Đoàn Trang
(Ms_Independent)
Điều hành viên
Nhóm lợi ích
Trong nền kinh tế-chính trị của Việt Nam, một đám mây đen đang lớn dần phía chân trời: mây đen của chính trị nhóm lợi ích. Nó là căn bệnh được lập trình sẵn của mọi nền kinh tế thị trường, nhất là các nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam cũng không là ngoại lệ, và không có lựa chọn nào khác là phải đối diện và chuẩn bị hứng chịu những cơn gió lạnh của chính trị nhóm lợi ích.
Kể từ các nghiên cứu đột phá vào thập niên 1950, lý thuyết về nhóm lợi ích đã đem lại hiểu biết sâu sắc về nhà nước, trở thành xương sống của phân tích chính sách hiện đại. Các nhà kinh tế đã từ bỏ niềm tin ngây thơ về một nhà nước “vô tư” và “nhất quán”, có thể can thiệp để “định hướng” và tránh những thất bại của thị trường. Ngày nay, người ta hiểu rằng các chính sách chịu ảnh hưởng bởi sự tranh giành và thỏa hiệp giữa các nhóm lợi ích-quyền lực.
Các nhóm lợi ích là gì?
Đằng sau các chính sách của nhà nước, (chẳng hạn, bảo hộ công nghiệp ô tô), luôn có những nhóm người hưởng lợi (các tập đoàn sản xuất ô tô trong nước) và những nhóm bị thiệt thòi (người tiêu dùng, các nhà nhập khẩu). Các nhóm này có xu hướng liên kết lại thành các nhóm/tập đoàn lợi ích để cùng nhau gây ảnh hưởng lên chính sách theo hướng có lợi nhất cho mình. Các nhóm lợi ích không có mục tiêu giành quyền lực, mà gây ảnh hưởng “mềm” tới các quan chức và bộ máy nhà nước để có được đặc quyền.
Khác với các vụ hối lộ đơn lẻ của các cá nhân, nhóm lợi ích có khả năng tồn tại lâu dài, và bắt rễ rất sâu và rộng vào bộ máy nhà nước. Họ muốn hai thứ từ nhà nước: các đặc lợi từ chính sách (thuế, trợ cấp, bảo hộ, quyền độc quyền v.v.), và sự ưu ái của các quan chức thực thi chính sách (các hợp đồng với nhà nước, sự bảo kê v.v.). Các công cụ mà nhóm lợi ích sử dụng rất đa dạng. Ở phương Tây, họ sử dụng các phương thức hợp pháp, từ vận động hậu trường, tài trợ cho việc lập chính sách đến vận động phiếu bầu, phản đối qua công luận v.v. Các nền chính trị không minh bạch là môi trường thuận lợi cho một hình thức vận động hiệu quả nhất: hối lộ và mua chuộc quan chức.
Có thể chia ra hai loại: nhóm lợi ích công, vận động cho lợi ích của một số đông hoặc toàn xã hội như bảo vệ môi trường, các công đoàn, hội nông dân v.v. và nhóm lợi ích tư, chỉ vận động cho lợi ích cục bộ của một số rất nhỏ các thành viên (như các doanh nghiệp trong một ngành đòi bảo hộ cho mình v.v.).
Thách thức lớn nhất với bất kì một nhóm lợi ích nào là vượt qua vấn đề “người ăn ké” (free rider). Trong khi việc tác động lên chính sách (ví dụ, nâng thuế nhập khẩu ô tô cũ) luôn tốn kém, khi một chính sách thông qua thì cả nhóm được hưởng lợi, bất kể một thành viên có đóng góp cho việc tác động đó hay không. Vì thế, chính những nhóm lợi ích tư, số lượng nhỏ nhưng có khả năng thu lợi lớn từ việc bóp méo chính sách lại thường có khả năng cấu kết trong những hành động chung, chiến thắng cả những đám đông to lớn. Như trường hợp Zuellig Farma độc quyền giá thuốc, hàng chục triệu người tiêu dùng đã thất bại đau đớn trước một công ty ngoại quốc.
Có 2 điều kiện cơ bản về cung và cầu để chính trị nhóm lợi ích hình thành. Về phía cầu: trong xã hội hình thành những thế lực kinh tế lớn, cấu kết chặt chẽ và có rất nhiều tiền để mua chính sách hay sự bảo kê. Các thế lực này thường là các đại công ty (bất kể là quốc doanh, tư bản nước ngoài hay tư nhân), hay các tập đoàn tội phạm kinh doanh các ngành bị cấm nhưng mang lại lợi nhuận siêu ngạch (ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi v.v.). Về phía cung: nhà nước yếu và bị chia rẽ, các chính trị gia và công chức sẵn sàng bán mình cho đồng tiền.
Sự trỗi dậy của các tập đoàn lợi ích ở Việt Nam
Trong nền kinh tế tập trung ở Việt Nam trước đổi mới, không còn tồn tại các thế lực kinh tế độc lập, đủ lớn để chịu ảnh hưởng lớn từ chính sách, và đủ mạnh để ảnh hưởng lên quyết định của nhà nước. Về phía cung, nhà nước trung ương tập quyền thời đó rất mạnh, khiến sự ảnh hưởng để thay đổi chính sách (dù là có lợi cho dân chúng) cũng rất khó khăn. (Xem loạt bài “Đêm trước đổi mới” đăng trên Tuổi trẻ Online).
Nhưng nền kinh tế thị trường càng lớn thì lợi ích thu được từ việc ảnh hưởng chính sách trở nên khổng lồ. Đương nhiên, ai trong cuộc chơi của thị trường cũng đều cảm nhận rất rõ điều này. Vì thế, các đại gia tư bản nước ngoài nhảy vào Việt Nam ngay sau khi mở cửa. Nhà nước thì chủ tâm xây dựng các tổng công ty. Các đại gia tư nhân dù chậm chân cũng đang hình thành. Các tập đoàn tội phạm lớn nhanh. Tất cả đều ra sức thâm nhập vào bộ máy nhà nước để giành đặc lợi.
Mặt khác, bộ máy nhà nước cũng ngày càng phân hóa theo các lợi ích đa dạng (địa phương, ngành v.v.), trở thành người đại diện của các nhóm lợi ích khác nhau. Một ví dụ điển hình của sự phân hóa là các ngành quan trọng đều có những ảnh hưởng riêng, đòi hỏi riêng mà chính sách đàm phán gia nhập WTO không thống nhất. Tuyên bố của Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển là ví dụ điển hình của tình trạng phân hóa này: "Mỗi ngành khi đi đàm phán đều có phương án đàm phán riêng của mình mà Trưởng đoàn đàm phán không biết"
Điểm mặt vài nhóm lợi ích ở Việt Nam
Các tập đoàn lợi ích nhân danh gì và thực sự vì ai? Họ thường nhân danh lợi ích quốc gia, nhưng thực tế thì thường vì lợi nhuận của chính họ. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) là một tập đoàn lợi ích như thế. Được hưởng đặc lợi từ tầng tầng lớp lớp thuế và lệnh cấm đánh vào ô tô nhập khẩu, giá ô tô sản xuất ở Việt Nam luôn cao gấp 2 đến 3 lần so với các nước. Dù thế, VAMA vẫn thường cùng nhau nâng giá rất đặc trưng của các cartel công nghiệp .
Mười một “đại gia" FDI trong VAMA vẫn đang cầm trịch thị trường ô tô. Có hãng ô tô nào khi đến một nước đang phát triển mà lại không vẽ ra viễn cảnh một ngành công nghiệp ô tô “hoành tráng” sánh ngang với Hàn Quốc vài thập kỉ trước? Rốt cuộc, lợi ích dân tộc là gì sau mười bốn năm hi sinh lợi ích người tiêu dùng để ưu đãi các nhà tư bản (từ năm 1992 đến nay)? Dù luôn hứa hẹn nội địa hóa lên 30-40% trong vòng 10 năm, đến nay tỷ lệ nội địa hoá mà các DN thực hiện mới chỉ đạt 2-10%. Dường như cầu ngoại viện bằng bảo hộ vẫn thường đưa đến những giấc mơ không thành về “công nghiệp mũi nhọn”, sau khi mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nhà tư bản nước ngoài (và có thể cả những khoản lợi không nhỏ cho các quan chức ủng hộ nó). Dẫu sao, với ván bài ô tô, người cầm trịch cuối cùng vẫn là chính phủ Việt Nam. Miễn là các quan chức liên quan không bị ảnh hưởng bởi tập đoàn lợi ích hùng mạnh kia.
Vụ Zuellig Farma Vietnam (ZFV) lại cho thấy sức mạnh trường tồn của các nhóm tư bản nước ngoài và quyền năng khuynh đảo của họ với thị trường thuốc nhỏ bé của Việt Nam. ZFV là đại diện độc quyền của 27 hãng dược phẩm hàng đầu thế giới, từng phân phối 157 dòng thuốc ở Việt Nam. Trong nhiều năm, ZFV liên tục nâng giá thuốc, có loại tăng tới 60% một năm. Việc Bộ Y tế không “phát hiện” sự lũng đoạn thị trường của ZFV cho đến khi báo chí phanh phui, cũng như sự cố khởi tố phóng viên Lan Anh (báo Tuổi trẻ) về tội “tiết lộ bí mật nhà nước” cho thấy thế lực ngầm của ZFV. Nhưng việc Bộ Y tế rút quyền phân phối thuốc của ZFV sau đó đã chứng tỏ công ty ngoại quốc chưa kịp bám rễ vào cơ quan công quyền.
Dù sao, dẫu có mất quyền phân phối thì thế độc quyền của ZF vẫn không suy chuyển. (Các nhà nhập khẩu thuốc không thể mua được thuốc từ các hãng bào chế đã có số đăng kí cấp cho Zuellig Farma). Quyền lực của các công ty dược phẩm khổng lồ vượt quá phạm vi một quốc gia, lợi ích của nó được các nước giàu bảo vệ nhiệt thành. Và các nước nghèo sẽ còn phải đương đầu với chúng trong nhiều thập kỉ tới.
Ngược lại, vụ Năm Cam thực chất là sự thâm nhập của một tập đoàn tội phạm kinh doanh ngành công nghiệp cờ bạc với lợi nhuận siêu ngạch vào các quan chức có thể bảo kê cho nó. Tồn tại trong hơn một thập kỉ, xây dựng được tiềm lực tài chính to lớn, tập đoàn này đã cắm vòi của nó vào hàng ngũ quan chức cao cấp trong cả hành pháp, tư pháp, công tố và báo chí. Bị báo chí phanh phui, bị bắt lần đầu vào năm 1995 nhưng Năm Cam vẫn bành trướng tập đoàn của mình trước khi nó bị đập tan vào 2002. Điều này cho thấy sự dai dẳng của các mối quan hệ giữa các quan chức với các tập đoàn lợi ích, một khi họ đã nhúng chàm.
Vụ đưa nâng khống giá thiết bị bưu điện lên vài chục lần, gây thiệt hại hơn 40 tỉ đồng của Nguyễn Lâm Thái (năm 2005) lại cho thấy một lối tiến hóa ngược của các nhóm lợi ích. Ở đây, quyền lực thiếu kiểm soát đã đỡ đẻ cho nhóm lợi ích. Thái vốn không có tiềm lực tài chính. Nhờ vào quan hệ với các bưu điện ở miền Trung và miền Nam và với các cán bộ ở Trung tâm kiểm định giá (Bộ Tài chính), Thái đã tạo ra một mạng lưới các công ty con để trục lợi. Các “công ty sân sau” này được tạo ra để chuyển quyền lực hành chính (quyền định giá, quyền mua thiết bị không qua đấu thầu) thành tiền, là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự lạm quyền.
Vụ tham nhũng khổng lồ từ việc mua bán thầu xây dựng các công trình của Petro Việt Nam cho thấy các nhóm lợi ích hình thành trong ruột của các đại công ty do nhà nước hậu thuẫn. Các ngành công nghiệp quy mô lớn và mang tính kĩ thuật cao (dầu khí, viễn thông, ngân hàng, công nghiệp quốc phòng v.v.) thường được coi là thiên đường của tham nhũng. Những hợp đồng khổng lồ trị giá hàng chục triệu USD nằm ngoài tầm rà quét của báo giới và dân chúng do tính chất phức tạp và “nhạy cảm” của chúng. Chỉ có những công chức nằm sâu trong hệ thống đó mới biết rõ các ngóc ngách, đủ khả năng tạo ra các nhóm lợi ích rất nhỏ nhưng đủ sức móc rỗng ruột các tổng công ty hùng mạnh. Không cần dùng báo chí hay bất kì phương thức lobby ồn ào nào, chúng đi thẳng đến quyền lực thông qua con đường ngắn nhất: tiền. Trái tim của các tập đoàn tham nhũng như thế nằm trong chính hệ thống. Các doanh nghiệp bên ngoài chỉ được dựng lên nhằm hợp thức hóa những nguồn lợi họ đã nhắm từ trước.
Đương nhiên, các tập đoàn lợi ích hình thành, tiến hóa nhanh nhất và có tổ chức nhất trong những ngành béo bở nhất. Nhưng trong các mảng khác của đời sống xã hội, cuộc đấu giữa các nhóm lợi ích nhỏ hơn cũng không kém phần quyết liệt. Nhìn vào sự hình thành của Luật về Hội , sau một thập kỉ tranh cãi, người ta hiểu rõ rằng đây không đơn thuần là cuộc đấu tranh của các tổ chức xã hội đòi các cơ quan công quyền nới lỏng kiểm soát. Tiến trình còn chậm vì còn những nhóm lợi ích thủ cựu (vested interest) đang hưởng lợi từ nguyên trạng (được bao cấp) ngăn cản các nhóm khác. Có những hội có lịch sử lâu dài nhưng đang ngắc ngoải vì thiếu đường lối trong nền kinh tế thị trường tìm cách cản trở quá trình đổi mới. Đặc lợi của các nhóm này rất nhỏ so với những lợi ích của cải cách, nhưng những nhóm hưởng lợi lại không có cách nào “mua chuộc” được họ. Vì thế, các nhóm thủ cựu vận dụng mọi thứ, kể cả dựa vào ý thức hệ để bảo vệ lợi ích của mình.
Ngay trong hệ thống hành chính, cũng lại có những lợi ích khác nhau. Các địa phương muốn giành các dự án lớn về cho địa phương mình. Các ngành muốn giữ quyền cấp phép và kiểm soát, những cỗ máy in tiền cho ngành. Trong hệ thống giáo dục, các trường ĐH công lập vốn được hưởng các cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên lâu năm, vẫn tiếp tục vận động để hưởng trợ cấp hàng năm từ ngân sách.
Trong nền kinh tế-chính trị của Việt Nam, một đám mây đen đang lớn dần phía chân trời: mây đen của chính trị nhóm lợi ích. Nó là căn bệnh được lập trình sẵn của mọi nền kinh tế thị trường, nhất là các nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam cũng không là ngoại lệ, và không có lựa chọn nào khác là phải đối diện và chuẩn bị hứng chịu những cơn gió lạnh của chính trị nhóm lợi ích.
Kể từ các nghiên cứu đột phá vào thập niên 1950, lý thuyết về nhóm lợi ích đã đem lại hiểu biết sâu sắc về nhà nước, trở thành xương sống của phân tích chính sách hiện đại. Các nhà kinh tế đã từ bỏ niềm tin ngây thơ về một nhà nước “vô tư” và “nhất quán”, có thể can thiệp để “định hướng” và tránh những thất bại của thị trường. Ngày nay, người ta hiểu rằng các chính sách chịu ảnh hưởng bởi sự tranh giành và thỏa hiệp giữa các nhóm lợi ích-quyền lực.
Các nhóm lợi ích là gì?
Đằng sau các chính sách của nhà nước, (chẳng hạn, bảo hộ công nghiệp ô tô), luôn có những nhóm người hưởng lợi (các tập đoàn sản xuất ô tô trong nước) và những nhóm bị thiệt thòi (người tiêu dùng, các nhà nhập khẩu). Các nhóm này có xu hướng liên kết lại thành các nhóm/tập đoàn lợi ích để cùng nhau gây ảnh hưởng lên chính sách theo hướng có lợi nhất cho mình. Các nhóm lợi ích không có mục tiêu giành quyền lực, mà gây ảnh hưởng “mềm” tới các quan chức và bộ máy nhà nước để có được đặc quyền.
Khác với các vụ hối lộ đơn lẻ của các cá nhân, nhóm lợi ích có khả năng tồn tại lâu dài, và bắt rễ rất sâu và rộng vào bộ máy nhà nước. Họ muốn hai thứ từ nhà nước: các đặc lợi từ chính sách (thuế, trợ cấp, bảo hộ, quyền độc quyền v.v.), và sự ưu ái của các quan chức thực thi chính sách (các hợp đồng với nhà nước, sự bảo kê v.v.). Các công cụ mà nhóm lợi ích sử dụng rất đa dạng. Ở phương Tây, họ sử dụng các phương thức hợp pháp, từ vận động hậu trường, tài trợ cho việc lập chính sách đến vận động phiếu bầu, phản đối qua công luận v.v. Các nền chính trị không minh bạch là môi trường thuận lợi cho một hình thức vận động hiệu quả nhất: hối lộ và mua chuộc quan chức.
Có thể chia ra hai loại: nhóm lợi ích công, vận động cho lợi ích của một số đông hoặc toàn xã hội như bảo vệ môi trường, các công đoàn, hội nông dân v.v. và nhóm lợi ích tư, chỉ vận động cho lợi ích cục bộ của một số rất nhỏ các thành viên (như các doanh nghiệp trong một ngành đòi bảo hộ cho mình v.v.).
Thách thức lớn nhất với bất kì một nhóm lợi ích nào là vượt qua vấn đề “người ăn ké” (free rider). Trong khi việc tác động lên chính sách (ví dụ, nâng thuế nhập khẩu ô tô cũ) luôn tốn kém, khi một chính sách thông qua thì cả nhóm được hưởng lợi, bất kể một thành viên có đóng góp cho việc tác động đó hay không. Vì thế, chính những nhóm lợi ích tư, số lượng nhỏ nhưng có khả năng thu lợi lớn từ việc bóp méo chính sách lại thường có khả năng cấu kết trong những hành động chung, chiến thắng cả những đám đông to lớn. Như trường hợp Zuellig Farma độc quyền giá thuốc, hàng chục triệu người tiêu dùng đã thất bại đau đớn trước một công ty ngoại quốc.
Có 2 điều kiện cơ bản về cung và cầu để chính trị nhóm lợi ích hình thành. Về phía cầu: trong xã hội hình thành những thế lực kinh tế lớn, cấu kết chặt chẽ và có rất nhiều tiền để mua chính sách hay sự bảo kê. Các thế lực này thường là các đại công ty (bất kể là quốc doanh, tư bản nước ngoài hay tư nhân), hay các tập đoàn tội phạm kinh doanh các ngành bị cấm nhưng mang lại lợi nhuận siêu ngạch (ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi v.v.). Về phía cung: nhà nước yếu và bị chia rẽ, các chính trị gia và công chức sẵn sàng bán mình cho đồng tiền.
Sự trỗi dậy của các tập đoàn lợi ích ở Việt Nam
Trong nền kinh tế tập trung ở Việt Nam trước đổi mới, không còn tồn tại các thế lực kinh tế độc lập, đủ lớn để chịu ảnh hưởng lớn từ chính sách, và đủ mạnh để ảnh hưởng lên quyết định của nhà nước. Về phía cung, nhà nước trung ương tập quyền thời đó rất mạnh, khiến sự ảnh hưởng để thay đổi chính sách (dù là có lợi cho dân chúng) cũng rất khó khăn. (Xem loạt bài “Đêm trước đổi mới” đăng trên Tuổi trẻ Online).
Nhưng nền kinh tế thị trường càng lớn thì lợi ích thu được từ việc ảnh hưởng chính sách trở nên khổng lồ. Đương nhiên, ai trong cuộc chơi của thị trường cũng đều cảm nhận rất rõ điều này. Vì thế, các đại gia tư bản nước ngoài nhảy vào Việt Nam ngay sau khi mở cửa. Nhà nước thì chủ tâm xây dựng các tổng công ty. Các đại gia tư nhân dù chậm chân cũng đang hình thành. Các tập đoàn tội phạm lớn nhanh. Tất cả đều ra sức thâm nhập vào bộ máy nhà nước để giành đặc lợi.
Mặt khác, bộ máy nhà nước cũng ngày càng phân hóa theo các lợi ích đa dạng (địa phương, ngành v.v.), trở thành người đại diện của các nhóm lợi ích khác nhau. Một ví dụ điển hình của sự phân hóa là các ngành quan trọng đều có những ảnh hưởng riêng, đòi hỏi riêng mà chính sách đàm phán gia nhập WTO không thống nhất. Tuyên bố của Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển là ví dụ điển hình của tình trạng phân hóa này: "Mỗi ngành khi đi đàm phán đều có phương án đàm phán riêng của mình mà Trưởng đoàn đàm phán không biết"
Điểm mặt vài nhóm lợi ích ở Việt Nam
Các tập đoàn lợi ích nhân danh gì và thực sự vì ai? Họ thường nhân danh lợi ích quốc gia, nhưng thực tế thì thường vì lợi nhuận của chính họ. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) là một tập đoàn lợi ích như thế. Được hưởng đặc lợi từ tầng tầng lớp lớp thuế và lệnh cấm đánh vào ô tô nhập khẩu, giá ô tô sản xuất ở Việt Nam luôn cao gấp 2 đến 3 lần so với các nước. Dù thế, VAMA vẫn thường cùng nhau nâng giá rất đặc trưng của các cartel công nghiệp .
Mười một “đại gia" FDI trong VAMA vẫn đang cầm trịch thị trường ô tô. Có hãng ô tô nào khi đến một nước đang phát triển mà lại không vẽ ra viễn cảnh một ngành công nghiệp ô tô “hoành tráng” sánh ngang với Hàn Quốc vài thập kỉ trước? Rốt cuộc, lợi ích dân tộc là gì sau mười bốn năm hi sinh lợi ích người tiêu dùng để ưu đãi các nhà tư bản (từ năm 1992 đến nay)? Dù luôn hứa hẹn nội địa hóa lên 30-40% trong vòng 10 năm, đến nay tỷ lệ nội địa hoá mà các DN thực hiện mới chỉ đạt 2-10%. Dường như cầu ngoại viện bằng bảo hộ vẫn thường đưa đến những giấc mơ không thành về “công nghiệp mũi nhọn”, sau khi mang lại lợi nhuận khổng lồ cho nhà tư bản nước ngoài (và có thể cả những khoản lợi không nhỏ cho các quan chức ủng hộ nó). Dẫu sao, với ván bài ô tô, người cầm trịch cuối cùng vẫn là chính phủ Việt Nam. Miễn là các quan chức liên quan không bị ảnh hưởng bởi tập đoàn lợi ích hùng mạnh kia.
Vụ Zuellig Farma Vietnam (ZFV) lại cho thấy sức mạnh trường tồn của các nhóm tư bản nước ngoài và quyền năng khuynh đảo của họ với thị trường thuốc nhỏ bé của Việt Nam. ZFV là đại diện độc quyền của 27 hãng dược phẩm hàng đầu thế giới, từng phân phối 157 dòng thuốc ở Việt Nam. Trong nhiều năm, ZFV liên tục nâng giá thuốc, có loại tăng tới 60% một năm. Việc Bộ Y tế không “phát hiện” sự lũng đoạn thị trường của ZFV cho đến khi báo chí phanh phui, cũng như sự cố khởi tố phóng viên Lan Anh (báo Tuổi trẻ) về tội “tiết lộ bí mật nhà nước” cho thấy thế lực ngầm của ZFV. Nhưng việc Bộ Y tế rút quyền phân phối thuốc của ZFV sau đó đã chứng tỏ công ty ngoại quốc chưa kịp bám rễ vào cơ quan công quyền.
Dù sao, dẫu có mất quyền phân phối thì thế độc quyền của ZF vẫn không suy chuyển. (Các nhà nhập khẩu thuốc không thể mua được thuốc từ các hãng bào chế đã có số đăng kí cấp cho Zuellig Farma). Quyền lực của các công ty dược phẩm khổng lồ vượt quá phạm vi một quốc gia, lợi ích của nó được các nước giàu bảo vệ nhiệt thành. Và các nước nghèo sẽ còn phải đương đầu với chúng trong nhiều thập kỉ tới.
Ngược lại, vụ Năm Cam thực chất là sự thâm nhập của một tập đoàn tội phạm kinh doanh ngành công nghiệp cờ bạc với lợi nhuận siêu ngạch vào các quan chức có thể bảo kê cho nó. Tồn tại trong hơn một thập kỉ, xây dựng được tiềm lực tài chính to lớn, tập đoàn này đã cắm vòi của nó vào hàng ngũ quan chức cao cấp trong cả hành pháp, tư pháp, công tố và báo chí. Bị báo chí phanh phui, bị bắt lần đầu vào năm 1995 nhưng Năm Cam vẫn bành trướng tập đoàn của mình trước khi nó bị đập tan vào 2002. Điều này cho thấy sự dai dẳng của các mối quan hệ giữa các quan chức với các tập đoàn lợi ích, một khi họ đã nhúng chàm.
Vụ đưa nâng khống giá thiết bị bưu điện lên vài chục lần, gây thiệt hại hơn 40 tỉ đồng của Nguyễn Lâm Thái (năm 2005) lại cho thấy một lối tiến hóa ngược của các nhóm lợi ích. Ở đây, quyền lực thiếu kiểm soát đã đỡ đẻ cho nhóm lợi ích. Thái vốn không có tiềm lực tài chính. Nhờ vào quan hệ với các bưu điện ở miền Trung và miền Nam và với các cán bộ ở Trung tâm kiểm định giá (Bộ Tài chính), Thái đã tạo ra một mạng lưới các công ty con để trục lợi. Các “công ty sân sau” này được tạo ra để chuyển quyền lực hành chính (quyền định giá, quyền mua thiết bị không qua đấu thầu) thành tiền, là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự lạm quyền.
Vụ tham nhũng khổng lồ từ việc mua bán thầu xây dựng các công trình của Petro Việt Nam cho thấy các nhóm lợi ích hình thành trong ruột của các đại công ty do nhà nước hậu thuẫn. Các ngành công nghiệp quy mô lớn và mang tính kĩ thuật cao (dầu khí, viễn thông, ngân hàng, công nghiệp quốc phòng v.v.) thường được coi là thiên đường của tham nhũng. Những hợp đồng khổng lồ trị giá hàng chục triệu USD nằm ngoài tầm rà quét của báo giới và dân chúng do tính chất phức tạp và “nhạy cảm” của chúng. Chỉ có những công chức nằm sâu trong hệ thống đó mới biết rõ các ngóc ngách, đủ khả năng tạo ra các nhóm lợi ích rất nhỏ nhưng đủ sức móc rỗng ruột các tổng công ty hùng mạnh. Không cần dùng báo chí hay bất kì phương thức lobby ồn ào nào, chúng đi thẳng đến quyền lực thông qua con đường ngắn nhất: tiền. Trái tim của các tập đoàn tham nhũng như thế nằm trong chính hệ thống. Các doanh nghiệp bên ngoài chỉ được dựng lên nhằm hợp thức hóa những nguồn lợi họ đã nhắm từ trước.
Đương nhiên, các tập đoàn lợi ích hình thành, tiến hóa nhanh nhất và có tổ chức nhất trong những ngành béo bở nhất. Nhưng trong các mảng khác của đời sống xã hội, cuộc đấu giữa các nhóm lợi ích nhỏ hơn cũng không kém phần quyết liệt. Nhìn vào sự hình thành của Luật về Hội , sau một thập kỉ tranh cãi, người ta hiểu rõ rằng đây không đơn thuần là cuộc đấu tranh của các tổ chức xã hội đòi các cơ quan công quyền nới lỏng kiểm soát. Tiến trình còn chậm vì còn những nhóm lợi ích thủ cựu (vested interest) đang hưởng lợi từ nguyên trạng (được bao cấp) ngăn cản các nhóm khác. Có những hội có lịch sử lâu dài nhưng đang ngắc ngoải vì thiếu đường lối trong nền kinh tế thị trường tìm cách cản trở quá trình đổi mới. Đặc lợi của các nhóm này rất nhỏ so với những lợi ích của cải cách, nhưng những nhóm hưởng lợi lại không có cách nào “mua chuộc” được họ. Vì thế, các nhóm thủ cựu vận dụng mọi thứ, kể cả dựa vào ý thức hệ để bảo vệ lợi ích của mình.
Ngay trong hệ thống hành chính, cũng lại có những lợi ích khác nhau. Các địa phương muốn giành các dự án lớn về cho địa phương mình. Các ngành muốn giữ quyền cấp phép và kiểm soát, những cỗ máy in tiền cho ngành. Trong hệ thống giáo dục, các trường ĐH công lập vốn được hưởng các cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên lâu năm, vẫn tiếp tục vận động để hưởng trợ cấp hàng năm từ ngân sách.