Nguyễn Thùy Linh
(leenhdec25th)
New Member
Thấy trên hao có hội những người yêu mèo tớ cũng đú đởn lập những người yêu Çhym
tớ xin giới thiệu những hiểu biết đơn sơ nhất về Çhym mà tớ biết
Chim là loài động vật hai chân, máu nóng, đẻ trứng và có xương sống, có lông vũ, các chi trước tiến hóa thành cánh, và xương rỗng.
Các loài chim có kích thước dao động, từ nhỏ như chim ruồi tới lớn như đà điểu châu Phi hay đà điểu sa mạc châu Úc (emu). Tùy theo cách nhìn nhận của các nhà phân loại học, hiện nay còn tồn tại từ 8.800 tới 10.200 loài chim (cộng với từ 120-130 loài đã tuyệt chủng), làm cho lớp này là lớp đa dạng nhất trên thế giới trong số các động vật có xương sống.
Chim là lớp rất đa dạng trong các nguồn thức ăn. Một số loài ăn mật hoa, thực vật, hạt, trong khi một số loài khác là loài săn mồi hoặc loài ăn xác thối. Phần lớn các loài chim hoạt động ban ngày nhưng cũng có các loài hoạt động ban đêm như cú hay hoạt động lúc hoàng hôn hay bình minh. Một số loài chim di cư tới những khu vực rất xa nhau theo mùa để tìm nơi sinh sống phù hợp nhất, ví dụ nhạn biển Bắc cực.
Nguồn gốc
Có lẽ những loài khủng long ăn thịt nhỏ ở kỷ Jura như Compsognathus đã tiến hóa thành chim hiện đại. Loài chim thủy tổ (Archaeopteryx - loài chim đầu tiên) mang nhiều đặc điểm giống với khủng long: hàm có răng, đầu cánh có 3 ngón móng xương xẩu, đuôi dài. Các hóa thạch khủng long mang xương đòn gánh được phát hiện càng củng cố giả thiết này.
<=chym sẻ ngô
Çhym vàng anh
Vàng anh (chim)
một loài chim, nó còn là tên gọi của một chi thực vật là chi Saraca thuộc phân họ Vang.
Chim vàng anh
Phân loại khoa học
Giới (regnum): Animalia
Ngành (phylum): Chordata
Lớp (class): Aves
Bộ (ordo): Passeriformes
Họ (familia): Oriolidae
Chi (genus): Oriolus
Loài (species): O. oriolus
Tên hai phần
Oriolus oriolus
(Linnaeus, 1758)
Chim vàng anh hay hoàng anh (danh pháp khoa học: Oriolus oriolus), là loài duy nhất trong họ Vàng anh (Oriolidae) thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) sinh sản ở khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, về mùa hè nó di cư đến khu vực châu Âu và miền tây châu Á còn mùa đông thì di cư đến khu vực nhiệt đới.
Nó là loài chim đậu trên các cây cao lá sớm rụng trong các khu vực đồng rừng, vườn cây ăn quả hay công viên. Một quần thể nhỏ tại Anh sinh sản trong các khu vực trồng cây dương đen (Populus nigra).
Chúng làm tổ trên các chạc cây và đẻ từ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng và quả, được chúng tìm kiếm trên các tán lá.
Vàng anh trống là nổi bật với bộ lông vàng và đen điển hình, nhưng vàng anh mái lại có bộ lông vàng ánh xanh lục buồn tẻ. Chúng là loài chim khá nhút nhát và thậm chí cả chim trống cũng rất khó phát hiện trong các tán lá có màu xanh lục và vàng lốm đốm.
Kiểu bay lượn của chúng tương tự như ở loài chim hét, thẳng và mạnh với độ nghiêng nhỏ trên một khoảng cách lớn.
Tiếng kêu của chúng giống như tiếng kêu của chim giẻ cùi, nhưng của chúng thì thánh thót tựa như là uyla-uy-u hay or-iii-ole, không lẫn vào đâu được khi đã nghe thấy.
Tên gọi trong tiếng Anh của nó là "oriole" có nguồn gốc từ tiếng Latinh oriolus lần đầu tiên được ghi nhận bởi Albertus Magnus vào khoảng năm 1250, và ông đã coi nó là từ tượng thanh để làm tên gọi cho loài chim này, dựa theo tiếng hót của nó.
Các loài vàng anh Tân thế giới có bề ngoài tương tự như họ Vàng anh (Oriolidae), nhưng chúng thuộc họ Icteridae và không có quan hệ họ hàng gì với họ Vàng anh của Cựu thế giới.
có gì mọi người bổ sung cho mọi người cùng tìm hiểu
tớ xin giới thiệu những hiểu biết đơn sơ nhất về Çhym mà tớ biết
Chim là loài động vật hai chân, máu nóng, đẻ trứng và có xương sống, có lông vũ, các chi trước tiến hóa thành cánh, và xương rỗng.
Các loài chim có kích thước dao động, từ nhỏ như chim ruồi tới lớn như đà điểu châu Phi hay đà điểu sa mạc châu Úc (emu). Tùy theo cách nhìn nhận của các nhà phân loại học, hiện nay còn tồn tại từ 8.800 tới 10.200 loài chim (cộng với từ 120-130 loài đã tuyệt chủng), làm cho lớp này là lớp đa dạng nhất trên thế giới trong số các động vật có xương sống.
Chim là lớp rất đa dạng trong các nguồn thức ăn. Một số loài ăn mật hoa, thực vật, hạt, trong khi một số loài khác là loài săn mồi hoặc loài ăn xác thối. Phần lớn các loài chim hoạt động ban ngày nhưng cũng có các loài hoạt động ban đêm như cú hay hoạt động lúc hoàng hôn hay bình minh. Một số loài chim di cư tới những khu vực rất xa nhau theo mùa để tìm nơi sinh sống phù hợp nhất, ví dụ nhạn biển Bắc cực.
Nguồn gốc
Có lẽ những loài khủng long ăn thịt nhỏ ở kỷ Jura như Compsognathus đã tiến hóa thành chim hiện đại. Loài chim thủy tổ (Archaeopteryx - loài chim đầu tiên) mang nhiều đặc điểm giống với khủng long: hàm có răng, đầu cánh có 3 ngón móng xương xẩu, đuôi dài. Các hóa thạch khủng long mang xương đòn gánh được phát hiện càng củng cố giả thiết này.
<=chym sẻ ngô
Çhym vàng anh
Vàng anh (chim)
một loài chim, nó còn là tên gọi của một chi thực vật là chi Saraca thuộc phân họ Vang.
Chim vàng anh
Phân loại khoa học
Giới (regnum): Animalia
Ngành (phylum): Chordata
Lớp (class): Aves
Bộ (ordo): Passeriformes
Họ (familia): Oriolidae
Chi (genus): Oriolus
Loài (species): O. oriolus
Tên hai phần
Oriolus oriolus
(Linnaeus, 1758)
Chim vàng anh hay hoàng anh (danh pháp khoa học: Oriolus oriolus), là loài duy nhất trong họ Vàng anh (Oriolidae) thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) sinh sản ở khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, về mùa hè nó di cư đến khu vực châu Âu và miền tây châu Á còn mùa đông thì di cư đến khu vực nhiệt đới.
Nó là loài chim đậu trên các cây cao lá sớm rụng trong các khu vực đồng rừng, vườn cây ăn quả hay công viên. Một quần thể nhỏ tại Anh sinh sản trong các khu vực trồng cây dương đen (Populus nigra).
Chúng làm tổ trên các chạc cây và đẻ từ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng và quả, được chúng tìm kiếm trên các tán lá.
Vàng anh trống là nổi bật với bộ lông vàng và đen điển hình, nhưng vàng anh mái lại có bộ lông vàng ánh xanh lục buồn tẻ. Chúng là loài chim khá nhút nhát và thậm chí cả chim trống cũng rất khó phát hiện trong các tán lá có màu xanh lục và vàng lốm đốm.
Kiểu bay lượn của chúng tương tự như ở loài chim hét, thẳng và mạnh với độ nghiêng nhỏ trên một khoảng cách lớn.
Tiếng kêu của chúng giống như tiếng kêu của chim giẻ cùi, nhưng của chúng thì thánh thót tựa như là uyla-uy-u hay or-iii-ole, không lẫn vào đâu được khi đã nghe thấy.
Tên gọi trong tiếng Anh của nó là "oriole" có nguồn gốc từ tiếng Latinh oriolus lần đầu tiên được ghi nhận bởi Albertus Magnus vào khoảng năm 1250, và ông đã coi nó là từ tượng thanh để làm tên gọi cho loài chim này, dựa theo tiếng hót của nó.
Các loài vàng anh Tân thế giới có bề ngoài tương tự như họ Vàng anh (Oriolidae), nhưng chúng thuộc họ Icteridae và không có quan hệ họ hàng gì với họ Vàng anh của Cựu thế giới.
có gì mọi người bổ sung cho mọi người cùng tìm hiểu