Bình Minh Mưa- Pautovski

Thụy Miên
(kidzsua)

Thành viên danh dự
Source:vn2k.
Cám ơn chị Thủy Minh (bên kia nick em bị cướp :), ko xin phép chị trước được ạ)

Bình minh mưa

Konstantin Georgievich Paustopvsky (1892-1968)


Tàu thủy đến Navôlôki vào nửa đêm. Thiếu tá Kuzmin bước ra boong. Trời mưa phùn. Bến vắng tanh, chỉ có một cây đèn lồng leo lét.

“Đâu, tỉnh ở đâu ? – Kuzimin nghĩ - Trời tối, mưa rơi... thật chẳng ra làm sao hết !”

Chàng co rúm người, cài lại cúc áo choàng dạ. Từ mặt sông, gió lạnh thổi vào Kuzmin tìm thuyền phó, hỏi xem tàu có đỗ lâu ở Navôlôki không.

-Khoảng ba tiếng – Thuyền phó trả lời – Còn tùy việc dỡ hàng. Đồng chí hỏi làm gỉ Đồng chí còn đi tiếp kia mà.

-Tôi phải chuyển hộ anh bạn cùng nằm quân y viện một bức thư cho vợ anh ấỵ Chị ấy ở đây, ở tỉnh nàỵ

-Vậy thì anh phải đi thôi ! Thuyền phó thở dài – Trời như mực, nhớ nghe còi, kẻo rớt lại đấy nhé !

Kuzmin xuống bến, trèo lên trên những bậc thang trơn nơi bờ sông dựng đứng. Nghe có tiếng mưa rơi tí tách trongnhững bụi câỵ Chàng dừng lại một lát cho quen với bóng tối và nhìn thấy một cỗ xe xộc xệch với con ngựa buồn bã. Mui xe đã giương và từ trong xe vẳng ra tiếng ngáy.

-Này ông bạn ! – Kuzmin nói lớn – Ông ngủ quên dể xe đi qua thiên đàng mất rồi.

Người đánh xe cựa mình, chui ra, hỉ mũi, lấy vạt áo lau, rồi mới hỏi:

-Đi hả ?

-Đi.

Kuzim đồng ý.

-Đi đâu bây giờ?

Kuzmin nói tên phố.

-Thế thì xa – Người đánh xe bối rối – Mãi trên đồi kia. Ít nhất cũng phải chi một chai ngang đấy, ông ơi!

Người đánh xe giật cương, giục ngựa. Chiếc xe uể oải chuyển bánh.

-Thế nào, bác là người đánh xe độc nhất ở Navôlôki này hay sao?

Kuzmin hỏi.

-Có hai lão già chúng tôi thôi. Còn thì đang chiến đấu. Đồng chí đến nhà ai vậy?

-Đến nhà Basilốp.

-Tôi biết – Ông lão nhanh nhẹn ngoái lại – đồng chí đến thăm chị o­nga Anđrêepna, con gái bác sĩ Anđrê Petrôvich chứ gì! Chị ấy ở Maxcova về đây, ở nhà cha từ năm ngoái. Bác sĩ mất đã hai năm! Nhưng mà vẫn là của họ ...

Cái xe lắc lư mạnh, nó kêu lọc xọc và rút được bánh xe ra khỏi một cái hố.

-Bác nhìn đường cho cẩn thận – Kuzmin khuyên – Chớ trông ngang trông ngửa.

-Đường với đất, rõ... – Người đánh xe lầu bầu – Ban ngày mà đi con đường này đến phát sợ. Nhưng đêm thì không sao. Ban đêm không trông thấy ổ gà.

Ông lão im lặng. Kuzmin châm thuốc, ngả người dựa hẳn vào phía trong. Mưa rơi lộp độp trên mui. Những con chó sủa xa xa. Mùi thì là, mùi hàng rào ướt và hơi ẩm của sông bốc lên. “Ít nhất cũng đã một giờ sáng”, Kuzmin nghĩ. Thực vậy, quả chuông rạn trên một gác chuông nhà thờ nào đấy điểm một tiếng ngay lập tức sau khi anh nghĩ.

“Giá mình cứ ở đây cho đến hết phép – Chàng nghĩ - Chỉ riêng không khí này cũng đủ làm tiêu tan những điều phiền muộn sau khi mình bị thương. Mình sẽ kiếm một căn phòng có cửa sổ mở ra vườn. Trong một đêmnhư đêm nay mình sẽ mở toang cửa sổ, nằm xuống trùm chăn kín mà nghe mưa gõ trên những cây ngưu bàng”.

-Vậy ra đồng chí là chồng chị ấy?

Ông lão đánh xe hỏi.

Kuzmin không đáp. Ông lão tưởng viên sĩ quan không nghe rõ câu hỏi nhưng không dám hỏi lại.

“Đúng là chồng – Ông lão phán đoán – Thế mà thiên hạ nói láo là chị ấy đã bỏ chồng từ trước chiến tranh. Rất láo toét.

-Đồ quỷ! – Ông lão với lấy dây cương cho con ngựa gầy còn da bọc xương một cái vụt – Cứ sục vào chỗ lầy mà đi!

“Thật vớ vẩn, tàu trễ, mãi đến đêm mới tới đây – Kuzmin nghĩ - Tại sao Basilôp (người bạn nằm cùng phòng với anh) khi biết mình sẽ đi qua Navôlôki lại nhờ chuyển thư tận tay cho vợ anh ta? Thế là đành phải đánh thức họ dậy, có trời biết thiên hạ sẽ nghĩ gì về chyện ấy!”

Basilôp là một viên sĩ quan cao lớn, hay giễu cợt. Anh nói nhiều và hay tán dóc. Trước khi nói một câu gì sâu sắc, anh cười không ra tiếng một lúc đã. Trước kia, khi chưa được huy động vào quân đội, Basilôp giúp việc một dạo diễn điện ảnh. Tối nào anh cũng kể tỉ mỉ cho bạn bè cùng phòng nghe những cuốn phim nổi tiếng. Anh em thương binh thích nghe Basilôp kể, chờ đợi những câu chuyện của anh và ngạc nhiên vì trí nhớ của anh. Basilôp nhận xét một cách khắt khe đối với người, sự kiện và sách vở. Anh rất cứng cổ và giễu cợt bất cứ ai định phản đối mình. Nhưng Basilôp giễu cợt một cách ranh ma – dùng lời nói đùa nói cạnh khóe và người bị anh giễu thường hai ba giờ sau mới sực hiểu ra rằng mình bị Basilôp nói xỏ và cố nghĩ câu trả lời cho thực cay. Nhưng tất nhiên trả lời được thì đã muộn.

Một ngày trước khi Kuzmin đi, Basilôp đưa cho chàng một bức thư nhờ chuyển cho vợ mình và lần đầu tiên Kuzmin nhìn thấy trên mặt Basilôp một nụ cười bối rối. Rồi đêm ấy Kuzmin nghe thấy Basilôp trằn trọc trở mình và khụt khịt mũi trên giường. “Có lẽ, anh chàng cũng chẳng đến nỗi khô khan lắm – Kuzmin nghĩ - Hình như anh chàng đang khóc. Nghĩa là anh chàng yêụ Và yêu một cách nồng nhiệt nữa là khác”.

Suốt cả ngày hôm sau Basilôp không rời Kuzmin nửa bước, thỉnh thoảng liếc nhìn chàng và tặng chàng chiếc bi đông phát cho sĩ quan. Lúc Kuzmin sắp lên đường họ cùng nhau uống cạn một chai vang mà Basilôp đã giấu được.

-Sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm như thế?

Kuzmin hỏi ....

-Thiếu tá thân mến ạ, anh là một người tốt – Basilôp đáp – Anh có thể là một nghệ sĩ lắm.

-Tôi làm nghề họa đồ - Kuzmin trả lời – Mà những người họa đồ vốn đã là những nghệ sĩ rồi.

-Vì sao?

Kuzmin trả lời lửng lơ:

-Vì họ là những kẻ lang thang.

-“Những kẻ lưu vong đất khách quê người, những kẻ lãng du và những nhà thơ” – Basilôp giễu cợt tuyên bố – Ai mà chả muốn được như họ, nhưng rồi chẳng làm nên gì hết.

-Anh trích thơ ai đấy?

-Của Vesôlin. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Tôi nhìn anh như thế là vì tôi ghen với anh.

-Anh ghen với tôi cái gì kia chứ?

Basilôp xoay đi xoay lại cái cốc trong tay, ngả lưng vào thành ghế và nhếch mép cười. Hai người ngồi ở cuối hành lang quân y viện, bên một chiếc bàn mây. Bên ngoài cửa sổ, gió uốn cong những cây non, reo lên trong lá và đưa bụi bay đi. Một đám mây trĩu nước từ ngoài sông đang tiến vào thành phố.

-Tôi ghen gì với anh ư? Basilôp hỏi lại và đặt bàn tay hồng hào của anh ta lên tay Kuzmin.

-Tôi ghen với anh vi tất cả, ghen cả với bàn tay anh.

-Tôi không hiểu gì hết. – Kuzmin nói và khẽ rụt tay ra. Bàn tay lạnh lẽo của Basilôp chạm vào tay chàng làm chàng khó chịu. Nhưng để Basilôp khỏi nhận thấy điều đó, chàng cầm lấy chai rượu vang và bắt đầu rót.

-Anh mà lại không hiểu ! – Basilôp bực bội đáp. Anh ta im lặng một chút, nhìn xuống và nói:

-Giá mà chúng ta được đổi chỗ cho nhau nhỉ! Nhưng thôi nói chuyện ấy làm quái gì! Hai ngày nữa anh đã đến Navôlôki. Anh sẽ gặp o­nga Ânđêepn. Nàng sẽ bắt tay anh. Vì thế mà tôi ghen. Giờ thì anh hiểu rồi chứ?

-Sao anh lại nói thế ! – Kuzmin bối rối – Anh cũng sẽ gặp vợ anh kia mà.

-Nàng không phải là vợ tôi? – Basilôp trả lời giọng gay gắt.

-May mà anh không dùng chữ “Phu nhân”.

Kuzmin lẩm bẩm.

-Nàng không phải là vợ tôi – Cũng vẫn gay gắt như thế, Basilôp nói – Nàng là tất cả. Tất cả cuộc đời tôi. Nhưng thôi ta không nói chuyện ấy nữa!

Basilôp đứng lên và đưa tay cho Kuzmin:

-Vĩnh biệt anh. Xin anh đừng giận tôi. Tôi cũng không đến nỗi tồi hơn những người khác.

o-o-o

Chiếc xe đi lên đèo. Trời càng tối hơn. Trên những cây bạch liễu cổ thụ mưa ngái ngủ từ những chiếc lá lao xao rơi xuống. Vó ngựa đập trên cầu lát ván.

“Xa thực !” Kuzmin thở dài nói với ông lão đánh xe:

-Bác đợi tôi ở bên cạnh nhà nhé! Rồi đưa tôi trở lại bến....

-Được thôi – Ông lão bằng lòng ngay tức khắc và nghĩ: “ Không, thế thì không phải chồng rồi. Chồng thì thế nào cũng ở lại vài ba ngày chứ. Chắc người ngoài.”

Bắt đầu đến một con đường đá cuội. Chiếc xe lúc lắc, cái bệ bằng sắt kêu lạch cạch. Ông lão cho xe quặt sang vệ đường. Bánh xe êm ái lăn trên cát ẩm. Kuzmin lại suy nghĩ.

Basilôp bảo ghen với chàng. Tất nhiên, anh ta chẳng ghen gì hết. Chẳng qua anh ta đã dùng không đúng từ mà anh ta muốn nói. Qua cuộc nói chuyện với Basilôp bên cửa sổ bệnh viện, Kuzmin, ngược lại, bắt đầu thấy ghen với Basilôp. “Lại không đúng từ rồi sao ? “. Kuzmin bực bội tự nhủ. Chàng không ghen. Chàng chỉ tiếc. Chàng tiếc rằng chàng đã bốn mươi, nhưng lại không có được tình yêu như Basilôp. Lúc nào chàng cũng chỉ có một mình.

“Đêm, mưa rơi xào xạc trên những khu vườn hoang vắng, tỉnh lại, sương mù từ những cánh đồng cỏ bay qua và thế là cả cuộc đời cũng qua nốt.” Không hiểu sao Kuzmin lại nghĩ như thế.

Chàng lại thấy muốn ở lại đây. Chàng yêu những tỉnh lỵ Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể thấy những cánh đồng cỏ bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở rơm trên những chuyến phà. Tìnhyêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên. Chàng sinh trưởng ở phương Nam trong một gia đình miền biển. Cha chàng đểlại cho chàng tính ham thích tìm tòi, những bản đồ địa lý và cuộc sống lang thang. Vì thế chàng đã trở thành nhân viên họa đồ. Kuzmin đã coi việc chọn nghề là ngẫu nhiên. Chàng nghĩ, nếu sinh ra vào lúc khác, có khi mình đã là thợ săn hoặc người đi tìm đất mới. Chàngthích nghĩ về mình như thế, nhưng chàng đã nhầm. Tính tình chàng không có gì giống như người kiạ Kuzmin nhút nhát và hiền lành đối với xung quanh. Những sợi tóc phơn phớt bạc tố cáo tuổi chàng. Nhưng nếu nhìn người sĩ quan tầm thước, gầy gò không ai dám đoán chàng quá ba mươi.

Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lỵ tối tăm. Chỉ có một ngọn đèn xanh cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núị Người đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình “Ta đang ở đâu đây? – chàng nghĩ - cái tỉnh lỵ Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng giữa đêm hôm khuya khoắt thế này một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Ba Lan, con sông Vixoa êm đềm và rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!

Xe đã đi qua đồi. Ông lão rẽ ngang vào một phố. Những đám mây đen có chỗ đã tản ra và trong cái đen tối trên đầu, đây đó lấp lánh một vì sao. Ngôi sao vụt ánh lên trong những vũng nước rồi lại tắt ngấm.

Xe dừng lại bên một ngôi nhà có chòi ở giữa.

-Đến rồi ! – Ông lão đánh xe nói – Chuông ở cổng phía bên phải.

Kuzmin sờ soạng tìm thấy nắmchuông gỗ và kéo xuống nhưng chàng không nghe thấy tiếng chuông kêu, chỉ cỏ tiếng rin rít của sợi dây thép rỉ.

-Ông cứ giật mạnh vào!

Kuzmin lại giật mạnh dây chuông. Ở sân trong sau nhà, quả chuông con lúc lắc. Nhưng trong nhà vẫn yên lặng như trước, chắc chưa ai thức dậy.

-Ô... ô... ộ..! – Ông lão ngáp – Đêm mưa thế này người ta ngủ say bằng chết.

Kuzmin đợi một lát rồi giật mạnh hơn. Ở phòng lát gỗ có tiếng chân vẳng ra. Có người nào đến bên cửa sổ, dừng lại nghe ngóng rồi bực dọc hỏi:

-Ai vậy? Muốn gì?

Kuzmin định trả lời, nhưng ông lão đã nói trước.

-Mơ cửa ra, Macfa – Ôg lão nói – Có người ở mặt trận về gặp chị o­nga.

-Ai ở mặt trận về ? – Giọng nói sau cửa vẫn chẳng dịu dàng hơn trước chút nào – Chúng tôi chẳng đợi ai cả.

-Không đợi, thế mà lại gặp đấy!

Cánh cửa hé mở. Trong bóng tối Kuzmin nói chàng là ai và vì sao chàng tới.

-Trời ! – Người đàn bà đứng sau cửa sợ hãi kêu lên – Ông rõ vất vả! Tôi mở cửa ngay bây giờ. Chị o­nga đang ngủ. Mời ông vào, tôi sẽ đánh thức chị ấy dậy.

Cửa mở, Kuzmin bước vào trong phòng tối áo mò.

-Ở đây có bậc. – Người đàn bà dặn, giọng nói đổi hẳn, dịu dàng – Đêm hôm thế này mà ông cất công đến! Ông đợi cho một phút kẻo vấp. Tôi châm ngay đèn bây giờ, ở đây đêm mất điện.

Bà ta đi, còn Kuzmin ở lại trong phòng áo. Từ các phòng bay ra mùi trà và một mùi gì nữa, êm dịu. Một con mèo bước ra, cọ mình vào chân Kuzmin, nó kêu gừ gừ rồi trở vào trong các phòng tối như muốn mời Kuzmin đi theo mình.

Đằng sau cánh cửa hé mở hắt ra một ánh sáng run rẩy yếu ớt.

-Mời ông-Người đàn bà nói

Kuzmin bước vào. Người đàn bà cúi chào chàng. Đó là một bà lão tầm vóc cao, mặt hơi đen. Kuzmin cố giữ cho khỏi gây ra tiếng động, chàng cởi áo, mũ và treo lên móc gần cửa.

-Ông đừng ngại, đàng nào cũng phải đánh thức chị ấy.

Bà lão mỉm cười.

Kuzmin khe khẽ hỏi:

-Ở đây có nghe rõ còi tàu ngoài biển không cụ?

-Nghe rõ, ông ạ! Rõ lắm! Cứ như tàu nọ nghe tàu kia thôi! Ông ngồi xuống đi văng cái đã.

Bà lão ra, Kuzmin ngồi xuống chiếc đi văng tựa gỗ. Chàng do dự khi móc túi lấy thuốc hút. Chàng bối rối và nỗi bối rối khó hiểu ấy làm chàng tức giận. Cái cảm giác bao giờ cũng có khi ta ban đêm vào nhà người, bước vào một cuộc sống không phải là của ta, đầy bí mật và những điều khó hiểu, xâm chiếm tâm hồn chàng. Cuộc sống ấy giống như một cuốn sách bỏ quên trên bàn ở trang sáu mươi lăm nào đó. Kuzmin nhìn vào trang giấy ấy và cố đoán xem cuốn sách nói về chuyện gì, có gì bên trong?

Ở trên bàn có một cuốn sách ngỏ thực. Kuzmin đứng dậy cúi xuống và vừa lắng nghe tiếng thì thào vội vã bên kia cánh cửa và tiếng áo phụ nữ sột soạt, vừa đọc thầm những dòng chữ chàng đã quên bẵng từ lâu:

Cái không thể đã thành có thể
Con đường dài hóa dễ với ta
Nhọc nhằn chi mấy cũng qua
Cuối đường tìm kiếm khi ta thấy nàng.

Kuzmin ngẩng đầu lên, nhìn quanh. Căn phòng thấp và ấm áp một lần nữa lại càng làm chàng muốn ở lại tỉnh lỵ này.

Căn phòng với ngọn đèn treo trên bàn ăn, chụp đèn trắng đục, đôi sừng thuần lộc đóng trên bức tranh vẽ con chó bên giường bệnh một em bé gái, có một thứ ấm cúng đặc biệt vô tư. Những căn phòng như thế bao giờ cũng làm ta phải mỉm cười bởi mọi vật ở đó đều cổ lỗ, từ lâu ta đã lãng quên.

Mọi vật chung quanh đến cả cái gạt tàn bằng vỏ ốc màu hồng chứng tỏ một cuộc sống dài và bình thản làm cho Kuzmin lại nghĩ rằng giá chàng được ở lại đây và sống như người chủ nhà cũ kỹ này đã sống một cuộc sống không vội vã, làm rồi nghỉ ngơi, xuân rồi lại đông và những ngày nắng ngày mưa xen kẽ.

Nhưng bên cạnh các vật cũ kỹ, trong phòng còn có những cái khác. Trên bàn cắm một bó hoa đồng nội: hoa cúc, hoa phế hình, hoa thanh lương trà dại. Hoa chắc vừa mới hái. Chiếc kéo và những cành hoa bị cắt bỏ nằm trên khăn bàn.

Và bên cạnh là tập thơ “Con đường dài hóa dễ với ta” đề ngỏ của Blok. Chiếc mũ phụ nữ nhỏ nhắn màu đen đặt trên cuốn sách bìa nhung lam đặt trên mặt đàn dương cầm. Cái mũ hoàn toàn không cổ chút nào, rất hợp thời trang. Một chiếc đồng hồ con, dây mạ kền vứt cẩu thả trên bàn. Đồng hồ chạy rất êm, kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi... Mùi nước hoa bao giờ cũng phảng phất buồn, nhất là trong đêm hôm khuya khoắt như đêm nay.

Một cánh cửa kính để mở. Bên ngoài cánh cửa, đằng sau những chậu thu hải đường, một bụi tử đinh hương ướt nước mưa lấp lánh dưới ánh sáng yếu ớt từ trong phòng lọt ra qua cửa kính. Mưa bụi thì thào trong bóng tốị Những giọt nước nặng hối hả đập vào lòng máng.

Kuzmin lắng nghe tiếng nước rơi. Ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỷ nay qua thế kỷ khác, đã đến với chàng chính lúc này, ban đêm trong ngôi nhà xa lạ, từ ngôi nhà ấy, mấy phút nữa thôi, chàng sẽ ra đi và không bao giờ trở lại.

“Cũng là tại tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao ?” Kuzmin nghĩ và quay lại.

Một thiếu phụ vận đồ đen đứng ở ngưỡng cửa. Thiếu phụ hẳn vì vội ra tiếp chàng nên chưa chải đầu cẩn thận. Một bím tóc rơi trên vai, và thiếu phụ, mắt vẫn không rời Kuzmin bối rối mỉm cười, nâng nó lên, lấy trâm cài vào tóc ở gáy. Kuzmin nghiêng người chào thiếu phụ. Nàng đưa tay cho chàng và nói:

-Xin lỗi anh. Tôi đã làm anh phải đợi.

-Chị là o­nga Anđêepna?

-Vâng.

Kuzmin nhìn thiếu phụ. Dáng trẻ trung và đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ của thiếu phụ làm chàng sửng sốt.

Kuzmin xin lỗi vì đã làm phiền nàng rồi móc trong túi áo, lấy bức thư của Basilôp ra đưa cho thiếu phụ. Thiếu phụ cầm lấy, cảm ơn chàng và đặt bức thư lên mặt đàn dương cầm, không đọc.

-Kìa, chúng ta cứ đứng mãi! – Nàng nói – Mời anh ngồi! Anh ngồi gần bàn đây này. Ở đây sáng hơn.

Kuzmin ngồi xuống bên bàn và xin phép được hút thuốc.

-Anh cứ tự nhiên – Nàng nói – Tôi cũng xin được hút một điếụ

Kuzmin mời nàng một điếu và đánh diêm. Khi thiếu phụ châm lửa, ánh diêm hắt lên mặt nàng và chàng thấy khuôn mặt trầm tư và vầng trán thanh sạch của nàng có vẻ quen quen đối với chàng.

Onga ngồi xuống đối diện với Kuzmin. Chàng chờ đợi những câu hỏi, nhưng nàng chỉ im lặng và nhìn ra cửa sổ, nơi mưa vẫn đều đều xào xạc.

-Mácfa! – o­nga nói và quay về phía cửa – Bà đặt giúp tôi ấm trà.

-Không, không ! – Kuzmin hốt hoảng – Tôi phải đi ngay bây giờ. Người đánh xe còn đợi ngoài phố. Tôi chỉ định chuyển bức thư cho chị và nói với chị tin tức về ... anh ấy.

-Có gì đáng nói đâu! – o­nga trả lời, rút trong bó hoa ra một bông hoa cúc và tàn nhẫn vặt từng cánh – Anh ấy còn sống thế là tôi mừng.

Kuzmin im lặng.

-Anh đừng đi vội – o­nga nói, bình dị như nói với một người bạn cũ - Ở đây nghe rõ còi tàu. Chắc chắn tàu thủy chỉ chạy được trước khi trời sáng.

-Sao vậy?

Bà Macfa từ bên trong buồng chõ sang:

-Tại ở vùng này, phía dưới Navôlôki có một con bơn lớn dưới lòng sông. Đêm hôm đi qua đấy nguy hiểm lắm. Vì thế các vị thuyền trưởng cứ phải chờ đợi trời sáng.

-Đúng như vậy – o­nga xác nhận – Từ đây ra bến đi bộ chỉ hết mười lăm phút, nếu đi qua vườn hoa. Tôi sẽ tiễn anh. Còn bác đánh xe thì anh cho về thôi. Ai chờ anh? Có phải bác Vaxili không ?

-Cái đó thì tôi lại không biết - Kuzmin mỉm cười.

-Timôfay chở ông ấy tới đây! – Bà lão từ cửa phòng bên báo sang. Nghe rõ cả tiếng bà lão lắp ống khói cho ấmxamôva kêu loảng xoảng – Ít nhất ông cũng phải uống trà đã. Chưa chi vừa mới ở ngoài mưa vào đã lại định đi ra mưa...

Kuzmin nhận lời. Chàng ra cửa trả tiền xe. Ông lão chưa đi vội, còn loay hoay bên con ngựa, chữa lại thắt đai.

Khi chàng trở vào thì bàn đã dọn. Những chiếc chén cũ màu xanh tô chỉ vàng, một bình sữa hâm nóng, mật o­ng và một chai rượu vang mới mở. Bà Mácfa mang ấm xamôva vào.

Onga xin lỗi vì tiếp khách quá đạm bạc. Nàng nói đã chuẩn bị trở lại Maxcova, nhưng hiện giờ vẫn còn tạm làm việc ở Navôlôki tại thư viện tỉnh. Kuzmin đợi mãi xem rồi nàng có hỏi gì đến Basilôp không, nhưng nàng không hỏi. Vì thế chàng mỗi lúc một bối rối thêm. Từ khi còn nằm quân y viện chàng đã đoán giữa vợ chồng Basilôp có chuyện lủng củng. Nhưng lúc này, sau khi thấy o­nga không đọc mà lại đặt thư lên trên mặt bàn thì chàng hoàn toàn tin mình đã đoán đúng. Và chàng cảm thấy như mình chưa làm tròn trách nhiệm đối với Basilôp và có lỗi nhiều trong chuyện đó. “Chắc o­nga sẽ đọc thư sau”, chàng nghĩ. Nhưng chàng biết rõ một điều là bức thư mà Basilôp coi trọng và vì nó chàng phải tới ngôi nhà này vào một giờ bất tiện đã không còn cần thiết và chẳng thú vị gì đối với người nhận. Thành thử Kuzmin đã không giúp được gì cho Basilôp mà còn đặt mình vào một tình thế khó xử. o­nga như đoán được ý nghĩ của chàng, nàng nói:

-Anh đừng giận. Bưu điện có, điện tín có, không hiểu sao anh ấy lại còn phiền anh làm gì.

-Có phiền gì đâu! – Kuzmin vội nói và sau khi yên lặng một lát, chàng tiếp – Ngược lại, còn rất tốt nữa là khác.

-Anh nói cái gì tốt kia?

Kuzmin đỏ mặt.

-Cái gì tốt kia? – o­nga hỏi lại, lần này nàng nói to hơn và ngước mắt nhìn Kuzmin. Nàng nhìn chàng như cố đoán xem chàng nghĩ gì một cách nghiêm nghị, người đưa hẳn về phía trước, chờ câu trả lờị Nhưng Kuzmin chỉ im lặng.

-Anh nói đi, cái gì tốt - Nàng hỏi lại lần nữa.

-Biết nói với chị thế nào – Kuzmin suy nghĩ, trả lời – Đó là một câu chuyện đặc biệt. Tất cả những gì ta yêu mến thì ta lại ít gặp. Không biết người khác thế nào, nhưng tôi nghiệm bản thân thì đúng như vậy. Mọi điều tốt lành hầu như bao giờ cũng chỉ đi lướt bên ta. Chị hiểu ý tôi chứ?

-Tôi không hiểu lắm.

Onga trả lời và nhíu đôi lông mày.

-Giải thích thế nào để chị hiểu đây? – Kuzmin nói. Chàng tự giận mình – Chắc là chuyện đó cũng xảy ra với chị. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương thưa thớt và một lưới mạng nhện mùa thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn nhảy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được ở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ đi qua. Chị nhoài người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi cỏ rộng, những con ngựa, nhừng nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sau và chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là rừng hay không khí, hay là tiếng rít của những dây điện thoại. Mà cũng có thể đó là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trongkhoảnh khắc nhưng ta nhớ mãi suốt đời.

Kuzmin im lặng. o­nga đẩy cốc vang lại phía chàng.

-Trong đời tôi – Kuzmin nói và đỏ ửng mặt, chàng bao giờ cũng đỏ mặt khi phải nói về mình – Tôi vẫn hằng chờ đợi những chuyện bất ngờ và đơn giản ấy. Và nếu tôi gặp chúng ấy là tôi hạnh phúc. Tuy chúng ngắn ngủi, nhưng tôi cũng đã từng gặp.

-Và bây giờ cũng vậy ư? - o­nga hỏi.

-Vâng!

Onga nhìn xuống.

-Vì sao? – nàng hỏi.

-Tôi không rõ. Nhưng tôi có cảm giác như vậy. Tôi bị thương trên sông Vixoa, rồi nằm quân y viện. Mọi người đều có thư từ gửi đến, chỉ tôi là không. Chẳng qua chỉ vì tôi chẳng có ai viết cho tôi. Tôi nằm và tưởng tượng đến cuộc sống tương lai của mình sau chiến tranh như mọi người thường tưởng tượng. Tương lai ấy nhất định phải hạnh phúc và khác thường. Rồi tôi khỏi và người ta quyết định cho tôi đi nghỉ. Họ chỉ định một thành phố.

-Thành phố nào? – o­nga hỏị

Kuzmin nói tên thành phố. o­nga không nói gì.

-Tôi xuống tàu – Kuzmin nói tiếp – Làng mạc ở hai bên bờ, những bến tàu. Và cảm giác cô đơn chán ngấy. Tôi xin chị, chị đừng nghĩ rằng tôi than phiền. Trong cô đơn cũng có nhiều cái tốt. Rồi Navôlôki. Tôi sợ ngủ quên. Đêm khuya tôi ra boong tàu và suy nghĩ: thực là lạ lùng vì trong bóng tối bao la trùm kím cả nước Nga, dươi bầu trời rả rích mưa, có hàng nghìn người khác nhau đang ngủ một cách yên lành. Rồi tôi đi xe ngựa đến đây và cứ đoán mãi: người tôi sẽ gặp là ai?...

-Nhưng điều gì làm anh hạnh phúc kia chứ? - o­nga hỏi.

-Không... – Kuzmin sực tỉnh – Nói chung là tốt.

Anh im lặng.

-Kìa anh? Nói đi chứ!

-Nói gì kia? Tôi nói thế đã nhiều lời lắm, tôi đã nói đến những điều không đáng nói.

-Anh cứ nói hết. – o­nga trả lời. Nàng như không nghe rõ những từ cuối cùng trong câu nói của chàng. Nói tất cả những gì anh muốn – Nàng nói thêm. – Dù cho điều đó có hơi kỳ quặc đi chăng nữa.

Nàng đứng dậy đến bên cửa sổ, gạt chiếc rèm sang một bên. Mưa vẫn không ngớt.

-Chị nói cái gì kỳ quặc kia? - Kuzmin hỏi.

-Mưa vẫn rơi! – o­nga nói và quay lại – Đấy, cuộc gặp gỡ như thế này. Và tất cả câu chuyện đêm khuya giữa chúng ta. Cái đó chẳng kỳ quặc hay sao?

Kuzmin bối rối im lặng.

Trong bóng tối ẩm ướt bên ngoài cửa sổ, ở một nơi nào đó dưới chân đồi, con tàu rúc lên.

-Thôi - o­nga nói như vừa trút được gánh nặng – Còi rồi!

Kuzmin đứng dậy. o­nga vẫn không nhúc nhích.

-Gượm đã - Nàng nói, bình tĩnh – Chúng ta ngồi với nhau một lát trước khi anh lên đường. Như tục cũ ngày xưa.

Kuzmin lại ngồi xuống. o­nga cũng ngồi xuống, suy nghĩ và quay mặt đi, không nhìn Kuzmin. Chàng đưa mắt nhìn đôi vai nàng nhô lên, nhìn những bím tóc dày búi sau gáy, đường cong thanh tao nơi cổ nàng và nghĩ rằng nếu không có Basilôp thì chàng sẽ chẳng rời bỏ cái tỉnh lỵ này mà đi đâu hết. Chàng sẽ ở đây cho đến hết hạn nghỉ phép và sẽ sống, bồi hồi biết rằng bên cạnh chàng có người thiếu phụ đáng yêu và rất buồn bã giờ đây.

Onga đứng dậy. Trong phòng áo chật hẹp, Kuzmin giúp nàng mặc quần áo mưa. o­nga lấy khăn, choàng lên đầu.

Hai người ra khỏi nhà yên lặng đi bên nhau trên đường phố tối.

-Trời sắp sáng - o­nga nói.

Bầu trời sũng nước đang rạng xanh bên kia sông, Kuzmin thấy o­nga rùng mình.

-Chị lạnh à? – Chàng lo lắng – Chị tiễn tôi thật vô ích. Tự tôi, tôi cũng có thể tìm được đường ra bến.

-Không, không vô ích đâu.

Onga trả lời ngắn ngủi.

Mưa đã qua nhưng những giọt nước vẫn từ trên mái nhà rơi lộp độp xuống hè phố lát gỗ.

Vườn hoa kéo dài tới tận cuối phố. Cổng mở. Liền sau cổng là những con đường rậm rạp, bỏ hoang, không người chăm sóc. Trong vườn có mùi cát ướt, hơi lạnh của đêm khuya. Đó là một khu vườn cũ, đen ngòm những cây bồ đề cao lớn. Chúng đã rụng hết hoa và đưa hương yếu ớt. Chỉ mỗi một lần gió ào ào kéo qua cả khu vườn xao động tưởng chừng như có một trận mưa rào nặng hạt vừa đổ xuống rồi lại tạnh ngay.

Cuối vườn là bờ sông dựng đứng trên mặt nước và bên kia là những chân trời trước rạng đông ướt sũng nước mưa, ánh phù tiêu mờ mờ phía dưới, sương mù, tất cả nỗi buồn những ngày mưa mùa hạ.

-Ta xuống thế nào đây?

Kuzmin hỏi.

-Anh lại đây.

Onga rẽ theo con đường thẳng tuột tới bờ sông dựng đứng, đến bên cầu thang gỗ bắc xuống dưới nước và mất hút trong bóng tối.

-Anh đưa tay đây – o­nga nói – Chỗ này có nhiều bậc thang mục.

Kuzmin đưa tay cho nàng và hai người thận trọng tới những ngọn đèn xanh đỏ của con tàu. Hơi nước xả rít lên. Tim Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng ngay bây giờ thôi chàng sẽ phải chia tay với một thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với nàng mà không nói được gì; không nói gì hết. Cũng chẳng cám ơn nàng đã gặp chàng trên đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rũ xuống phía trên tay vịn có thể vướng vào mắt chàng thì nàng lại nói khẽ: “Anh cúi đầu xuống”. Và chàng ngoan ngoãn vâng theo.

-Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi – o­nga nói – Tôi không đi xa nữa đâu.

Kuzmin đưa mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt o­nga nghiêm nghị lo lắng nhìn chàng. Có lẽ nào giờ đây, trong phút nay thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và sẽ trở thành một trong những kỷ niệm xót xa trong cả đời nàng và trong cả đời chàng?

Onga đưa tay cho Kuzmin. Kuzmin hôn tay nàng và lại thấy vẫn cái mùi nước hoa thoang thoảng mà chàng đã thấy trong căn phòng tốị giữa tiếng mưa rơi xào xạc.

Khi chàng ngẩng đầu lên, o­nga nói một câu gì, nhưng nàng nói khẽ đến nỗi chàng không nghe rõ. Chàng ngờ nàng chỉ nói độc một tiếng: “Vô ích...” Có lẽ nàng còn nói điều gì nữa, nhưng con tàu dưới sông đã gầm lên, than thở vì buổi bình minh ẩm ướt, vì cuộc sống langthang của nó trong những ngày mưa và trong những buổi sương mù.

Kuzmin chạy lên bờ sông, không ngoái lại. Chàng đi qua bên sông thoang thoảng mùi vỏ cây và mùi hắc in trèo lên tàu và bước ngay lên boong vắng tanh vắng ngắt. Con tàu bắt đầu rời bến, chân vịt quay chậm chạp. Kuzmin đi lại đàng lái, nhìn về bờ sông dựng đứng, nhìn cái cầu thang: o­nga vẫn đứng đấy. Trời hừng sáng và khó mà nhìn rõ ràng. Kuzmin giơ tay lên nhưng nàng không vẫy lại.

Con tàu mỗi lúc một đi xa, ồn vào đôi bờ cát những đợt sóng dàí làm những phù tiêu trên sông lúc lắc và tiếng dội của những bụi miên liễu bên bờ đáp lại tiếng chân vịt vội vã của con tàu.

(tặng em HKT :p)
 
Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky mà tớ đọc từ hồi nhỏ. Tâm hồn người Nga sao mà nhân hậu thế, văn Nga sao mà dung dị và đẹp thế! Bắt đầu từ truyện này mà tớ yêu văn Paustovsky, những lúc vui hay lúc buồn đọc nó đều thấy cuộc sống thật đẹp đẽ và kỳ diệu. Nó cũng ghi dấu một kỷ niệm rất đẹp của tớ nữa...

Lẵng quả thông
K.G.Paustovsky
1954


Mùa thu, nhà soạn nhạc Eđua Grigơ thường về ở trong những khu rừng gần thành phố Bécghen.

Mọi khu rừng đều đẹp với bầu không khí phảng phất mùi nấm, với tiếng lá rì rào. Nhưng những khu rừng trên núi và gần biển mới thực là đẹp. Đứng ở đó ta nghe rõ cả tiếng sóng vỗ bờ. Sương mù và biển cả thường xuyên tràn vào và vì khí ẩm quá nhiều nên rêu mọc rậm rịt. Rêu từ trên cành cây xõa dài trên mặt đất như những mớ tóc xanh.

Ngoài các thứ đó ra, trong những khu rừng trên núi, còn trú ngụ một tiếng vang vui tính - Giống như một con khướu nó chỉ làm độc một việc là rình mò để chộp lấy bất kỳ tiếng động nào để rồi liệng qua những vách đá.

Một hôm Grigơ bắt gặp trong rừng một em bé có đôi bím tóc nhỏ xíu, con ông gác rừng. Em bé đang nhặt những quả thông bỏ vào trong lẵng.

Trời đang thu. Nếu như ta có thể lấy hết đồng và vàng trên trái đất đem đánh thành muôn vàn lá cây rất mực tinh xảo thì những chiếc lá đó cũng chỉ có thể làm thành một phần rất nhỏ bộ quần áo mà mùa thu đang trải trên những ngọn núi kia mà thôi. Vả lại, những chiếc lá nhân tạo nọ sẽ rất thô kệch nếu so với lá thật, nhất là những lá liễu hoàn diệp. Mọi người đều biết rằng chỉ cần một tiếng chim hót thôi cũng đã đủ làm chúng run rẩy.

- Cháu tên là gì nào? – Grigơ hỏi.
- Cháu là Đanhi Pêđecxen – Em bé lí nhí trả lời.

Em bé trả lời lí nhí không phải vì sợ, mà vì bối rối. Nó sợ sao được khi cặp mắt của Grigơ đang cười.

- Rõ tiếc... – Grigơ nói – Bác chả có quà gì cho cháu cả. Trong túi bác chả có búp bê, chả có băng, đến cả những con thỏ nhung cũng không có nốt.
- Cháu có con búp bê cũ của mẹ cháu. – Em bé trả lời - Trước kia nó cũng biết nhắm mắt cơ bác ạ. Như thế này này...

Nó từ từ nhắm mắt lại. Khi nó mở mắt, Grigơ nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh lá cây nhạt và vòm lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ.

- Nhưng bây giờ thì nó ngủ mở mắt – Em bé buồn rầu nói tiếp - người già hay khó ngủ lắm. Ông cháu cũng vậy, cứ kêu rên cả đêm.
-Này Đanhi này. Bác nghĩ ra rồi. – Grigơ nói – Bác sẽ cho cháu một món quà thú vị. Nhưng không phải ngay bây giờ, mà độ mười năm nữa.

Đanhi đập hai tay vào nhau:
- Ôi thế thì lâu quá!
- Cháu hiểu không, bác còn phải làm ra nó đã chứ.
- Nhưng nó là cái gì kia, thưa bác?
- Sau này cháu sẽ biết.
- Chả lẽ suốt đời bác, bác chỉ làm được có năm sáu thứ đồ chơi thôi hay sao? – Em bé nghiêm nghị hỏi.
Grigơ bối rối.
- Không, không phải thế – Ông cãi lại một cách không được quả quyết – Có thể bác sẽ làm xong vật ấy trong vài ngày. Nhưng những thứ đó, người ta không cho trẻ con. Bác thường chỉ làm ra những món quà cho người lớn.
- Cháu sẽ không đánh vỡ đâu mà – Đanhi năn nỉ và nắm lấy ống tay áo ông kéo lại – Mà cháu cũng chẳng làm hỏng đâu. Đấy, rồi bác xem! Ông cháu có một chiếc thuyền thủy tinh bé tí tẹo. Cháu vẫn lau bụi cho nó đấy nhưng cháu có làm sứt nó tí nào bao giờ đâu.

"Cái con Đanhi này làm mình rối tinh lên rồi đây". Grigơ bực bội nghĩ thầm và rồi ông lặp lại những điều mà người lớn thường nói với trẻ con khi lâm vào thế bí.
- Cháu hãy còn bé và còn nhiều điều cháu không hiểu. Hãy học tập tính kiên nhẫn. Còn bây giờ thì cháu hãy đưa cái lẵng đây cho bác. Cháu ì ạch mãi mới mang nổi nó kia kìa. Bác sẽ đưa cháu về nhà và chúng ta sẽ nói với nhau về một chuyện gì khác.

Đanhi thở dài và đưa cái lẵng cho Grigơ. Cái lẵng quả khá nặng. Trong quả thông có nhiều nhựa, vì thế quả thông nặng hơn quả tùng bách.

Khi nhà người gác rừng đã hiện ra giữa đám cây, Grigơ bảo cô bé:
- Thôi, cháu Đanhi, bây giờ cháu chạy về một mình nhé. Ở Nauy có rất nhiều em bé gái trùng tên trùng họ với cháu. Bố cháu tên là gì nhỉ?
- Hagrup ạ! – Đanhi trả lời và hỏi tiếp, vầng trán nhăn lại – Bác không vào chơi nhà cháu ư? Nhà cháu có chiếc khăn giải bàn này, có con mèo hung này, lại có chiếc thuyền bằng thủy tinh nữa. Ông cháu sẽ cho phép bác cầm nó đấy.
- Cảm ơn cháu. Bây giờ bác không có thì giờ. Chào cháu, Đanhi ạ.

Grigơ vuốt tóc em bé rồi đi về phía bờ biển. Đanhi chau mày trông theo. Em xách cái lẵng nghiêng về một bên và những quả thông rơi xuống đất.

"Ta sẽ làm một bản nhạc – Grigơ quyết định – Và trên trang bìa ta sẽ cho in: "Tặng Đanhi Pêđecxen, con gái người gác rừng Hagrup Pêđecxen, khi cô mười tám tuổi".

Ở Bécghen không có gì thay đổi.

Tất cả những gì có thể làm cho âm thanh bị nuốt đi như thảm, rèm cửa bằng vải dày, giường, ghế, đệm, Grigơ đã loại ra khỏi nhà. Chỉ còn lại một chiếc đi-văng cũ kỷ đủ chỗ cho một người khách ngồi là Grigơ vẫn chưa dám bỏ đi nốt.

CÁc bạn của nhà soạn nhạc nói rằng nhà của ông giống nơi ở của một tiều phu. Chỉ có mỗi chiếc dương cầm là vật trang sức cho ngôi nhà. Người giàu tưởng tượng có thể nghe thấy giữa những bức tường trắng ở đây nhiều điều kỳ diệu, từ tiếng gầm thét của Bắc băng dương – cái đại dương đang dồn sóng từ trong màn sương mù và gió ra ngoài, và bên trên sóng gió nó rú rít kể câu chuyện cổ xưa man rợ - cho đến bài hát của đứa con gái ru c on búp bê bằng giẻ rách.

Chiếc dương cầm có thể ca về tất cả: về tâm hồn con người đang phấn khởi vươn tới cái cao cả và về tình yêu. Những phím đàn đen và trắng, lướt nhanh dưới những ngón tay chắc nịch của Grigơ, buồn bã, cười cợt ầm ĩ réo lên giông tố và căm thù rồi bất thần lặng hẳn đi.

Trong phút lặng lẽ ấy chỉ còn motọ sợi dây đàn nhỏ bé là còn rung mãi như thể nàng Lọ lem bị các chị mắng mỏ đang than khóc.

Grigơ thả người ra, lắng nghe theo cái âm thanh cuối cùng ấy cho đến khi nó tắt hẳn ở trong bếp, nơi chú dế mèn đã dọn đến cư ngụ từ lâu.

Đến lúc ấy mới nghe rõ tiếng vòi nước nhỏ giọt, đếm từng giây, hệt như một cái máy đo tiết điệu. Những giọt nước nhấn mạnh rằng thời gian không chờ đợi ai và cần phải hối hả làm cho xong những điều dự định.

Grigơ viết bản nhạc tặng Đanhi Pêđecxen trong hơn một tháng.

Mùa đông bắt đầu. Sương mù cao xấp xỉ đầu người phủ khắp thành phố. Những con tàu biển han rỉ từ nhiều nước kéo đến gà gật bên những bến cảng lát gỗ, khe khẽ phì phò thở hơi nước.

Chẳng bao lâu tuyết bắt đầu xuống. Grigơ nhìn qua cửa sổ nhà mình thấy những bông tuyết bay chênh chếch, cố bám lấy ngọn cây. Tất nhiên, không thể nào truyền đạt âm nhạc bằng lời, dù cho ngôn ngữ của chúng ta có phong phú đến thế nào chăng nữa.

Grigơ sáng tác về cái đẹp vô cùng của lòng trinh trắng và của hạnh phúc.

Ông viết và trông thấy cô gái có đôi mắt xanh đang nghẹn ngào vì sung sướng, chạy đến với ông. Cô gái vòng tay ôm lấy cổ ông, áp bên má nóng bừng của cô vào cái má đầy những sợi râu bạc lâu ngày không cạo của ông. "Cảm ơn bác" – cô nói trong lúc chính cô cũng chẳng biết cô cảm ơn ông vì lẽ gì.

"Cháu như mặt trời – Grigơ nói với cô – Cháu như làn sóng êm dịu, như buổi sáng tươi mát. Một bông hoa trắng ngần đã bừng nở trong tim cháu và làm tràn ngập thân cháu hương ngát mùa xuân. Ta rất hiểu cuộc đời. Cháu ạ, dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu hãy cứ tin rằng cuộc đời thật là kỳ diệu và tuyệt đẹp. Ta già rồi, nhưng ta hiến tất cả cuộc đời ta, sự nghiệp và tài năng của ta cho tuổi trẻ. Ta đã hiến tất cả mà không đòi trả lại. Vì thế, có thể, ta còn hạnh phúc hơn cả cháu nữa kìa, Đanhi ạ!

Cháu là đêm trắng với ánh sáng huyền ảo của nó. Cháu là hạnh phúc. Cháu là ánh lấp lánh của bình minh. Tiếng nói của cháu làm trái tim mọi người rung động.

Cầu Chúa ban phước lành cho mọi vật chung quanh cháu, cho tất cả những gì chạm tới người cháu và những gì cháu chạm tới, những gì làm cháu sung sướng và bắt cháu phải trầm ngâm suy nghĩ".

Grigơ suy nghĩ và những gì ông suy nghĩ, ông gửi vào phím đàn. Ông ngờ rằng có người nghe trộm ông. Ông còn đoán được ai đang nghe trộm ông nữa. Đó là những con sơn tước trên cành, những tay thủy thủ ngoài cảng quá chén đang lang thang, chị thợ giặt bên hàng xóm, chú dế mèn, những bông tuyết từ trên bầu trời trĩu nặng kia rơi xuống và nàng Lọ Lem trong bộ quần áo vá chằng vá đụp.

Mỗi người nghe ông theo cách của họ.

Những con sơn tước bối rối. Nhưng dù chúng có loay hoay thế nào mặc lòng những câu chuyện huyên thuyên của chúng cũng không thể át nổi tiếng đàn. Những tay thủy thủ quá chén lang thang ngồi xuống bậc thềm nhà ông, vừa nghe vừa nức nở. Chị thợ giặt đứng thẳng lên, lấy lòng ban tay lau cặp mắt đỏ hoe và lắc đầu. Chú dế mèn chui ra khỏi kẽ nứt của chiếc lò sưởi lát gạch sứ vuông và nhòm Grigơ qua một khe hở.

Một bông tuyết rơi, ngập ngừng, lơ lửng giữa từng không, nó nghe thấy tiếng nhạc lanh lảnh đang chảy từ trong nhà ra như những dòng suối. Còn Lọ Lem thì mỉm cười nhìn xuống sàn. Một đôi giày xinh xắn bằng pha lê nằm bên chân cô. Đôi giày run rẩy, va vào nhau, đáp lại những hợp âm đang từ trong phòng nhà soạn nhạc bay ra.

Grigơ đánh giá những thính giả ấy cao hơn nhiều so với những quý ngài ăn vận sang trọng và lịch sự vẫn thường tới dự những buổi hòa nhạc của ông.

Năm mười tám tuổi Đanhi học hết trung học.

Nhân dịp này cha nàng cho nàng về chơi ít lâu với bà Magơđa, em gái ông, ở Krixtania. "Cho con bé (cha cô vẫn coi nàng là một con bé con, mặc dầu Đanhi đã là một cô gái có thân hình cân đối với đôi bím tóc vàng nặng trĩu) biết cái thế giới này nó ra sao, người ta sống thế nào, và cho nó được giải trí một chút".

Ai biết được rồi đây tương lai sẽ dành cho Đanhi những gì? Có thể, tương lai sẽ dành cho nàng một người chồng chân thật và yêu nàng nhưng lại đáng ngán và keo kiệt? Hay một chân bán hàng ở một quán tạp hóa trong làng? Hoặc việc làm tại một trong vô vàn những hãng tàu biển ở Bécghen.

Mà Magơđa làm thợ may trong một nhà hát. Chồng bà, ông Ninxơ, cũng làm trong nhà hát ấy. Ông làm nghề tết râu tóc giả.

Hai vợ chồng ở trong một phòng nhỏ ngay dưới mái nhà hát. Từ trong phòng nhỏ nhìn ra có thể trông rõ biển sặc sỡ những lá cờ hiệu hàng hải và pho tượng Ipxen.

Những con tàu suốt ngày cứ chõ vào các cửa sổ bỏ ngỏ mà la hét. Ông Ninxơ đã nghiên cứu những tiếng kêu của lũ tàu thủy ấy đến nỗi, theo ông nói, ông có thể biết chắc chắn chiếc tàu nào đang kéo còi: tàu Nôđécmây từ cảng Côpenhaghen đến, tàu "Người ca sĩ xứ Ecốtxơ" từ Glazgô hay tàu "Gianđ'ar" từ Boócđô.

Trong phòng bà Magơđa có rất nhiều vận dụng của nhà hát, gấm thêu, lụa, tuyn, băng, đồ ren, những chiếc mũ dạ thời xưa gắn lông đà điểu đen, những chiếc khăn san của người digan, những mớ tóc giả bạc trắng, những đôi ủng cao với cựa bằng đồng, những lưỡi gươm, những chiếc quạt và những đôi giày dát bạc đã nát ở những nếp gấp. Tất cả những thứ đó đòi hỏi phải được vá víu sửa chữa, lau chùi và là phẳng.

Trên tường treo những tranh nhỏ cắt ra từ sách và tạp chí: những kỵ sĩ thời vua Lui XIV, những cô gái đẹp bận váy bông, những trang hiệp sĩ, những người đàn bà Nga trong bộ xaraphan, những tay mạch nô và lũ hải tặc Vikinh trên đầu mang những vòng lá sồi.

Muốn lên tới phòng phải leo một cái thang dựng đứng. Ở cầu thang bao giờ cũng phảng phất mùi sơn và mùi vécni bốc lên từ lớp vàng mạ.

***

Đanhi thường hay đi xem hát. Đó là một việc hết sức thú vị. Nhưng sau khi xem xong những vở kịch về, Đanhi thường thao thưc mãi không ngủ được và đôi khi nàng còn nằm trên giường mà khóc.

Bà Magơđa lấy thế làm lo lắng và thường an ủi Đanhi. Bà nói rằng không nên mù quáng tin những gì diễn ra trên sân khấu. Nhưng ông Ninxơ thì vì thế lại gọi bà là "mụ nái xề" và nói rằng ngược lại, nên tin tất cả những gì xảy ra trên sân khấu. Nếu không thế thì người ta cũng chẳng cần đến nhà hát nào nữa. Và Đanhi tin lời ông.

Tuy vậy bà Magơđa vẫn cứ nhất định đòi đi nghe hòa nhạc để đổi món.

Ông Ninxơ không chống lại ý kiến ấy của bà. Ông nói: "Âm nhạc, đó là tấm gương của thiên tài".

Ông Ninxơ thích dùng những danh từ cao siêu và mơ hồ. Ông bảo Đanhi giống như hợp âm đầu tiên của một tự khúc. Còn bà Magơđa thì, theo lời ông, lại có một quyền lực siêu phàm đối với mọi người. Quyền lực đó là ở chỗ bà may những bộ trang phục sân khấu. Mà có ai chẳng biết rằng con người cứ mỗi lần thay một bộ quần áo khác là lại biến đổi hẳn. Thành thử anh diễn viên hôm qua còn là tên giết người bỉ ổi, hôm nay đã trở thành chàng nhân tình si mê điên dại, ngày mai lại là anh hề của nhà vua, còn ngày kia anh ta đã lại thành vị anh hùng của nhân dân.

Trong những trường hợp đó bà cô của Đanhi thường kêu lên:
- Đanhi! Cháu hãy bịt tai lại đi và đừng có nghe những lời ba hoa gớm ghiếc của chú ấy làm gi! Chú ấy chả biết chú ấy nói gì đâu, lão triết gia kiết xác ấy.

Lúc ấy là tháng sáu, trời ấm. Đang hồi những đêm trắng. Những buổi hòa nhạc được tổ chức ngoài trời, tại công viên thành phố.

Đanhi đi nghe hòa nhạc cùng cô Magơđa và chú Ninxơ. Nàng muốn mặc chiếc áo dài trắng độc nhất của mình, nhưng chú Ninxơ lại bảo rằng người con gái đẹp phải biết ăn mặc sao cho nổi bật hẳn lên giữa những người chung quanh. Nói chung, bài diễn văn dài dòng của ông về chuyện đó có thể tóm tắt lại là trong những đêm trắng nhất thiết phải mặc đồ đen và ngược lại, trong những đêm tối trời thì nên bận đồ trắng để pho sắc trắng lấp lánh của nó.

Không thể nào cãi lại ông Ninxơ, Đanhi mặc chiếc áo dài nhung đen, loại nhung lụa tuyết rất mịn. Bà Magơđa đã mượn trong kho phục trang của nhà hát cho nàng chiếc áo đó.

Khi Đanhi đã mặc xong, bà Magơđa phải chịu là ông Ninxơ có lý: không gì có thể tôn nước da mai mái nghiêm nghị trên gương mặt của nàng và đôi bím tóc dài lấp lánh vàng mười của nàng bằng thứ nhung huyền bí ấy.

- Này Magơđa, mình trông mà xem – Chú Ninxơ nói khẽ - Con Đanhi nó đẹp như thể nó đi gặp người yêu trong buổi đầu tiên ấy.
- Đúng vậy – Bà Magơđa trả lời - Thế mà lần hẹn đầu tiên khi ông đến gặp tôi, tôi lại chả đuợc thấy ông là một anh chàng điển trai si tình. Ông chỉ là một anh chàng ba hoa.
Và bà Magơđa đặt một cái hôn lên mái tóc của chồng.

Buổi hòa nhạc bắt đầu sau khi khẩu đại bác cũ kỹ ở ngoài cảng nổ phát súng thường lệ buổi tối. Phát súng báo hiệu mặt trời lặn.

Mặc dầu là buổi tối, cả nhạc trưởng, cả các nhạc công đều không thắp những ngọn điện nhỏ trên những giá nhạc. Tối hôm đó trời sáng đến nỗi những cây đèn lồng được thắp trong tán lá bồ đề hẳn cũng chỉ cốt để tạo cho buổi hòa nhạc một không khí hội hè.

Lần đầu tiên Đanhi được nghe một bản giao hưởng. Bản nhạc gợi lên trong lòng cô một nỗi xốn xang kỳ lạ. Những âm thanh chuyển tiếp và những hồi sấm của dàn nhạc gợi lên trong trí Đanhi không biết bao nhiêu là hình ảnh giống như trong những giấc mơ.

Bỗng Đanhi giật mình, ngước mắt lên. Nàng có cảm giác như người đàn ông gầy gò mặc áo đuôi tôm đang tuyên bố chương trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng.
- Chú gọi cháu đấy ư, chú? – Đanhi hỏi ông Ninxơ và ngay đó nàng cau mặt.

Chú nàng nhìn nàng một cách không ra là kinh hãi mà cũng không ra là thán phục. Và cả bà Magơđa nữa, bà cũng nhìn Đanhi như vậy, chiếc khăn áp vào miệng.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? – Đanhi hỏi.
Bà Magơđa nắm lấy tay nàng và nói rất khẽ:
- Nghe kìa!
- Các vị thính giả ở những hàng ghế cuối yêu cầu tôi nhắc lại. Vậy, thưa quý vị, dàn nhạc chúng tôi sẽ trình bày hiến quý vị một khúc nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Eđua Grigơ sáng tác tặng cô Đanhi Pêđecxen, con gái ông gác rừng Hagrup Pêđecxen, nhân dịp cô mười tám tuổi.

Đanhi hít một hơi dài đến nỗi nàng thấy tức ngực. Nàng muốn dùng hơi thở đó để giữ những giọt nước mắt đang trào lên họng, nhưng vô hiệu. Đanhi cúi xuống và giấu mặt trong đôi bàn tay.

Thoạt đầu nàng không nghe thấy gì hết. Một cơn giông đang cuồn cuộn trong lòng nàng. Cuối cùng nàng nghe thấy tiếng tù và và mục đồng rúc lên trong buổi sớm tinh sương và dàn nhạc dây khẽ giật mình đáp lại bằng hàng trăm tiếng hát.

Điệu nhạc du dương lớn dần, cất mình lên cao; nó gào lên, bay nhanh qua các ngọn cây, như một luồng gió, vặt hết lá, thổi rạp cỏ xuống đất, quất vào mặt người những giọt nước nhỏ xíu và mát rượi. Đanhi cảm thấy có một luồng không khí do âm nhạc dấy lên phả đến và nàng gắng bình tĩnh lại.

Phải, đó đúng là cánh rừng của nàng, quê hương nàng. Đó là những ngọn núi của nàng, bài hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê.

Những con tàu bằng thủy tinh làm nước sủi bọt. Gió reo ca trong những dây buồm. Từ lúc nào không biết, tiếng hát đó đã chuyển thành tiếng quả chuông nhỏ trong rừng đổ hồi, tiếng đàn chim đang nhào lộn trên không huýt gió, tiếng trẻ con hú gọi nhau trong rừng thành bài hát về người con gái: lúc bình minh người yêu của nàng đã ném một vốc cát vào cửa sổ phòng nàng. Bài hát đó Đanhi đã nghe thấy trên những ngọn núi quê hương.

Vậy ra đó chính là bác ấy. Chính cái ông già đã giúp cô bé Đanhi mang lẵng quả thông về đến tận nhà. Đó là Eđua Grigơ, người làm ra phép lạ và nhạc sĩ vĩ đại! Và người mà nàng đã trách là không biết cách làm mau chóng.

Thì ra đó chính là món quà mà ông đã hứa cho nàng mười năm sau.

Đanhi khóc, không dấu diếm những giọt lệ biết ơn. Đến lúc ấy bản nhạc đã tràn ngập khoảng không giữa đất đai và mây trời giăng mắc trên thành phố. Sóng nhạc du dương làm cho những đám mây gợi lên lăn tăn và qua những gợn sóng ấy, những vì sao lấp lánh.

Bản nhạc đã không còn ca hát. Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi con người hãy đi theonó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có thể làm nguội lạnh tình yêu, nơi không có ai đi giành giật hạnh phúc kẻ khác, nơi mặt trời sáng chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích.

Trong dòng âm thanh cuồn cuộn chảy ấy bỗng nổi lên một giọng nói quen thuộc "Cháu là hạnh phúc - Giọng đó nói – Cháu là ánh lấp lánh của bình minh".

Bản nhạc tắt. Những tràng vỗ tay lúc đầu còn chậm chậm, sau mỗi lúc một mạnh thêm, vang lên như sấm dậy.

Đanhi đứng lên và đi nhanh về phía cổng công viên. Mọi người cùng quay đầu lại nhìn nàng. Có thể, có một số người trong đám thính giả đã thoáng nghĩ rằng nàng chính là Đanhi Pêđecxen, người con gái mà Grigơ đã dành tặng tác phẩm bất tử của ông.

"Bác ấy mất rồi ư? – Đanhi nghĩ – Vì sao?" Giá mà nàng lại được gặp ông! Nếu ông lại hiện ra ở đây? Hẳn nàng sẽ chạy ào ngay lại với ông, tim đập rộn ràng, nàng sẽ bá lấy cổ ông, sẽ áp bên má ướt đẫm nước mắt vào má ông và sẽ chỉ nói một câu: "Cảm ơn bác" – "Cháu cảm ơn ta vì lẽ gì cơ chứ?" Hẳn ông sẽ hỏi như thế. "Cháu cũng chả biết nữa… - Hẳn nàng sẽ trả lời thế - Vì bác đã không quên cháu. Vì lòng hào hiệp của bác. Vì bác đã cho cháu thấy cái tuyệt mỹ, mà con người thì phải sống bằng cái tuyệt mỹ ấy".

Đanhi đi trên những đường phố vắng tanh. Nàng không biết rằng bà Magơđa đã phái ông Ninxơ đi theo nàng nhưng ông giấu không để nàng trông thấy. Ông đi lảo đảo như một chàng say rượu, miệng lẩm bẩm không biết những gì về câu chuyện thần kỳ xảy ra trong cuộc sống của họ.

Bóng tối nhợt nhạt của đêm vẫn còn trải trên thành phố. Nhưng trong các cửa sổ đã thấy lấp lánh ánh vàng mạ yếu ớt của bình minh phương Bắc.

Đanhi đi ra bờ biển. Biển vẫn còn ngủ say, không một tiêng sóng vỗ.

Đanhi nắm chặt hai tay lại và rền rĩ vì một cảm giác tuy còn chưa rõ ràng đối với nàng, nhưng đã chiếm lĩnh toàn cơ thể nàng, cảm giác về cái đẹp của cuộc đời.
- Đời ơi, hãy nghe đây! – Đanhi nói khẽ - Ta yêu Người.

Và nàng cười, mở to mắt nhìn những ngọn đèn trên những con tàu biển đang chậm rãi ngả nghiêng nơi nước xám và trong vắt.

Ông Ninxơ đứng ở đằng xa đã nghe thấy tiếng cười đó và ông quay về nhà. Giờ đây ông đã yên tâm về Đanhi. Giờ đây ông hiểu rằng cuộc đời cháu gái ông sẽ không đi qua vô ích.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Đọc xong cái tập này thấy đời đẹp như truyện cổ tích !
 
Đúng là đọc văn học Nga luôn khiến người ta có cái cảm giác cuộc sống này đẹp đẽ hơn, đáng sống hơn, và giọng văn thì luôn có một cái gì đó rất trong trẻo và giản dị, nhưng lại có sức truyền cảm thật lớn, không chỉ Paustopvsky mà còn nhiều nhà văn khác nữa. Có ai đọc 'Núi đồi và thảo nguyên' của Ai-ma-tốp(không chắc viết đúng tên) chưa ạ?
 
"Giamilia, truyện núi đồi và thảo nguyên". Trong cuốn này có truyện Người thầy đầu tiên với thầy Đuysen thì chắc ai cũng đã đọc hồi học ở trường; truyện Cây phong non chùm khăn đỏ kể chuyện một anh lái xe yêu một cô gái xinh đẹp, truyện rất nhẹ nhàng, có đoạn anh này dừng xe chờ cô gái trong rừng hay trên đường làng gì đó (không nhớ rõ nữa, hì hì), về sau học truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu có đoạn anh Lãm nằm sửa xe, nhìn từ gầm xe ra thấy gót chân hồng hào sạch sẽ của cô Nguyệt, chị cứ liên tưởng đến truyện kia :)
 
Em cũng công nhận là đọc truyện "núi đồi và thảo nguyên" thì ấn tượng nhất là cây phong non chùm khăn đỏ. Em cứ thấy hối tiếc cho 2 ngừơi đó mãi, thấy buồn mỗi khi đọc lại
 
Mình rất khoái đọc truyện nhưng vẫn chưa tạo thành một thói quen nên kiến thức văn học vô cùng hạn hẹp. May mắn thì chôm được của thằng bạn mấy quyển sách, mà lại toàn sách Nga. Nhớ hồi bé đọc Mít đặc, lúc nào cũng để bên cạnh hai cái kẹo , vừa ngậm vừa đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần . Nghĩ ngộ thật.
Đọc truyện nhiều nhưng mình chẳng hiểu mấy , tại cái tính đọc rất nhanh, có khi còn không phát âm được tên nhân vật, chỉ nhớ mặt chữ để phân biệt giống như ký hiệu. Nhưng đọc truyện thì mình vẫn hâm mộ Jamilia và Cây phong non trùm khăn đỏ. Đọc đoạn đến đoạn Đaniya hát mà phải ngồi dậy , không nằm được nữa.
Chị Hà cũng giống em , nhưng em lại đọc Mảnh trăng cuối rừng trước rồi mới đọc Cây phong non trùm khăn đỏ. Chàng lái xe cũng nhìn thấy chân cô gái trước rồi đoán người, cũng cái cách trả lời mạnh bạo của của cô làm chàng trai phải để ý. Mà em thấy đọc truyện nào của Liên Xô cũng thấy đồi núi hùng vĩ , thiên nhiên khắc nghiệt, con người quyết liệt, đọc đôi khi làm em phải thở dốc. Mà người dịch của mình cũng tài thật, đọc vẫn thấy ngọt ngào. "Ngày ra đi tôi lại đến bên hồ ... vĩnh biệt Ixức-kun, bài ca dang dở của tôi. Tôi muốn đên hồ cùng làn nước xanh biếc đi mà chẳng được...vĩnh biệt Axen, vĩnh biệt cây phong nhỏ bé trùm khăn đỏ của tôi! Vĩnh biệt người tôi yêu, cầu mong cho em hạnh phúc." Một đoạn kết đầy cảm xúc
 
Chuyện tình yêu trong "Cây phong non trùm khăn đỏ" nhẹ nhàng nhỉ? Thế Hà và Hùng đã đọc "Axya", "Mối tình đầu" và "Lũ xuân" của Turghenev chưa?
 
Em mới chỉ đọc được vài truyện thôi, mấy truyện chị nói em chửa đọc. Nhưng để kiếm xem vậy.
 
Hay quá , em đang tìm mấy truyện này , mọi người có thể post tiếp về truyện Nga đuợc không ? :)
 
Sau một hồi tìm kiếm, em đã đọc mấy truyện của Turghenev. Thú thật có mỗi truyện " Lũ xuân" là thấy được thôi, không biết có phải do bản dịch không nữa
 
hay ghe !
hay ghe !
Tuy nhien neu noi ve van hoc Nga thi Nhat chi thich Puskin thui !!!

Buon ngu qua !!!!
 
Có ai đọc "Bụi quí" chưa trong tuyển tập "Bông hồng vàng" ý?
Còn trong tập Bình Minh Mưa thì có rất nhiều truyện hay, như "Viên mỡ bò" chẳng hạn!
 
em chỉ thích đọc văn học Nga nguyên gốc thôi, bản dịch nghe nó mất cả hay.
chỉ tiếc là trình độ không đủ, nên cứ phải có cô giáo ngồi cạnh giải thích cho mới hiểu được.
em thấy văn Nga phải đọc thật chậm , ngẫm nghĩ thật kĩ thì mới thấy hay, chỉ tiếc là em ý khi đọc kiểu như thế
có ai giải thích giúp em ý nghĩa của Con đầm pich ko? em nghĩ mãi mà vẫn ko hiểu lắm.
 
Con đầm pichs là một truyện ngắn hay của Puskin. Đọc truyện đấy xong thấy cuộc đời nghiệt ngã lắm. Lúc đầu em đọc truyện ấy cũng ko hiểu. Nhg đọc xong thì mới thấy con đầm pich là một quân bài ấy, nó giồng như rô, cơ, bích, tép mình chơi bây giờ, nhg hồi xưa khác. Chơi bài hồi dô là kiểu kiểu gì em ko rõ, nhg đó là một quân bài, nhờ đó mà ng chơi đã thắng và được rất nhiểu tiền. Nhg cũng chính vì thế mà ông ta đã thua. Tác giả muốn nói về sức hút của bài bạc, của đồng tiền đã làm cho con ng u mê đi, ko còn thấy gì tốt đẹp trước mắt cả. Em rất thích cách viết truyện cực kỳ sâu sắc của Puskin. Đọc mấy truyện ngắn của ông nhiều rôi mà ko thấy chán.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
mọi ng nên mua một cuốn Bông hồng vàng- Bình minh mưa của Paotopxki, đọc rất hay. Truyện Bịu quý trong Bông hồng vàng dài lắm. Mà chắc mọinguwowif sẽ ngại đọc bông hồng vàng hơn là bình minh mưa, vì bông hồng vàng nói về những cảm xúc của nhà văn, về phong cách viết văn. Đọc nhiều chỗ chẳng hiểu lắm. Nhg những ng yêu văn Nga thực sự đọc sẽ rất khoái đấy. Em sẽ post lên đây cho mọi người sau. Các nhà văn Nga thường là rất kì cựu và lỗi lạc, nhưng cũng nhờ thế mà em yêu văn cổ điển hơn văn hiện đại nhiểu. Văn cổ điển đọc đi đọc lại mới thấy cái chất của nó ngấm vào người. Hay lắm. Em chẳng biết diễn tả cảm xúc đó thế nào.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
...."dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu hãy cứ tin rằng cuộc đời thật là kỳ diệu và tuyệt đẹp"....

Truyện hay thật!
 
Back
Bên trên