Tạ TUấn Thành đã viết:
Hic, em dịch ra tiếng Việt hộ anh cái, nhìn hoa hết cả mắt.
Đến khổ , một lời đề nghị .. thật thà đến kindergarten 8-} Chào thua /
Vâng thì em dịch
Hiện đại hóa giáo dục - Phương cách để hội nhập khu vực thành công .
Cải cách giáo dục từ trước tới nay vẫn là một vấn đề được quan tâm chú ý ở Việt Nam. Năm 1992, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, hợp tác với UNDP và UNESCO đã đưa ra một bản tổng kết báo cáo về nhiều mặt của nền giáo dục và nguồn nhân lực Việt Nam. Bản báo cáo này đã chỉ ra rất nhiều những điểm yếu và áp lực đè nặng lên nền giáo dục Việt Nam.Tổng chi tiêu xã hội (một phần GDP) đã tăng rất nhanh trong những năm tiếp theo.Tuy nhiên, từ năm 1993, chúng ta chưa đạt được một thành tựu đáng kể nào trong chính sách giáo dục. Mặc dù giáo dục luôn được đặt lên vị trí Quốc sách hàng đầu của Chính Phủ ( Điều số 35 Hiến pháp Việt Nam ).
Cuộc tranh luận về cải cách giáo dục trong thời gian gần đây ngày càng mạnh mẽ. Điều này được lý giải bởi việc Việt Nam tham gia hội nhập cùng các nước láng giềng . Trong quá trình hội nhập khu vực, nền giáo dục Việt Nam nảy lên 3 thực trạng nổi cộm đáng lo ngại :
(i) Nền giáo dục Việt Nam ,đặc biệt là giáo dục đại học và cao đẳng, được đánh giá tiêu chuẩn chưa cao so sánh với các nước trong khu vực .
(ii) Sinh viên tốt nghiệp đại học Việt Nam kô được chuẩn bị đầy đủ cho việc làm .
(iii) Giới trẻ Việt Nam thiếu khả năng tham gia năng động vào quá trình hội nhập toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực hội nhập kinh tế, do những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học cũng như kỹ thuật .
Một lý do nữa là sự kô đồng tình của một số những giá sư đầu ngành về việc trao tặng bằng việc sĩ /giáo sư một cách phi lý ở nhiều trường đại học và chất lượng thấp kém của tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ ở Việt Nam. Trong năm 2003, Việt Nam có trên 5000 p giáo sư, giáo sư và vào khoảng 14000 tiến sĩ , nhưng với một thành tích nghèo nàn về những tài liệu nghiên cứu mang tầm quốc tế .
Những vấn đề của nền giáo dục Việt Nam, xét trên một phương diện nào đó, là có thể hiểu được. Khác với vốn đầu tư vật chất, tích lũy nguồn lực về con người là một quá trình lâu dài hơn rất nhiều. Đã có rất nhiều thay đổi sâu sắc về nhiều mặt trong hệ thống kinh tế xã hội Việt Nam từ năm 1989 . VÌ thế việc đưa nền giáo dục Việt Nam theo kịp với nhịp độ phát triển kinh tế là rất khó khăn. Nhất là khi giáo dục Việt Nam từ trước tới nay vốn đã không thay đổi linh hoạt và rất " dị ứng " với cải cách. Hơn nữa, mặc dù nhu cầu về giáo dục trong những năm gần đây có xu hướng bùng nổ, Chính phủ đã không đưa ra được những chính sách khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào giáo dục (bao gồm cả nguồn tài trợ nước ngoài ). Những nhà tài trợ quốc tế từ nhiều phía (như Ngân hàng Thế giới , IMF , ADB ) đã quan tâm đến việc đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân hơn là phát triển nguồn nhân lực Việt Nam .
Quan sát cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam chúng ta thấy được những điểm sau : về mặt chính sách, những phương cách cải cách giáo dục rất nhỏ giọt , mục tiêu đề ra không hợp lý (Ví dụ như mục tiêu nâng số lượng tiến sĩ lên 45-50% trước năm 2005, thay vì thực sự nâng cao trình độ giảng dạy và phương tiện nghiên cứu ). Hiện nay, Việt Nam cũng chưa có được một chính sách giáo dục tổng thể và tiên phong cho 10 năm tới, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Trong số những vấn đề được đưa ra thảo luận, khu vực giáo dục đại học đã được quá nhiều sự quan tâm chú ý, trong khi một số lượng lớn học sinh Việt Nam không đạt đến trình độ đại học. Cũng như vậy, cuộc tranh luận nhấn mạnh quá nhiều đến năng suất của giáo dục chứ chưa thực sự quan tâm đến những vấn đề hợp lý .
Bất cứ chính sách cải cách nào cũng phải được khởi điểm với một mục tiêu rõ ràng cho ngành giáo dục. Việc này có thể được thực hiện trên nhiều phương diện, nhưng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, giáo dục phải được xác định là một phương cách để đưa sinh viên tham gia hội nhập một cách thành công vào lực lượng lao động và xã hội. Điều này đòi hỏi nền giáo dục phải hiện đại, thực tế, linh hoạt. Để theo kịp với những phát triển trong khu vực cũng như toàn cầu, những sinh viên đã tốt nghiệp của Việt Nam không những phái có được trình độ kỹ thuật, óc phê phán cần thiết, mà còn phải nắm vững và cập nhật thông tin về những vấn đề xã hội toàn cầu như bảo vệ môi trường, điều tiết dân số, HIV/AIDS v.v... Chính sách hiện đại hóa giáo dục này đòi hỏi sự thay đổi chậm nhưng trên phạm vi tổng thể của toàn bộ chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và đào tạo giáo viên. CHính phủ Việt Nam cũng phải tận tâm hơn trong việt đưa khu vực kinh tế tư nhân vào cuộc. Đây là một điều kiên cần thiết cho sự phát triển lâu dài để VIệt Nam có thể hội nhập trong khu vực và trên thế giới .
Điểm đánh lưu tâm: Mở rộng hơn những hoạt động của các trường đại học tư nhân nước ngoài tại Việt Nam .
Associate Professor Binh Tran-Nam
Australian Taxation Studies Program (Atax)
Faculty of Law
University of New South Wales