió? Chà, với tôi đó là món ăn tuyệt nhất! Nó giữ nguyên mùi vị bản thể của cá, sắn, khoai, ngô... và lại ngấm mùi ngai ngái của khói, đưa vào món ăn hương vị đồng bãi rất tuyệt vời.

Trong làng tôi, từ nhà nghèo nhất tới những nhà khá giả nhất, nhà nào cũng có một cây rơm ở sân nhà. Cây rơm như một biểu tượng của làng, gắn bó với từng gia đình quanh năm suốt tháng.

Sau mỗi vụ thu hoạch, rơm được phơi kỹ lưỡng rồi được đánh thành một đống lớn. Việc đánh đống cũng là một công việc thú vị và khá cầu kỳ. Bắt đầu là chân đống rơm được quây thành một vòng tròn cao hơn mặt đất, ở giữa dựng một chiếc cột chắc chắn. Có một hoặc hai người chuyên đứng trên, lấy chiếc cột chính giữa làm tâm để rải đều rơm xung quanh vòng tròn. Những người ở dưới lấy rơm đưa lên. Đống càng cao lên thì vòng tròn dần thu nhỏ lại. Người "kỹ thuật viên" phải đi vòng tròn cho rơm được nén đều xuống. Cuối cùng sẽ được một cây rơm khổng lồ hình trứng, cao ngất. Người ta lấy áo mưa hoặc nón cũ che lên chiếc cọc ở giữa, để tránh mưa chảy vào giữa cây rơm.

Cây rơm là nơi thú vị của tuổi thơ. Khi mà đánh đống rơm, tôi thích được leo lên giúp bố bỏ đống rơm. Và khi công việc hoàn thành tôi được nằm dang chân tay trên đỉnh cây rơm, khoan khoái ngắm mây trời và thấy mình như đang sắp bay lên cùng những vì sao mọc sớm... Những đêm trăng, cây rơm trở nên sinh động khác thường, màu rơm vàng mát rượi như ánh trăng. Cây rơm là nơi bí mật để đám trẻ cất giấu và dấm những trái trứng gà xanh, trái na chưa nở mắt, là nơi bọn trẻ tụ tập để sẻ chia những bí mật mang tầm cỡ con nít. Đó cũng là nơi để tôi chúi mặt vào đó khóc thầm sau những trận đòn của bố. Một lần về làng, tôi chứng kiến cảnh một cậu bé cong mông, mím môi ra sức rút những nắm rơm chặt ngoài sức bình thường của chú. Bỗng mỉm cười nhớ lại ngày xưa thường xuyên phải rút rơm cho mẹ. Tôi phụng phịu kêu rằng tại sao lại phải làm đống rơm chặt đến thế, rút đến sưng phồng tay và đôi khi không chịu nghe lời mẹ rút sát chân đống, mà kiếm chỗ dễ rút ở tận trên cao và kết quả là có một năm cây rơm nhà tôi bị hỏng... Tôi rất thích ngắm cảnh chú bò vàng thẩn tha bên cây rơm, thong thả rút từng nắm rơm và nhai trong im lặng. Cạnh đó gà mẹ bới chân đống rơm, rối rít kiếm những hạt thóc vàng còn sót lại cho bầy con đông đúc. Còn mỗi sáng mai thức dậy, chú gà trống bao giờ cũng chọn đỉnh cây rơm làm chỗ đứng, oai vệ cất lên tiếng gáy đánh thức bình minh. Dường như leo lên cao, nó cũng cảm nhận được cái quyền năng của riêng mình. Trên nóc cây rơm thỉnh thoảng ta bắt gặp một ổ trứng ấp dở của thằn lằn hay là những chiếc trứng hồng xinh của một cô gà mái tự do nào đó.

Với thanh niên làng, cây rơm là nơi hò hẹn. Khi chàng trai bối rối nói lời tình tự, cô gái nép sát vào cây rơm, tay bối rối vò nhàu những cọng rơm nhỏ bé. Cây rơm là lá chắn để cho những nụ hôn của họ thêm phần say đắm và những sợi rơm mềm mại bao bọc chở che họ...

Khi xa quê đôi lúc tôi nhớ da diết cây rơm của nhà. Nó như một cái gì đó thân thuộc, gắn bó với tôi suốt thời thơ ấu. Sau vụ gặt, gia đình nào có cây rơm khổng lồ, hàng xóm qua lại sẽ cất lời trầm trồ: nhà bác năm nay có cây rơm to đáo để! Chủ nhà vui ra mặt. Bởi đây cũng là dấu hiệu được mùa - dấu hiệu của sự sung túc no ấm. Bây giờ có rất nhiều loại nhiên liệu thay thế nhưng cây rơm vẫn tồn tại, gắn bó với làng quê Bắc Bộ. Những thân cây lúa khô xác thành tro bụi rồi lại trở về với đất nâu lành để lại góp phần tạo ra những mùa vàng no ấm. Một vòng đời khép kín đầy những nhọc nhằn lặng lẽ.

Lòng thoáng rung lên khi nhớ tới hình dáng mẹ lưng đã còng vì năm tháng, đang lụi cụi phơi rơm để dành. Mỗi sợi rơm như nhắc nhở sự tảo tần của người dân quê. Đưa một cọng rơm tươi lên miệng nhấm thử. Vị ngai ngái ngọt ngọt và cả vị mằn mặn tan nơi đầu lưỡi. Bản thân cọng rơm cũng đã tích luỹ trong nó bao nhiêu ngọt bùi, cay đắng. Hay đó chính là những giọt mồ hôi mặn mòi của ông cha từ ngàn xưa cho đến ngày nay?
 
Ngõ Hà Nội

--- Băng Sơn ---



Có phải Hà Nội và Thăng Long - sinh ra từ cái nền cái tảng của làng quê xóm mạc có bờ tre quanh co, có ngõ trúc phất phơ, có ao bèo uốn lượn... nên đường phố vừa ngắn vừa hẹp, những con ngõ thì ngoắt ngoéo chữ chi, thước thợ... cùng mái chùa xinh xinh cổ kính, ngôi miếu rêu phong, nhà thờ họ im lìm, những gốc đua lua tua rễ phụ...?

Hà Nội đang bước vào tuổi - nghìn - thứ - hai nhưng thời gian vẫn đọng lại mang hồn - nghìn - thứ - nhất để ta có thể đi từ hiện tại vào quá khứ, giở trang lịch sử oai hùng và trầm ngâm tâm sự ngàn đời.

Ngõ Phất Lộc còn ngôi đình làng thờ vọng, nậm rượu trên nóc cổng, nhìn nghiêng như một tấm bìa, thông ra hai ba ngả có lúc làm ta ngỡ như đi trong lòng làng Bát Tràng bên kia sông Cái, giang hai tay ra là chạm vào hai bên tường thẳng đứng. Những ngôi nhà cổ vài trăm tuổi xà ngang gỗ, câu đầu ám khói, bếp đun củi xây vòm, nền nhà thấp hơn mặt ngõ cùng những người xa xưa ấy nay ở đâu, ra ven nội hay hư huyền bóng khói? Ai từng là người Hà Nội tản cư vào ngõ năm 1946 mùa đông kháng chiến, lăn từng bao đường kính trắng tinh ra làm chướng ngại vật, còn mình uống rượu whisky pha nước giếng đào, ngủ trên những tấm cửa bức bàn lạnh cứng.

Phố Hà Hồi hay ngõ Hà Hồi hoặc giữ nguyên tên xóm Hà Hồi có dính dáng gì đến trận chiến thắng Hà Hồi, Đống Đa thuở ấy, cùng một Thăng Long nghiêng ngửa với bao mái nhà gỗ nhà tranh, với lối mòn ngõ khuất mà nay có người tha phương trở lại, bị lạc lối giữa các phố Quang Trung, Trần Hưng Đạo và Trần Quốc Toản và lối sang ngõ Liên Trì (ngõ có ao sen) hoàn toàn bịt kín. Hình như nhà văn Kim Lân, nhà thơ Thuý Bắc đã ở ngõ này, hàng xóm với ngõ Đoàn Nhữ Hài có nhà văn Tô Hoài cuối ngõ, ông đã viết bao nhiêu nghìn trang trong gian nhà cũ kỹ ấy?

Ngõ Gạch đã thành phố Ngõ Gạch (vừa là ngõ vừa là phố) vẫn buôn bán mặt hàng xi măng, gạch ngói, chổi đót, vôi quét tường với cây đa như con ngựa bị cắt cụt bờm, phải ghìm cương nên chồn vó suốt bao năm nghe khói nhang thấm đẫm lá cành.

Ngò Chè Chai nữa, cái ngõ thẳng băng tí xíu, từng là nơi tập kết chiều chiều của các bà buôn đồng nát, lông vịt, bao chè, nay cũng thành phố Hàng Chai, dù chẳng một nhà nào còn buôn mặt hàng chai lọ.

Cạnh số nhà 70 Phố Huế, một thung lũng tịch liêu ngay giữa tấp nập ríu ran, đó là ngõ Tràng An, có phải sinh ra từ đời nhà Đường Trung Quốc hay những triều vua Việt Nam gọi Thăng Long là Tràng An thanh lịch. Vẫn còn cây mít, cây ngâu, vẫn còn giàn nho như lời thầm gọi thời gian không cho nó vèo trôi mất, để nó thành tiếng chuông chùa âm vang mỗi thu không, không cần biết đến chợ Hôm đã ba tầng, không cần biết đến phía phố Triệu Việt Vương có những quán cà phê ồn ã và hàng hàng xe tắc xi chờ đón khách.

Dọc đường Bạch Mai, Hồng Mai, Hoàng Mai, mở đầu con đường thiên lý xuôi Nam, có ai hãm phanh con xe, dừng chân đi vào các ngõ như bát quái trận đồ của Hoàng Thừa Ngạn, nhạc phụ ông Khổng Minh Gia Cát: ngõ Hồng Bích, ngõ Đình Đông, Đình Đại, ngõ Văn Chỉ, ngõ Giếng Mứt, ngõ Lò Lợn, ngõ Mỹ Ký, ngõ Mai Hương, ngõ Chùa Liên Phái, ngõ Tô Hoàng, ngõ Quỳnh...

Giếng có ngọt không mà tên là Mứt? Ngõ Văn Chỉ thì đích thị còn ngôi văn chỉ của huyện Thọ Xương mà một thời từ nhà đại bái đến hậu cung được làm trụ sở của công ty ăn uống. Chùa Liên Phái vẫn còn ngôi chùa lặng lẽ, một di tích khuất chìm. Ngõ Mỹ Ký là tên ông doanh nghiệp sản xuất thứ vàng giả, thứ đồ mỹ ký mà làm giàu, xây toà ngang dãy dọc cho thuê.

Bên kia, phía Tây nữa, nơi từng có toà Khâm Thiên Giám để xem sao làm lịch, những tấm áo lam, áo đoạn, những búi tóc có cây bút lông giắt mang tai... đã hoàn toàn xa lạ với ta hiện tại. Nhưng vẫn mang trong lòng ta bao nhiêu cái tên nhắc nhở: ngõ Thiên Hùng, ngõ Hồ Dài, ngõ Hồ Cây Sữa, ngõ Thổ Quan, ngõ Cống Trắng, ngõ Liên Hoa, cả những cái tên mới đặt: ngõ Nhà Dầu, ngõ Đoàn Kết, ngõ Hoà Bình, ngõ Toàn Thắng.

Trần Huyền Trân từng ở ngõ Cống Trắng có ao bèo chìm nổi, có dòng nước đục ngầu, kéo theo cả Nguyễn Bính, Thâm Tâm về trú ngụ, mà thân mẫu nhà thơ đêm đêm kéo vó, hái rau tần (thực ra chỉ là rau muống) cho các ông ăn, nên ông viết rằng:

Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh niềm cá nhảy với chim bay
Đêm đêm kẽo kẹt như bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưỡi đầy...

Và nữa:

Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Có người về khép song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng...

Ngõ đấy, ngõ trúc đấy... và hình như cả nhà thơ và ngõ trúc, cả lá vàng và ruộng rau đã lặn vào đáy một Thăng Long cho Hà Nội vươn cao, mà nay ta đi trên đường phố Khâm Thiên, dưới tán bàng xanh óng, ta chỉ còn:

... nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi
(thơ Trần Huyền Trân)

Còn bao nhiêu con ngõ mang hình hài trăm năm, nghìn năm Hà Nội khi có người thích thú reo lên rằng ta đã có nhà mấy chục tầng, cửa kính vuông thay cho ô cửa mắt bò, thay cho vòm cuốn, thay cho viên gạch đứng nghiêng?

Ngõ Huế, ngõ Yên Ninh, ngõ Hàng Bún, ngõ Lê Văn Hưu, ngõ Hàm Long, ngõ Trạm, ngõ Hà Trung, ngõ Yên Thái, ngõ Tạm Thương, ngõ Tức Mạc, ngõ Văn Chương, ngõ Quan Thổ, ngõ Xã Đàn...

Ngõ Trạm và ngõ Hà Trung từng có cái trạm quân bưu để chuyển công văn đi ra ngoại tỉnh với bước chân anh phu trạm hoặc con ngựa toá mồ hôi hoả tốc. Ngõ Tạm Thương là kho lương thực tạm thời, vẫn còn đây ngôi đền thờ Nguyên Phi ỷ Lan. Ngõ Văn Chương nơi sinh ra ông vua thi sĩ Lê Thánh Tông thịnh trị, chủ suý Tao Đàn, ngõ Xã Đàn nơi dẫn vào đàn tế thần Xã thần Tắc của bao triều đại...

Ranh giới một Hà Nội cổ, một Hà Nội cũ, một Hà Nội đương đại... có thể phân chia rạch ròi trên bàn làm việc của nhà quy hoạch. Nhưng trong lòng người Hà Nội có thể có ranh giới bằng bút xanh bút đỏ được chăng, khi ta đi trong lòng Hà Nội mà cũng đồng thời là lòng ta, ta chạm vào không gian là ta sống với thời gian?

Khí thiêng sông núi, hồn đất trường tồn... Hà Nội vẫn muôn ngàn lần đáng yêu với những con ngõ nhỏ chữ chi, thước thợ mang dáng vẻ, mang tên gọi có sức mạnh đánh thức lòng người như thế.
 
Ký Ức Mùa Đom Đóm

--- Thanh Thảo ---




Bất chợt hiện về từ thăm thẳm ký ức ta những mùa đom đóm nơi những quê nhà tít tắp nào. Bây giờ, hình như ở quê ta cũng không còn đom đóm bỏ vào lọ để lấy ánh lân tinh nhoà nhạt ấy mà học bài như xưa nữa, nên đom đóm đã về trời? Vốn có ấn tượng rất mạnh về những "đêm đom đóm" thời sơ tán học đại học ở Thái Nguyên, tôi đọc bài thơ Mùa đom đóm của Trần Hùng với những nỗi chập chờn vừa nhớ nhung vừa nuối tiếc. Tiếc cái gì? Tôi cũng không biết nữa.

Mùa đom đóm...

... Những con từ vườn chuối bay ra, từ chuồng trâu bay ra, rất nhiều con từ cánh đồng bay vào, rồi lại từ vườn chuối bay ra, từ chuồng trâu bay ra...

Những ngày như thế
Từ tàn lửa cuối đồng bước chân về
Đuôi tóc lòng tay se sẽ
Mình lặng im trong ngõ
Mơ màng như hai trái ổi đêm
Chờ trăng lên
Chờ nghe tiếng cá
Tiếng cẩu nước vội vàng, tiếng rửa chân vội vàng
Đom đóm cũng dần tàn
Mùa đom đóm ơ.

Trên nền một thứ ánh sáng lạnh, nổi lên những âm thanh - im - lặng: tiếng cá quẫy, trăng lên, nước reo, ổi chín... những hình ảnh vừa động, vừa tĩnh, những hình ảnh ùa ra từ ký ức, rồi trở lại về ký ức. Một nỗi thương quê âm thầm của đứa con xa không dám hẹn một ngày về. Có hai câu thơ thật tuyệt vời:

Mình lặng im trong ngõ
Mơ màng như hai trái ổi đêm

Những ai từng đi trong ngõ nhỏ ở quê nhà, đêm tối, đom đóm lập loè, chợt nghe một hương thơm vừa ngọt ngào vừa xa khuất: ấy là hương ổi chín. Và nhất là khi ta không chỉ đi một mình, thì mùi hương ổi chín ấy mới thấm thía làm sao! Mình như hai trái ổi đêm mơ màng, như hai bóng tối tìm nhau, như hai trái ổi chín lên vì khao khát tìm nhau...

Thơ Trần Hùng chân thành lặng lẽ, yêu thương lặng lẽ, nó chìm dần vào ta như một mùa đom đóm, nó đánh thức ta, lại vừa ru ta nhớ về những gì ta không còn quay trở lại. Những con đường ngày ấy, ánh lân tinh, và mùi thơm ổi chín...
 
Những Nẽo Đường Tranh Dân Gian

--- Phạm Thanh Hà ---



Con đường của tranh dân gian cũng giống như những nẻo đường cổ tích, đoạn kết bao giờ cũng an ủi được người xem, bao giờ cũng là sự chiến thắng của cái đẹp, dù nhân vật có trải qua biết bao khốn khó trầm luân - tất nhiên hai chữ nhân vật ở đây không chính xác. Tranh dân gian có ba dòng chính: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh thờ Hàng Trống (Hà Nội), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây), từ bao thế kỷ qua đã góp vào dòng chảy chung của mỹ thuật dân gian Việt Nam, tạo nên một vẻ đẹp không thể thiếu được cho lịch sử văn hóa dân tộc. Đã có những mất mát không cứu lại được đối với từng dòng tranh. Nhưng trong thực tế, dù khó khăn đến đâu, vẫn có những người nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác, lặng lẽ nhẫn nại gìn giữ nghề làm tranh truyền thống, và những bức tranh vẫn còn, như sự nối tiếp âm thầm của một nền văn hóa lâu đời.

Vào tháng mười vừa rồi, một triển lãm khá đặc biệt tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam gây một hứng thú rất lớn với người xem: Nhân dịp 100 năm Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, một bộ sưu tập tranh dân gian Việt Nam lấy trong kho sách của Viện đã được mang sang trưng bày tại Việt Nam. Đây là một bộ sưu tập rất quý, giúp chúng ta nhìn lại một quá trình phát triển tranh dân gian, nhiều tranh hiện nay không còn ở nước ta nữa, kể cả những tranh mới thực hiện sau ngày Cách mạng thành công năm 1945. Bộ tranh này do ông Mô-rít Đuy-răng sưu tập từ những năm 30 và 40 của thế kỷ này. Cách đây bốn mươi năm, ông đã cho xuất bản thành sách, nhưng chưa có in mầu. Sau khi Mô-rít qua đời, Mác-quýt Đuy-răng, con trai ông, đã chụp và in lại bộ sách, với mầu thật của chúng. Nhờ những tấm lòng đáng quý ấy, chúng ta có thể thấy lại một phần những tác phẩm của cha ông ta. Việc này làm ta nhớ lại bộ tranh đồ sộ mà Hăng-ri Giôđép Ô-giê hồi đầu thế kỷ đã thuê một số thợ in khắc Việt Nam vẽ và in khắc bộ tranh Kỹ thuật của người An Nam mà chúng ta hay gọi là Bách khoa thư bằng tranh Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20, tổng kết mọi lĩnh vực trong đời sống của người Việt trước khi thời phong kiến kết thúc. Bộ tranh đó thật sự quý giá khi chúng ta muốn tìm hiểu lịch sử tranh dân gian Việt Nam. Dù còn lại bằng cách nào, những tác phẩm tranh dân gian từ đầu thế kỷ vẫn là tài sản của chúng ta.

Những nghệ nhân làm tranh của Việt Nam ý thức rất rõ việc phải giữ gìn truyền thống của mình. Nhưng việc đó không dễ dàng. Tranh đỏ Kim Hoàng, phóng khoáng và tươi mát, độc đáo đến thế, đã mai một, chìm lắng sau lũ lụt, năm tháng, sự thờ ơ của con người. Cả làng chỉ còn một nghệ nhân làm tranh. Số ván khắc cũ đã mòn vẹt, sứt mẻ, người khắc ván in cũng không còn ai, các mẫu tranh truyền thống không được khắc thêm suốt năm mươi năm nay. Trong khi tranh đỏ Kim Hoàng chưa quay trở lại, thì những cố gắng để nuôi dưỡng tranh Hàng Trống cũng gặp những khó khăn tương tự. Tranh Hàng Trống một thời là món ăn tinh thần của người Hà Nội, rộng hơn là của cả nông dân vùng Bắc Bộ, đặc biệt mỗi dịp Tết Nguyên đán. Nét tài hoa, sáng tạo, sinh động của dòng tranh này không còn làm tưng bừng mỗi ngày Tết nữa. Chỉ còn một nghệ nhân, may thay, lại là một nghệ nhân rất tài hoa. Họa sĩ Lê Đình Nghiên, thuộc thế hệ thứ ba của một gia đình vốn có truyền thống làm nghề tranh ở Hà Tây nhưng lập nghiệp ở Hàng Trống. Năm 1972, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mời ông đến làm việc với yêu cầu phục chế tranh Hàng Trống. Và từ đấy, ông vẽ, in sửa tranh theo mẫu cũ, sáng tạo thêm một số mẫu mới, với những mong muốn đầy tâm huyết là giữ lại, phát triển được tranh Hàng Trống. Giá vẫn còn được vài người như ông, mong muốn đó sẽ sớm thành hiện thực.

Trong các dòng tranh khắc gỗ dân gian, thì tranh Đông Hồ được nhắc tới nhiều hơn cả. Người ta gọi nó là tranh Tết, bởi được bán ở tất cả các chợ quê vào dịp Tết hằng năm. Cách đây hai năm ở chợ hoa Hàng Lược, một người mang bán tranh Đông Hồ, trên tập tranh để một tờ giấy dó viết một bài thơ mà một câu thơ trong đó cứ bắt những người đã đọc được phải nhớ mãi: Tờ giấy dó tả tơi trước thị trường bão lốc... Người ta nhớ lại rằng vào những năm 30 của thế kỷ 20, cả làng Hồ có tới 250 nhà làm nghề in tranh. Cứ quãng tháng Chạp hằng năm, bến Hồ san sát thuyền của khách phương xa đến ăn tranh, khắp trong đình ngoài bãi rực lên mầu tranh xuân trên giấy điệp. Những mầu sắc được tả lại qua ngòi bút tài hoa của Thái Bá Vân: Trên giấy điệp, khi hớn hở, khi thanh thản, những mầu nguyên rung lên theo ánh sáng. Mầu vàng hòe tượng trưng cho sự no đủ, mầu vàng ruộm lên như cánh đồng lúa chín, mầu xanh như lũy tre, mầu đỏ như yếm thắm, mầu nhiễu tím như thắt lưng, mầu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Tất cả đều là vật liệu có sẵn trong thiên nhiên thực vật mà cuộc đời chúng ăn sâu vào tâm thức người Việt từ thuở xa nào... Vào thời ấy, cả làng Dương ổ cách đó không xa cũng bao nhiêu nhà làm giấy dó cung cấp cho làng Hồ. Thời thịnh đạt của nghề tranh, trung bình mỗi năm Đông Hồ sản xuất hàng triệu bản tranh mới tạm thỏa mãn nhu cầu sử dụng của các miền trong nước. Giờ thì đã xa thời huy hoàng đó. Cả làng Hồ, những nhà làm tranh còn lại đếm trên đầu ngón tay, ông Chế, ông Sam, ông Tấn... Làng Dương ổ cũng chỉ còn ông Lưu lặn lội với nghề làm giấy dó... Làng sống chủ yếu bằng nghề làm mã. Nhưng vẫn có những nghệ nhân kiên quyết không bỏ nghề, tìm mọi cách để nuôi dưỡng dòng tranh Đông Hồ. Nguyễn Đăng là dòng họ làm tranh đã tới 20 đời. Ngay sau năm 1945, những nghệ nhân như Nguyễn Đăng Khiêm, Nguyễn Đăng Sần... đã bắt tay vào
việc sáng tác và phục chế một số ván in. Ngoài các tranh cổ, các cụ còn vẽ tranh về đề tài kháng chiến. Với ý thức giữ gìn di sản rất cao, cụ Nguyễn Đăng Khiêm còn khắc lại ván in tranh dân gian Kim Hoàng từ những tranh đã thất lạc. Những bộ ván in cổ, niên đại 150 năm mà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đang giữ, những miệt mài cố gắng của ông Tấn, ông Sam... là những hy vọng để tranh Đông Hồ dần trở lại với thời rực rỡ, mãi mãi tồn tại cùng dân tộc.
 
Back
Bên trên