[Chuyện võ lâm] Con đường Võ Đạo

Đỗ Việt
(doviet)

Thành viên danh dự
Con đường Võ Đạo​

Những câu chuyện dưới mái cổ tự với những bậc võ sư thượng thừa võ công cả một đời khổ luyện để truyền cái tâm cho những thế hệ sau, những trận thượng đài khắp trời Tây để có thể nói võ đạo là một con đường dài của bậc trượng phu. Luyện võ công để biến thù thành bạn, khuất phục giang hồ. Đó là tâm thế của võ đạo VN.
 
Kỳ 1: Điều tối thượng của võ đạo

Lão võ sư đã bỏ ra hàng mấy năm ròng rã chân truyền để luyện tập cho đệ tử với những tử đòn tuyệt kỹ công phu. Nhưng rồi một đêm, ông bảo đệ tử hãy cùng ngồi thiền quán tưởng về đòn thế hiểm độc và bất ngờ nói: “Ta muốn các con hãy rũ bỏ tất cả trong tâm tưởng những tử đòn này đi”.

Mồ hôi chảy hôm nay để máu không đổ ngày mai

Gần 90 năm trước, dưới mái một ngôi chùa cổ ở Hải Phòng, sư phụ lão võ sư Trần Tiến từng yêu cầu các đệ tử tâm phúc của mình như thế. Các môn sinh cao đẳng, qua nhiều năm được chân truyền võ đạo, thấu đạt tâm ý thầy. Nhưng những võ sinh còn nhỏ tuổi, mới bắt đầu luyện võ như Trần Tiến thì thật sự bất ngờ: “Tại sao thầy trò ta đã đổ biết bao mồ hôi, thậm chí cả máu để luyện tập, rồi lại bỏ đi? Học võ để làm gì?”.

Con đường tầm sư học võ của võ sư Trần Tiến cũng do cơ duyên. Là hậu duệ của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cha con Trần Tiến (quê ở Bắc Giang) phải lánh nạn về Hải Phòng khi cuộc kháng chiến tan rã. Cha ông đổi họ tên xin được chân khuân vác và giữ kho đường để mưu sinh qua ngày. Một hôm, ba lính Pháp xông vào cướp kho đường, cha con Trần Tiến lao ra chống trả quyết liệt, nhưng sức vóc hai cha con không thể nào chống chỏi nổi toán lính to kềnh càng. Đang núng thế, bất ngờ một bóng áo nâu bay vụt vào. Chỉ trong chớp mắt, người này tung ra mấy cú liên hoàn cước đá văng cả ba tên lính ra đường. Người nghĩa hiệp đó xoa đầu khen Trần Tiến: “Cậu bé nhỏ tuổi mà có dũng khí. Nếu cậu có chí luyện võ phòng thân, đến chùa gặp ta”.

Ngay tối đó, cậu bé Trần Tiến tìm đến ngôi chùa cổ, cậu mới biết ân nhân của cha con mình chính là nhà sư, võ sư Lý Giang Nam. Ông là một cao thủ Thiếu Lâm Nam phái, bị Nhật truy lùng nên bỏ quê hương Trung Quốc sang VN lánh nạn. Lễ bái sư đơn sơ nhưng trang nghiêm khi sư phụ yêu cầu người đệ tử nhỏ phải tuyên thệ tinh thần tối thượng của võ đạo “học võ để tu thân, để hành đạo nghĩa”. Cậu bé Trần Tiến bắt đầu những ngày khổ luyện, bởi thầy luôn dạy rằng: “Mồ hôi chảy hôm nay để máu không đổ ngày mai”. Bất chấp trời mưa gió hay đêm đông rét buốt, ông vẫn luôn bắt đệ tử lao vào luyện tập, có những bài phải luyện tập đến hàng ngàn lần cho thuần thục đến mức như phản xạ tự nhiên dù là đòn thế tuyệt kỹ hay chỉ các bộ tấn pháp đơn giản.

Cậu bé Trần Tiến mê võ, hăng say tập luyện, nhưng nhiều khi chỉ muốn buông xuôi vì... đói! Một tối, Trần Tiến đến sân võ với cái bụng trống rỗng. Cậu cố tập vận đòn tay phát khí, nhưng bộ chân trụ tấn cứ lỏng và tay càng lúc càng run. Sư phụ Nam nghiêm giọng hỏi đệ tử. Trần Tiến đành phải nói thật: “Cả ngày hôm nay con chỉ được ăn một bát cháo”. Sư phụ nhíu mày, không nói tiếng nào và lần đầu tiên ông cho phép đệ tử được nghỉ sớm. Trưa hôm sau, gia đình Trần Tiến đang xì xụp húp cháo độn rau thì thầy Lý Giang Nam bất ngờ đến. Ông đứng lặng nhìn nồi cháo rồi ra về. Buổi tập tối đó, ông bảo các đệ tử ngồi lại, rồi trầm ngâm nói: “Một đồng môn nhỏ của các con đang bị đói. Ta muốn các con mỗi buổi tập hãy góp vào cho em các con được một ổ bánh mì hoặc bát cơm đầy. Điều tối thượng của võ đạo chính là tình thương”. Trần Tiến thấm dần những điều ẩn chứa sau những đòn thế và quyền pháp.

Có lần, võ sư bất ngờ quyết định đuổi một lúc sáu đệ tử thuộc loại cao thủ nhất võ đường, bởi họ tính tình nóng nảy thường hay gây sự với mọi người. Ngồi xếp bằng trước sáu đệ tử đang quì gối, ông nghiêm nghị: “Ta đuổi không phải vì ghét giận mà vì thương các con. Nếu học võ để giỏi đánh nhau thì chỉ là hạng võ phu không sớm hại người cũng hại chính bản thân mình. Ta chỉ nhận lại các người khi đã thật sự thay đổi tính nết, hiểu rõ được tâm nguyện mình học võ để làm gì”. Chuyện qua lâu, bất ngờ một hôm ông gọi Trần Tiến đem mấy thang thuốc trị đả thương cho một số người. Khi đến nơi Trần Tiến mới biết đó là những võ sinh cao thủ bị đuổi ngày nào.

Tuyệt kỹ võ công

Nhà sư, võ sư Lý Giang Nam được nhiều người yêu mến vì ông là một thầy thuốc giỏi, đặc biệt trị các chấn thương xương cốt. Một số võ sinh cũng được ông truyền lại các thuật chữa thương cho đến tận ngày nay. Có người đã thật lòng hỏi ông: “Tại sao thầy vừa dạy cách đánh người lại vừa chỉ cách cứu người?”. Ông trầm ngâm trả lời: “Đó là điều con hãy tự chiêm nghiệm lòng mình. Võ hay đạo cũng là một”.

Sư phụ chữa bệnh không thu tiền, nhưng những người giàu có vẫn tìm cách tạ ơn. Và ông dành tiền của họ để làm phí chữa bệnh cho người nghèo. Cuối đời, ông tiên đoán được thời gian mình qua đời nên chia tay học trò để về nước. Tối trước ngày thầy ra đi, trăng rằm tỏa ánh sáng vằng vặc xuống sân chùa. Các đệ tử ngồi xếp bằng lặng nghe lời thầy dạy lần cuối. Bất ngờ, ông cầm con dao cắt vào ngón tay mình, rồi để máu chảy ròng ròng và nói: “Các đòn thế độc ta đã truyền dạy cho các con cũng như lưỡi dao bén này, nó có thể làm hại người. Ta muốn các con học để biết lợi hại của võ thuật mà phòng tránh nó, chứ không phải sử dụng nó. Hãy rũ bỏ nó đi”.

Sư phụ Lý Giang Nam về nước được ít hôm, các đệ tử góp tiền tổ chức một nhóm đi đường bộ qua ngả Vân Nam sang Trung Quốc thăm thầy lần cuối. Hình ảnh cuối đời của một bậc cao thủ võ công lừng danh cả hai nước thật đạm bạc chỉ với chiếc giường gỗ cũ. Một người trong gia đình kể: “Từ hôm về nước, sư phụ đem phân phát tất cả tài sản còn lại của mình cho dân làng, rồi nhịn ăn hoàn toàn, chỉ uống nước trắng và ngồi thiền. Cách đây mấy hôm, sư phụ biết mình sắp chết, có dặn dò lại nếu có học trò sang tìm thì khi thiêu xác ông, nửa tro cốt đem rải trước chùa Thiếu Lâm, nửa còn lại đem về rải ở đất Hải Phòng”.

Trần Tiến cùng đồng môn nghe kể lại đã bật khóc trước tấm lòng của người thầy phương xa. Họ đã thật sự ngộ ra được lời thầy, chẳng phải đòn thế nào, dù cao siêu đến bao nhiêu bằng tấm lòng khi thu phục được nhân tâm con người. Đó mới chính là tuyệt kỹ võ công, là võ đạo thượng thừa.

----------------------

Võ sư Trần Tiến đã thượng đài thi đấu nhiều nơi trong nước và quốc tế. Nhưng có một trận đấu sinh tử, ông tự xin thua sau khi vừa hạ gục đối thủ. Và đối với đời võ của ông, đó là trận đấu cuối cùng.
 
Kỳ 2: Trận đấu sinh tử

Hạ thấp tấn pháp, người võ sĩ trườn người nhập nội, rồi mãnh liệt tung đòn “xà vương phún khí”. Đối thủ đau đớn ngã gục. Trọng tài quyết định người chiến thắng. Nhưng bất ngờ, ông lại chắp tay vái xin nhận thua.

“Xà vương phún khí”

Sau khi thọ giáo với sư phụ Lý Giang Nam, chàng trai mê võ Trần Tiến còn tiếp tục học hỏi thêm nhiều môn phái khác, đặc biệt là khổ luyện nhu thuật và kiếm đạo của Nhật. Không chỉ học hỏi, Trần Tiến còn phân tích tinh hoa của hai dòng võ Trung Quốc và Nhật Bản để sáng tạo thành những đòn thế độc đáo cho riêng mình. Máu nóng tuổi trẻ cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn đã dần dần đẩy đưa Trần Tiến bước lên nhiều sàn đấu võ thuật trong nước và quốc tế. Sau khi giành ngôi vô địch kiếm thuật Bắc kỳ, ông tiếp tục giành chiến thắng trong hầu hết trận đấu quyền thuật nhờ sự khổ luyện công phu.

Những năm đầu thập niên 1940, trong màu áo quảng cáo của một hãng giày, Trần Tiến bắt đầu sự nghiệp đấu võ đài chuyên nghiệp ở các nước Thái Lan, Singapore, Indonesia, Philippines... Trong một giải quyền thuật tự do ở Singapore, ông đã giành chiến thắng hết các lượt đấu vòng ngoài. Đối thủ cuối cùng của Trần Tiến họp báo trước trận chung kết tuyên bố nhất định sẽ rửa hận cho đồng hương đã bị ông đánh bại.

Trận đấu được qui định trong tám hiệp, mỗi hiệp dài 3 phút. Các võ sĩ chỉ bị cấm đánh xòe tay, còn đòn hiểm như cùi chỏ, đầu gối đều được sử dụng và không mặc áo giáp bảo hộ. Võ sĩ Tiểu Lâm Xung nặng 75kg, cao 1,76m trong khi Trần Tiến lúc ấy nặng chưa tới 65kg và chỉ cao 1,69m.

Ngày trước đêm thượng đài, đại diện của hãng giày lặng lẽ đi cửa sau đến tìm Trần Tiến và truyền đạt mệnh lệnh: “Anh cũng phải thắng trận này. Giới cá cược và truyền thông hiện đang thiên về võ sĩ Singapore. Nếu ta thắng ngược, tên tuổi anh sẽ nổi lên như cồn mà cũng có lợi cho thương hiệu giày”. Trần Tiến trầm ngâm không trả lời, nhưng trong lòng ông đã quyết thắng. Cả buổi trước giờ đấu ông chỉ ngồi thiền, lặng lẽ suy nghĩ về các đòn thế đã học.

Đêm quyết đấu bắt đầu. Tiểu Lâm Xung mặc quần ngắn, áo thun khoe cơ thể lực sĩ và liên tiếp dùng cạnh bàn tay chặt vỡ những tấm ván dày 5cm thay cho màn chào khán giả. Xong, anh ta quay sang hỏi Trần Tiến có thi chặt ván với mình không. Trần Tiến chỉ im lặng lắc đầu. Tiểu Lâm Xung hỏi tiếp: “Vậy thì tự xin thua đi”.

Trần Tiến vẫn mím môi lắc đầu. Tiếng chuông báo hiệp một vang lên, hai võ sĩ lao vào nhau. Tiểu Lâm Xung cậy sức tới tấp tung đòn mãnh liệt, Trần Tiến buộc phải lui vào thế phòng ngự nhiều hơn, thỉnh thoảng mới tìm cách nhập nội để ra đòn. Tiểu Lâm Xung ra hổ quyền thì Trần Tiến dùng hầu quyền để tránh. Tiểu Lâm Xung tiếp tục tung xà quyền. Trần Tiến lại khống chế bằng hạc quyền.

Bốn hiệp đấu trôi qua. Võ sĩ Trần Tiến chưa dính đòn hiểm nhưng bị trọng tài chấm thua điểm số vì ít tấn công. Chính trong khoảnh khắc chủ quan khinh địch của đối thủ, Trần Tiến bất ngờ hạ thấp tấn pháp, trườn người nhập nội như con rắn và bật ngược lên tung đòn “xà vương phún khí” hiểm hóc chính xác vào hạ bộ đối thủ.

Trong chớp mắt, Tiểu Lâm Xung rũ người đổ ập xuống lăn lộn, rồi bất tỉnh như thân chuối bị phạt ngang. Cả khán đài sững sờ. Trần Tiến cũng sững sờ. Chính ông cũng không hiểu tại sao mình ra đòn này. Ông lặng lẽ quì xuống xem Tiểu Lâm Xung bị thương thế nào. Miếng bảo hộ vùng hạ bộ của anh ta đã bị vỡ vì cú đánh quá mạnh.

Lòng tự trọng của võ sĩ

Trận đấu dừng lại vì Tiểu Lâm Xung không thể đánh tiếp. Các trọng tài hội ý với nhau và quyết định công bố người chiến thắng là võ sĩ Việt Nam. Sự thật Trần Tiến đã vô tình ra đòn xấu, nhưng võ đài tự do cũng không lạ với chuyện này và các trọng tài sẽ quyết định theo kết cục trận đấu.

Trọng tài chính đến nắm tay Trần Tiến giơ lên cao và trao huy chương cùng tiền thưởng cho ông. Nhưng bất ngờ, trong ánh mắt sững sờ của mọi người, Trần Tiến rút tay lại, chắp bái xin lỗi rồi tự nhận phần thua trước trọng tài, khán giả và đối thủ mới vừa hồi tỉnh. Sau cơn cuồng nhiệt quyết đấu thắng thua, Trần Tiến đã bình tâm trở lại. Võ đài không còn quyết đấu nữa. Thắng bại như gió thoảng qua. Bên tai ông văng vẳng lời thầy dạy ngày nào.

Trần Tiến lặng lẽ cúi đầu rời võ đài trong tiếng huýt sáo phản đối của những kẻ thua cược và cả tiếng vỗ tay của những người cảm phục khí khái ông. Người giận ông nhất đêm đó có lẽ chính là đại diện hãng giày. Suốt đêm Trần Tiến không ngủ được. Lần đầu tiên trong đời võ của ông xảy ra chuyện này, ông ray rứt buồn cho chính bản thân mình.

Ngồi lặng lẽ trước tấm hình thầy, ông suy nghĩ mãi về lời thầy dạy: “Người luyện võ khi phải sử dụng võ mà chỉ biết mỗi mục đích chiến thắng thì chỉ là hạng võ phu. Trên sàn thi đấu, con phải tìm chiến thắng trong nghệ thuật đẹp của võ. Còn nếu phải quyết liệt trên đường phố để tự vệ hay giúp đỡ người khác, con hãy cố tìm cách khống chế, thu phục đối phương chứ không nên sát hại họ”.

Sáng hôm sau, trời còn tờ mờ, đoàn võ sĩ Singapore đã cử ba huynh trưởng đi xe hơi đến gõ cửa phòng ông. Họ chỉ nói ngắn gọn sư phụ võ đường mình cần gặp võ sĩ Việt Nam. Khi đến võ đường Singapore, ông hơi sựng lại khi nhìn thấy 300 võ sinh đứng khoanh tay thành hai hàng vây lấy mình. Trong lúc ông đang hình dung đến chuyện sinh tử sắp xảy ra, bất ngờ vị sư phụ già bước xuống ghế, đến bắt tay ông và nói: “Cảm ơn con đã cho chúng ta một trận đấu đẹp. Chính cái đẹp phát sinh từ cái xấu mới là cái đẹp có ý nghĩa nhất”.

Sau đó, Tiểu Lâm Xung cũng bước lên chào ông: “Đêm qua, lúc dính đòn gục xuống, tôi chỉ muốn vùng dậy để giết anh, nhưng rồi tôi đã nể anh. Tuy nhiên, tôi sẽ không nhường anh nửa đòn trong trận tái đấu tới đâu nhé”. Trần Tiến mỉm cười: “Tôi sẽ phân thắng bại thật sự với anh trong trận tái đấu dù ở bất cứ đâu. Nhưng đối với tôi, đêm qua đã là trận đấu cuối cùng, trận đấu của tôi với chính tôi rồi”.

Người võ sĩ tự xin thua nay đã 96 tuổi. Sau trận thượng đài đáng nhớ đó, Trần Tiến rời võ đài tham gia kháng chiến, huấn luyện tay không cận chiến cho bộ đội đặc công. Đất nước thống nhất, ông vào TP.HCM dạy võ, làm chưởng môn Thiếu Lâm nội gia quyền cho hàng ngàn võ sinh. Hiện ông vẫn còn dạy võ tại quận Tân Bình. Ông thường kể cho đệ tử tâm phúc nghe trận đấu cuối cùng của đời mình làm bài học xóa đi lòng hiếu chiến và vọng danh của những người mới chập chững vào đường võ.
 
Kỳ 3: Cành liễu trước cuồng phong

Lần giở lại kỷ vật, võ sư Lê Kim Hòa (phó chủ tịch Liên đoàn Võ cổ truyền VN, chủ tịch Hội Võ cổ truyền TP.HCM) cứ ngồi lặng lẽ ngắm ảnh những đệ tử nước ngoài thân thiết của mình, tràn về những kỷ niệm.

Thử tài thầy

Buổi sáng mùa đông rét buốt năm 1989 ở sân bay tại thủ đô Matxcơva (Liên Xô) một người đàn ông VN nhỏ bé chậm rãi bước ra cổng sau chuyến bay dài. Ở đó, 10 thanh niên Nga và các nước Đông Âu to con lực lưỡng đã đứng đợi sẵn. Vừa thấy bóng ông, nhóm thanh niên này vội ùa tới, chắp tay kính chào thầy rồi trao tặng ông những bó hoa tươi rực rỡ.

Đó là lần đầu tiên võ sư Lê Kim Hòa (người gốc Phú Yên) đến xứ sở bạch dương theo lời mời sang dạy võ cổ truyền VN. Cả hai bên đều chưa quen nhau, nhưng các thanh niên mê võ ở nước bạn khi được báo võ sư VN sang đã âm thầm tổ chức buổi đón tiếp để làm ấm lòng thầy, trong đó có những người ở các nước Đông Âu cách xa hàng ngàn kilômet cũng đi xe lửa đến đón thầy. Sau vài khóa biểu diễn, huấn luyện ngắn tại Matxcơva, võ sư Hòa được mời đến dạy ở thành phố Minsk, Belarus. Lớp học gồm 30 thanh niên đến từ các vùng khác nhau, hầu hết họ đều đã trải luyện qua võ thuật, thậm chí một số đã đạt cao đẳng các môn judo, karatedo, taekwondo...

Trước người thầy Việt nhỏ nhắn, các võ sinh to con này luôn tỏ ra kính cẩn nhưng cũng rất thực tế khi vào tập luyện. Mỗi đòn thế võ sư Hòa dạy, họ hay hỏi đi hỏi lại sự hiệu quả thực tế. Là người đã trải luyện qua nhiều môn võ chiến đấu như taekwondo, Tây Sơn Bình Định rồi mới sáng lập môn Thanh Long võ đạo, võ sư Hòa rất hiểu tâm trạng các võ sinh nước ngoài. Họ có thể trạng cao to, khỏe mạnh lại từng tập các môn võ cương nên có thể nghi ngờ tính hiệu quả của các đòn nhu, mà đặc biệt là từ một người thầy cao chưa tới vai mình. Không dám công khai so đấu vì tôn trọng thầy, nhưng các võ sinh vẫn thường xuyên nhờ ông hóa giải những đòn sở trường, hiểm hóc của mình để thử môn võ và công phu của thầy.

Có hôm, một võ sinh đã “nhẹ nhàng” nhờ ông phá các đòn chân sở trường mà anh ta đã khổ luyện hàng năm trời. Cú đá vòng cầu bằng mu bàn chân vào ngang đầu thầy lúc đầu còn chậm và nhẹ, về sau càng mạnh, nhanh dần, nhưng ông chỉ di chuyển người, dùng tay khống chế được tất cả. Cuối cùng, võ sinh này nói: “Em sẽ tung hết đòn đấy nhé”. Cú đá bay ngang bằng cạnh ngoài bàn chân vừa tung ra, lại liên tiếp đến những cú đá thốc, đá chẻ, đá xoay, đá vòng cầu mãnh liệt như cuồng phong tưởng chừng có thể quật bay người thầy nhỏ bé, song trong thoáng chốc người thầy chỉ cần dùng vai hất nhẹ làm anh ta mất thăng bằng té lăn nhào ra sàn tập.

Võ sư Hòa kêu toàn thể võ sinh mở cửa bước ra sân và nói: “Các em có thấy gì không? Đó chỉ là một cành liễu nhỏ nhắn nhưng không dễ gì bị quật ngã bởi gió bão đêm đông, nó có thể uốn cong trong gió bão rồi sẽ bật ngược trở lại”. Lúc này, một số võ sinh nước ngoài bắt đầu hiểu ý thầy muốn mượn hình ảnh cây liễu để nói về những thế võ nhu mà họ đang luyện tập.

Nếu chỉ biết võ

Một số võ sinh nước ngoài thường hỏi thầy Hòa về võ đạo VN: “Đã là võ, tại sao lại có đạo? Kỹ thuật chiến đấu sao có thể song hành cùng với đạo?”. Nghe học trò hỏi, ông hiểu vài câu trả lời ngắn gọn của mình không dễ dàng nhận được sự thấu đạt sâu sắc, nhất là hai nền văn hóa quá khác biệt nhau.

Ông bèn lặng lẽ gọi một võ sinh lại gần, rồi bảo anh ta tung đòn vào mình. Võ sinh này cúi chào thầy, rồi tung thẳng một đòn đá vào tầm mặt ông. Ông lách người nhập nội để tránh cú đá và tung đòn “song chỉ đoạt nhãn” bằng hai ngón tay cứng như mũi dùi thép đâm thẳng vào mắt võ sinh. Tuy nhiên, đòn hiểm này vừa chớm đến mắt, ông bất ngờ thu lại, dùng cạnh bàn tay đánh nhẹ vào xương quai hàm anh ta. Cú đánh này nhẹ nhưng làm tê điếng người dính đòn.

Lần thứ hai, ông lại gọi một võ sinh tấn công mình. Người này sử dụng một loạt mấy cú đấm thẳng vào mặt và ngực thầy. Ông bình tĩnh một tay gạt đỡ tất cả, rồi dùng chính ngón tay cái và trỏ của bàn tay đó tung đòn hiểm móc yết hầu người tấn công. Bất ngờ ông lại dừng tay, chuyển sang đòn khóa khống chế anh ta úp mặt xuống nền tập. Trước ánh mắt ngỡ ngàng của toàn thể võ sinh, ông chỉ nói: “Nếu chỉ biết có võ, tôi sẽ đâm mù mắt hay móc yết hầu của anh ta. Nhưng võ đạo sẽ không dùng những đòn ác độc này”. Các võ sinh ngồi lặng nghe thầy nói, thấu đạt dần. Một số người muốn được giảng giải thêm. Ông chỉ trả lời: “Rồi mọi người sẽ hiểu thêm từ chính quá trình khổ luyện của bản thân mình”.

Càng về sau, các võ sinh càng mến người thầy đến từ đất nước xa xôi. Những ngày cuối tuần nghỉ tập, họ hay tìm đến nơi thầy ở trọ để xem có thể giúp đỡ gì đó cho thầy ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Một số võ sinh còn mời ông về nhà dùng cơm với gia đình. Những đêm đó không chỉ có sự thân mật, mà còn để hai bên tìm hiểu văn hóa, lịch sử của nhau. Có lần, cha một võ sinh hỏi ông nền võ thuật cổ truyền của VN bắt nguồn từ đâu, ông trả lời: Từ trong chính các cuộc chiến tranh vệ quốc suốt hàng ngàn năm của dân tộc.

Trước khi võ sư Hòa về nước, một số võ sinh Nga đã mời thầy đi thăm biển Đen. Những ngày rong ruổi dưới rừng bạch dương, ngắm nhìn các đồng tuyết trắng bao la, thầy trò võ sư Hòa đã có thời gian trò chuyện với nhau rất nhiều. Ông nói cho các võ sinh hiểu chữ đạo luôn gắn liền với tên các phái võ như Việt võ đạo, karatedo, taekwondo mới chỉ chính thức xuất hiện gần đây nhưng tinh thần võ đạo VN đã có từ rất lâu. Ông không lý luận nhiều mà chỉ nói võ sĩ dám hi sinh mạng sống của mình để bảo vệ người khác chính là đạo, và một võ sĩ biết dừng lại đường kiếm sát thủ để tha mạng sống cho kẻ thù cũng là đạo. Lịch sử vệ quốc của VN cũng tràn đầy tinh thần võ đạo. Mấy lần vó ngựa chiến binh Nguyên Mông như cuồng phong xâm lược nước Việt nhỏ bé, vua tôi Trần Nhân Tông không hề nao núng, dũng cảm đánh trả đến cùng. Nhưng khi đã giành chiến thắng, chính họ lại đại xá mạng sống cho kẻ thù của mình để trở về quê hương.

Thời gian sau, một võ sinh Nga tên Vadim đã gọi võ sư Hòa là cha và treo quốc kỳ VN ở xứ sở bạch dương để truyền đạt lại môn phái Thanh Long võ đạo của ông.
 
Kỳ 4: Biến thù thành bạn

Võ không chỉ là đấm đá, mà còn có tâm pháp để thu phục lòng người​

Hai người đàn ông, một là cao thủ giang hồ, một là võ sư, đứng lặng lẽ đối mặt gườm nhau trên con đường đêm vắng bóng người. Lát sau, người có vóc dáng thấp nhỏ lên tiếng: “Tôi sẽ không động thủ trước, nhưng nếu anh ra đòn tôi sẽ tiếp ngay. Và tôi nói trước dù thế nào anh cũng không phá được võ đường của tôi đâu”. Không gian căng cứng như sợi dây đàn sắp đứt...

Võ thuật và giang hồ

Đó là một đêm mà võ sư Lê Kim Hòa khó quên được trong đời mình. Trải luyện qua nhiều môn võ từ nhỏ và ra lập võ đường riêng từ năm 20 tuổi, ông hiểu nếu chỉ với nắm đấm và cú đá thì vài phút đã có kẻ thắng người thua nhưng ân oán chắc chắn sẽ còn dài. Với một người đã dành cả cuộc đời để tập luyện, truyền dạy võ thì không đáng gì để phải rơi vào vòng xoáy giang hồ.

Chuyện bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1980 khi võ sư Hòa mở lại lớp võ. Cùng với phong trào nhiều võ phái khác được hoạt động trở lại, võ sư Hòa đi tìm thuê sân tập để truyền dạy môn Thanh Long võ đạo của mình. Ông cùng người bạn Nguyễn Quốc Tâm là võ sư cao đẳng môn taekwondo lang thang mãi cuối cùng cũng tìm được một địa điểm thích hợp trên đường Nơ Trang Long, quận Bình Thạnh (TP.HCM). Buổi chiều hôm đó, hai người bạn võ đã phấn khởi, cặm cụi chở nhau trên chiếc xe đạp, đi thuê người vẽ bảng chiêu sinh.

Bảng võ vừa treo lên chưa ráo mực, nhiều người nghe tên tuổi đã đến xin đăng ký học, trong đó có cả những học sinh nhỏ tuổi. Chính điều này đã làm cho một cao thủ ở quận Bình Thạnh đâm ghét ông. Người này có biệt danh là Sáu Dao, trước năm 1975 từng tung hoành trên nhiều võ đài đánh độ. Võ sĩ này không luyện sâu một môn phái chính thống nào và thường hạ gục đối thủ nhờ những đòn thế cùi chỏ, đầu gối khét tiếng hiểm hóc. Thời kỳ này, Sáu Dao nổi lên như đại ca trong giới giang hồ. Tuy nhiên, khi phong trào võ thuật phát triển trở lại đầu những năm 1980, Sáu Dao không thể mở được lớp võ chính thức vì không có môn phái rõ ràng cũng như dính dáng đến chuyện bảo kê quán xá phức tạp.

Thấy lớp dạy võ của thầy Hòa thành công ngay “lãnh địa” của mình, Sáu Dao bắt đầu giở ngón quậy phá. Ban đầu, gã tung tin võ sư Hòa chỉ giỏi võ miệng, không có bản lĩnh giang hồ, có dạy võ sinh mười năm cũng chỉ giỏi... múa là cùng. Võ sư Hòa biết chuyện chỉ im lặng. Chẳng làm gì được, Sáu Dao càng điên tiết, tối tối gã canh chặn đường võ sinh nhỏ tuổi đi tập về để đạp ngã xe, giật đồ, thậm chí đánh đập các em và bắn tin “thách đấu với thầy của bọn mày”...

Cuộc rượu trước cuộc đấu

Biết chuyện quậy phá đã đến mức nguy hiểm cho võ sinh mình, võ sư Hòa nhận lời đối mặt với Sáu Dao để hẹn ngày thách đấu. Một số võ sinh thấy thầy một mình tay không, đi đối mặt với dao búa giang hồ, năn nỉ xin đi theo phụ thầy. Võ sư Hòa chỉ cười: “Đời người còn có nhiều trận đấu lớn hơn nữa. Nếu ta thua trận này thì làm sao còn xứng mặt dạy các con”.

Chín giờ tối, một người là võ sư, một người là cao thủ giang hồ đứng đối mặt nhau trên con đường vắng bóng người ở Thủ Đức. Gần năm phút trôi qua, cả hai chỉ đấu mắt nhau, không ai nói với ai một tiếng nào. Cuối cùng, người võ sư có vóc dáng nhỏ bé hơn lên tiếng: “Cuộc thách đấu này sẽ là trận đánh sinh tử cuối cùng của một trong hai người. Tôi muốn dời lại ba ngày nữa để anh suy nghĩ”. Nói xong ông nhún vai, lặng lẽ bỏ đi. Ba ngày sau, chính Sáu Dao lại đề nghị hoãn trận đấu ba đêm nữa.

Võ sư Hòa hiểu kẻ thách đấu đang phân vân. Hai lần đối mặt với Sáu Dao, võ sư Hòa hiểu con người này có tính cách đố kỵ, thích tranh hơn thua, còn bản chất chưa đến mức côn đồ để hễ đụng chuyện là say máu vung tay dao. Và ông quyết định cho một trận đấu của tâm pháp.

Ngay đêm hôm sau, ông nhấc điện thoại gọi cho Sáu Dao: “Tôi muốn đêm nay chúng ta sẽ quyết định luôn, nhưng hãy uống với nhau một cuộc rượu trước khi không còn nhìn mặt nhau được nữa”. Sáu Dao ngạc nhiên nhưng không từ chối.

Hai người đối mặt nhau giữa chiếc bàn chỉ có chai rượu trắng và hai cái ly. Võ sư Hòa rót ly rượu đầu tiên giơ cao trên đầu, rồi tưới xuống đất để cúng tổ võ là Đạt Ma sư tổ, xong mời Sáu Dao ba ly xoay vòng liên tiếp. Từ ngạc nhiên đến nể rồi phục dần khí khái của người võ sư, Sáu Dao nâng ly uống cạn. Hai người cứ thế ngồi uống rượu với nhau. Võ sư Hòa chủ động trò chuyện với Sáu Dao như bạn bè. Ông hết kể chuyện gia đình, đời sống lại quay sang bàn luận võ nghệ với giọng khiêm nhường nhưng cương quyết.

Bất ngờ, ông đề nghị Sáu Dao hãy đấu thử trên bàn rượu trước khi bước ra sân đấu thật, và đề nghị gã giang hồ tung đòn trước. Sáu Dao đang ngà say, hưng phấn nên liền tung ra một loạt mười đòn hiểm bằng cùi chỏ, ống quyển và đầu gối. Võ sư Hòa hóa giải từng đòn một cách nhẹ nhàng.

Sáu Dao bàng hoàng bừng tỉnh giữa cơn say. Từ tận đáy lòng một cao thủ suốt đời cầu danh từng tung hoành võ đài và ngang dọc giới giang hồ, gã ngộ ra mình chưa đấu đã bại trước võ sư Hòa. Sáu Dao nâng ly rượu uống tạ lỗi, xin được kết giao huynh đệ với người mà gã đã ba lần hẹn thách đấu. Võ sư Hòa mỉm cười: “Thôi, biến thù thành bạn nhé! Anh em mình cùng cạn ly”.
 
Back
Bên trên