Nếu bạn là Bộ trưởng Giáo dục?

Theo em thì các GV ,nhất là GVCN cần đựoc tham gia khóa học về tâm lý học sinh,như thế vừ gần gũi mà chắc bài giảng sẽ hay hơn vì hỉu hs nghĩ gì. :-/
Và nếu em là bộ trưởng bộ giáo dục em sẽ quy định bằng cấp ko fai là thứ quy định tất cả,vì có những người k có bằng đại học vẫn giỏi ,cái chính là quyết tâm và suy nghĩ của mỗi người thui.
Mà nói thế nhưng bộ trưởng bộ giáo dục hiện nay cũng đã qua thời hs,sao k hỉu nỗi khổ fai học thuộc lòng SGK và chạy như ngựa đi học thêm ở khắp nơi nhỉ? :-/
Cuối cùng: ng` Pháp có câu: " Với 1 chữ 'nếu' người ta có thể nhét cả Paris vào 1 cái chai" .Đây chỉ là ý kiến của mọi người thui và nó khó có cơ hội thành hiện thực nếu một trong số chúng ta trở thành bộ trưởng bộ giáo dục :)>- hay bộ trưởng bộ giáo dục hiện thời vào HAO xem phần này :-?
 
Post bên kia chả thấy ai reply => chán :(
sang bên nè post thêm phát nữa :D

No commercialisation of education in Vietnam


Efforts should be continued to prevent the commercialisation of education and the change of schools into a market, stressed a forum on education in the socialist-oriented economy recently held in Hanoi.

The forums, the first of its kind in Vietnam held by the Central Commission for Science and Education, attracted the participation of many politicians, economists and social researchers.

Professor Do Nguyen Phuong, head of the commission, said that education in the socialist-oriented economy must not lead to the commercialisation of education. There has developed an unhealthy tendency towards profiteering and bias in some educational areas, he said.

Some believed that there was already an appropriate market of education, therefore it was necessary to identify its orientation and features so as to have efficient management.

Professor Pham Minh Hac, former Minister of Education and Training, stressed the socialist-oriented market economy was being developed in Vietnam, however education must be a social institution, a State institution and an environment which trains human resource, ensuring a basic condition for the building of a socialist-oriented society. He quoted President Ho Chi Minh at the Hanoi Party Congress on June 1960 as saying that “In order to have socialism, there must be socialist people with socialist ideology.”

He said that education was of great importance for human being in general and a country in particular which needs State management. The impacts of the market should be controlled by the State policies and regulations, he said adding that it was necessary to provide more favourable incentives for teachers and educational managers, thus ensuring the rights for the country, community and educators.

Most of the participants agreed with the need to prevent the commercialisation of education, but proposed that the State reconsiders the subsidisation of education. Education should meet the requirements of learners and demands of the labour market so as to help raise their living standards. The State should mobilise businesses to provide vocational training and assist fully the fostering of talents, they said.

They supported the viewpoint that the basic tasks of education were to promote humanity, create sufficient high quality human resource and raise the belief in the leadership of the Party. These are unchangeable functions, they stressed.

http://www.nhandan.com.vn/english/news/141204/no.htm
 
Chào các bạn,

Tôi mở topic này với mong muốn chúng ta hãy thử suy nghĩ tìm cách khắc phục những mặt yếu kém của giáo dục nước ta, những điều mà chúng ta phải đối diện hằng ngày trên giảng đường. Sẽ chẳng có một giải pháp toàn diện để nâng cao chất lượng giáo dục ngay lập tức vì đây là một vấn đề rất phức tạp, vậy hãy tập trung vào các vấn đề cụ thể như bạn muốn môn học này được dạy theo cách nào, muốn có thêm những môn học gì, muốn có những cải cách gì trong hệ thống quản lý nhà trường,... Thêm vào đó là nhữn kinh nghiệm giáo dục của các nước tiên tiến mà bạn nghĩ có thể áp dụng được. Tôi nghĩ rằng có những thành viên của HAO đang và sẽ làm việc trong lĩnh vực giáo dục nên thảo luận vấn đề như thế này sẽ không vô ích, có thể một trong số chúng ta trở thành bộ trưởng giáo dục lắm chứ?

Tôi xin góp ý kiến về cải cách chế độ chấm điểm ở ĐH. Hiện nay hầu hết các trường ĐH đều áp dụng cơ chế thi một lần vào cuối học kì và lấy điểm đó làm điểm của môn học luôn. Một số nơi có thi giữa kì nhưng thường chỉ để làm điều kiện, ít khi tính điểm. Cơ chế này tạo cho sinh viên một cách học là: cứ vô tư đi, trong học kỳ thì chơi thoải mái, đề lúc gần thi thì mượn vở bạn phôtô lại đem về nhà học nước rút trong vòng vài ngày rồi đi thi. Với những người thông mình thì họ học kiểu này vẫn có điểm cao, và thế là tốt lắm rồi. Tuy nhiên ai cũng biết là học kiểu đó sẽ chẳng tích lũy được chút kiến thức nào, thi xong là quên hết, dẫn đến tình trạng tốt nghiệp ra trường với một vốn kiến thức lơ mơ, thủng lỗ chỗ. Cơ chế chấm điểm ở các nước phát triển là: Điểm môn học=Điểm thi cuối kỳ+Điểm thi giữa kỳ+Điểm bài tập. Mỗi tuần giáo viên giao một khối lượng bài tập nhất định, sinh viên phải hoàn thành trong tuần đó rồi nộp chấm điểm. Bài tập này có thể được làm tập thể, có thể hỏi gợi ý của trợ giảng. Điểm bài tập có thể chiếm khoảng 20-30% điểm môn học. Ngoài ra có 1-2 bài thi giữa kỳ, chiếm khoảng 30% điểm môn học. Với cơ chế này thì sinh viên không có sự lựa chọn nào khác là phải học nghiêm túc trong suốt học kỳ, lúc nào cũng cảm thấy có việc phải làm. Các bài tập giao hàng tuần thường khó hơn các bài thi, sinh viên cần phải đọc thêm tài liệu và nghiên cứu kỹ lý thuyết mới có thể làm hết được. Nhờ vậy mà sinh viên hiểu sâu được vấn đề, đồng thời các bài thi cũng không tạo ra nhiều sức ép vì đó không phải là cơ hội duy nhất để có điểm.

Cơ chế này đòi hỏi giảng viên và trợ giảng phải làm việc vất vả hơn nhiều. Ngoài việc hằng tuần phải chấm bài tập, giảng viên còn phải gặp gỡ sinh viên để giải đáp, gợi ý, nhưng qua đó thì giảng viên cũng biết được phản ứng của sinh viên để điều chỉnh nội dung khóa học cho phù hợp. Ngoài ra cần phải nói thêm là các bài thi đều được công bố đáp án, bài thi được trả lại cho sinh viên xem.

Tôi nghĩ cơ chế này hoàn toàn có thể áp dụng ở VN ngay bây giờ. Đội ngũ giảng viên và trợ giảng của các trường đủ khả năng để hoạt động theo cơ chế này. Vấn đề là các trường không yêu cầu họ làm như vậy.
 
Theo hiểu biết của mình thì chính những môn khoa học nhân văn lại giúp chúng ta phát triển một cách toàn diện hơn là các môn khoa học tự nhiên. Và cũng chính là những kiến thức về nhân văn là những điều theo ta suốt cuộc đời. Vì vậy chương trình phổ thông nên định hướng thiên về khoa học xã hội nhân văn, và phải mang tính lý luận nhiều hơn là học thuộc lòng như hiện nay. Ví dụ như môn lịch sử, không nên ham đưa vào quá nhiều sự kiện, môn Văn nên chọn những tác phẩm gần gũi với học sinh... Học khoa học tự nhiên, đặc biệt là Toán, nên giảm tải về mặt tính toán!!
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Ơ, ở trường em học y như anh Linh bảo đấy ạ. Thậm chí các thầy còn nghĩ ra lắm trò dã man hơn. VD môn Lịch sử Đảng 4 trình có 4 bài kiểm tra giữa kỳ, mình biết thân biết phận đã chịu khó chép đầy đủ cả 4 bài trình với 1 bài thi 2 tờ giấy (bằng hồi bé thi Văn), thế mà cuối kỳ vẫn bị 5 điểm vì bố ấy chấm đi học muộn mấy lần :((

Thoai, em chào các bác, em theo anh Tuấn đi làm thẻ Chi bộ đây :D Bắt đầu con đường gian nan leo lên cái ghế Bộ trưởng Bộ GD. Mọi người cổ vũ cho iem nhé :p
 
Tran Vinh Linh đã viết:
Chào các bạn,

Điểm môn học=Điểm thi cuối kỳ+Điểm thi giữa kỳ+Điểm bài tập. Mỗi tuần giáo viên giao một khối lượng bài tập nhất định, sinh viên phải hoàn thành trong tuần đó rồi nộp chấm điểm. Bài tập này có thể được làm tập thể, có thể hỏi gợi ý của trợ giảng. Điểm bài tập có thể chiếm khoảng 20-30% điểm môn học.
Cơ chế này đòi hỏi giảng viên và trợ giảng phải làm việc vất vả hơn nhiều. Ngoài việc hằng tuần phải chấm bài tập, giảng viên còn phải gặp gỡ sinh viên để giải đáp, gợi ý, nhưng qua đó thì giảng viên cũng biết được phản ứng của sinh viên để điều chỉnh nội dung khóa học cho phù hợp.


Cơ chế của Linh đại ca còn có một ưu điểm nữa là giúp đỡ việc phát hiện và bồi dưỡng những tài năng trẻ. Nếu chỉ nhìn vào điểm thi học kỳ thi ai cũng như ai!! Nhưng mà qua khối lượng công việc như thế, cộng với sự giao tiếp gần gũi với các giáo sư, giảng viên, trợ giảng... tên nào giỏi là vượt lên ngay :)>-

Bạn Hương nói cũng có lý . Chương trình GD Việt Nam lạc hậu mà lại cộng thêm sự bó buộc sinh viên nữa thì đúng là đại họa!!! Mình vẫn cảm thấy hạnh phúc vì có những năm tháng sinh viên nhởn nhơ, học được nhiều cái mình thích và thực sự bổ ích!
 
Tran Vinh Linh đã viết:
Tôi xin góp ý kiến về cải cách chế độ chấm điểm ở ĐH. Hiện nay hầu hết các trường ĐH đều áp dụng cơ chế thi một lần vào cuối học kì và lấy điểm đó làm điểm của môn học luôn. Một số nơi có thi giữa kì nhưng thường chỉ để làm điều kiện, ít khi tính điểm. Cơ chế này tạo cho sinh viên một cách học là: cứ vô tư đi, trong học kỳ thì chơi thoải mái, đề lúc gần thi thì mượn vở bạn phôtô lại đem về nhà học nước rút trong vòng vài ngày rồi đi thi. Với những người thông mình thì họ học kiểu này vẫn có điểm cao, và thế là tốt lắm rồi. Tuy nhiên ai cũng biết là học kiểu đó sẽ chẳng tích lũy được chút kiến thức nào, thi xong là quên hết, dẫn đến tình trạng tốt nghiệp ra trường với một vốn kiến thức lơ mơ, thủng lỗ chỗ. Cơ chế chấm điểm ở các nước phát triển là: Điểm môn học=Điểm thi cuối kỳ+Điểm thi giữa kỳ+Điểm bài tập. Mỗi tuần giáo viên giao một khối lượng bài tập nhất định, sinh viên phải hoàn thành trong tuần đó rồi nộp chấm điểm. Bài tập này có thể được làm tập thể, có thể hỏi gợi ý của trợ giảng. Điểm bài tập có thể chiếm khoảng 20-30% điểm môn học. Ngoài ra có 1-2 bài thi giữa kỳ, chiếm khoảng 30% điểm môn học. Với cơ chế này thì sinh viên không có sự lựa chọn nào khác là phải học nghiêm túc trong suốt học kỳ, lúc nào cũng cảm thấy có việc phải làm. Các bài tập giao hàng tuần thường khó hơn các bài thi, sinh viên cần phải đọc thêm tài liệu và nghiên cứu kỹ lý thuyết mới có thể làm hết được. Nhờ vậy mà sinh viên hiểu sâu được vấn đề, đồng thời các bài thi cũng không tạo ra nhiều sức ép vì đó không phải là cơ hội duy nhất để có điểm.

Tôi nghĩ cơ chế này hoàn toàn có thể áp dụng ở VN ngay bây giờ. Đội ngũ giảng viên và trợ giảng của các trường đủ khả năng để hoạt động theo cơ chế này. Vấn đề là các trường không yêu cầu họ làm như vậy.
Kiểu này mà áp dụng đối với Bách Khoa thì hơi bị mệt, học đủ thứ trong vòng có 12 tuần thì làm sao hàng tuần làm bài kiểm tra như vậy được, có chăng nó chỉ có thể áp dụng với những môn chủ chốt nhằm phục vụ cho chuyên nghành. Em không hiểu các trường khác thế nào, chứ BK từ lâu đã được truyền đạt kinh nghiệm là "học giả thi thật", người ta vẫn khen mặt bằng chung khi ra trường của sinh viên BK là khá cơ mà.

Mấy môn kiểu như KTCT, Triết Mác-Lênin, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Xã hội nói đi nói lại thì vẫn thế thôi, không bỏ được. Nhưng giá mà các bác lãnh đạo giảm bớt mấy tiết này, cho học sinh tự học cuối kỳ đến kiểm tra thì thực tế hơn.

Còn môn nữa em rất bức xúc là tiếng Anh. Mọi báo cáo thu được đều cho thấy hiệu quả học ngoại ngữ trong các trường Đại học là rất thấp, mà điều này bắt nguồn từ chính cách dạy cộng với tâm lý đối phó của rất nhiều sinh viên. Nếu hiệu trưởng em sẽ bỏ môn này khỏi chương trình bắt buộc, ai muốn học tiếng Anh thì phải thi, đạt mới được vào, học với quy mô nhỏ, tiền học lấy từ tiền học phí chung của sinh viên toàn trường (không giảm học phí), thu xếp cân đối như thế nào đó để mỗi học viên có cơ hội thi lấy những chứng chỉ quốc tế như TOEFL hay IELTS. Mình đã không để đủ sức đào tạo diện rộng, thì phải tìm cách chọn lấy tinh, tại sao lại cào bằng tất cả như thế. Em không học hệ tiếng Anh, nhìn mấy lớp học tiếng Anh mà thèm, nhưng mấy sinh viên đó lúc nào cũng kêu ca và tiếng Anh là một trong những môn họ sợ nhất (!?).
 
Nguyễn Minh Trung đã viết:
Kiểu này mà áp dụng đối với Bách Khoa thì hơi bị mệt, học đủ thứ trong vòng có 12 tuần thì làm sao hàng tuần làm bài kiểm tra như vậy được, có chăng nó chỉ có thể áp dụng với những môn chủ chốt nhằm phục vụ cho chuyên nghành.
Đây là hàng tuần làm bài tập chứ không phải kiểm tra. Làm bài tập thì được phép tham khảo tài liệu, được yêu cầu giáo viên gợi ý, nên thời gian một tuần cũng không phải là quá ít đâu. Đây chỉ là cách học sao cho hiệu quả cao thôi mà. Làm được bài tập chính là đã hiểu kĩ phần lý thuyết đã học. Bọn SV Mĩ học một học kỳ cũng chỉ có 10 tuần thôi, đã muốn học tốt, hiểu bài sâu thì phải bỏ công ra thôi, chả có cách nào khác cả. Học như vậy có cái lợi là bạn phải chăm chỉ từ đầu nên đến khi thi không cần ôn nhiều vì kiến thức đã có sẵn rồi, chỉ cần xem lại là thi được thôi.
Nguyễn Minh Trung đã viết:
Em không hiểu các trường khác thế nào, chứ BK từ lâu đã được truyền đạt kinh nghiệm là "học giả thi thật", người ta vẫn khen mặt bằng chung khi ra trường của sinh viên BK là khá cơ mà.
Như ở Tổng hợp mà nói là "mặt bằng chung khi ra trường là khá" thì không ổn lắm, mà mình không tin là chất lượng đào tạo của BK cao hơn TH vì tình trạng tiêu cực ở BK phổ biến hơn.

To em Hương: em học trường nào vậy, trường em tính điểm bài tập vào điểm môn học thật à? Vậy thì tốt quá còn gì.
 
Đây là hàng tuần làm bài tập chứ không phải kiểm tra. Làm bài tập thì được phép tham khảo tài liệu, được yêu cầu giáo viên gợi ý, nên thời gian một tuần cũng không phải là quá ít đâu. Đây chỉ là cách học sao cho hiệu quả cao thôi mà. Làm được bài tập chính là đã hiểu kĩ phần lý thuyết đã học. Bọn SV Mĩ học một học kỳ cũng chỉ có 10 tuần thôi, đã muốn học tốt, hiểu bài sâu thì phải bỏ công ra thôi, chả có cách nào khác cả. Học như vậy có cái lợi là bạn phải chăm chỉ từ đầu nên đến khi thi không cần ôn nhiều vì kiến thức đã có sẵn rồi, chỉ cần xem lại là thi được thôi.
Ở Mỹ cũng học liền 7-8 môn hả anh ? Bạn em bên NUS, Singapore, học Điện tử, chúng nó chỉ học có 4 môn thôi và tuần nào cũng kiểm tra như vậy thì không có vấn đề, nên em mới nói chỉ áp dụng được với 1 số môn nhất định. Tuy thế, ở VN, trong chương trình, tuần nào cũng có tiết bài tập và chỉ một lớp nhỏ học với nhau, nó chưa sâu sát, phần nhiều còn giống cấp III, kiểu thầy chữa - trò chép nhưng về ý tưởng là đi theo những gì anh đề cập. À, mà BK người ta cho 7 tuần để thi anh ạ, mục đích là để học nốt và tự học :D.

Như ở Tổng hợp mà nói là "mặt bằng chung khi ra trường là khá" thì không ổn lắm, mà mình không tin là chất lượng đào tạo của BK cao hơn TH vì tình trạng tiêu cực ở BK phổ biến hơn.
Xét về mặt kiếm được việc làm thì em e rằng anh hơi thiếu thông tin :).
 
Nguyễn Minh Trung đã viết:
Ở Mỹ cũng học liền 7-8 môn hả anh ? Bạn em bên NUS, Singapore, học Điện tử, chúng nó chỉ học có 4 môn thôi và tuần nào cũng kiểm tra như vậy thì không có vấn đề, nên em mới nói chỉ áp dụng được với 1 số môn nhất định. Tuy thế, ở VN, trong chương trình, tuần nào cũng có tiết bài tập và chỉ một lớp nhỏ học với nhau, nó chưa sâu sát, phần nhiều còn giống cấp III, kiểu thầy chữa - trò chép nhưng về ý tưởng là đi theo những gì anh đề cập. À, mà BK người ta cho 7 tuần để thi anh ạ, mục đích là để học nốt và tự học :D.
Bọn nó tính theo credit, một quarter học khoảng 15-18 credit tức là khoảng 5-6 môn, tùy theo việc chọn môn học nào. Theo anh kiểu phân bố thời gian như ở BK cũng không hay, vì như thế thầy thì sướng (phải dạy ít) mà trò thì khổ (phải tự mò mẫm nhiều). Nếu học chậm rãi hơn, kĩ càng hơn và có sự hướng dẫn chu đáo của thầy thì sẽ đạt hiệu quả cao hơn, mà cũng chẳng cần phải nghỉ ôn thi, vì đã có kiến thức rồi, chỉ cần xem lại là thi được.
Kiểu lớp dạy bài tập thì anh không lạ, nhưng điều anh muốn nói là nếu không có gì bắt buộc sinh viên phải nỗ lực làm bài tập (kiểu như phải nộp đúng hạn để chấm điểm) thì số người tự giác làm rất ít, và các giờ bài tập chỉ giống như các lớp luyện thi thôi, sinh viên rất thụ động.
Nguyễn Minh Trung đã viết:
Như ở Tổng hợp mà nói là "mặt bằng chung khi ra trường là khá" thì không ổn lắm, mà mình không tin là chất lượng đào tạo của BK cao hơn TH vì tình trạng tiêu cực ở BK phổ biến hơn.
Xét về mặt kiếm được việc làm thì em e rằng anh hơi thiếu thông tin :).
Cũng phải thôi vì BK đào tạo kỹ sư, ra trường dễ kiếm việc hơn cử nhân các ngành khoa học cơ bản. Ý anh muốn nói là lượng kiến thức mà sinh viên thực sự thu nhận được trong thời gian học ĐH cơ mà.
 
Điểm môn học=Điểm thi cuối kỳ+Điểm thi giữa kỳ+Điểm bài tập. Mỗi tuần giáo viên giao một khối lượng bài tập nhất định, sinh viên phải hoàn thành trong tuần đó rồi nộp chấm điểm. Bài tập này có thể được làm tập thể, có thể hỏi gợi ý của trợ giảng. Điểm bài tập có thể chiếm khoảng 20-30% điểm môn học. Ngoài ra có 1-2 bài thi giữa kỳ, chiếm khoảng 30% điểm môn học
Em thấy thế này thì có khác gì mình học hồi cấp 3 đâu anh. Cũng 1 đống bài tập về nhà, thỉnh thoảng lại kiểm tra 15', 1 tiết, các điểm này cũng được tính vào điểm môn học, cũng thi giữa kì, cuối kì. :)
Mà nhiều bài tập thế thì giáo viên lấy đâu ra thời gian để chấm điểm hở anh? Tuần nào cũng có 1 đống bài để chấm, mà sinh viên thì nhiều chứ có ít đâu. Giáo viên họ cũng phải nghiên cứu khoa học + soạn giáo án chứ.
Mà ở Vn thì cứ giao bài tập là những thằng lười nó chẳng chịu làm, đợi những thằng chăm làm xong rồi thì nó chép.
Mấy cả thêm 1 điều nữa là ở VN lương GV rất thấp, nếu lúc nào cũng lo chấm bài và giao bài thì họ lấy đâu thời gian để kiếm thêm thu nhập nữa.
Ý kiến của anh có thể thực hiện được ở các nước phát triển thôi, ở VN thì khó lắm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nguyễn Thành Trung đã viết:
Em thấy thế này thì có khác gì mình học hồi cấp 3 đâu anh. Cũng 1 đống bài tập về nhà, thỉnh thoảng lại kiểm tra 15', 1 tiết, các điểm này cũng được tính vào điểm môn học, cũng thi giữa kì, cuối kì. :)
Mà nhiều bài tập thế thì giáo viên lấy đâu ra thời gian để chấm điểm hở anh? Tuần nào cũng có 1 đống bài để chấm, mà sinh viên thì nhiều chứ có ít đâu. Giáo viên họ cũng phải nghiên cứu khoa học + soạn giáo án chứ.
Mà ở Vn thì cứ giao bài tập là những thằng lười nó chẳng chịu làm, đợi những thằng chăm làm xong rồi thì nó chép.
Mấy cả thêm 1 điều nữa là ở VN lương GV rất thấp, nếu lúc nào cũng lo chấm bài và giao bài thì họ lấy đâu thời gian để kiếm thêm thu nhập nữa.
Để làm được thế này thì phải dùng đội ngũ trợ giảng vào công việc chấm bài chứ, thường là học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh (lực lượng này của ta nhiều lắm, họ vẫn dạy bài tập đấy thôi), như vậy thì giảng viên vẫn còn nhiều thời gian lắm.Soạn bài cũng không mất nhiều thời gian lắm đâu, chọn lấy một cuốn textbook mà dạy theo nó là xong, bài tập phần lớn là ra theo textbook, mà như bây giờ thì vẫn phải soạn bài cơ mà. Đối với giáo viên thì anh nghĩ không có nhiều sự khác biệt. Còn chuyện sinh viên chép bài nhau thì không thể tránh được trong thời gian đầu, nhưng nếu ai không chịu học mà chỉ chép bài thôi thì sẽ không thi được (vì không có thời gian ôn thi), sớm muộn cũng bị tăng ca hoặc ngừng học thôi. Với cơ chế như vậy thì sinh viên luôn phải cố gắng, sẽ vất vả hơn kiểu học của ta bây giờ nhiều, nếu không tự làm bài thì không thể hiểu bài rồi thì chắc chắn thi trượt. Sau một thời gian sinh viên sẽ nhận ra điều đó và tự giác làm bài thôi.
 
Xem xét lại môn thể dục nữa... 1 2 3 , 4 5 6 , :)) ngày nào cũng thế, mệt người thêm mà chả thấy khỏe ra gì cả. thời gian đấy làm được khối việc.
Anh NG Hoàng Dũng nói hoàn toàn đúng... Em thấy các môn học của nước mình không áp dụng được vào đời sống
 
Em thấy đây là một bài viết rất súc tích và hay về tình hình cải cách GDVN , hiện trạng chung của GDVN nhìn một cách tổng thể .

Modernising Education as a Means for Successful Regional Integration
Education reform has been an ongoing issue of concern in Vietnam. In 1992, the Ministry of Education and Training in conjunction with UNDP and UNESCO published a wide-ranging and authoritative report on Vietnam's education and human resources sector. The report identified a host of weaknesses in and constraints on Vietnam's education sector. Public expenditure as a percentage of GDP then rose very significantly the next year. However, since 1993, there have been no remarkable achievements in education policy, despite the Government's official recognition (article 35 of Vietnam's current Constitution) and regular insistence of education as the top national policy.
The education reform debate has recently been intensified and publicized. This is primarily attributable to Vietnam's integration with neighbouring countries. Regional integration drives home three worrying facts: (i) Vietnam's education, especially tertiary education, is sub-standard by regional comparisons, (ii) Vietnamese university graduates are poorly equipped for employment, and (iii) Vietnamese youth lack the ability to actively participate in international integration, particularly in economic integration, due to their poor level of language proficiency, and computing and technical competency. A more domestic reason is the unhappiness of many leading professors at the unjustified conferring of the associate professor/professor titles to many university academics and the sub-standard award of masters and doctoral degrees in Vietnam. In 2003, Vietnam had over 5,000 associate professors/professors and about 14,000 doctoral graduates with a pitiful record of internationally recognized research publications.
Vietnam's education problems are in some way understandable. Unlike physical capital, human capital accumulation is a much more time-consuming process. The structural socio-economic changes in Vietnam since 1989 have been wide-ranging, profound and significant. It is therefore difficult for the education sector to keep pace with economic changes, particularly in view of the fact that the Vietnamese education system is traditionally inflexible and not receptive to reforms. Furthermore, despite the obvious excess demand for education, the government has, for a number of reasons, not consistently encouraged the participation of the private sector (including foreign suppliers) in the education market. In any case, multilateral donors (such as The World Bank, IMF and ADB) and foreign investors are more concerned with promoting the private sector rather human resource development in Vietnam.
A quick observation of the process of education reform in Vietnam reveals that, at a policy level, reform measures tend to be reactive, piecemeal and poorly targeted (for example, the target which aims to raise the percentage of university academics with doctoral qualification to 45-50 per cent by 2005, rather than to improve their actual, measurable teaching and research capacities). Presently, there is also a lack of a comprehensive, proactive and forward-looking national strategy that will serve Vietnam for the next 10 years in a globalization context. At the discussion level, too, much emphasis has been placed on the university sector while, in fact, the majority of Vietnamese students will not reach that level. Also, the debate focuses too much on education efficiency and does not pay adequate attention to equity issues.
Any reform strategy must necessarily start with a clear statement on the purposes of education. This can be approached from different perspectives but, in the present context of Vietnam, education should be primarily interpreted as a means to prepare students for a successful participation in the workforce and society. This implies that education must be modern, practical, flexible and adaptable. To keep up with regional and global developments, Vietnamese graduates should, in addition to technical skills and critical minds, be well informed about global social issues such as population control, protecting the environment, drug abuses, HIV/AIDS, etc. Such a modernization strategy will involve a gradual, but wholesale, change in curricula, textbooks, teaching and assessment methods, and teacher training. It will also involve a greater commitment of the government working together with a more controlled growth of the private sector in the education market. This is a necessary condition for Vietnam's long-term success in its regional and global integration.

WATCHPOINT: Look for further expansion of foreign-based private university activities in Vietnam.

Associate Professor Binh Tran-Nam
Australian Taxation Studies Program (Atax)
Faculty of Law
University of New South Wales
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Tạ TUấn Thành đã viết:
Hic, em dịch ra tiếng Việt hộ anh cái, nhìn hoa hết cả mắt.
Đến khổ , một lời đề nghị .. thật thà đến kindergarten 8-} Chào thua /:) Vâng thì em dịch :p

Hiện đại hóa giáo dục - Phương cách để hội nhập khu vực thành công .

Cải cách giáo dục từ trước tới nay vẫn là một vấn đề được quan tâm chú ý ở Việt Nam. Năm 1992, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, hợp tác với UNDP và UNESCO đã đưa ra một bản tổng kết báo cáo về nhiều mặt của nền giáo dục và nguồn nhân lực Việt Nam. Bản báo cáo này đã chỉ ra rất nhiều những điểm yếu và áp lực đè nặng lên nền giáo dục Việt Nam.Tổng chi tiêu xã hội (một phần GDP) đã tăng rất nhanh trong những năm tiếp theo.Tuy nhiên, từ năm 1993, chúng ta chưa đạt được một thành tựu đáng kể nào trong chính sách giáo dục. Mặc dù giáo dục luôn được đặt lên vị trí Quốc sách hàng đầu của Chính Phủ ( Điều số 35 Hiến pháp Việt Nam ).

Cuộc tranh luận về cải cách giáo dục trong thời gian gần đây ngày càng mạnh mẽ. Điều này được lý giải bởi việc Việt Nam tham gia hội nhập cùng các nước láng giềng . Trong quá trình hội nhập khu vực, nền giáo dục Việt Nam nảy lên 3 thực trạng nổi cộm đáng lo ngại :
(i) Nền giáo dục Việt Nam ,đặc biệt là giáo dục đại học và cao đẳng, được đánh giá tiêu chuẩn chưa cao so sánh với các nước trong khu vực .
(ii) Sinh viên tốt nghiệp đại học Việt Nam kô được chuẩn bị đầy đủ cho việc làm .
(iii) Giới trẻ Việt Nam thiếu khả năng tham gia năng động vào quá trình hội nhập toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực hội nhập kinh tế, do những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học cũng như kỹ thuật .

Một lý do nữa là sự kô đồng tình của một số những giá sư đầu ngành về việc trao tặng bằng việc sĩ /giáo sư một cách phi lý ở nhiều trường đại học và chất lượng thấp kém của tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ ở Việt Nam. Trong năm 2003, Việt Nam có trên 5000 p giáo sư, giáo sư và vào khoảng 14000 tiến sĩ , nhưng với một thành tích nghèo nàn về những tài liệu nghiên cứu mang tầm quốc tế .

Những vấn đề của nền giáo dục Việt Nam, xét trên một phương diện nào đó, là có thể hiểu được. Khác với vốn đầu tư vật chất, tích lũy nguồn lực về con người là một quá trình lâu dài hơn rất nhiều. Đã có rất nhiều thay đổi sâu sắc về nhiều mặt trong hệ thống kinh tế xã hội Việt Nam từ năm 1989 . VÌ thế việc đưa nền giáo dục Việt Nam theo kịp với nhịp độ phát triển kinh tế là rất khó khăn. Nhất là khi giáo dục Việt Nam từ trước tới nay vốn đã không thay đổi linh hoạt và rất " dị ứng " với cải cách. Hơn nữa, mặc dù nhu cầu về giáo dục trong những năm gần đây có xu hướng bùng nổ, Chính phủ đã không đưa ra được những chính sách khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào giáo dục (bao gồm cả nguồn tài trợ nước ngoài ). Những nhà tài trợ quốc tế từ nhiều phía (như Ngân hàng Thế giới , IMF , ADB ) đã quan tâm đến việc đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân hơn là phát triển nguồn nhân lực Việt Nam .

Quan sát cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam chúng ta thấy được những điểm sau : về mặt chính sách, những phương cách cải cách giáo dục rất nhỏ giọt , mục tiêu đề ra không hợp lý (Ví dụ như mục tiêu nâng số lượng tiến sĩ lên 45-50% trước năm 2005, thay vì thực sự nâng cao trình độ giảng dạy và phương tiện nghiên cứu ). Hiện nay, Việt Nam cũng chưa có được một chính sách giáo dục tổng thể và tiên phong cho 10 năm tới, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Trong số những vấn đề được đưa ra thảo luận, khu vực giáo dục đại học đã được quá nhiều sự quan tâm chú ý, trong khi một số lượng lớn học sinh Việt Nam không đạt đến trình độ đại học. Cũng như vậy, cuộc tranh luận nhấn mạnh quá nhiều đến năng suất của giáo dục chứ chưa thực sự quan tâm đến những vấn đề hợp lý .

Bất cứ chính sách cải cách nào cũng phải được khởi điểm với một mục tiêu rõ ràng cho ngành giáo dục. Việc này có thể được thực hiện trên nhiều phương diện, nhưng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, giáo dục phải được xác định là một phương cách để đưa sinh viên tham gia hội nhập một cách thành công vào lực lượng lao động và xã hội. Điều này đòi hỏi nền giáo dục phải hiện đại, thực tế, linh hoạt. Để theo kịp với những phát triển trong khu vực cũng như toàn cầu, những sinh viên đã tốt nghiệp của Việt Nam không những phái có được trình độ kỹ thuật, óc phê phán cần thiết, mà còn phải nắm vững và cập nhật thông tin về những vấn đề xã hội toàn cầu như bảo vệ môi trường, điều tiết dân số, HIV/AIDS v.v... Chính sách hiện đại hóa giáo dục này đòi hỏi sự thay đổi chậm nhưng trên phạm vi tổng thể của toàn bộ chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và đào tạo giáo viên. CHính phủ Việt Nam cũng phải tận tâm hơn trong việt đưa khu vực kinh tế tư nhân vào cuộc. Đây là một điều kiên cần thiết cho sự phát triển lâu dài để VIệt Nam có thể hội nhập trong khu vực và trên thế giới .

Điểm đánh lưu tâm: Mở rộng hơn những hoạt động của các trường đại học tư nhân nước ngoài tại Việt Nam .

Associate Professor Binh Tran-Nam
Australian Taxation Studies Program (Atax)
Faculty of Law
University of New South Wales
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bài viết của Professor Binh Tran-Nam khái quát hiện trạng giáo dục VN rất hay và đầy đủ. Tuy nhiên phần giải pháp thì không thật cụ thể và khả thi. Xã hội hóa giáo dục, tận dụng các nguồn lực khác nhau để đầu tư cho giáo dục là rất đúng, nhưng nếu coi việc mở rộng hoạt động của trường tư và trường do nước ngoài đầu tư làm trọng điểm thì có lẽ không khả thi lắm. Lý do là các trường loại này thường thuộc 2 dạng: một là chỉ mang danh nghĩa là ĐH của Mĩ, của Úc sang VN mở cơ sở đào tạo để thu hút sinh viên chứ bản thân ĐH đó ở nước họ cũng chẳng có uy tín gì cao, chất lượng không đảm bảo (cách đây không lâu có một vụ ĐH Quốc tế gì đó liên kết với trường ĐH Ngoại Ngữ Hà Nội để đào tạo, nhưng rồi chả ra đâu vào đâu, đem con bỏ chợ). Dạng thứ hai là thật sự có chất lượng tốt nhưng học phí quá đắt so với mặt bằng thu nhập của người dân VN, không thể nhân rộng được. Cũng giống như tình trạng các trung tâm ngoại ngữ "do người nước ngoài dậy" đang mọc lên như nấm, cũng là người nước ngoài cả nhưng toàn "tây ba lô" không có tí kiến thức sư phạm nào, một số chỗ chất lượng tương đối như Apolo hay Unesco thì giá lại quá đắt. Còn về trường tư thì cần phải mất nhiều thời gian để có thể xây dựng được một trường hoạt động có hiệu quả. Như trường ĐH Thăng Long thành lập đã khá lâu và đã bắt đầu có uy tín mà qui mô vẫn thuộc loại nhỏ. Các trường lộn xộn như Đông Đô thì không phải bàn.

Theo tôi để cải cách có hiệu quả hơn cần phải bắt đầu từ các trường ĐH công lập. Dù gì thì đội ngũ giảng viên của các trường này vẫn là nguồn nhân lực chủ yếu cho giáo dục VN. Ý kiến của lãnh đạo các trường là muốn bộ GD thu hẹp bớt quyền lực lại, tăng quyền tự chủ cho các trường. Hiện nay khi Qui chế tự chủ tài chính đang dần được áp dụng thì các trường cũng đã ít nhiều trở nên độc lập hơn, có thể tiến hành cân đối thu chi theo nhu cầu và năng lực của trường mà không bị quá phụ thuộc vào các qui chế tài chính như trước đây. VD như có thể dùng phần quĩ lương còn dư (do thiều biên chế hoặc cán bộ đi công tác dài hạn không nhận lương) để thuê chuyên gia, đầu tư cơ sở vật chất (trước đây phần tiền này phải trả lại cho kho bạc). Một số trường đã tự chủ được một phần kinh phí hoạt động. Điều này quan trọng vì nếu các trường tự kiểm soát được hầu bao của mình thì vấn đề kêu gọi đầu tư, kết hợp làm dự án công nghiệp,.. để làm cho cái hầu bao đó đầy lên lại phụ thuộc vào uy tín của trường, năng lực của đội ngũ cán bộ, vậy nên không cần ai phải bức xúc thì các trường cũng phải đổi mới để tồn tại và phát triển.

Một điều nữa cần làm là trả lại quyền tuyển sinh cho các trường, chỉ cần kiểm soát nội dung các đề thi sao cho đảm bảo việc không vượt quá chương trình phổ thông, tổ chức khâu ra đề sao cho không ai biêt người nào ra đề cho trường nào (tránh tình trạng luyện tủ). Ngày thi ĐH cũng nên rải rác ra, không cần tập trung theo đợt, tránh quá tải ở các thành phố trong mùa thi. Muốn kiểm soát không cho thí sinh thi nhiều trường thì có nhiều cách (VD như cấp thẻ kiểm soát cho thí sinh, thi trường nào thì cộp một cái dấu vào đấy, nhìn vào là biết đã thi trường nào). Trường nào có quy trình tuyển sinh riêng của trường đó, gọn nhẹ và hiệu quả hơn việc duy trì một hệ thông chung phức tạp của bộ GD.

Còn vấn đề đào tạo sao cho sinh viên đủ năng lực đáp ứng nhu cầu tuyển dụng thì có thể xây dựng các trung tâm hướng nghiệp của trường ĐH. Trung tâm này có nhiệm vụ thiêt lập quan hệ với các công ti liên quan đến các ngành đào tạo của trường, tìm hiểu nhu cầu tuyển dụng thực tế của thị trường lao động, từ đó điều chỉnh chương trình đào tạo sao cho phù hợp. Trung tâm này cũng làm nhiệm vụ cầu nối giữa sinh viên và các công ti, tạo điều kiện để sinh viên tiếp xúc, tìm hiểu về công việc thực tế, đồng thời tư vấn cho sinh viên trong việc chọn chuyên ngành, rèn luyện kĩ năng trả lời phỏng vấn xin việc, ... Ở VN có lẽ chưa trường nào làm được như vậy, phần vì chương trình đào tạo không linh hoạt (ở đây rất cần đến sự tự chủ của trường để có thể quyết định thay đổi chương trình đào tạo theo nhu cầu thị trường), phần vì thiếu đội ngũ nhân viên có thể đảm đương được công việc tư vấn này. Các hội chợ việc làm hay các buổi tiếp xúc nhà tuyển dụng của Hội Sinh viên hiện nay mới dừng ở mức là nơi để sinh viên nộp hồ sơ mà thôi.

Tạm đề xuất một vài ý kiến như vậy. Mong các bạn đóng góp thêm.
PS: Em Phương dịch tốt lắm.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nếu là bộ trưởng thì em sẽ cho học sinh nghỉ học văn hóa một năm!
Không phải để chơi mà để học những môn hướng nghiệp!
Như vậy mình sẽ tìm được ngành nghề nào là phù hợp với sở trường của mình!
làm ăn thì phải có hiệu quả chứ!
Cứ đâm đàu vào đại học đâu phỉa là xong!
Khổ nỗi các bậc phụ huynh thì...
Cứ phải có lệnh của cấp cao thì mới xong!
 
Eo ơi bác Linh hỏi khó quá em chẳng biết trả lời thế nào :-?

Hay là hỏi thêm 1 câu: Nếu là một nhà giáo bạn sẽ làm gì? để cả nhà cùng suy nghĩ cho vui nhỉ :)
 
Hì, nhà giáo thì không cần phải nếu, vì ở đây cũng có nhiều người là nhà giáo thật rồi. (như anh cũng tập tọe gõ đầu trẻ được hơn 1 năm rồi :D)
Hay là cho quyền to lên một chút nhỉ, VD như là: "Nếu bạn là hiệu trưởng trường Ams" chẳng hạn?
 
Back
Bên trên