Đôi chút cảm nhận về các album và ban nhạc

Một cách ngắn gọn , việc phủ nhận ảnh hưởng của keyboard và các yếu tố non-metal khác trong âm nhạc của metal rốt cuộc sẽ chẳng đi tới đâu và thay đổi được gì vì không có keyboard , metal sẽ trở nên khô khốc và đanh cứng , đành rằng là bass , guitar hay trống đóng vai trò chủ đạo , làm nên khuôn mẫu thực thụ của mỗi cái genre được đánh já là metal

Cái này là rất đúng anh Giang ạ b-)

còn The Heart.... thì đến cảm xúc lúc nghe cũng không còn, buồn thế ....
Rất may là tôi vẫn còn cảm xúc :">

Việc xếp Katatonia vào bất kì một dòng metal nào đã được vẽ ra khuôn khổ như alternative, gothic, hay doom anh đều thấy rất không ổn. Và vì thế, tốt hơn hết, anh suggest việc xếp Katatonia là Emotional Depressed Metal.

Đấy là anh suggest đấy chứ. Nếu nói về depressed thì đó là do cảm nhận của người nghe chứ ạ. (Lại đúng đến câu "cảm nhận của mỗi người".) Em thấy nhạc của Katatonia vô cùng depressed và emotional nhưng em cũng thấy nhạc của Paradise Lost và Lacrimas Profundere rất rất depressed, nhưng ta vẫn chỉ gọi nhạc của 2 band này là Gothic metal thôi.

Quan niệm, ý thức về gothic metal qua thời gian cũng có nhiều khác biệt. Em thử so sánh Ashes của Tristania (năm 2003) và Enter của WT (năm 1997) hay In Requiem của Paradise Lost (năm 2007), em thấy rõ ràng hầu như chẳng có điểm chung. Như vậy, nếu metalstorm liệt kê Discouraged Ones là Death Doom metal song song Alternative Gothic metal và các album sau đó của Katatonia là alternative gothic metal, hay Assembly của Theatre of Tragedy là Gothic Industrial metal, em cũng nghi ngờ nhưng không phủ nhận. Em không có khả năng phân biệt style nhạc, biết đâu người xếp style của họ lại là 1 người cực kỳ rành và có siêu thính giác?

Đấy là ý kiến chủ quan của Vũ Quốc Chiêm >:)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Nếu nói đến việc thất bại thảm hại , hay nhạt nhòa không có điểm nhấn ... tớ ko rõ là Long đánh giá trên những tiêu chí nào
Ơ, cái này phải hỏi bạn Giang. Em chỉ quote lại lời bạn Giang nói thôi? Đấy là critical thinking thôi mà.

Anh Long ơi, Draconian là doom hay gothic ạ? Anh từng bảo em nếu coi họ là doom thì sẽ là doom, coi là gothic thì sẽ là gothic. Đó, có rõ rệt lắm đâu. Lại còn Silentium nữa chứ, đổ gothic và doom metal vào 1 cái cốc rồi ngoáy lên.
Thế giới Doom và Gothic dường như hòa vào làm một ở nhiều band. Không rõ ràng về ranh giới. Anh nghĩ rằng, những yếu tố Metal này tồn tại song song ở những band đó. Có chăng, sự khác biệt là về nhịp điệu, cách phối nhạc, mà cái này không làm nên tất cả, để nói rằng đó là Gothic hay Doom.

Xin lỗi vì có thể cách nhìn của anh rất radical nhưng rõ ràng là Haggard (cũng như các ban sử dụng yếu tố symphonic làm chủ đạo) không nên được liệt kê vào cá ban nhạc Metal.
Giang định nghĩa thế nào về Metal?

Điều này có nghĩa là chỉ có những ban nhạc lười suy nghĩ và không muốn tìm tòi cái mới mới làm cái việc là bê một đống hổ lốn những nhạc cụ của dàn nhạc giao hưởng vào trong tác phẩm của mình.
Đồng ý rằng những band hiện nay trau chuốt quá ít cho e-guitar, bass và drum, ngược lại, thêm quá nhiều chi tiết cầu kì cho các nhạc cụ giao hưởng, nhưng tớ nghĩ, "cái việc bê một đống hổ lốn" không miêu tả chính xác những gì họ đã làm. Trên quan điểm của một người nghe nhạc giao hưởng (Giang cũng là một người nghe nhiều mà, phải không), tớ nghĩ rằng: nó không hổ lốn. Chỉ là đôi lúc, người ta nhét một cách thái quá. Nhìn thử lại album The Phantom Agony của Epica, tớ nghĩ, nó là một album giải quyết được vấn đề: không hổ lốn!

Tớ đã đọc hết tất cả các bài post của mọi người 2 lần. Để chắc chắn là mình không bỏ sót ý kiến của ai. Những phần còn lại, hoặc là cùng quan điểm, hoặc là không cần đưa ra quan điểm vì có đưa ra, vẫn không thể giải quyêt mâu thuẫn về quan điểm. Mọi người tiếp tục bàn luận ;)
 
Thực sự là Tiên đã chạm vào rất đúng điểm ngứa khi nói rằng album Ghost Reveries của Opeth đã lạm dụng Keyboard và Synthesizer.

Có thể nói Ghost Reveries là một album prog hoàn hảo cho đến những âm thanh cuối cùng. Từ âm thanh cho đến kĩ thuật đánh của bè đôi guitar (có thể thấy những cú solo guitar trong album này rất lắt léo và phức tạp), bass và trống đều đạt đến mức hoàn mĩ. Nói cách khác album này nếu không phải là của Opeth thì xứng đáng được cho điểm 10/10. Một album hàng đầu của Progressive Metal 2006. Chết một nỗi, Ghost Reveries lại là của Opeth. Điểm yếu lớn nhất của album theo ý kiến của anh, một lần nữa lại là phần keyboard. Như chúng ta biết, anh Mikael đã từng nói rằng: " Opeth là một band nhạc gồm 4 người, và chúng tôi sẽ chỉ là 4 người" ( điều này nghĩa là... chúng tôi còn rất nhiều thứ để làm với guitar, bass và trống, chúng tôi đêk cần thằng chơi keyboards nào cả, mấy thằng nhận thêm keyboard là vì nó chả còn cái quái gì để làm với đàn guitar). Đó là những gì các anh ý đã nói cách đây 6 năm, sau khi release album Blackwater Pảk. Bây giờ thì khác quá rồi, Beneath the mire, một bài hát mà ở đoạn đầu, nếu tắt đi tiếng keyboard, rõ ràng chẳng còn thấy gì là giai điệu cả. Mà rõ ràng Opeth dễ dàng làm phần này với một cái Distorted Guitar. Và còn gì nữa, Isolation Years là một bài hát đáng lẽ nên được đưa vào Damnation, chưa kể đến Atonement là bài hát duy nhất của Opeth làm anh thực sự cảm thấy "tẻ nhạt." Lý do vì sao, một lần nữa kẻ thủ ác trong việc xóa hết sự hứng khởi khi nghe album này lại là keyboards.

Đúng, Opeth is dead, in a sense. 2 thành viên gạo cội đã ra đi, thay vào đấy là hai người mới toanh, và chắc chắn không thể bù đắp được chỗ trống của Lopez và Peter. Với anh thì Opeth của 1994-2003 là một Opeth hoàn hảo và mẫu mực, một Opeth không thể một lời chỉ trích, Opeth của 2005 đã là một Opeth hơi khác rồi. Và tới bây thì lại càng khác hơn. Chỉ trông đợi vào new album năm 2008 xem các anh ý có get on the right track hay không mà thôi. Hâm mộ một ban nhạc quá đà là như thế đấy :D, giống như kiểu mình là bố mẹ còn album sắp ra của ban nhạc ruột của mình là đứa con mà mình không dạy nổi, không biết là rồi nó sẽ như thế nào.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Hâm mộ một ban nhạc quá đà là như thế đấy :D, giống như kiểu mình là bố mẹ còn album sắp ra của ban nhạc ruột của mình là đứa con mà mình không dạy nổi, không biết là rồi nó sẽ như thế nào.

Theo em, dù hâm mộ 1 ban nhạc đến đâu thì cũng phải chấp nhận sự thay đổi của người ta :D Phải cố mà chấp nhận.
 
Theo em, dù hâm mộ 1 ban nhạc đến đâu thì cũng phải chấp nhận sự thay đổi của người ta :D Phải cố mà chấp nhận.

Cũng ko hẳn, cái đó còn phụ thuộc vào "cá tính" của người nghe... (không thích từ "cá tính" lắm nhưng mà cũng không tìm đc từ nào khác), rốt lại thì nghe nhạc mục đích chính cũng chỉ là để thỏa mãn bản thân mình
 
Chấp nhận thôi mà :D Nếu không chấp nhận nổi thì không nghe nữa để giữ vững tình yêu với ban nhạc đó :))
 
He he, nói như em Chiêm thì cũng hơi tiêu cực quá :p Anh thì anh thấy cái gì cũng cần có thời gian để lấy lại cân bằng. Chẳng hạn như Tristania. Ban đầu anh thích World of Glass. Cái thời nông cạn đấy thì chỉ biết thích thôi. Ừ thì thích, ừ thì nghe. Thế là anh phê World of Glass nên quyết tâm đi tìm các album còn lại.

Sau đấy, anh vớ được Widow's Weeds. Cái đĩa đấy ban đầu nghe ... chán kinh dị. Vì sao ư? Bởi vì nhạc thì yếu ớt, không mạnh mẽ như World of Glass, cũng chả thấy có tí thất vọng hay buồn bã nào. Mà cái tiếng guitar trong đấy nghe cứ ngu ngu. Đấy là cảm nhận ngay lần đầu anh nghe Widow's Weeds vậy. Nhưng mà một thời gian sau, khi nghe kĩ Widow's Weeds, thấy nó rất trong sáng, hiền hòa. Các bài hát tuy theo mô-típ chung nhưng lại hài hoà, như vẽ nên một bức tranh tươi đẹp. Anh thích Preludium và Postludium, anh cũng thích Evenfall, Pale Enchantress. Thích nhất là Angellore. Thích cả cái album đấy. Thế là cần có thời gian để thấm.

Thế rồi anh được đề nghị nghe Beyond the Veil. Việc nghe nó cũng gần như là cưỡng ép vì nhiều người kêu Beyond the Veil hay hơn cả World of Glass. Ừ thì nghe, ừ thì thích Aphelion. Nhưng các bài hát khác, phải lâu lắm sau đấy mới thích. Hồi đầu, anh còn ghét cay ghét đắng Heretique, vì nói thật cái bài đấy nghe tởm bựa. Nhưng mà sau này, có thể do tâm trạng thay đổi, tính cách thay đổi hoặc cái gì gì đó thay đổi mà anh lại thích nó kinh khủng. Có thể, tất cả là do thời gian đã giúp mình ngấm bài hát đó vào người.

Rồi Ashes và Illumination cũng trong tình trạng tương tự. Khi nghe Ashes lần đầu tiên, anh thất vọng kinh khủng. Không còn những Symphonic Element thuở trước. Không còn những đoạn hợp xướng dài ngân vang hay những tiếng cao vút của Vibeke làm sống dậy một đống mồ chôn. Nói thẳng ra, Tristania mới làm anh sụp đổ hình tượng. Nhưng nghe dần thì cũng thấy hay, mặc dù không thể thích được như nhưng album trước.

Và cũng dần dần mình chấp nhận là phải thay đổi các quan điểm. Một ban nhạc có thể có nhiều phong cách chơi nhạc. Chỉ là mình thích cái phong cách nào hơn cái nào thôi. Cái đấy là do bản thân, không ai bắt ép được.

Em Hưng từng hỏi rằng: Sao mọi người lại thích World of Glass nhất mà không thấy ai thích Widow's Weeds nhất? Thì nó là do quan điểm của mỗi người về phong cách âm nhạc của họ ưa thích thôi. Có lẽ, do nhạc của Widow's Weeds quá đơn giản, hoặc chưa đủ strength và depth để họ yêu thích ... Riêng với anh, anh thích World of Glass nhất là do ấn tượng ban đầu về nó. Cảm xúc mà mình hình thành đối với Tristania qua World of Glass, không một album nào khác có thể thay đổi được, hoặc bồi đắp được.

Còn nếu ngay tức thời không thể thích được cái phong cách mới của người ta, thì anh nghĩ mình vẫn nên chờ một thời gian. Nghe đi nghe lại, những nét nhất định trong phong cách mới chắc chắn sẽ làm mình thích. Có điều là, những cái mà mình đã tôn thờ nhất, thì nó không thay đổi được. Chỉ là mình chấp nhận nhường cho những cái khác một chỗ đứng mà thôi.
 
Ục...dân Ams thik nghe nhạc nc ngoài thế..dành chút ít cho Rock việt đi..
.@ Hưng Trần : tìm gấp thằng drum cho tôi..drum cự phách VD mà ko có thèng đệ tử nào à...vẫn duy trì Stand của ông đấy...mặc dù ko mạnh cho lắm vì thiếu Hưng..:p..
 
Em Trung Nam thử recomment vài bài hoặc vài band Rock Việt đi xem nào. Em phải nói thì mọi người mới biết mà bàn chứ ;)
 
Dạ thật ra thì Rock việt cũng có mấy đâu anh...The Wall ko nói..còn lại tùy người nghe thôi..quan tâm thì thấy 1 số bài cũng đc..Em thik Nu..Nu việt chỉ có Small Fire và MIcroway thôi ( Small Fire tan rồi )...band học sinh & sinh viên có dc feps bàn ko hả anh..:p..em thấy thế thiết thực hơn..( thực ra là ko b' gì về Rock nc' ngoài..^^..)..
 
Ô, band nào mà em chả bàn được. Em khơi nên 1 câu chuyện, và những ai có hiểu biết ít nhiều xung quanh câu chuyện đó đều có thể tham gia bàn luận. Chẳng hạn, anh khơi lên câu chuyện về Arkoz (đúng tên chưa :D) và mọi người nhảy vào ... bàn tán, chim lợn, chửi bới, khen nức nở ... :)) Em cũng thế thôi. Chờ câu chuyện từ em. Về 1 band học sinh càng hay ;) Với điều kiện, up nhạc lên :D
 
Psychedelic Pink Floyd (From bugo's blog)
Pink Floyd đã biến thế giới âm nhạc thành một cơn bão khi họ phát triển khía cạnh pock rất nguyên bản của riêng mình. Trong thời hoàng kim, nhạc của Pink Floyd phối hợp các yếu tố dàn nhạc giao hưởng với việc sử dụng âm thanh điện tử phong phú và âm nhạc "bê tông" - đồng hồ, máy bay và nhiều âm thanh đời thực khác - cũng như ca từ sắc bén.

Pink Floyd được bộ tứ sinh viên Cambridge thành lập năm 1965 gồm có - Syd Barrett - ca sĩ, Roger Walters - guitar bass, Richard Wright - keyboard, Nick Mason - trống với tên gọi ban đầu Pink Floyd Sound , một cái tên mà người ta đồn rằng được lấy từ các nghệ sĩ blues của miền Georgia là Pink Anderson và Floyd Council.

Nhờ Barrett, Pink Floyd đã đặt chấm phá đầu tiên cho cuộc cách mạng ảo giác mà về sau xâm nhập vào cả phim ảnh, văn học… Cách riêng trong âm nhạc, Pink Floyd được mệnh danh là “người tình của trào lưu ảo giác London” khi mạo hiểm thử nghiệm sự kết hợp giữa những nét nhạc blues, thính phòng cùng với các hòa âm nghịch tai. Để có được thứ âm nhạc này, người nghệ sĩ thường phiêu diêu với các chất ma túy ảo giác, những chất kích thích, cần sa, LSD…

Các chàng trai nhiệt huyết cuối cùng cũng đã ra đời được đĩa đơn đầu tiên - Arnold Layne - ca khúc nói về một người đàn ông mắc chứng tâm thần do Barrett sáng tác. Mặc dù bị cấm phát trên BBC nhưng bản nhạc này vẫn lọt vào top 20 ở Anh.

Đĩa LP đầu tiên "Piper At The Gates Of Dawn" (Người thổi sáo lúc bình minh) ra đời tháng 8/1967, chứng tỏ vai trò ngự trị của Barrett trong nhóm. Các ca khúc đầy những hình ảnh ngây thơ hồn nhiên, mang âm hưởng khá tinh tế của Lewis Carroll. Phần lead guitar của Barrett đã gây được ấn tượng, và đã bổ sung một cách khéo léo cho phong cách chơi keyboard khác thường của Wright. Trước khi đi lưu diễn lần đầu tiên ở Mỹ, thái độ của Barett ngày càng trở nên thất thường, có thể là do tác dụng phụ của sự lạm dụng các chất kích thích. Trong những tháng kế tiếp, tình trạng càng tồi tệ, có những buổi diễn anh chẳng chơi chút nào, chỉ đứng bất động trên sàn diễn. Ban nhạc quyết định tìm kiếm người hỗ trợ anh. Vào tháng 2/1968 David Gilmour, bạn học cũ của Roger và Syd đã được kết nạp, và cuối cùng Barrett đã rời bỏ ban nhạc vào tháng tư cùng năm. "Bánh lái" được trao lại cho tay bass Roger Waters.

Cuối năm 1968, Pink Floyd tới Pháp theo một hợp đồng biểu diễn. Một trong những người có mặt tại show diễn lúc bấy giờ là Barbet Schroder - đạo diễn phim nổi tiếng của Pháp. Ông yêu cầu Pink Floyd tham gia phần nhạc cho bộ phim "More" sắp trình làng năm 1969. Các thành viên trong ban đồng thời cũng hết sức nỗ lực hoàn tất thu âm rock Man and The Journey (gồm cả 3 ca khúc Sleep/Nighmare, Green Is The Colour và Death trong phim More). Cả album và bộ phim đều mang gây tiếng vang lớn cho người hâm mộ ở châu Âu.

Năm 1970, chắc chắn không phải vì "khỏi mua vé" mà có đến 100.000 người tụ tập tại London xem buổi diễn miễn phí của nhóm. Luôn muốn tạo bất ngờ, ngay sau khi diễn trước đông đảo người xem như vậy, Pink Floyd có ý định diễn tại phế tích Pompeii trong một sự "yên lặng tuyệt đối" bởi không chỉ không có người xem nào mà Pompeii còn tách biệt với đời sống ồn ào của đô thị. DVD Live at Pompeii ghi nhận buổi diễn kỳ lạ này.

Năm 1972, họ lại tiếp tục có mặt trong nhạc phim của Barbet Schroder (1972) Le Vallee, bộ phim công chiếu tại Mỹ và Anh với tên gọi Valley Obscured By Clouds.

Một số fan đặc biệt ngưỡng mộ thời kỳ trải nghiệm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của ban nhạc - thời kỳ sản xuất ra nhiều tác phẩm thường nổi bật và khó khăn như Ummagumma, Atom Heart Mother và Meddle.

Nhưng thành công rộng rãi trên thế giới đích thực của ban nhạc xuất hiện năm 1973 với một trong những tác phẩm định nghĩa của thập niên, Dark Side of the Moon, nơi họ kết hợp thành công chủ nghĩa thực nghiệm những ngày đầu với nhạc điện tử hi-tech và các giai điệu du dương hơn. "Dark Side Of The Moon" (Phía tối của mặt trăng) là cao trào của các ý tưởng tích lũy trong nhiều năm, tâp trung vào chủ đề cái chết và sự suy sụp tình cảm do sợ hãi, sự cô đơn và kiệt quệ tinh thần. Tác phẩm cho thấy tính bi quan, yếm thế rõ trong lối viết nhạc của Waters. Album cũng hiện thân cho sự đột phá dứt khoát đầu tiên vào các quan điểm chính trị cánh tả, ban nhạc lên án những gì họ chứng kiến như sự xa lánh nguyên nhân bởi xã hội tư bản hiện đại. "Dark Side Of The Moon" ước tính có tổng lượng tiêu thụ trên toàn thế giới vào khoảng 34 triệu bản; trong tuần đầu tiên năm 1973, album đứng vị trí số một trong bảng xếp hạng của Mỹ; tại Bỉ và Pháp, album cũng không nhường ngôi quán quân cho bất kể nhạc phẩm nào khác; album xếp hạng hai ở Áo, hạng 3 ở Australia, hạng 4 ở Hà Lan, hạng 5 ở Tây Ban Nha, Phần Lan và Đức. Album này đã trụ lại trên nhiều bảng xếp hạng Mỹ với thời gian kỷ lục 27 năm. "Dark Side Of The Moon" được ghi tên vào kỷ lục Guinness đĩa hát thế giới vì thời gian có tên trong các bảng xếp hạng toàn cầu dài hơn mọi album khác trong lịch sử ("đĩa hát già nhất").

Tiếp theo Dark Side of the Moon, Pink Floyd với Wish You Were Here năm 1975 một lần nữa chiếm vị trí đầu bảng những album được ưa chuộng nhất bấy giờ. Hơn một năm rưỡi sau, ban nhạc mới ra mắt được Animals. Album mới này được đánh giá là "sự phản ánh chân thực nhất hiện thực và cách sống của nhiều tầng lớp trong xã hội bấy giờ", mỗi một kiểu người được phản ánh qua hình ảnh, tính cách của một động vật. Ví dụ như "cún" tượng trưng cho những luật lệ hà khắc của tầng lớp thống trị; "ủn ỉn" là sự trì trệ của giai cấp quý tộc, sống vương giả; "cừu" là số đông công chúng luôn bị "cún và ủn ỉn đè đầu cưỡi cổ"...

Năm 1979, một quả bom tấn nữa được tung ra: album đôi The Wall. Những cơn ác mộng thuở nhỏ, sự giận dữ, tính cáu gắt cho đến những vấn đề triết học phức tạp được Waters trút vào album này như một tự truyện.Một ca khúc trong album The Wall, Another Brick in the Wall phần 2, là single đầu bảng duy nhất của ban nhạc.

Nhưng một cuộc tranh cãi gay gắt xảy ra sau đó. Rạn nứt trong nhóm, nhất là giữa Waters và tay keyboard Rick Wright ngày càng trầm trọng.

Ngày 26/2/1980, Pink Floyd bắt đầu tour The Wall tại Nassau Coliseum, (Long Island New York). Tháng 10, nhóm rong ruổi tới London. Tháng 1 năm 1981, Pink Floyd lại có mặt ở Los Angeles. Tháng 4, các thành viên trong ban nhạc có tới 4 lần thực hiện show The Wall tại Westfallenhalle (Dortmund, Đức)

Đội hình thành công nhất của Pink Floyd - Roger Waters, David Gilmour chơi guitar, Rick Wright chơi keyboard và Nick Mason chơi trống - không còn biểu diễn cùng nhau sau chuỗi ngày của The Wall.

Năm 1984, mỗi người trong Pink Floyd đều chọn đường đi cho riêng mình. Rick Wright cùng Dave Harris thu âm album solo Zee-Identity; David Gilmour phát hành album cá nhân About Face và Roger Waters cũng xuất bản The Pros & Cons Of Hitch-hiking.

Năm 1990, Water tổ chức buổi trình diễn sống mang chủ đề The Wall trước một cử tọa lên đến 250 ngàn người, với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ bạn hữu như Cyndi Lauper, Van Morrrison, Siead O'Connor, nhóm The Band và Bryan, album "The Wall - Live In Berlin" (Bức tường - thâu trực tiếp ở Berlin) sau đó được xếp hạng ở cả Anh và Mỹ.

Pink Floyd bắt đầu "đoàn tụ" vào năm 1993 cho album mới The Division Bell, đĩa bán chạy nhất tại Anh năm 1994. Ban nhạc có tới nửa năm đi lưu diễn. Tại châu Âu, David Gilmour lập gia đình với cô bạn gái Polly Samson. Năm 1996, vị thần hạnh phúc giang tay chào đón Pink Floyd sau một chặng đường dài không ngừng vươn lên. Nhóm nhạc chính thức có tên trong Đại sảnh Vinh danh Rock & Roll. Sau đó, Floyd không tham gia một buổi biểu diễn nào nhưng vẫn tiếp tục cho ra đời một album mới vào năm 2000. Riêng Roger Waters khoảng giữa 1999 - 2000 đã trình làng thu âm mang tên "In The Flesh". Năm 2002, dấu chân của Roger in ở hầu khắp châu Âu, châu Phi, châu Á và Australia.

Nhưng hơn 10 năm sau, họ được trở lại cùng nhau trong một đêm của chương trình hoà nhạc Live 8 mùa hè trước ở London, bộ tứ ôm chặt nhau trên sân khấu một lần nữa.

Bất cứ hy vọng nào dẫn tới một sự đoàn tụ lâu dài vẫn không được toại nguyện, ban nhạc đưa ra một bản tuyên bố hồi tháng 1 khẳng định với báo chí những câu chuyện về sự trở lại gây ấn tượng sai với người hâm mộ.

Thậm chí nếu Gilmour và Waters có thất bại trong việc giải quyết tạm thời sự tranh cãi cuộc chạy đua dài khét tiếng của họ, cả hai vẫn lưu diễn và thu âm cùng nhau và duy trì huyền thoại Pink Floyd sống mãi.
 
Về khái niệm Metal, lâu lâu có nghe ai đó nói là Metal là phải có câu Riff, đặc trưng của Metal là câu Riff
 
Dark Side Of The Moon - Pink Floyd (1973) Part 1
DARKSIDE OF THE MOON - Một album không có gì để có thể diễn tả được - thế mà vẫn có người viết được về nó :

-----------
Dark Side of the Moon 1973 : album đầy ắp cảm giác bất an , nỗi lo sợ rình rập , sự cằn cỗi lạnh lẽo của cuộc sống hiện đại .Hãy cho tôi nói vài lời về một thứ mà tới bây giờ tôi mới lờ mờ bắt được cái bóng mờ nhạt của nó . Song tôi nghĩ rằng các bạn cũng chỉ như tôi thôi , không bao giờ bắt được nguyên bản của cái bóng đó đâu , bởi vì nó quá TRỪU TƯỢNG . Muốn hiểu chỉ có cách hỏi Roger, nhưng con sói già này chỉ luôn mỉm cuời im lặng và giễu cợt .
---------------------------------
DARKSIDE OF THE MOON là album đỉnh cao của Pink Floyd - trên toàn thế giới nó được xếp hạng 5*- nghĩa là vào dạng những siêu phẩm vượt không gian thời gian , tuyệt tác của mọi thời đại . Album nói về một sinh mạng từ lúc bắt đầu sinh ra cho tới khi kết thúc , sự kết thúc này gần như không liên quan đến cái chết sinh học,mà là một cái chết ảo tương tự như sự bốc hơi của nhân vật Pink trong The Wall - tự dưng không liên quan gì đến con người đó nữa , anh ta 'bốc hơi' rất đột ngột . Dưới tác động của sức ép từ nhiều phía trong xã hội công nghiệp hiện đại , con người dần đánh mất mối liên hệ với thực tại và với chính mình ,hoá điên và chôn vùi cuộc sống của mình trong bệnh viện tâm thần .

SPEAK TO ME

Chúng ta có gì ở đây? Speak to me !! Phần lời dễ hiểu , nhưng quan trọng hơn nó đóng vai trò gì trong concept này ? Bạn hãy đọc những lời ngắn ngủi của nó : I've been mad for ****ing years..... I know I've been mad, like the most of us...very hard to explain why you're mad, even if you're not mad..." . Cái này có nghĩa là gì . Hãy nhớ lại Wall . Mở đầu là một lời tiên báo định mệnh cho suốt cuộc đời của Pink "Nếu mày muốn tìm ra cái gì đằng sau những đôi mắt lạnh lẽo kia (=nếu mày muốn tồn tại ), mày phải tự cào ra lột ra con đường của mày dưới mọi nguỵ trang giả tạo của cuộc sống (=mày phải đánh vật với trò đời để tồn tại ) Và tôi nghĩ Speak to me cũng đóng vai trò tiên báo của Darkside, và thông điệp tiên báo thì ngắn thôi: " Sau những năm tháng khốn nạn của cuộc đời mày , mày sẽ điên !!! " . Tôi nghĩ cũng như Pink của The Wall đã thất bại trong cuộc chiến với cuộc sống và chính mình để tồn tại , nhân vật của Darkside cũng sẽ thất bại và hệ thần kinh bị phá huỷ hoàn toàn. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng so với Wall , Darkside trừu tượng hơn nhiều ,Wall có diễn biến trong đời thực , còn Darkside thì là diễn biến trong hệ thần kinh .

Bạn hãy lắng nghe những âm thanh trong ca khúc này, tiếng máy đếm tiền, tiếng cười điên dai ,tiếng đồng hồ tích tắc chạy không ngừng nghỉ báo hiệu bàn tay tàn nhẫn của thời gian…. Tập hợp âm thanh này được tạo ra từ đôi tay Nick Mason . Chỉ một vài khoảnh khắc ngắn ngủi đó thâu tóm cả cuộc đời của kẻ điên này lần lượt được trình bày trong những ca khúc tiếp theo ,tạo ra một cái link, một mạch ngầm chảy lặng lẽ suốt album, điều này đã thể hiện phần nào tính chất concept của Darkside. Như vậy từ lúc sinh ra đến khi biến mất đây là một cuộc sống hoàn chỉnh với đủ cả Thời gian , Tiền bạc , Thất vọng, Chiến đấu , Điên loạn ... Tôi nghĩ một album tái hiện được tất cả những cái này đáng được gọi là một album của cuộc sống.

BREATHE
Hãy nghe tiếp , ngay sau tiếng người nói của Speak to me là nhịp đập của trái tim, rồi một tiếng thét kinh hoàng vang lên. Một người bạn của tôi nói rằng đó là tiếng người phụ nữ thét lên đau đớn khi sinh đẻ , nhưng tôi phủ định . Vang lên ngay sau lời tiên báo của số phận và nhịp đập mà tôi cho rằng đó là nhịp đập trái tim của cái bào thai , âm thanh đó phải là tiếng khóc chào đời của đứa hài nhi - chính xác hơn là tiếng thét chào đời kinh hoàng và định mệnh . Và ngay sau đó là tiếng nói vang lên trong tâm can người mẹ với đứa con mình : "Breathe , breathe in the air , dont be afraid to care " Đơn giản thôi , hãy thở đi con yêu , đừng e ngại , hãy thở đi . Ngay sau đó là " Leave , but dont leave me , look around and chose your own ground " Động từ Leave tôi nghĩ là chỉ hành động tách ra khỏi cơ thể người mẹ của đứa trẻ , còn dont leave me là chỉ sự không chia tách về tinh thần của tình mẫu tử , dù đứa con này sẽ lớn , sẽ sống con đường riêng của nó .

Ngay sau đó , album này đi vào một phép tu từ ổn định . Nếu bạn đã đọc tiểu thuyết Cái trống thiếc -Nobel văn học 1999 của nhà văn Đức Gunter Grass sẽ nhận ra một sự tương đồng : Trong câu chuyện luôn có hai vai : Vai người đứng ngoài nhìn vào và gọi nhân vật của câu chuyện bằng You , và vai ngôi thứ nhất của chính câu chuyện là I , hai vai này hoàn toàn thay thế nhau xen kẽ nhau trong cùng một đoạn văn , ở đây là cùng 1 bài hát , thậm chí cùng 1 đoạn lời ( Như trong Brain Damage sẽ nói tới sau ).Trong Breathe , đoạn tiếp theo là ở vị trí người ngoài cuộc nói ra đóng vai trò như tiếp nối lời tiên tri số phận ở trên :

"Run, rabbit run.
Dig that hole, forget the sun,
And when at last the work is done
Don't sit down it's time to dig another one.
For long you live and high you fly
But only if you ride the tide
And balanced on the biggest wave
You race towards an early grave.

Đây là ý nghĩa của nó : Trong suốt cuộc sống của mày , việc làm thật sự của mày là đào một cái lỗ huyệt (cho chính mày ), và khi đào xong nó , thì việc tiếp theo là đào một cái lỗ huyệt khác .Mày có thể chiến đấu với khó khăn và làm chủ hoàn cảnh trong một số tình huống , nhưng kết cục hành động đó chỉ dẫn mày tới cái lỗ huyệt của mày càng sớm hơn thôi .Breathe như thế là đã phủ một cái bóng tối tăm u ám lên toàn album . Định mệnh là như thế rồi không chạy đi đâu được .Điều đáng nói , liên kết với Speak to me , ta thấy rằng ngôi You này không nhằm vào chỉ riêng đứa trẻ mới ra đời , nó nhằm vào tất cả mọi người , nhằm vào thậm chí chính mỗi kẻ chúng ta . Như vậy không hề đi ra ngoài luồng thế giới quan của Pink Floyd : Một thế giới nhiều khuyết tật , với những số phận nhục nhằn và những kết cục bi thảm.Tôi nghĩ đây hoàn toàn không thể là một thế giới quan tích cực , nhưng nó làm nên tinh thần và hơi thở của Pink Floyd. Ca khúc này là “tài sản” trong solo The Body của Roger. Tuy nhiên nó đã được điều chỉnh lại cả về âm nhạc và ca từ cho phù hợp với không khí của Darkside . Phần vocal do Dave và Wright đảm nhận.
Đến đây cuộc đời đi vào mô hình của nó :

ON THE RUN
Thật khó tìm được mối liên hệ từ ca khúc này tới cái đống hỗn độn vô hình mà album đã bắt đầu bày ra trước con mắt hoang mang của người nghe, đặc biệt khi đây chỉ là một khúc nhạc không lời , một mảnh cảm xúc câm lặng không tuyên ngôn, nếu không kịp nhận ra ý nghĩa của nó chúng ta sẽ lập tức đánh mất ngay khả năng theo sát diễn biến của concept .

Bắt đầu là tiếng một người phụ nữ trên loa phát thanh thông báo giờ bay lịch bay của một chuyến bay đã bắt đầu cất cánh, tiếng chân chạy gấp gáp của một người đàn ông trên con sảnh dẫn ra đường bay với hơi thở nặng nề thất vọng ,sau đó là một tràng những tiếng ha ha ha ha đứt quãng như điên dại gây cảm giác rợn tóc gáy . Những âm thanh này vang lên trên nền một hệ thống âm thanh dồn dập liên miên khó có thể gọi là âm nhạc, nó như một phép cộng cơ học âm thanh gì đó như bánh xe quay liên hồi hối hả , tiếng vù vù hun hút của các nhạc cụ điện tử tạo cảm giác như máy bay xé không khí khi đang chạy trên đường băng, tiếng guitar điện rú rít tạo cảm giác như các bánh xe miết sát mặt đường băng khi tới khúc cua…. ,và rồi đột nhiên một giọng nam nói cụt lủn một câu “ Live for today, gone tomorrow… “được nối tiếp bằng những tràng cười ngây dại ghê rợn nửa như phủ định nửa như chế giễu .

Tới khi cái phép cộng cơ học những âm thanh gấp gáp đó kết thúc tựa như tiếng máy bay thực sự rời bánh khỏi đường băng và xé gió bay lên, tiếng bước chạy dừng lại đột ngột , tôi mới hiểu toàn bộ những sinh vật nhỏ bé cựa quậy trong cái tập hợp hối hả chết dẫm này muốn nói lên điều gì . Nó là guồng quay cuộc sống. Mỗi bước đi trong cuộc đời là một bước dấn thân vào những vòng đua vô hình mà thậm chí chính bản thân không thể ý thức được , và guồng quay hối hả của thời gian đó nuốt chửng mọi nỗ lực , kết thúc : con người luôn chậm một bước với nhịp quay của bánh xe thời gian , như người đàn ông đã chậm một bước lỡ chuyến bay tới Rome của anh ta . Điều đó xứng đáng nhận được cái gì hơn ngoài tràng cười chế giễu điên loạn kia ???

"Live for today and gone tomorrow, that's me."
"Ha, ha, ha, ha!"
Tôi đã được xem một live show của Pink Floyd trong đó có ca khúc này . Giữa luồng ánh sáng lộng lẫy,trên một màn hình tròn trung tâm sân khấu hiện lên đoạn phim một người đàn ông bất động từ cổ trở xuống trên chiếc giường trong bệnh viên tâm thần , chiếc giường có bánh xe bắt đầu tự động chạy với tốc độ ngày càng nhanh trên một hành lang sâu hun hút dưới sức đẩy của một thế lực vô hình , hai bên chiếc giường ma nhập đó các ảo ảnh thực có hư có loang loáng vút qua. Trên khuôn mặt người đàn ông hiện lên vẻ sợ hãi hoảng loạn tột cùng, nhưng anh ta bất lực không thể chống chọi lại sức mạnh vô hình đó , tần số của bánh xe quay trùng với tần số của tiếng trống và các nhạc cụ điện tử ở trên . Hành lang đó kết thúc cũng là một phi trường , sự trùng hợp có sắp đặt đó càng củng cố niềm tin của tôi rằng sức mạnh vô hình đáng sợ kia chính là guồng quay cuộc sống, con người không thể thoát ra khỏi sức cuốn của nó . Và thất bại là cái chờ chúng ta ở cuối con đuờng.

Lỡ một bước trong vòng đua đó , phản ứng tức thời của sinh linh này là nuối tiếc thời gian bị lãng phí. Đây là một nhịp cầu tuyệt vời nối thẳng sang Time. Đây cũng là 1 phần trong những lí do vì sao tôi cho rằng Dark side of the moon là một album concept thượng thừa với độ liên kết chặt chẽ tới từng tế bào của nó.

TIME

Time là ca khúc nổi tiếng vào bậc nhất của Pink Floyd, cùng với Money và Comfortably numb đã chiếm ba thứ hạng cao chót vót trong top 100 guitars solo của mọi thời đại .Tuy nhiên khi đặt vào vị trí ngay sau On the run trong album này giá trị của nó tăng lên hàng ngàn lần .Lời ca của Time là một sự chiêm nghiệm về thời gian. Nó là thứ chúng ta đánh mất đi sau từng giây phút của cuộc đời mình , mà những giây phút của cuộc đời này trong nhân sinh quan của Pink Floyd là một chuỗi ngu xuẩn nhạt nhẽo phung phí .Những hình ảnh quá quen thuộc trong nhạc của Pink Floyd xuất hiện như một hệ thống nhân chứng trong ca khúc này : một ngày ngu xuẩn, phung phí thời gian, quanh quẩn trong một khoảng sân nhỏ ,chờ đợi vô vọng một đột phá mới , nằm dưới ánh mặt trời, ngồi ù lì trong nhà ngắm mưa…. Ý tưởng về mảnh sân nhỏ bé cuộc đời tù túng sau đó 2 năm được chấm phá một lần nữa trong tuyệt tác Wish you were here : “Chúng ta chỉ như hai tầm hồn lầm lạc, bơi quẩn trong một cái bể cá, chạy quẫn trong một mảnh sân nhỏ, chúng ta đã tìm thấy những gì : Những nỗi kinh hoàng cũ !!!” (We’re just two lost souls swimming in a fish bowl, year after year. Running over the same old ground, what have we found ? THE SAME OLD FEAR !!! )

Và rồi bỗng nhiên một ngày, mười năm tuổi trẻ của bạn đã chảy tuột mất.

And you run and you run to catch up with the sun, but it's sinking
And racing around to come up behind you again
The sun is the same in the relative way, but you're older
Shorter of breathe and one day closer to death

Đây là ý nghĩa của nó : Mày cứ chạy, chạy mãi, để đuổi bắt mặt trời , nhưng nó đang chìm xuống và xuyên qua nửa kia trái đất để lại mọc lên sau lưng mày . Và thời gian qua đi mặt trời vẫn đắc thắng như thế, nhưng mày thì già hơn và tàn úa , ngọn nến sinh mạng cháy ngắn đi và gần kề cái chết hơn. Hình ảnh tuyệt vời này ném thẳng vào loài người một cái nhìn trực quan về sự hoang phí thời gian của họ .Những ước mơ hoài bão mãi luôn là “những kế hoạch còn dang dở hoặc một bản thảo gạch đầu dòng những việc cần làm ( không bao giờ làm được )Có một mệnh đề khó hiểu trong ca khúc : Plans that either come to naught or half a page of scribbled lines ,hanging on in quiet desperation is the English way.[/i] “English way” là gì ? Một thứ tính từ phân biệt với American way, Italian way.. thể hiện một thoáng tinh thần tự tôn dân tộc nhỏ nhoi của Pink Floyd ?Chưa hẳn là vậy. Tôi nghĩ với cái khung treo câm lặng cho những hoài bão ước mơ cũ kĩ phủ đầy bụi kia , trong hoàn cảnh này “is the English way” có nghĩa là “ chuyện tất nhiên phải xảy ra “

Time nối liền với Breathe- reprise, một chút thanh bình nhỏ trong suốt dòng thác cuồn cuộn chảy của album , với sự xuất hiện của một mái nhà trú ẩn, một lò sưởi yên ả nơi con thú hoang có thể sưởi ấm xương cốt rệu rã đã bị vắt kiệt sau những vòng đua . Nhưng cảm giác bình an đó không được bao lâu, đằng xa tiếng chuông giục giã của thời gian không chờ đợi lại vang lên, lời nguyền ma lực của số mệnh “the softly spoken magic spell” lại kéo những kẻ tín ngưỡng mù quáng đào thoát theo những vòng đua tới sự huỷ diệt .

THE GREAT GIG IN THE SKY
Đây tiếp tục là một thứ biểu tượng khó hiểu tới mức vô nghĩa : Cái xiên lơ lửng trên bầu trời . Cùng với đó là tiếng người nói u ám:
"And I'm not frightened of dying. Any time will do, I don't mind. Why should I be frightened of dying?. There's no reason for it, you've gotta go sometime."

Phần nhạc của ca khúc có thể nói là gần với tên album nhất .Nó hướng người nghe tới bầu trời tối đen đặc quánh đầy hăm doạ, với một tự kỉ về cái chết trong đầu. Chất giọng rên xiết quằn quại của Clare Torry lên xuống rất lắt léo, phát ra những thanh âm trừu tượng , đưa linh hồn tới một thế giới không còn các định nghĩa khái niệm , chỉ còn một màu tối đen và một vật thể kì quặc lơ lửng giữa trời, một thứ cảm giác vừa phản ứng dữ dội, vừa ngây ngô thần phục trào lên.

" If you can hear this whispering you are dying."

Đây là một thứ ám thị mà Pink Floyd gieo rắc vào trong đầu người nghe. Gã dở sống dở chết này nghe thấy tiếng nói khe khẽ đáng sợ bên tai : “Nếu mày nghe thấy lời thì thầm này, nghĩa là mày đang chết” . Tôi nhớ tới một quan niệm về cái chết của phương Tây, khi đứng trên bờ vực sinh tử mỗi người có thể nghe thấy tiếgn nhạc văng vẳng đón chào họ bước vào thế giới của những linh hồn, dàn nhạc giao hưởng của cái chết. Nếu nghe thấy tiếng nhạc đó thì chắc chắn là cái chết đang đến, vì người chết mới nghe được người sống thì không thể, tuyệt nhiên không còn đường sống. Trường hợp này có điểm tương đồng. Thay cho tiếng nhạc là thông điệp khoái trá ác nghiệt của Số Mệnh. Tuy nhiên cần lưu ý, đây không phải là cái chết sinh học, thật khó mà giải thích được cơ chế nào lại khiến một kẻ đã chết vẫn còn ương ngạnh cãi cùn cố bám vào một điều mà thậm chí hắn đã mất lòng tin vào nó :

"I never said I was frightened of dying."

Sau đó , kì quặc thay , mạch album lại chuyển thẳng sang hiện thực ., cuộc sống tiếp tục diễn ra với vẻ trần trụi ghê tởm của nó với Money bất chấp nội dung thoát ly của Great gig. Đây có lẽ là chỗ lở tường long móng duy nhất của concept rất tốt này. Dù sao, ngừoi nghe cũng được kinh qua cảm giác “ dying” trong một thoáng chốc .


Đây là bản soạn nhạc duy nhất của tay keyboard Wright có sự tham gia của nữ ca sĩ Clare Torry. Nguyên bản nó là một ca khúc của cô với cái tên Mortality Sequence .
Dark Side Of The Moon - Pink Floyd (1973) Part 2
MONEY

Album chuyển sang một mạch nhạc khác hẳn, tôi nghĩ sự chuyển mạch này có thể làm bối rối đôi tai một số người nghe, bởi bản thân tôi có phản ứng rất khó chịu khi đang trôi dạt đâu đó trong không gian tối tăm huyền ảo của Great gig lại bị quẳng bộp một cái xuống một đống tiền xu xủng xoẻng rơi ra từ một cái máy đếm tiền. Cái vô thực và thực tế va chạm nhau ác quá, chính cách chơi nhạc cũng khác hẳn. Cái link xuyên suốt album dường như đứt gãy đâu đây và buộc người nghe phải “cố gắng“ mới “lắp” được các chi tiết tiếp theo của concept vào với phần đầu. Tuy nhiên may mắn thay sự đứt gãy này không nằm trong bản thân các bài hát , nó chỉ hơi lỏng tay một chút ở đoạn nối giữa Money và Great gig thôi. Dù sao tôi rất tiếc cho mối lỏng này trong một album hoàn hảo đến thế.

Bù vào đó , Money lại cống hiến cho người nghe môt thứ triết lý sắc bén cay nghiệt về đồng tiền và một đoạn solo thuộc dạng độc địa nhất của Pink Floyd, tôi sẵn sàng xếp ca khúc này vào top 10 ca khúc tuyệt nhất của ban nhạc( mặc dù kẻ cầm lead là David Gilmour nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên rằng đôi tay của một nhân cách trầm tĩnh như anh lại có thể buông ra những nốt nhạc giễu cợt nhạo báng đến thế , điều này giống với tính cách của Roger Waters hơn) .Qua những ca từ báng bổ trong Money, đồng tiền hiện lên như một thế lực hùng mạnh : có thể đem lại từ những giấc mơ bé nhỏ như đi du lịch, trứng cá caviar, xe ô tô mới, tới hẳn những chuyện mơ tưởng ngớ ngẩn của cả một đời như lọt vào giai cấp thượng lưu, mua cả một đội bóng hay một chiếc máy bay quí tộc …Tư thế của những kẻ sung bái vật chất cũng thật lố bịch : cào quắp lấy đống tiền và tìm một xó chui lủi để che giấu, luôn có tư tưởng nhòm ngó tiền bạc của người khác, tự bản thân chúng luôn rao giảng một sự thật “ Money is the root of all evils today”, tiền là tai hoạ tội lỗi , nhưng nếu muốn xơ múi một chút cái gọi là nguồn gốc tai hoạ đó thì câu trả lời sẽ là : Đừng động một chút nào vào phần chia CỦA TAO.(don’t take a slice of my pie ).Bản thân ca khúc là thành công rất lớn của ban nhạc, có ít nhất 780 buổi trình diễn khắp nơi trên thế giới đã trình bày ca khúc này từ 1973.

Nhìn từ nhiều phía người ta nhận ra những trạng thái tinh thần khác nhau của nhiều đối tượng với đồng tiền: tôn sùng, nô lệ, thèm khát, khư khư giữ của , coi thường, khỉnh bỉ , giễu cợt …Các thế giới quan đó va chạm nhau đồm độp. Từ đó nảy sinh nhiều mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn chính trị … điều được phát triển và khắc hoạ rất toàn diện trong ca khúc tuyệt vời tiếp theo Us and them. Concept của album mạch lạc hơn bao giờ hết .

Cuối ca khúc là một đoạn đối thoại khó hiểu. Một gã đàn ông say mèm bò từ quán ruợu về nhà với những vết thâm tím trên người, kết quả của một cuộc ẩu đả ngu ngốc,nức nở trong cơn say rằng mình không sai chút nào cả , hoàn toàn đúng , chỉ hơi say rượu một chút thôi. Một người già ( có thể là bố hoặc mẹ của anh ta ) vừa dỗ dành rằnh anh ta hoàn toàn đúng như dỗ một đứa trẻ oan ức, vừa kiểm tra những vết thương trên người hắn đầy thương xót.( huh huh I was in the right. Yeah absolutely in the right. I was certainly in the right…. You’re definitely right ..). Sự tình là hắn đã say bét nhè ,trong cơn lèm bèm cố tình lao vào một cuộc tụ tập mờ ám của những kẻ mờ ám nào đó trong quán rượu và nhận lấy kết quả là một trận đòn lên bờ xuống ruộng.

US AND THEM

“Chắc chắn là tôi đã không làm gì sai!! ” - Người đàn ông nức nở trong cơn say mèm.
“Tại sao không ai can chúng nó? ” - Người già lo lắng và trách móc hỏi .
“Lúc đó tôi không hiểu trong cái đám đó đứa nào say ( nên không biết giúp con bà như thế nào )” - Một kẻ đi cùng tên say kia về tới nhà .
Đoạn đối thoại kia nối liền Money và Us and them, có thể bạn sẽ thấy nó thật lẩm cẩm chẳng liên quan gì tới album, nhưng đây chính là một mắt xích rất chặt trong concept hoàn hảo này . Từ một vụ ẩu đả nhỏ nhặt trong đội ngũ nghiện ngập, Us and them đột ngột kéo tấm phông màn hiện ra thế giới khổng lồ với muôn ngàn mâu thuẫn khúc mắc từ chiến tranh tới tình trạng ăn xin bên lề xã hội . Hãy theo dõi ba khúc phim cận cảnh :

- Cảnh quay thứ nhất : trên chiến trường, những người lính cuối hàng rên xiết lên khi đồng đội ở hàng trên gục ngã “..he cried as the front rank died” , đó là cái giá của chiến thắng . Máy quay lia sang bộ phận chỉ huy, trong một căn phòng an toàn, viên thống tướng ngồi xuống , vùng đất đó đã chiếm được . Ông ta vạch một đường trên tấm bản đồ tác chiến, biên giới của họ mở rộng thêm một khoảng “the General sat, and the line on the map moved from side to side” . Đoạn nhạc cay đắng này gợi lên một mối liên tưởng chính xác với ca khúc When the Tigers broke free trong siêu phẩm The Wall với phần lời tương đồng kì lạ :” Mảnh dất Anzio chiếm được là sự đánh đổi của vài trăm mạng sống của những tên lính tốt đen thí mạng vô danh, thật chẳng xá gì”. Ta có thể thấy hồi ức ấu thơ về chiến tranh kinh hoàng của Roger Waters, khi cha anh chính là một trong những quân lính tốt đen đã gục ngã trên mảnh đất Anzio năm 1944 trong chiến tranh thế giới II.

- Cảnh quay thứ hai : Tiếp tục của cuộc đối thoại trên đây, người lạ đi cùng cúi xuống nhìn những vết thâm tím của tên say (black and blue ) và nói đủ nhỏ qua kẽ răng : “Tao nói đây, chúng nó có định giết mày đâu, nếu mày tử tế thì chúng nó sẽ không đánh mày nữa .” “I mean they’re not gonna kill ya… so iff you give’em a short sharp shock they wont do it again”.Rồi hắn quay lên nói với người già đang lo lắng kia hăm doạ kín đáo qua lời lẽ: “Nó đã may mắn mà thoát đấy , lẽ ra nó đã ăn một nhát rạch vào cổ , nhưng thay vào dó chỉ bị bạt một cú thôi ..Chỉ là vấn đề quan điểm, ông bà hiểu chứ , biết điều một chút cũng có cái giá của nó” “I think he gets off lightly… good manners don’t cost nothing do they ?”. Kẻ bị ăn đòn hoàn toàn bất lực .

- Cảnh quay thứ ba : Trên một vỉa hè, một người đàn ông già ăn xin hấp hối trong cơn đói, dù chỉ mong một lát bánh, một hớp nước ( a tea and a slice) . Hàng trăm người đi qua ông già, trong đầu bận bịu những dòng chảy suy nghĩ của họ, “I’ve got things on my mind” không mảy may quan tâm . Người đàn ông chết “.The old man died”.

Thông điệp của ba cảnh quay đó : Chúng ta và họ , không khác gì nhau . Viên tướng thắng trận và những tên lính vô danh tiểu tốt bị chết - Kẻ bị đánh và tên mafia - Người ăn xin chết đói và những kẻ no đủ thiếu tình người . Trên một phương diện nào đó khi đứng từ ngoài tập hợp này nhìn vào , tất cả đều giống nhau , đều là nguyên tố cấu thành nên một thế giới khuyết tật . Chúng ta “tưởng” là họ khác nhau , ta khác họ, sai rồi , đó chỉ là quan điểm, chỉ là bị đánh lừa bởi ma trận từ ngữ “war of words” .Tất cả , như nhau, đều là thành viên của một nhân loại đáng nguyền rủa .

Ca khúc nguyên bản được Wright viết cho một ca sĩ khác độ dài lên tới 21 phút với cái tên The Violent Sequence .Khi đứng trong album nó hoàn toàn khác với tiếng Sax của Dick Parry , chất giọng huyền ảo nhẹ nhàng là của Dave và Wright. Trước kia tôi đã nghĩ rằng ca khúc này rất có khả năng không phải của Roger bởi cảm xúc của nó là trăn trở ( giống nhịp điệu cảm xúc trong The Division Bell sau này khi Roger đã rời bỏ nhóm ) , chứ không phải điên loạn như phong cách của Roger , điều này bây giờ tôi khẳng định chắc chắn . Điều này một phần chứng tỏ vai trò không thể thiếu của 1 bất kỳ trong 4 thành viên của bộ tứ huyền thoại này .

ANY COLOR YOU LIKE

Cuộc sống , thời gian , tiền bạc , sự già nua , sự điên loạn ,mâu thuẫn, thờ ơ... thế giới tật nguyền của chúng ta được tạo thành từ những điều đó sao ? Tôi cảm thấy mình là nhân vật của Darkside, lúc nghe những nốt nhạc ngang ngang khó chịu của Any color you like , dường như mình đang bước vào trong lòng một cái ống kính vạn hoa một không gian trong suốt hàng trăm chiều không có lối ra , bước đi một bước lại thấy hàng trăm ánh sáng rọi tới hàng trăm ngả đường mở ra nhưng không có con đường nào đưa được về với thế giới thực tại . Có phải nhân vật của Darkside đã bắt đầu tâm thần phân liệt ở chính tại nơi đây trong cái thế giới hoang tưởng bằng kính này không ? Đằng sau lưng tôi còn có lối thoát là lùi lại đường cũ , nhưng đằng sau lưng hắn thì đã bị bít bằng chính những vật liệu trong suốt điên khùng đó rồi . Tôi dám chắc trong suốt album nếu có đoạn nào của dòng chảy có khả năng làm người nghe tan tác cả lí trí, hồn xiêu phách lạc thì đó một là Any color you like, hai là The Great gig in the sky .

Tôi có một người bạn , đó là người đã đưa tôi đến với thứ nhạc mà tôi đang nghe . Một hôm bạn ấy hỏi tôi đã hút thử cái gì chưa , tôi ngỡ ngàng còn chưa kịp hiểu câu hỏi đó thì nhận được một cái cười nửa thương cảm nửa giễu cợt . Tôi được biết thêm một điều rằng có những người đã dùng cái gì đó như Mary Jane , hay nhẹ hơn là cần sa để bay cùng với Pink hoặc thứ rock 'n roll tung tẩy của Led Zeppelin , và cùng với cảm giác bay bổng hoang đường của ma tuý ,người ta nói rằng : " cứ chịu khó nghe thì đến lúc nhạc dừng lại rồi mình vẫn còn đang bay , đang lơ lửng rơi ". Không giấu rằng có lúc tôi đã thèm thử một chút cần sa , hay ít ra là một vài điếu thuốc lá để nếm trọn cái cảm giác bay bổng và lơ lửng rơi như thế , bởi vì người ta bảo với tôi rằng khi đã thử rồi thì sau đó nghe nhạc không cảm giác cứ như là ăn chay thôi vậy .Cảm giác thèm muốn này có đến với tôi lần nữa khi nghe Comfortably numb , hạnh phúc quá , được chết lịm đi trong ma tuý và rơi thẳng vào quá khứ , tiềm thức , tuổi thơ của mình , được thoáng lắng nghe thoáng chớp lấy những lời tiên đoán mà định mệnh gửi đến cho LINH HỒN , nhưng lại không thể chớp được , 'turned to look but it was gone , I can not put my fingers on it now...The dream is gone ….

Đến đoạn cuối khi âm thanh lắng xuống êm ả và chuyển mạch sang Brain Damage thì cũng là lúc quá trình siêu thoát khỏi thực tế đã hoàn tất. Nhân vật của câu chuyện chính thức bước vào thế giới của những kẻ điên đi lang thang ngớ ngẩn trong bênh viện tâm thần.

Ngoài lề : Đây là bản nhạc hiếm hoi có sự tham gia trọn vẹn của Dave, Nick và Rick hoàn toàn không có sự tham gia của Roger trong thời kì thống trị của thiên tài điên loạn này ở Pink Floyd . Cái tên của nó xuất phát từ một khẩu hiệu quảng cáo của hãng ô tô Ford : “Any color you like so long as its black” . Tên ca khúc khó dịch thấu đáo với sự hàm xúc của nó, chỉ có thể nói nó biểu hiện sự mất liên hệ với thực tại ở mức rất cao .

BRAIN DAMAGE :
Ca khúc hoàn toàn mạch lạc và dễ hiểu nhất trong toàn album. Nó bày ra trước mắt người nghe một khung cảnh bệnh viện tâm thần với những người điên đi thơ thẩn khắp nơi. Kẻ điên trong câu chuyện của chúng ta lúc thì thơ thẩn trên bãi cỏ, lúc thì ngẩn ngơ trên hành lang, cười vu vơ hiu hắt, những trò chơi đờ đẫn , khắp các phòng trong trại điên có những dây xích sắt ngu ngốc để xích những bệnh nhân khi họ lên cơn, những đồ chơi vô hồn kì dị bằng giấy gấp rơi vương vãi mọi nơi, một khung cảnh hoang tàn tang tóc. Qua những gì trong album tôi nghĩ những món đồ chơi bằng giấy đó chỉ là một trong những thứ sau : máy bay giấy, thuyền giấy, xe ngựa giấy, được kẻ điên kia gấp trong những hồi ức thác loạn về những gì đã trải qua trong quá khứ. Hình ảnh kẻ điên trong ca khúc này là cái bóng của Syd Barret, người thủ lĩnh bị bỏ quên của Pink Floyd giờ phút này cũng đang vật lộn với những ảo giác hoảng loạn trong bệnh viện tâm thần , sau này còn tiếp tục ám ảnh trong những album kinh điển của Pink Floyd như Wish you were here hay The Wall.

Ngay giữa khung cảnh thơ thẩn đó, cơn điên của kẻ lạ này đột nhiên bùng phát , như một đập nước vỡ bờ “the dam breaks”, cả quá khứ lẫn những ảo ảnh tương lai đen tối “dark forboding” vần vũ trong đầu óc hắn , những kí ức loé lên như tia sáng loé lên từ lưỡi dao lam “you raise the blade”… khiến bộ não hắn như muốn nổ tung “your head explodes”, sấm chớp giật điên cuồng bên tai hắn và những đám mây mờ mịt trong não bị xé toang… “the cloud bursts, thunders in your ears”. Cảnh tượng đó thật bi thảm, hậu quả của việc con người không thích nghi được với sự cằn cỗi lạnh lẽo của cuộc sống hiện đại tới mức điên loạn , loài người trở thành nạn nhân của chính hệ thống giá trị vô nghĩa mà họ tự tạo ra như tiền bạc, thời gian, guồng đua , đẳng cấp, xung đột …Đỉnh điểm của cơn điên dại là sự mất ý thức về chính mình “there’s someone in my head, but it’s not me”.Tôi nghĩ cảm giác này kinh hoàng cả với những người chứng kiến nó như chúng ta, chứ đừng nói đến bản thân những kẻ phải trải qua nó như tên điên trong concept này. Thứ nhạc của Pink Floyd hoàn toàn xa lạ với sự điên loạn cuồng nộ của metal. Sự giận dữ của nó không được thể hiện bằng những câu solo tru tréo hay nhịp trống dồn vũ bão , cũng không mãnh liệt như muốn đập tan mọi gánh nặng trong lòng. Nó cứ từ từ , ảm đạm , chậm chạp xâm lược tiềm thức người nghe, như lưỡi dao cắt rất ngọt vào tim, tôi thấy cách giết người này tinh vi thâm thuý hơn nhiều so với bạo lực kiểu Metal, bạn thấy mình đang chết dần chết mòn mà không biết mình đã bắt đầu chết từ lúc nào .Cuối cùng khi vũ trụ nổ tung trong cơn điên đó, một câu hát ngơ ngác cô độc hiện ra , gây cú sốc như một lời trăng trối , nhưng đồng thời cũng là một trong những hình ảnh đẹp bất diệt trong nhạc Pink Floyd: :

And if the band you're in starts playing different tunes
I'll see you on the dark side of the moon.

Chào nhé, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở một nơi nào đó ngoài hiện thực . Bề tối của mặt trăng !!!Kết thúc ca khúc là một giọng nam vô cảm :

I can’t think of anything to say, except..."
…"Ha, ha, ha, ha, ha, ha!"…
..I think it's marvelous! Ha, ha, ha!".

Có quá nhiều những câu nói vu vơ những đoạn đối thoại không ăn nhập trong suốt dòng chảy của Darkside . Câu nói vô nghĩa không nhằm vào một cái gì của kẻ điên này , theo tôi là một dạng lảm nhảm. Hãy tưởng tượng hắn ta đang cầm chiếc máy bay bằng giấy ( hoặc cái gì đó ngớ ngẩn tương tự ) , vi vu lượn theo những lộ trình điên khùng trong óc, những động tác vô nghĩa đó đi kèm với những lời nói nhảm . Marvelous có lẽ chỉ sự thích thú ngây dại của hắn với món đồ chơi vô vị trên tay. Trò chơi tiếp diễn với bóng kẻ điên đi xa dần trong tràng cười man dại ,và hắn bị xoá sổ trong thế giới tỉnh táo của loài người .Cái bệnh viện tâm thần trở thành một tinh cầu khép kín, mồ chôn sống những linh hồn trơ trọi, những đồ phế thải của cuộc sống văn minh công nghiệp.

Với tôi, khi đã đi tới chặng đường này của Darkside, tôi cũng không biết nói gì hơn về album và bản thân ca khúc . I can’t think of anything to say, except …. I think it’s marvelous !!!

ECLIPSE :

Hãy nhớ về cái từ "Biến Mất" mà tôi vừa nói ở trên , nếu coi đó là một cái chết ảo , thì Eclipse vừa là lời điếu văn ( nói từ vị trí một người ngoài cuộc ) , vừa là lời trăng trối ( nói với cương vị kẻ sắp bốc hơi kia ).Sau một cuộc sống vất vả để tồn tại , được đúc kết lại bằng một hệ thống động từ khô đọng :All that you touch ----> see -----> taste ------> feel ------>love ------>hate ------>distrust -------> save ------->give----->deal ------>buy, beg, borrow or steal ------->create ------>destroy ----->do ------>say ----> eat ------> meet------>slight -----> fight ---->be now -------> gone ----->come . Hãy nhìn cách cuộc sống được cô lại thành những giọt khô không khốc. Đó , bản chất cuộc sống của chúng ta là như thế, nếu có chút màu mè gì thì có nghĩa là chúng ta đã đặt thêm những trạng từ đuôi -ly trước hoặc sau những động từ đó , và chính những trạng từ đó là thứ làm cho cuộc đời của tôi khác với cuộc đời của bạn , của anh ta.

Khác với cuộc đời của chính kẻ sắp biến mất sau đây .

Sự biến mất này chỉ được nói qua hai câu hát : câu cuối cùng trong Eclipse : " and everything under the sun is in tune but the sun is eclipsed by the moon" và lời đề tựa nổi tiếng : "There is no dark side of the moon really as a matter of fact it's all dark." Đây là một trong những giây phút quan trọng nhất trong thế giới của tôi với Pink Floyd .
Bạn có hiểu đó là gì không ?

Tôi đã từng đọc ở đâu đó rằng bản chất mặt trăng là một hành tinh tối tăm lạnh lẽo , hoang vu không ánh sáng . Tất cả vẻ đẹp , hào quang và ánh sáng tươi tắn của nó đều là do được phản chiếu từ ánh sáng mặt trời . Nói một cách khác , mặt trăng đã ăn cắp ánh sáng từ ánh thái dương và tự tạo cho mình một vẻ đẹp gian dối , lừa đảo tất cả nhân loại từ hàng ngàn năm nay. Như vậy , khi đọc đến câu cuối cùng " the sun is eclipsed by the moon" , tôi cảm thấy thế này : cái hữu danh vô thực chiếm hữu hoàn toàn , xoá tan cái hữu thực , và do đó tự huỷ diệt chính nó . Cái mà trong thực tế hướng vào mắt của mọi người trên trái đất là bề tối của Mặt Trăng ( bề kia có ánh sáng do được mặt trời chiếu vào không quay về phía chúng ta) , nhưng cái bề tối đó đã hoà lẫn vào bóng đêm .Mà trên thực tế như đã nói , dùng từ "Bề Tối" là hoàn toàn không chính xác , bởi mặt trăng không có cả bề sáng lẫn bề tối , tất cả chỉ là Bóng Đêm thôi . As a matter of fact it is ALL DARK .


Phải hiểu bóng đêm đó là gì ? Là Hư vô , Chấm Dứt , Biến Mất . Cái cuộc đời nhiều động từ với các thành phần Money , Time , Brain Damage kia đã đi đến hồi kết . Câu nhạc kết thúc ca khúc vút lên rồi tan biến, ngắn gọn và mẫu mực khó ngờ làm một cú khép góc ngoạn mục cho một album concept hoàn hảo .

Dĩ nhiên theo tôi sau đó , nhân vật này có thể sống tiếp tục , nhưng hoàn toàn là đời sống thực vật , bởi hệ thần kinh của anh ta đã không còn hoạt động nữa rồi .

Điều kinh hoàng nhất bạn còn chưa nhận ra : All that is now..All that is gone . ALL THAT TO COME .Mọi thứ đến, và đi, nhưng rồi “ SẼ ĐẾN NỮA” . Kiếp luân hồi sẽ tiếp tục phần việc của nó, loài người sẽ không bao giờ thoát khỏi bi kịch này.

Kết thúc ca khúc Eclipse lại là tiếng đập của trái tim , giống hệt tiếng đập trong intro của ca khúc đầu tiên Speak to me . Điều này có nghĩa là nếu bạn để chế độ return sau ca khúc cuối cùng thì toàn bộ album biến thành một vòng tròn khép kín .Tôi nghĩ bản thân việc biến mất vào darkside dường như mang ý nghĩa nào đó là một sự hoài thai mới ở không gian tối tăm trong bụng một người mẹ khác của một đứa trẻ khác , khi lớn lên nó cũng sẽ bị time , money ám ảnh và kết cục sẽ trở thành một lunatic , rồi trải qua tình trạng Brain Damage và lại biến mất .Tư tưởng luân hồi đáng sợ này của Roger Waters còn được khắc hoạ rõ ràng hơn trong The Wall.

TTVNOL
 
The Wall - Pink Floyd (part.1)
Có cái The Wall: A Complete Analysis do bạn TheMask dịch và post trên TTVNOL

Pink Floyd's The Wall: A Complete Analysis
Album The Wall của Pink Floyd có lẽ là một trong những album hấp dẫn nhất và sáng tạo nhất trong lịch sử âm nhạc. Được thu âm năm 1979 và dựng thành phim năm 1982, The Wall kể lại câu chuyện về một gã tên là Pink Floyd, đã mất cha trong Thế chiến 2 khi còn rất nhỏ. Được nuôi dạy bởi một bà mẹ quản lý con quá mức, Pink đã có một cuộc sống ảm đạm và tù ngục, cuối cùng sa vào ma tuý. Do hậu quả của ma tuý và những ký ức tăm tối, Pink dần đi tới sự trống rỗng điên loạn. Album bất hủ này lấy cảm hứng từ cuộc đời thật của 2 thành viên của Pink Floyd. Thời thơ ấu của Pink rất giống với Roger Waters, tác giả chính của The Wall. Waters mất cha trong thế chiến 2, đã thổi vào trong album những cảm xúc cô đơn và bị bỏ rơi của chính mình. Cuộc đời lúc trưởng thành của Pink dựa trên cuộc đời của cựu thành viên PF Syd Barett. Sau khi mắc chứng tâm thần do lạm dụng các loại ma tuý tác động thần kinh, Barett đã bị thay thế bởi David Gilmour. Trên nền những cuộc đời thật ấy, Roger Waters, David Gilmour, Nick Mason và Richard Wright đã sáng tạo nên một cuộc phiêu lưu huyền bí và hỗn loạn thám hiểm những ngóc ngách thẳm sâu nhất của tâm hồn người.

When the Tigers Broke Free
Đáng thất vọng là PF đã bỏ bài hát đắng cay này khỏi album, nhưng may thay, nó đã có mặt trong Video ca nhạc. "When the Tigers Broke Free" lấy bối cảnh là thế chiến 2 tại một vùng đất do quân Anh tạm chiếm ở Anzio, Italy. Những con hổ ở đây là ẩn dụ cho xe tăng Đức công phá Anzio, và "few hundred ordinary lives", như trong phần 2 của bài hát nói đến, là những người đàn ông trong đội quân của cha Pink. Trong phim, đầu tiên chúng ta thấy khách sạn nơi Pịnk ở, rồi cảnh chuyển nhanh tới chỗ người đàn ông dưới ánh đèn dầu, hút thuốc và lau súng. Sau đó, chúng ta biết rằng người đàn ông đó là cha của Pink, chuẩn bị đi chiến đấu với quân Đức.

Một điểm đáng chú ý khác là bài hát bắt đầu phm, trước khi vào bài "When The Tigers Broke Free" là bài hát của Vera Lynn có tên: "The Little Boy That Santa Claus Forgot". Lời của bài hát đó như sau: "Christmas comes but once a year for every girl and boy/ The laughter and the joy/ They find in each new toy./ I tell you of the little boy who lives across the way/ This fella's Christmas is just another day...". Lúc này trong phim máy hút bụi bắt đầu làm việc và "When The Tigers Broke Free" bắt đầu. Khi bài hát kết thúc, bài hát của Vera lại cất lên: "He's the little boy that Santa Claus forgot/ And goodness knows, he didn't want a lot./ He sent a note to Santa, what he wanted was a drum/ This broken little heart when he woke and he hadn't come/ In the streets, yes he..."

Lúc này, máy hút bụi một lần nữa cắt ngang tiếng nhạc. Cả Pink và cậu bé trong bài hát của Vera đều được nuôi lớn bằng những điều không thật (tôi ngại không muốn gọi chúng là những điều hoàn toàn dối trá) để rồi chúng sẽ húc đầu vào sự thật, thấy tất cả những lý tưởng mà mình đã được nuôi dạy đều là giả dối (xem Confortably Numb). Để biết thêm về Vera Lynn, xin xem trong phân tích bài hát Vera

"In the Flesh?"
"In the Flesh?" phục vụ cho 2 mục đích trong album này. Thứ nhất, nó thể hiện sự thụ thai Pink và thứ hai, nó tạo ra cái sân khấu cho phần còn lại của câu chuyện, đưa ra một thứ nghệ thuật tương phản giữa một gã Pink "phát xít" và một "cậu bé" Pink. Sự thụ thai không được thể hiện thật rõ trong album, nhưng khi xem phim, tôi tin chắc đó chính là ý nghĩa trước nhất trong bài hát. Trong phim, khi bà giúp việc gõ cửa, cảnh chuyển rất nhanh tới một đám đông người đang xô vào cánh cửa được khoá bằng xích sắt. Tiếp đó, xích sắt bung ra và hàng ngàn thanh niên lao vào.

Điều này hết sức giống với quá trình thụ thai nếu bạn nhìn đám đông thanh niên trai gái đó tượng trưng cho tinh dịch. Cũng trong phim, khi cuộc nổi loạn của đám thanh niên đó diễn ra, cảnh sát tóm lấy và bắt giữ càng nhiều càng tốt, tượng trưng cho chế độ phòng vệ của cơ thể. Ngay cái tên cũng đã gợi tới sự thụ thai. Dấu hỏi ở cuối tên bài hát dẫn tới liên tưởng cơ thể (về mặt vật chất) vẫn chưa hoàn toàn phát triển, vẫn đang trong kỳ thụ thai và quá trình lớn lên của thai nhi. Lời bài hát tự thân nó giống như một lời chỉ dẫn viết cho một đứa bé. Đứa bé muốn tham gia vào "show", tượng trưng cho cuộc sống, để tìm lấy hơi ấm và tình yêu của một đời ngươời. Nhưng người dẫn chuyện đưa ra một câu hỏi tu từ: "Is this not what you expected to see?" hay Cuộc sống chẳng có nhiều niềm vui và hạnh phúc như mày nghĩ đâu có phải không? Câu trả lời đương nhiên là không. Và nếu mày muốn tìm lấy câu trả lời cuộc sống là gì, con người là gì, những gì xung quanh mày, mày chỉ còn cách cào đi lớp vỏ giả dối xung quanh tất cả chúng ta.

Mục tiêu thứ hai của bài hát là báo trước những gì Pink sẽ trở thành, sẽ lao vào, đó là sex, ma tuý và rock&roll. Trong phim, có một cảnh là buổi hoà nhạc của Pink trong đó hắn dẫn dắt một đám đông đeo mặt nạ để tự che mặt mình khỏi thế giới. Hắn mời mọi người hãy cố tìm lấy cái gì đằng sau "cold eyes" của hắn. Những thứ đằng sau mặt nạ ấy là đôi mắt đầy tổn thương, khổ đau và bị ruồng bỏ.

Trong phần cuối bài hát có tiếng máy bay và tiếng thét chói tai "DROP IT ON 'EM!". Đó là cái máy bay dội bom xuống Anzio và giết chết cha của Pink. Chúng ta cũng có thể nghe thấy Pink đang gào lên đòi ánh sáng, hiệu ứng âm thanh, với các hành động cho thấy hắn đang chuẩn bị cho buổi hoà nhạc của mình. Không chỉ thế, nó còn dẫn tới liên tưởng Pink sắp ra đời, như một đạo diễn phim đang cố sắp đặt mọi thứ trước khi cuộn - phim - cuộc - đời bắt đầu. Cái liên tưởng cuộc sống giống như một bộ phim hay buổi hoà nhạc gợi tôi nhớ tới vở "Macbeth" của Shakespeare trong đó Macbeth so sánh sống cũng giống như đóng trò trong một vở kịch. "Đời chỉ là một cái bóng thoáng qua, một thằng hề tội nghiệp. Hò hét quay cuồng trên sân khấu trong giây phút rồi lặng tiếng im hơi, người đời không còn nghe thấy nữa. Đó là một câu chuyện do một thằng ngốc kể, cũng đủ cả hò hét cuồng nộ, nhưng nào có nghĩa gì đâu" (Hồi 5, cảnh 5)

Những ai có đôi tai thính có thể để ý ở phần đầu bài hát, trước khi vang lên, có một đoạn đối thoại bị cắt ngang: "...we came in?".. Bây giờ, nếu bạn nghe "Outside the Wall" bạn sẽ nhận thấy ngay trước khi nhạc kết thúc, có một đoạn đối thoại ngắn khác: "Isn't this where...". Để hai mẩu này vào cạnh nhau, ta có: "Isn't this where we came in?" Tại sao? Bạn nên tự hỏi phải chăng đây là đoạn đối thoại ngẫu nhiên lạc vào? Không phải. Theo cái nhìn luân hồi của Waters, câu chuyện The Wall không phải chỉ về một thế hệ, về những đứa trẻ của Thế chiến 2, mà là về tất cả mọi người. Vào cuối bộ phim, những cậu bé đi gom góp các viên gạch, có lẽ để lại tự xây những bức tường cho mình. Những tiếng nói ngắn ngủi ấy cho thấy Pink không phải là người đầu tiên, cũng chẳng phải người cuối cùng xây lên bức tường. Các thế hệ trước hắn và sau hắn đều làm như thế. Vòng quay cứ thế quay mãi.

The Thin Ice

Bài hát này bắt đầu bằng tiếng trẻ con khóc, có thể đoán là cậu bé Pink, và trong phim, ta thấy hình ảnh bàn tay của cha cậu buông thõng xuống khỏi chiếc điện thoại trong boongke nơi ông gọi cứu viện. Nhiều hình ảnh chiến tranh khác tràn ngập bài hát, có lẽ để thể hiện sự trong trắng trẻ thơ nhanh chóng mất đi trong "modern life" này. Đây là lần thứ nhất ta thấy biểu tượng màu xanh da trời. Màu xanh da trời là màu lạnh, thuần khiết thường dùng để tượng trưng cho sự trong trắng cũng như nỗi thất vọng. Thật thú vị khi Pink được mẹ goi là Baby Blue, vừa thể hiện sự trong trắng trẻ thơ, vừa tiên đoán những thất vọng và nỗi buồn sẽ tới trong đời Pink. Rồi tiếng hát tha thiết khẩn khoản cho hy vọng và mơ ước chấm dứt, và hiện thực chát chúa lên tiếng, so sánh cuộc đời với làn băng mỏng. Nó cảnh cáo nếu Pink muốn tiếp tục sống, tiếp tục "go skating on the thin ice of modern life" thì đừng ngạc nhiên khi "crack in the ice", những hố thẳm dưới chân sẽ nuốt chửng cuộc đời cũng như sự sáng suốt của cậu.

Another Brick In The Wall (Part I)

"Another Brick In The Wall (Part I)" là bài hát mở đầu cho ẩn dụ The Wall. Bức tường ở đây là bức tường tinh thần người ta xây lên để chặn lại những hỗn loạn và bất an của thế giới. Nó cũng là một cái giới hạn ngăn không cho ai đến quá gần vì khi một người không có bức tường nào bao quanh bảo vệ, người đó sẽ vô cùng dễ bị tổn thương. Trong phần đầu ảm đạm của bộ ba "Brick In The Wall", cậu bé Pink nhắc lại rằng cha cậu đã chết, đã bay "across the ocean" vì chiến tranh. Tất cả những gì cha để lại chỉ là ký ức, những tấm hình trong quyển album. Trong bài hát này, lần đầu tiên Pink phô bày những đắng cay cậu cảm thấy về người cha đã ra đi vì cuộc chiến, chẳng để lại gì ngoài ký ức. "Daddy, what d'ya leave behind for me?"

Cái chết của người cha khiến Pink thấy được cái khắc nghiệt của hiện thực mà cậu không ưa. Bởi cậu sợ những gì cậu thấy, cho nên Pink bắt đầu xây bức tường để tự bảo vệ mình khỏi bị tổn thương thêm. Phần này trong phim hết sức buồn. Lúc này, Pink đi theo mẹ tới sân chơi và mẹ để cậu lại đó. Cậu quan sát những đứa trẻ khác chơi với cha của chúng và nhận thấy chẳng có người cha nào chơi với cậu. Pink đến chỗ cha của một đứa trẻ khác đang chơi đu quay và đề nghị ông giúp chơi cùng. Khi ông ta quay đu quay cho cậu, mặt cậu ngời lên sung sướng, cậu tìm thấy hình ảnh của cha mình. Nhưng niềm vui không kéo dài vì người đ àn ông đưa con mình đi khỏi, bỏ lại Pink. Pink đi theo và cố nắm tay người đ àn ông nhưng bị ông xua đi, hỏi cha cậu đâu. Pink thất vọng thơ thẩn đến chỗ chơi đu, nhìn những người cha khác đẩy đu cho con họ chơi. Cậu cũng trèo lên một cái đu, nắm lấy dây treo và cố tự mình đẩy cái đu. Trong phim, đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn thấy Pink, và là lần đầu tiên Pink chạm mặt với sự thực là câu không có cha, một cú sốc rõ ràng đã mở ra sự trống rỗng trong lòng cậu.

When the Tigers Broke Free, part 2

Đây là phần 2 của bài hát mở đầu phim. Trong phần này, Pink tìm thấy một bức thư trong ngăn kéo chứa đồ lưu niệm. Bức thư do Đức Vua gửi cho mẹ cậu, nói về cái chết của cha. Pink đọc thấy trong đó rằng Công ty Royal Fusiliers Company C nơi cha cậu làm việc (và là nơi trên thực tế cha của Rog er Waters đã từng làm việc) đã bị san phẳng trong một ngày mùa đông, và tất cả mọi người nếu chưa chết thì cũng đang hấp hối. Trong bài hát này, với cái cách Waters hát 2 câu cuối, mang đầy sự cay đắng về cái Chính phủ đã lấy mất cha. Trong phim, Pink mặc quân phục của cha mình, và tự ngắm mình trong gương, rồi những đoạn phim nhanh và ma quái chuyển từ cậu bé Pink mặc quân phục sang người cha cũng mặc quân phục như thế. Nó cho thấy thế hệ mới đã tiếp bước thế hệ trước như thế nào, thừa kế mọi nỗi đau của thế hệ trước, kể cả chiến tranh. Nó cho thấy mối liên hệ cha-con, một mối liên hệ có ảnh hưởng rất nặng nề trong phần sau của album (phim). Mẹ của Pink đã mất chồng, vì thế bà đã lấy con mình để bù đắp sự trống rỗng trong lòng, đã bảo vệ nó khỏi mọi thứ mà bà cho là tệ hại. Trừ khía cạnh tình dục, Pink trở thành chính cha mình, trở thành cái ý nghĩa duy nhất trong cuộc sống của mẹ cậu (trong lĩnh vực tinh thần).

Goodbye Blue Sky

Trong album, bài hát này ở dưới 3 bài hát nữa, sau "Mothers", nhưng trong phim nó xuất hiện ở đây. Tôi nói về nó trước vì tôi thích vị trí sau "When Tigers Broke Free (Part II)" vì nó tiếp tục chủ đề nỗi đau và tàn phá gây nên bởi chiến tranh được bắt đầu với "Tigers". Bài hát này cho thấy những gì chiến tranh gây nên, như sự hoảng loạn dưới mưa bom, hay lý do tại sao người ta phải chạy đến tìm nơi nương náu trong một "brave, new world". Câu hát tổng kết cả bài này là: "The flames are all long gone but the pain lingers on". Mặc dù chiến tranh đã đi qua, nhưng những ký ức đau thương và nỗi đau vẫn còn lại, như sự thất vọng của Pink về người cha đã ra đi. Trong bài hát này, ta lại gặp lại biểu tượng xanh da trời. "Blue sky" đại diện cho sự trong trắng, do vậy với "Goodbye Blue Sky", Pink đã nói lời từ giã với sự trong trắng của chính mình, đồng thời thế giới cũng đoạn tuyệt với sự trong trắng của nó sau khi bị chiến tranh hãm hiếp. Máy bay chiến tranh bay trên các miền đất, ném xuống các thứ rác rưởi, làm nên những bóng ma hoảng loạn trên các chiến trường. Phần hay nhất của đoạn hoạt hình này là khi lá cờ sọc của nước Anh rơi xuống, phô ra Thập giá trên đó máu của Kitô chảy xuống. Điều này gợi lên sự cứu chuộc để trả lại tính thuần khiết cho thế giới sau bao nhiêu tội lỗi. Tuy nhiên máu chảy xuống cống, cho thấy mặc dầu mọi giá trị đạt được sau chiến tranh, mọi cuộc chiến vẫn chỉ là sự hoài phí những cuộc đời một cách vô nghĩa đến không thể tin được.Sự cứu chuộc bị phung phí cho những người không hề cần đến nó.

Trong một bài phỏng vấn, Roger Waters nói rằng "Goodbye Blue Sky" là bài hát về Pink đã "leaving home to go out on his own". Nói cách khác, Pink nói lời từ biệt với sự trong trắng.

The Happiest Days Of Our Lives
"The Happiest Days Of Our Lives" một bài hát thực sự chua chát, cùng với "Another Brick In The Wall (Part II)" chép lại những ngày đi học của Pink tại một ngôi trường Anh tởm lợm. Trong phim ngay trước khi bài hát bắt đầu, Pink cùng bạn bè đang đi nhặt đạn trên đường sắt. Khi con tàu chạy qua, Pink trốn trong đường hầm và nhìn các toa xe theo nhau chạy qua, trong đó nhét đầy những con người không có mặt trân trối nhìn cậu. Tôi nghĩ đây chỉ là ảo giác của Pink, mặc dù cũng là một phần quan trọng. Thứ nhất, nó tiếp nối chủ đề chiến tranh, so sánh những đứa trẻ không có mặt trong toa tàu với những người Do thái "không có mặt" được đưa hàng loạt vào trại tập trung của Đức trong Thế chiến 2. Thứ hai, nó so sánh các học sinh đến trường (cũng không có mặt trong "Another Brick In The Wall part 2) với những người Do Thái bị ngược đãi. Học sinh nước Anh tất nhiên không phải chịu, dù chỉ một phần nhỏ, những hành hạ mà những người Do Thái đã trải qua, nhưng trong tâm trí Pink, cả hai đều đại diện cho sự đàn áp cá nhân. Trong bài hát, Pink nói về những ông thầy man rợ thuộc cái hệ thống luôn "hurt the children any way they could" bằng cách phô bày những yếu kém của học trò và nhạo báng chúng. Nhưng, như Pink nói, ai cũng biết rằng khi các ông thầy đó trở về nhà mỗi tối, các bà vợ của họ cũng trừng phạt họ như họ đã làm với học sinh. Trong phim, thầy giáo của Pink đã vớ được bài thơ Pink viết trong giờ học (nói thêm cho những ai chưa biết, bài thơ này chính là lời bài hát Money của PF). Và vì đã viết bài thơ đó, một cách biểu lộ bản thân, cố gắng trở thành một cá nhân riêng biệt, Pink bị thoá mạ trước lớp và nhận mấy roi vào tay. Đoạn phim tiếp theo tôi thấy rất nhộn. Chính ông thầy đó, khi trở về nhà ăn tối với vợ, hình như đã cắn phải cái gì đó cứng trong miếng thịt và ông ta nhè nó ra khỏi miệng. Bà vợ thấy thế (chú ý: bà ta không béo nhưng cử chỉ của bà ta hết sức dềnh dàng) và nhìn chằm chằm vào thứ ông chồng vừa mới nhè ra, ông chồng vội vã nuốt lại ngay miếng thịt cứng. Tôi thấy đoạn phim này rất tuyệt, với những đoạn cắt phim đuổi nhau liên tục từ ông thầy quất roi vào mông học sinh sang ông thầy nuốt lại miếng thịt trong bữa tối sang ông thầy quất roi... Nó cho thấy những gì bạn bắt người khác chịu, đến lượt bạn cũng phải chịu. Nó nhấn mạnh thêm niềm tin vào nhân quả của Waters.

Another Brick In The Wall (Part II)
Đây là phần 2 và cũng là phần nổi tiếng nhất trong bộ ba " Brick in the Wall". Phần 2 tiếp tục khắc hoạ những ngày đi học của Pink ở Anh đã được bắt đầu với "The Happiest Days Of Our Lives". Trái với sự ngộ nhân của nhiều người, bài hát này Không phải là lời kêu gọi huỷ bỏ giáo dục hay bất cứ cái gì khác bằng cách bạo động. Nó nói về chủ nghĩa cá nhân. Khi những đứa trẻ hát "We don't need no education", chúng không nói về giáo dục nói chung, mà về cái cách giáo dục chúng đã nhận được trong cuộc đời chúng. Chúng không cần những ông thầy bảo chúng phải nghĩ gì, không cần đến những kiểm soát tư tưởng; chúng không cần những lời chế diễu khi phạm lỗi, "No dark sarcasm in the classroom".

Tư tưởng cơ bản của nó là các thầy giáo cứ dạy học đi nhưng đừng đồng hoá học sinh thành những phiên bản rập khuôn. Điều này thấy rất rõ trong phim, khi những đứa trẻ diễu hành đi trên gác xuống mang những cái mặt nạ giống nhau, từng bước chân rập khuôn nhau. Chúng không hề có đặc điểm cá nhân nào... chúng đi không hề nhìn thấy gì hết và ngã vào tai hoạ, cái máy xay thịt nằm cuối con đường. Trong phim, một cuộc bạo loạn đã nổ ra chống lại sự đồng hoá của các thầy giáo (chứ không phải chống lại trường học hay giáo dục). Vì các ông thầy đó, Pink đã đặt thêm một viên gạch lên bức tường của cậu.

Brad Kaye có viết cho tôi rằng "khi đám học trò hát đồng ca 'We don't need no education' cùng một giọng, chính điều đó, một cách nào đó, cũng là sự đồng hoá còn cao hơn sự đồng hoá gây ra bởi cái nền giáo dục mà chúng căm thù". Để trả lời cho điều này, Roger Waters đã nói: thậm chí trong một cuộc bạo loạn chống lại sự đồng hoá cũng có những kẻ theo chủ nghĩa đồng hoá. Ý tưởng của Roger Waters hết sức rõ ràng: sự đồng hoá là vô cùng mạnh mẽ, kể cả khi chúng ta còn nhỏ, kể cả khi chúng ta nổi loạn.

Một trong những đoạn hay nhất trong phim là câu nói ở giữa bài hát: "If you don't eat your meat, you can't have any pudding." Đây là một thứ cưỡng hiếp tinh thần mà các thiết chế gây nên cho cá nhân. Tất nhiên Pink chẳng báu tự gì cái món "pudding" mà thiết chế cho rằng mọi người đều cần, và tất nhiên cậu cũng chẳng muốn "eat the meat" để có nó. Đó lại là những dây trói phản - cá nhân tiếp tục chủ đề "đồng hoá hoặc bị nguyền rủa" xuyên suốt album.

Trong bài hát, ta thấy những cây búa trong cỗ máy nghiền nát lũ trẻ. Búa cũng là một biểu tượng chính trong phim. Chúng là biểu tượng của 2 thứ: Quyền lực tàn bạo và sự đồng hoá không thương xót. Trong bài hát, những cây búa là một phần của cái cỗ máy ép buộc sự đồng hoá trong lũ trẻ. Trong một số bài hát về sau, ví dụ như "Waiting for the Warms", những cây búa mang tính chất quân sự nhiều hơn. Scot Kalar có ý kiến rằng những cây búa là một trong số ít những công cụ đồng thời có cả bản chất xây dựng và phá hoại. Nếu nhìn theo cách này, Pink không chỉ dùng búa để xây tường, mà còn dùng chúng để phá đổ bức tường,
The Wall - Pink Floyd (part.2)
Mother

"Mother" là bài hát Pink nói về mối liên hệ mẹ - con với bà mẹ chăm chút con một cách quá đáng. Bài hát trong album rất xuất sắc nhưng bài hát trong phim theo ý tôi là hay hơn. Trong phim, nhạc được chơi bởi một cái gì đó giống như hộp nhạc chứ không phải guitar thùng. Âm thanh của hộp nhạc khiến bài hát nghe trẻ thơ và trong trẻo hơn, ăn ý tuyệt vời với giọng hát chua chat của bà mẹ.

Bài hát bắt đầu với những ý nghĩ của Pink về chiến tranh, bắt nguồn từ cái chết của cha.
Sau đó Pink tự hỏi "chúng" (tức là xã hội, thế giới) có thích bài hát của cậu không hay sẽ cố hành hạ cậu. Cậu hỏi mẹ là cậu có nên xây một bức tường không. Hay khi lớn lên, cậu có nên chạy đua làm một tổng thống chăng? Đây không phải là 1 câu hỏi theo nghĩa đen. Nó cho thấy Pink cũng có những ao ước và hy vọng. Sau khi tự hỏi cậu có nên tin tưởng và chính phủ không hay họ sẽ sỉ nhục cậu, lời bài hát tiếp theo có 3 phiên bản. Phiên bản trong album, Pink hỏi: "Is it just a waste of time?". "It" ở đây ám chỉ cuộc sống. Trong phim, Pink hát: "Am I really dying?". Đoạn phim lúc này là khi Pink còn nhỏ và bị ốm nặng gần chết. Căn bệnh của cậu sẽ được nói đến về sau trong "Comfortably Numb". Nó nói đến sự ám ảnh của Pink đối với cái chết, rằng mọi người đều phải chết như cha cậu. Phiên bản thứ 3 là trong 1 buổi hoà nhạc của PF, Pink hát "What a crazy time" ám chỉ những sự kiện đã xảy ra, như Thế chiến 2 và cuộc sống nói chung.

Tiếp theo đó mẹ của Pink bắt đầu hát, qua đó chúng ta thấy bà bảo vệ con một cách quá đáng, nhưng bà có lý do để làm vậy. Bà đã mất chồng trong chiến tranh và không muốn "baby blue" của bà bị tổn thương. Hình ảnh của bà đối với tôi giống như một người loạn thần kinh. "Mama's gonna make all of your nightmares come true, Mama's gonna put all of her fears into you." Một cách vô thức, bà đã truyền tất cả nỗi sợ hãi và đức tin của bà cho đứa con trong khi vẫn tưởng rằng mình đang giúp nó tránh những đau đớn của cuộc đời. Ở đây ta thấy lý thuyết tâm lý học của Chủ nghĩa hành vi, theo đó một người đã học được sự sợ hãi do quan sát những người khác. Trong trường hợp này, Pink đã trở nên yếu ớt và nản chí chủ yếu là vì cậu đã ở bên một bà mẹ như thế. Nó cũng thể hiện thuyết Tâm lý - động học của Sigmund Freud. Bà mẹ đã sử dụng một cơ chế tự bảo vệ (xung chiếu) để bảo vệ chính mình khỏi đau đớn. Một cách vô thức, bà đã chiếu những sợ hãi của mình lên đứa con. Có thể có người cho rằng bà đã đẩy sự bảo vệ lên một mức quá đáng. Bà đã cố giấu đi sự yếu đuổi của mình bằng cách trở thành một bà mẹ che chắn và âu yếm quá mức của Pink. Ở phần này ta có câu trả lời cho câu hỏi của Pink ở phần trước: Tất nhiên, Mama sẽ giúp xây lên bức tường. Bà đã giúp bằng cách cổ vũ con xây lên bức tường, cố giữ con tránh xa hiện thực. Bà còn giúp một cách không tự giác bởi chính bà là một viên gạch trong cuộc đời Pink. Trong phim ở đây, trong tiếng guitar solo, Pink hồi tưởng lại đám cưới của mình và ngay trước khi vào phần 2 của bài hát, chúng ta thấy một phần cuộc sống vợ chồng của Pink. Gã ngồi trước cây đàn piano và cô vợ đi vào. Cô cố thu hút sự chú ý của gã và cuối cùng khi gã quay sang, gã nhìn cô với cặp mắt lơ đãng. Nó cho thấy vết rạn nứt giữa hai người, sẽ trở thành vực thẳm chôn vùi cuộc hôn nhân của họ.

Trong phần hai của bài hát, Pink đã lớn hơn phần một. Gã đã có bồ, thậm chí đã cưới vợ. Những câu hỏi của Pink liên quan đến cô gái của hắn. Hắn hỏi mẹ liệu cô bạn gái (cô vợ) có đủ tốt với hắn chăng, hay cô ấy nguy hiểm đối với hắn, hay cô ấy sẽ thống trị hắn, hay cô ấy sẽ làm trái tim hắn tan nát.Ở phần này, Mẹ trả lời những câu hỏi liên quan đến cô gái ấy. Một lần nữa, ta thấy bà bảo vệ con (một cách loạn thần kinh) đến mức nào. Bà sẽ "check out all your girlfriends for you", bà sẽ không để một thứ "dirty" nào đến gần con, bà sẽ đợi con về mỗi đêm và sẽ tìm ra con dù con ở bất kỳ nơi nào. Những câu sau cho thấy dù chuyện gì xảy ra, Pink mãi mãi là "baby blue" của bà, trong mắt bà gã luôn luôn là 1 đứa bé cần được theo dõi, nâng niu và bảo vệ. "You'll always be baby to me.". Câu cuối cùng của Pink là: "Mother did it need to be so high?" "It" ở đây chỉ bức tường. Bài hát kết thúc vào cái ngày Pink bỏ nhà (mẹ) đi và nói: "mẹ, con biết con cần một bức tường, nhưng nó có cần cao đến nỗi con không thể ra khỏi đó khi con cần không?"

Trong phim, bài hát kết thúc với cuộc nói chuyện điện thoại. Pink, đang du lịch ở Mỹ, cố gọi điện về cho vợ ở Anh nhưng khi đó bà vợ đang ở cùng một thằng cha khác. Khi người trực tổng đài gọi đến nhà Pink, thằng cha kia nhấc máy và khi biết Pink đang cố liên lạc với vợ, hắn dập máy. Người trực tổng đại gọi một lần nữa nhưng 1 lần nữa gã kia dập máy. Khi đó Pink hiểu rằng vợ mình đã có người khác. Ý thức về điều này là ý tưởng cơ bản của "Empty Spaces".

"What Shall We Do Now?"

Bài hát này chỉ có mặt trong phim và được minh hoạ bằng một đoạn hoạt hình đồ sộ miêu tả bức tường nghiền nát mọi thứ trên con đường của nó. Nó là một lời bình luận cho cái cách chúng ta chấp nhận sự suy đồi đạo đức và sự lên ngôi của chủ nghĩa vật chất trong cuộc sống hàng ngày. Nó cho thấy chúng ta đã dùng vật chất để xây dựng bức tường ngăn chúng ta với người khác như thế nào. Tôi đặc biệt ưa thích 2 câu cuối: "But never relax at all, With our backs to the wall." Nó cho thấy chúng ta tự ép mình vào những đồ vật nhỏ nhặt, vào những bứt tường chật hẹp (giấc mơ con đè nát cuộc đời con). Thay cho việc tìm một con đường để thoát khỏi bức tường, chúng ta nhẫn nhục và thất bại, thờ ơ với mọi người, chỉ nghĩ đến một mình mình trong khi ngồi dựa lưng vào bức tường.

Empty Spaces

Trong giây phút Pink phát hiện ra mình bị vợ phản bội và trở nên ủ ê (mặc dù thực ra điều này chẳn phải là một cú shock lớn lắm nếu ta nhìn vào sự thờ ơ thường trực của Pink đối với vợ). Trong bài hát này, Pink mường tượng ra mình đang hỏi vợ: chúng ta có thể làm gì đây? Câu quan trọng nhất trong bài hát ngắn này là: "How should I complete the wall?". Điều này cho thấy bức tường của Pink sắp xây xong rồi, và một khi nó hoàn thành, Pink sẽ hoàn toàn bị tách rời khỏi thế giới thực tại.
Khoảng trống được nói tới trong bài hát không chỉ là những khoảng trống giữa Pink và vợ hắn mà còn là những khoảng trống chưa được lấp đầy trên bức tường của hắn. Đầu tiên, Empty Space dự định được đặt trước "Another Brick In The Wall part III". Ở vị trí này, ý nghĩa Khoảng trống được nhấn mạnh hơn vì trong bài này Pink đang hỏi nên lấy cái gì để lấp đầy những lỗ hổng trên bức tường đây? Khi đó "Another Brick In The Wall part III" đập vào, gào lên câu trả lời: "All in all it was all just bricks in the wall/ All in all you were all just bricks in the wall."

Nếu bạn nghe Empty Space quay ngược, bạn sẽ thấy một bất ngờ. (1 đoạn quay ngược của phần đầu bài hát chơi ngược có thể tìm ở site gốc của cái analysis này. Nhưng nói thật với các bác là em căng hết cả tai mà chả nghe ra cái gì cả!) Bạn sẽ nghe thấy Roger Waters nói "Chúc mừng. Mày đã tìm ra thông điệp bí mật. Hãy gửi câu trả lời cho Pink cũ đang được chăm nom ở một cái funny farm". Một người thứ 2 nói: "Roger, Carolyn gọi điện cho mày". Phải chăng là một trò đùa của Waters? Hẳn không chỉ là một trò đùa. "Empty Spaces" là một bài hát chuyển tiếp. Nó đánh dấu thời điểm Pink mất liên hệ với hiện thực và mất luôn sự tỉnh táo. Theo thông điệp này, Pink ngày xưa đã bị nhốt vào bệnh viên tâm thần (trong tâm trí) và một Pink mới, Pink phát xít đã xuất hiện. Carolyn là tên vợ của Roger. Roger đã luôn nói nếu không vì Carolyn, hẳn ông đã phát điên giống như Pink.

Young Lust
"Young Lust" cho thấy một bữa tiệc sau hậu trường được tổ chức sau buổi hoà nhạc của Pink. Trong bài hát, và trong phim, một đám nữ cổ động viên ào vào bữa tiệc và một trong số đó may mắn được theo Pink đi về khách sạn. Có thể Pink đã làm chuyện này để trả đũa bà vợ phản bội. Mặc dù trong một thời gian, tôi đã nghĩ rằng bài hát này là một cảnh hồi tưởng, nhưng đến giờ thì tôi khá tin đây là tiếp nối của hiện tại. Tôi nghĩ đây là cảnh hồi tưởng vì trong một số bài hát như bài này chẳng hạn, phòng của Pink nằm trong một toà cao ốc, trong khi trong cac bài hát khác, nó lại có vẻ nằm ở tầng 1 vì có bể bơi bên ngoài. Cuối cùng tôi thấy rằng trong nhiều khách sạn hạng sang, như những khách sạn mà một ngôi sao nhạc rock ở, bể bơi có thể nằm ngay ngoài ban công cho dù nó có ở tầng cao mấy đi chăng nữa. Vì thế, trong "One Of My Turns" tiếp nối bài này, máu từ vết đứt tay của Pink loang ra trong bể bơi.

One Of My Turns

"One Of My Turns" nói về Pink và cô cổ động viên trong "Young Lust" mà hắn mang về khách sạn. Ta có thể thấy trong phim, cũng như nghe thấy trong album, Pink ngồi trên ghế xem một bộ phim cũ về chiến tranh, có lẽ đã nhắc hắn nhớ lại người cha đã chết, trong khi cô gái đi lượn trong phòng và ca ngợi mọi thứ cô ta nhìn thấy. Phần đầu êm dịu và đơn giản như thể Pink đang dịu dàng hát một bản ballad. Lời ca của "One Of My Turns" dường như dành cho vợ hắn, nói về tình yêu của họ đã trở nên đen tối và đi đến tan vỡ ra sao. Tôi tin rằng những lời này cũng đúng cho tình yêu nói chung, nó nói về sự mong manh, dễ thay đổi và chóng già cỗi của tình yêu. Pink nhắc lại hắn cảm thấy cô đơn và căng thẳng "chật chội như một cái băng garô". Trong phim, ta thấy cái băng garô trên tay Pink, dưới đó là những vết kim tiêm cho thấy Pink đã dùng ma tuý.

Nhưng bài hát không đơn giản và êm ả đ ược lâu. Pink dột ngột trở nên hung bạo và bắt đầu đập phá căn phòng trong khi trịch thượng hỏi cô gái cổ động viên những câu hỏi kiểu: "Would you like to watch T.V., or get between the sheets, or contemplate the silent freeways, would you like something to eat?". Sự bùng nổ này ở Pink giống như núi lửa phun, nhưng đây không phải là lần đầu. Lời ca cho biết "This is just a passing phase, one of my bad days." Dường như Pink đã nhiều lần lâm vào tình trạng này, nhưng không may là cô gái hâm mộ không nhìn thấy trước khuynh hướng hung bạo của hắn.

Bộ phim Pink ngồi xem cũng là một điều thú vị. Đó là phim "The Dambusters", một bộ phim chiến tranh cũ dựa trên cuộc đời thật của Barnes Wallis, cái gã đã thiết kế bom khí (em không hiểu lắm về bom đạn không biết dịch có đúng không, nguyên là bouncing bomb). Những quả bom này được ném xuống các hồ chứa nước của Đức quốc xã. Sau khi rơi xuống nước, chúng nổi lên mặt nước rồi chìm dần xuống chân đập chắn nước và phát nổ, phá bung toàn bộ đập chắn khiến nước dâng ngập cả thung lũng, dìm ngập nhiều nhà máy khiến phần lớn hệ thống sản xuất thép phục vụ chiến tranh của nước Đức phải ngưng hoạt động. Đó là một bộ phim chiến tranh về những Bức Tường bị phá huỷ.


Don't Leave Me Now
"Don't Leave Me Now" là bài hát trong đó Pink tự tưởng tượng ra cuộc nói chuyện với co vợ ngoại tình, van xin cô ở lại. Hắn cố nhắc cô nhớ những ngày tháng tươi đẹp họ đã có, những điều tốt lành hắn đã mang lại: "Remember the flowers I sent, I need you, Babe". Nhưng sự uỷ mị này của hắn nhanh chóng thay đổi, hắn nói thêm: "To put through the shredder, In front of my friends" và "To beat to a pulp on a Saturday night". Nhìn vào quan hệ của họ, ta thấy trong đó không có nhiều tình yêu cho dù những tổn thương mà Pink nói là có thật (những tổn thương đó có lẽ là sự phóng đại của tâm trí bệnh hoạn của Pink, mô tả những tình cảm yêu/hận đối với người đàn bà hắn nghĩ đã từng yêu. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều đã biết những tình cảm trái ngược này do tình yêu mang lại).

Dường như không phải Pink đánh đập vợ, mà vì hắn cảm thấy đau khổ, do vậy, hắn cố làm mình bình tĩnh lại bằng cách tưởng tượng ra việc hắn đang đánh đập cái người làm hắn đau khổ. Cuối cùng Pink đặt ra một câu hỏi: "Why are you running away?". Không phải là running away theo nghĩa đen, mà là tại sao cô lại bỏ hắn để đi theo người đàn ông khác, running away trên phương diện tình cảm, cho dù chính Pink mới là kẻ đã "running away" suốt cuộc đời. Điều này cho thấy Pink hoàn toàn thiếu khả năng hoà nhập vào xã hội và vào mọi mối quan hệ. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên về việc cô vợ phải đi tìm tình yêu ở một nơi khác vì cô đã không thể có được nó từ chồng mình. Sự tan vỡ của họ lại là một viên gạch nữa, do chính Pink tự đặt lên.

Brick In The Wall part III
Phần 3 của bộ ba "Brick In The Wall" là bài hát yêu thích của tôi. Lúc này, bức tường đã gần như hoàn thành. Bài hát này chứa đựng sự giận dữ, nỗi sợ, sự ân hận,... tất cả những cảm xúc của các bài hát khác trong album, và cuốn chúng theo một giai điệu mãnh liệt. Trong bài hát, Pink phủ nhận thế giới, gào lên rằng hắn không cần sự giúp đỡ của bất cứ ai hay bất cứ cái gì vì hắn thừa biết cuộc sống thực là như thế nào. Hắn đã thấy "the writing on the wall". Một khác biệt đáng chú ý trong lời ca là thay cho nói đây là một viên gạch đơn độc như trong 2 phần trước, phần ba tuyên bố mọi thứ đều là gạch trong bức tường. Nó gợi lên rằng không phải như các bài hát trước nói về bức tường đang được xây, bức tường đã hoàn chỉnh hơn rất nhiều với bài hát thứ 3 này. Các viên gạch đã xếp vào chỗ của chúng. Trong phim, ta thấy những đoạn cắt trong cuộc đời Pink quện lại trong hỗn loạn. Cuộc sống cũng tương tự như sự hỗn loạn vì giống như sự hỗn loạn, cuộc sống là không thể kiểm soát, nằm ngoài khả năng kiềm chế của con người.

Goodbye Cruel World
Lời ca có thể khiến người ta nghĩ đến sự tự sát, tuy nhiên đây không phải là ý nghĩa thực của bài hát (cho dù nó đã có mặt trong Top 100 những bài hát khiến bạn tự sát (mở thêm 1 cái ngoặc nữa: có bác nào biết cái Top 100 này không, trong đó có những bài nào nữa, bảo em mới)). Pink không từ giã thế giới độc ác bằng cái chết mà bằng cách ẩn dật sau bức tường của hắn. Tôi thích nhất đoạn cuối của bài hát. Sau tiếng "Goodbye" cuối cùng, bài hát đột ngột chấm dứt, không giống như bài "Outside the Wall" cuối CD2, âm nhạc còn tiếp tục chơi sau khi Pink ngừng hát. Sự chấm dứt độc ngột cho thấy quyết tâm của Pink xa rời thế giới, trốn vào cái nơi không ai có thể tìm được hắn, sau bức tường. "Goodbye Cruel World" là cái kết tuyệt diệu cho phần 1 của album và phim. Trong phim ta thấy Pink đang tìm lấy một kẽ hở, một lối đi xuyên qua bức tường khổng lồ của hắn, như thể hắn đột nhiên nhận ra hắn đã làm một điều ngu ngốc to lớn đến chừng nào.

Hết CD 1
The Wall - Pink Floyd (part.3)
Hey You

"Hey You", một bài hát nổi tiếng trong The Wall không may đã không có mặt trong phim. Đó là một lời cầu van của Pink khi hắn nhận ra rằng bị tách rời khỏi thế giới chẳng phải là một điều hay ho như hắn từng nghĩ. Trong bài hát, Pink kêu cứu, mong ai đó có thể nghe thấy hắn qua bức tường. Bài hát cũng giống như một lời khuyên những ai đang xây bức tường: "Don't help them to bury the light/ don't give in without a fight." Nó cũng là một lời cầu xin người nào bên ngoài bức tường hãy giúp hắn ra khỏi đấy, cầu xin người nào bên ngoài bức tường đừng giúp "chúng" dập đi ngọn lửa vẫn còn đang cháy trong hắn. Rồi Pink tiếp tục cầu xin người ta giúp hắn mang hòn đá đi, cái gánh nặng hắn phải chịu trong suốt cuộc đời, suốt thời gian xây bức tường.

Sau tiếng guitar solo, một giọng hát khác, có lẽ là giọng của hiện thực, cất lên. Nó nói rằng cái chuyện Pink tưởng sẽ có ai đó giúp hắn chỉ là "only fantasy" vì bức tường của hắn quá cao và quá dày rồi. Chẳng có lối đi nào xuyên qua đó. "No matter how he tried he could not break free". Có đấu tranh đến đâu chăng nữa, Pink cũng không thể tự giải phóng mình khỏi những rào cản khổng lồ mà hắn đã tự hăm hở xây nên. "And the worms ate into his brain." Lời hát này nói tới ẩn dụ con giun (worms). Giun theo ý nghĩa truyền thống, đại diện cho 2 thứ: thứ nhất, đó là cái chết và sự thối rữa. Và thứ hai. Đó là Tri thức. Những con giun đã ăn ruỗng trí óc Pink, cho thấy sự thoái hoá và thối rữa của trí óc thông thường, biến hắn thành kẻ loạn thần kinh. Nó cho thấy sự thay đổi (một kiểu phục sinh..., mặc dù trong trường hợp này phục sinh không phải là cái gì tốt lành) sau cái chết. Còn biểu tượng của tri thức: giun là tri thức về cuộc đời thực mà Pink đã học được trong những năm thơ ấu khiến hắn phải dựng lên bức tường. Mỗi lần hắn tự tách rời mình khỏi thế giới, hắn lại thấy những gì đằng sau bức tường chẳng thú vị như hắn nghĩ. Giun ăn ruỗng óc hắn là tri thức thực sự về thế giới: mặc dù bức tường cũng có chỗ dùng được để giúp hắn chống chọi với những lúc khó khăn, nhưng nó quá nguy hiểm nếu hắn dùng một bức tường kín mít chắn hết cả những điều cả xấu lẫn tốt của cuộc đời.

Sau tiếng hát tàn nhẫn của hiện thực, Pink lại cất tiếng hát, nhưng không còn kêu gọi ai đó "feel" hay "touch" hắn nữa, hắn đã ý thức được tình trạng của mình và cầu xin ai đó "help". hắn. Trong câu cuối, "Together we stand, divided we fall" Pink nhận ra rằng hắn đã lầm. Hắn nhận ra rằng dù đôi khi làm hại nhau, nhưng người ta vẫn cần đến nhau. Và khi một người muốn tách rời những người khác, chắc chắn người đó sẽ gục ngã.

Is There Anybody Out There?

Bài hát này có lẽ là bài khó phân tích nhất :). Nó chỉ có duy nhất một câu, "Is There Anybody Out There?", lời cầu xin của tù nhân Pink, mong có ai đó bên ngoài bức tường nghe thấy. Trong phim, Pink đấm đá bức tường, cố thoát ra, nhưng như "Hey you" đã nói: "It was only fantasy/ The wall was too high as you can see./ No matter how he tried he could not break free...". Sau khi tiếng hát đầy ám ảnh chấm dứt, guitar leads bắt vào. Theo tôi, đây là đoạn hay nhất trong "The Wall" và là đoạn nhạc hay nhất trong lịch sử thu âm

Cái thứ Pink dựng lên trong phòng khách sạn của hắn vẫn là một điều bí ẩn. Trong một cuộc phỏng vấn, Roger Waters nói "Is There Anybody Out There?" chỉ là một tinh cầu khép kín tạo nên một khoảng không cô độc, như chủ đề chính trong "Hey You" và "Nobody Home". Nhiều người cho rằng trong đoạn phim này Pink đã dựng lên một mô hình doanh trại quân đội với các boongke. Tuy nhiên, tôi cho rằng cái thứ Pink đã xây trong không phải cái gì cụ thể, mà là một cái gì đó (tuỳ theo chứng loạn thần kinh của hắn) cho thấy hắn cần sống một cuộc sống ngăn nắp và trật tự. Bạn có nhớ cái hỗn loạn kinh khủng trong phần đầu của "Don't leave me now" không?

Cái ngăn nắp trật tự đau đớn ấy cho thấy trạng thái mong manh dễ vỡ của Pink. Đấy lon Coca đi vài xăngtimét, đổi chỗ cái đàn guitar, dường như là những hành động khùng điên đối với bất cứ ai, nhưng đối với Pink, những điều đó không chỉ cần thiết mà còn tối quan trọng để mọi thứ trở lại trật tự hoàn hảo. Bill Romanelli cho rằng "việc xây cái boongke hay cái gì đó từ những mảnh vụn trong căn phòng là cách thể hiện cuối cùng của tinh thần sáng tạo và tính chất cá nhân của hắn, và cả cho sự tỉnh táo của hắn, trước khi đầu hàng và biến mất sau bức tường của điên loạn. Tôi nghĩ cái hắn xây chính là tượng đài cho tinh thần sáng tạo và nhân tính của hắn".

Nobody Home
Có lẽ không có gì nhiều để nói về bài này. Hầu như mọi thứ đều đã được thể hiện trong lời ca... Không có những ẩn dụ. Chỉ có một câu nhiều người có thể đặt câu hỏi là "those swollen hand blues." Tại sao Pink lại có đôi tay sưng phồng? Có một cách giải thích, đôi tay sưng phồng là hậu quả việc tiêm heroin kéo dài dẫn đến chứng phù nề. Đôi tay sưng phồng cũng có thể gợi nhắc đến căn bệnh của Pink thời thơ ấu, được nói tới trong bài "Comfortably numb", khi đó đôi tay của cậu bé "felt just like two balloons." Suy nghĩ của Pink đi từ những gì hắn có sang những nỗi đau khổ, về bà vợ ngoại tình "When I try to get through,/ on the telephone to you,/ there will be nobody home." Rõ ràng là hắn có thử bao nhiêu lần đi chăng nữa, cũng sẽ chẳng bao giờ có ai trả lời, bởi cô vợ biết rằng hắn đã phát hiện ra chuyện phản bội của cô. Trong bài hát này, hết sức giản dị, qua giọng hát của Roger Waters.ta thấy được rất nhiều đau khổ và thương thân .

Một cách giải thích khác của Jeremy Daneils: "Đây là bài hát ưa thích của tôi vì nó sâu sắc hơn là người ta nhận thấy. Nó nói lên rằng, trên nhiều phương diện, cái kẻ dường như có tất cả thì chẳng có gì cả. Pink là một siêu sao, hắn giàu sang, quyền thế, nhiều ma tuý và sex hơn mức hắn có thể kham nổi. Hắn có tất cả các thứ đó, và hắn có cả ý thức rằng chúng chả là cái gì. Hắn thoái lui, cố tìm lấy một tình yêu thuần khiết không mang màu sắc tình dục mà hắn từng có thời trẻ thơ trước khi hắn thành "Pink Floyd". Nobody Home là một ẩn dụ về sự bế tắc trong cuộc sống vợ chồng. Pink cảm thấy đáng ra hắn đã có thể có hạnh phúc nếu hắn không tự cô lập mình khỏi người vợ".

Vera
Trước tiên phải nói một chút về Vera. Vera Lynn là một ca sĩ trong Thế chiến 2 rất được quân đội Âu châu ưa thích, đặc biệt là ở Anh. Một trong những bài hát của cô là "We'll Meet Again" được nhắc lại trong "Vera": "Remember how she said that we would meet again some sunny day". Bài hát này là một hồi ức thơ ấu của Pink nhưng mục đích chính của nó là khởi đầu chủ đề chiến tranh sẽ được tiếp tục trong "Bring The Boys Back Home."

Dưới đây là một vài thông tin khác về Vera Lynn: tên thật là Vera Margaret Lewis sinh năm 1917 và trở thành ca sĩ ở Anh, đặc biệt nổi tiếng trong Thế chiến 2. Lời của "We'll Meet Again" như sau: "We'll meet again/ Don't know where/ Don't know when/ But I know we'll meet again some sunny day. / Keep smilin' through/ Just like you always do/ 'Till the blue skies drive the dark clouds far away. / So will you please say hello/ To the folks that I know/ Tell them that it won't be long./ They'll be happy to know/ That as you saw me go/ I was singing this song. / We'll meet again/ Don't know where/ Don't know when/ But I know we'll meet again some sunny day."

Bring The Boys Back Home
"Bring The Boys Back Home" là sự tiếp nối chủ đề chiến tranh. Trong phim, mọi người đứng ở ga xe lửa và hát khi gặp lại những người trong gia đình còn sống sót trở về sau Thế chiến 2. Cậu bé Pink, mặc dù có lẽ đã biết rằng cha đã chết, vẫn cứ cố hy vọng ông còn sống và cố đi tìm ông trên sân ga. Trong bài hát, những người dân thường cầu van rằng tất cả những người lính sẽ trở về.

Comfortably Numb

Comfortably Numb là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của PF trong The Wall. Mê man vì ma tuý và hồi ức, Pink được ông bầu tìm thấy trong phòng khách sạn và bị lôi đến buổi trình diễn của hắn. Tiếng hát (Roger Waters) trong đoạn 1 và đoạn 2 là của ông bầu hay của bác sĩ, nhưng bác sĩ thì có vẻ có lý hơn. Lão bác sĩ này cố làm hồi tỉnh Pink, cố làm hắn cử động, hỏi hắn xem hắn còn nhận biết được gì không, kiểu như "Hello, is there anybody in there?/ Just nod if you can hear me./ Is there anyone home?". Câu hỏi của cái người cố tìm Pink, cố lay tỉnh Pink "is there anybody in there?" giống như một câu trả lời cho câu hỏi Pink đã hỏi trong đoạn trước: "Is there anybody out there?"

Lão bác sĩ sau đó bảo Pink lão sẽ làm giảm sự đau đớn của hắn nếu hắn có thể nói cho lão biết hắn đau ở đâu. Hay nhất trong đoạn này là tiếng hát của Waters, vang vọng âm âm như sóng biển, như thể vẳng đến trong giấc mơ, thật sự giống như một tiếng gọi xuyên qua sương mù, qua hỗn mang của trí óc Pink. Vào lúc này, Pink (David Gilmour) cất tiếng hát, nói rằng hắn chẳng hề thấy đau đớn và tiếng nói của bác sĩ đang dần nhoà đi. Như thể Pink rơi vào hồi ức, hắn thấy những hình ảnh của tuổi thơ "A distant ship['s] smoke on the horizon." và tiếng nói của bác sĩ "only coming through in waves". Hắn có thể thấy hình như bác sĩ đang nói, nhưng chẳng thể nhận thức nổi là lão đang nói gì. Tiép đó Pink lại rơi thẳng xuống những kỷ niệm thơ ấu. Hắn nói về cơn sốt thuở bé, căn bệnh mà trong phim, ở bài hát Mother, khiến cậu bé Pink tự hỏi: "Am I really dying?". Rồi hắn miêu tả căn bệnh "My hands felt just like two balloons." Lúc đó hắn cảm thấy mình sưng lên và bồn chồn. Bây giờ hắn cũng cảm thấy như thế (hậu quả của ma tuý) và bác sĩ không thể hiểu nổi. "I have become comfortably numb." Pink đã bị tê liệt bởi sự đau đớn thể xác và đau đớn do các kỷ niệm đang vây quanh hắn mang lại. Ma tuý đã khiến hắn tê liệt về thể chất, và bức tường mà hắn dựng lên đã khiến hắn tê liệt trước mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong phim, ở đoạn điệp khúc của bài hát, Pink tìm thấy một con chuột đồng và mang nó về nhà. Bà mẹ phát hoảng và bắt cậu bé vứt nó đi. Pink mang con chuột vào nhà kho để nó trên một cái nệm cỏ khô. Sau đó, khi Pink quay lại thì con chuột đã chết. Pink xách đuôi con chuột lẳng nó xuống sông. Có thể nhiều người sẽ hỏi tại sao lại có cái cảnh với con chuột chả dính dáng gì đến câu chuyện ở đây? Tôi nghĩ cảnh này cho thấy căn bệnh đã suýt giết chết Pink thuở nhỏ đã ảnh hưởng đến hắn đến mức nào. Nó cũng cho thấy cái khía cạnh trắc ẩn ở Pink, điều mà chúng ta không thấy nữa khi hắn lớn lên. Cảnh này cũng có thể giải thích bởi lý thuyết tâm lý - động học của Freud. Con chuột tượng trưng cho chính Pink Một cách vô thức, hắn gán cho cái sinh vật bé nhỏ ấy MỌI CẢM XÚC mà hắn từng cảm thấy, đặc biệt là những cảm xúc từ cái chết của cha. Hắn đã học được từ bà mẹ rằng biểu lộ những cảm xúc ấy là tội lỗi (bà mẹ từ chối con chuột, khiến Pink phải giấu nó trong nhà kho). Khi con chuột bị chết, một phần của Pink cũng chết theo. Hắn thấy cuộc sống không đẹp đẽ và tươi vui, trái lại nó đầy chết chóc và thất vọng, Thế thì hắn làm gì với những cảm xúc ấy? Hắn vứt bỏ chúng, như vứt con chuột chết, xuống dòng nước ngầu bùn. Các nhà phân tâm học cho rằng nước (đặc biệt là trong giấc mơ) tượng trưng cho vô thức. Như thế, khi Pink vứt con chuột xuống nước, hắn đã THỰC SỰ đẩy những cảm xúc của hắn vào vô thức, một cách tự bảo vệ mà người ta gọi là sự ức chế.

Thật đáng ngạc nhiên về số lượng email tôi nhận được về con chuột! Dưới đây là thêm một vài cách giải thích khác: Marco cho rằng con chuột là "một dạng ảo ảnh bị bóp méo, một thứ để hắn trút hy vọng của hắn vào đó. Hắn đã mang nó cho mẹ hắn, người vùi dập con vật bé nhỏ. Rồi Pink tìm thấy nó chết, tất cả hy vọng của hắn tan vỡ và bị ném xuống sông". Con sông, theo tôi, là biểu tượng chính của vô thức, vậy thì giải thích theo Marco nghĩa là những hy vọng tan vỡ và ảo tưởng của hắn đã bị tống vào vô thức. Chúng bị dồn nén cho đến khi chúng bùng nổ ra một cách mãnh liệt nhất. Allen Myers cho rằng con chuột là một biểu tượng về Pink. Khi Pink tìm thấy con chuột, nó ốm yếu và hắn chăm sóc nó. Tuy nhiên khi Pink ốm, mẹ hắn gọi bác sĩ rồi để hắn lại một mình trong bóng tối.
Trong đoạn 2, bác sĩ bắt đầu nói chuyện với Pink dang hôn mê. Lão tiêm cho Pink một mũi để giảm đau, nhưng cái mũi tiêm này có vẻ không những không làm giảm đau mà làm hắn đau thêm. Chắc bạn nhớ tiếng thét của Pink sau mũi tiêm. Tôi đồ rằng cái thứ thuốc đó là Narcan, một chất chống thuốc phiện (opiate antagonist) thường được tiêm cho những người lạm dụng heroin phải đi cấp cứu. Nó cắt cơn phê của họ rất nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu người ta đang đau đớn vì các hoang tưởng (bức tường, chứng tự kỷ) thì chẳng giúp gì được. Sau đó lão bác sĩ lôi Pink đứng dậy, xem mũi tiêm đã ổn chưa. "That'll keep you going through the show." Thông thường, "the show" là ẩn dụ của cuộc sống, nhưng trong đoạn này, tôi nghĩ nó đơn thuần là buổi trình diễn của Pink.

Pink tiếp tục bài hát, vẫn chìm đắm trong hoài niệm. "When I was a child I caught a fleeting glimpse/ Out of the corner of my eye." Trong chớp mắt ấy hắn nhìn thấy cái gì? Thật khó biết. Tôi cho rằng trong thoáng chốc hắn đã thấy được bức tường và ảnh hưởng của nó trên cuộc đời hắn. Nó cũng giống như một dạng xuất thần: hắn nhìn thấy bức tranh khổng lồ về thế giới trong mọi mối tương quan của nó. Dường như nó ngụ ý trong giây phút ấy, lần đầu tiên Pink nhìn thấy thế giới không hề đẹp đẽ tươi vui. Mới là đứa trẻ, hắn đã dự cảm thấy cuộc đời là khắc nghiệt và tàn nhẫn (rất giống như tiếng hát cảnh báo trong "The Thin Ice").

Một giải thích khác của Casey thì cho rằng trong chớp mắt ấy hắn thấy lại tuổi thơ và hắn tưởng như tìm lại được người cha. Hắn vẫn hy vọng ông còn sống. Sau đó, hắn lớn lên, cuối cùng chấp nhận sự thật là người cha đã chết. Khi còn là đứa trẻ, trong chớp mắt hắn thấy được hiện thực cuộc sống và cái chết đen tối. "The child is grown,/ the dream is gone." Cậu bé Pink trong trắng lớn lên và những giấc mơ, những hy vọng tan biến.

Còn Bill Romanelli thì cho rằng trong chớp mắt ấy hắn nhìn thấy cuộc sống, thế giới không có bức tường. Mọi người trên thế giới trong giây phút nào đó đều mong được trở lại tuổi nhỏ thơ ngây, để có thể nhìn lại cuộc đời bằng đôi mắt trẻ thơ. Tất cả chúng ta, khi còn là đứa trẻ, đều đó có cái chớp mắt như thế. Nhưng chỉ thoáng chốc thôi, bởi sự trong trắng trẻ thơ chỉ kéo dài cho đến khi chúng ta 3 hay 4 tuổi, và một vài người trong chúng ta thậm chí đã ý thức đầy đủ về bản thân trước khi tròn 2 tuổi. Điều đó có nghĩa là chỉ có 2 năm của cuộc đời (chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi) chúng ta sống yên ổn, được chăm nom và không lo nghĩ. Chúng ta không bị loạn trí bởi vật chất, cái tôi và những thứ tương tự. Chúng ta tin tưởng tất cả mọi người, tin tuyệt đối. Và rồi thời gian đó qua đi. Đứa trẻ lớn lên, giấc mơ (về một thế giới không có bức tường nào) qua đi.

Trong phim, có những đoạn nhanh quay Pink bị mặc quần áo và lôi đến buổi trình diễn, đi qua một hàng dài những người như cha, thầy giáo, bác sĩ, lính tráng và tất cả những thứ góp phần xây nên bức tường của hắn.
The Wall - Pink Floyd (part.3)
Hey You

"Hey You", một bài hát nổi tiếng trong The Wall không may đã không có mặt trong phim. Đó là một lời cầu van của Pink khi hắn nhận ra rằng bị tách rời khỏi thế giới chẳng phải là một điều hay ho như hắn từng nghĩ. Trong bài hát, Pink kêu cứu, mong ai đó có thể nghe thấy hắn qua bức tường. Bài hát cũng giống như một lời khuyên những ai đang xây bức tường: "Don't help them to bury the light/ don't give in without a fight." Nó cũng là một lời cầu xin người nào bên ngoài bức tường hãy giúp hắn ra khỏi đấy, cầu xin người nào bên ngoài bức tường đừng giúp "chúng" dập đi ngọn lửa vẫn còn đang cháy trong hắn. Rồi Pink tiếp tục cầu xin người ta giúp hắn mang hòn đá đi, cái gánh nặng hắn phải chịu trong suốt cuộc đời, suốt thời gian xây bức tường.

Sau tiếng guitar solo, một giọng hát khác, có lẽ là giọng của hiện thực, cất lên. Nó nói rằng cái chuyện Pink tưởng sẽ có ai đó giúp hắn chỉ là "only fantasy" vì bức tường của hắn quá cao và quá dày rồi. Chẳng có lối đi nào xuyên qua đó. "No matter how he tried he could not break free". Có đấu tranh đến đâu chăng nữa, Pink cũng không thể tự giải phóng mình khỏi những rào cản khổng lồ mà hắn đã tự hăm hở xây nên. "And the worms ate into his brain." Lời hát này nói tới ẩn dụ con giun (worms). Giun theo ý nghĩa truyền thống, đại diện cho 2 thứ: thứ nhất, đó là cái chết và sự thối rữa. Và thứ hai. Đó là Tri thức. Những con giun đã ăn ruỗng trí óc Pink, cho thấy sự thoái hoá và thối rữa của trí óc thông thường, biến hắn thành kẻ loạn thần kinh. Nó cho thấy sự thay đổi (một kiểu phục sinh..., mặc dù trong trường hợp này phục sinh không phải là cái gì tốt lành) sau cái chết. Còn biểu tượng của tri thức: giun là tri thức về cuộc đời thực mà Pink đã học được trong những năm thơ ấu khiến hắn phải dựng lên bức tường. Mỗi lần hắn tự tách rời mình khỏi thế giới, hắn lại thấy những gì đằng sau bức tường chẳng thú vị như hắn nghĩ. Giun ăn ruỗng óc hắn là tri thức thực sự về thế giới: mặc dù bức tường cũng có chỗ dùng được để giúp hắn chống chọi với những lúc khó khăn, nhưng nó quá nguy hiểm nếu hắn dùng một bức tường kín mít chắn hết cả những điều cả xấu lẫn tốt của cuộc đời.

Sau tiếng hát tàn nhẫn của hiện thực, Pink lại cất tiếng hát, nhưng không còn kêu gọi ai đó "feel" hay "touch" hắn nữa, hắn đã ý thức được tình trạng của mình và cầu xin ai đó "help". hắn. Trong câu cuối, "Together we stand, divided we fall" Pink nhận ra rằng hắn đã lầm. Hắn nhận ra rằng dù đôi khi làm hại nhau, nhưng người ta vẫn cần đến nhau. Và khi một người muốn tách rời những người khác, chắc chắn người đó sẽ gục ngã.

Is There Anybody Out There?

Bài hát này có lẽ là bài khó phân tích nhất :). Nó chỉ có duy nhất một câu, "Is There Anybody Out There?", lời cầu xin của tù nhân Pink, mong có ai đó bên ngoài bức tường nghe thấy. Trong phim, Pink đấm đá bức tường, cố thoát ra, nhưng như "Hey you" đã nói: "It was only fantasy/ The wall was too high as you can see./ No matter how he tried he could not break free...". Sau khi tiếng hát đầy ám ảnh chấm dứt, guitar leads bắt vào. Theo tôi, đây là đoạn hay nhất trong "The Wall" và là đoạn nhạc hay nhất trong lịch sử thu âm

Cái thứ Pink dựng lên trong phòng khách sạn của hắn vẫn là một điều bí ẩn. Trong một cuộc phỏng vấn, Roger Waters nói "Is There Anybody Out There?" chỉ là một tinh cầu khép kín tạo nên một khoảng không cô độc, như chủ đề chính trong "Hey You" và "Nobody Home". Nhiều người cho rằng trong đoạn phim này Pink đã dựng lên một mô hình doanh trại quân đội với các boongke. Tuy nhiên, tôi cho rằng cái thứ Pink đã xây trong không phải cái gì cụ thể, mà là một cái gì đó (tuỳ theo chứng loạn thần kinh của hắn) cho thấy hắn cần sống một cuộc sống ngăn nắp và trật tự. Bạn có nhớ cái hỗn loạn kinh khủng trong phần đầu của "Don't leave me now" không?

Cái ngăn nắp trật tự đau đớn ấy cho thấy trạng thái mong manh dễ vỡ của Pink. Đấy lon Coca đi vài xăngtimét, đổi chỗ cái đàn guitar, dường như là những hành động khùng điên đối với bất cứ ai, nhưng đối với Pink, những điều đó không chỉ cần thiết mà còn tối quan trọng để mọi thứ trở lại trật tự hoàn hảo. Bill Romanelli cho rằng "việc xây cái boongke hay cái gì đó từ những mảnh vụn trong căn phòng là cách thể hiện cuối cùng của tinh thần sáng tạo và tính chất cá nhân của hắn, và cả cho sự tỉnh táo của hắn, trước khi đầu hàng và biến mất sau bức tường của điên loạn. Tôi nghĩ cái hắn xây chính là tượng đài cho tinh thần sáng tạo và nhân tính của hắn".

Nobody Home
Có lẽ không có gì nhiều để nói về bài này. Hầu như mọi thứ đều đã được thể hiện trong lời ca... Không có những ẩn dụ. Chỉ có một câu nhiều người có thể đặt câu hỏi là "those swollen hand blues." Tại sao Pink lại có đôi tay sưng phồng? Có một cách giải thích, đôi tay sưng phồng là hậu quả việc tiêm heroin kéo dài dẫn đến chứng phù nề. Đôi tay sưng phồng cũng có thể gợi nhắc đến căn bệnh của Pink thời thơ ấu, được nói tới trong bài "Comfortably numb", khi đó đôi tay của cậu bé "felt just like two balloons." Suy nghĩ của Pink đi từ những gì hắn có sang những nỗi đau khổ, về bà vợ ngoại tình "When I try to get through,/ on the telephone to you,/ there will be nobody home." Rõ ràng là hắn có thử bao nhiêu lần đi chăng nữa, cũng sẽ chẳng bao giờ có ai trả lời, bởi cô vợ biết rằng hắn đã phát hiện ra chuyện phản bội của cô. Trong bài hát này, hết sức giản dị, qua giọng hát của Roger Waters.ta thấy được rất nhiều đau khổ và thương thân .

Một cách giải thích khác của Jeremy Daneils: "Đây là bài hát ưa thích của tôi vì nó sâu sắc hơn là người ta nhận thấy. Nó nói lên rằng, trên nhiều phương diện, cái kẻ dường như có tất cả thì chẳng có gì cả. Pink là một siêu sao, hắn giàu sang, quyền thế, nhiều ma tuý và sex hơn mức hắn có thể kham nổi. Hắn có tất cả các thứ đó, và hắn có cả ý thức rằng chúng chả là cái gì. Hắn thoái lui, cố tìm lấy một tình yêu thuần khiết không mang màu sắc tình dục mà hắn từng có thời trẻ thơ trước khi hắn thành "Pink Floyd". Nobody Home là một ẩn dụ về sự bế tắc trong cuộc sống vợ chồng. Pink cảm thấy đáng ra hắn đã có thể có hạnh phúc nếu hắn không tự cô lập mình khỏi người vợ".

Vera
Trước tiên phải nói một chút về Vera. Vera Lynn là một ca sĩ trong Thế chiến 2 rất được quân đội Âu châu ưa thích, đặc biệt là ở Anh. Một trong những bài hát của cô là "We'll Meet Again" được nhắc lại trong "Vera": "Remember how she said that we would meet again some sunny day". Bài hát này là một hồi ức thơ ấu của Pink nhưng mục đích chính của nó là khởi đầu chủ đề chiến tranh sẽ được tiếp tục trong "Bring The Boys Back Home."

Dưới đây là một vài thông tin khác về Vera Lynn: tên thật là Vera Margaret Lewis sinh năm 1917 và trở thành ca sĩ ở Anh, đặc biệt nổi tiếng trong Thế chiến 2. Lời của "We'll Meet Again" như sau: "We'll meet again/ Don't know where/ Don't know when/ But I know we'll meet again some sunny day. / Keep smilin' through/ Just like you always do/ 'Till the blue skies drive the dark clouds far away. / So will you please say hello/ To the folks that I know/ Tell them that it won't be long./ They'll be happy to know/ That as you saw me go/ I was singing this song. / We'll meet again/ Don't know where/ Don't know when/ But I know we'll meet again some sunny day."

Bring The Boys Back Home
"Bring The Boys Back Home" là sự tiếp nối chủ đề chiến tranh. Trong phim, mọi người đứng ở ga xe lửa và hát khi gặp lại những người trong gia đình còn sống sót trở về sau Thế chiến 2. Cậu bé Pink, mặc dù có lẽ đã biết rằng cha đã chết, vẫn cứ cố hy vọng ông còn sống và cố đi tìm ông trên sân ga. Trong bài hát, những người dân thường cầu van rằng tất cả những người lính sẽ trở về.

Comfortably Numb

Comfortably Numb là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của PF trong The Wall. Mê man vì ma tuý và hồi ức, Pink được ông bầu tìm thấy trong phòng khách sạn và bị lôi đến buổi trình diễn của hắn. Tiếng hát (Roger Waters) trong đoạn 1 và đoạn 2 là của ông bầu hay của bác sĩ, nhưng bác sĩ thì có vẻ có lý hơn. Lão bác sĩ này cố làm hồi tỉnh Pink, cố làm hắn cử động, hỏi hắn xem hắn còn nhận biết được gì không, kiểu như "Hello, is there anybody in there?/ Just nod if you can hear me./ Is there anyone home?". Câu hỏi của cái người cố tìm Pink, cố lay tỉnh Pink "is there anybody in there?" giống như một câu trả lời cho câu hỏi Pink đã hỏi trong đoạn trước: "Is there anybody out there?"

Lão bác sĩ sau đó bảo Pink lão sẽ làm giảm sự đau đớn của hắn nếu hắn có thể nói cho lão biết hắn đau ở đâu. Hay nhất trong đoạn này là tiếng hát của Waters, vang vọng âm âm như sóng biển, như thể vẳng đến trong giấc mơ, thật sự giống như một tiếng gọi xuyên qua sương mù, qua hỗn mang của trí óc Pink. Vào lúc này, Pink (David Gilmour) cất tiếng hát, nói rằng hắn chẳng hề thấy đau đớn và tiếng nói của bác sĩ đang dần nhoà đi. Như thể Pink rơi vào hồi ức, hắn thấy những hình ảnh của tuổi thơ "A distant ship['s] smoke on the horizon." và tiếng nói của bác sĩ "only coming through in waves". Hắn có thể thấy hình như bác sĩ đang nói, nhưng chẳng thể nhận thức nổi là lão đang nói gì. Tiép đó Pink lại rơi thẳng xuống những kỷ niệm thơ ấu. Hắn nói về cơn sốt thuở bé, căn bệnh mà trong phim, ở bài hát Mother, khiến cậu bé Pink tự hỏi: "Am I really dying?". Rồi hắn miêu tả căn bệnh "My hands felt just like two balloons." Lúc đó hắn cảm thấy mình sưng lên và bồn chồn. Bây giờ hắn cũng cảm thấy như thế (hậu quả của ma tuý) và bác sĩ không thể hiểu nổi. "I have become comfortably numb." Pink đã bị tê liệt bởi sự đau đớn thể xác và đau đớn do các kỷ niệm đang vây quanh hắn mang lại. Ma tuý đã khiến hắn tê liệt về thể chất, và bức tường mà hắn dựng lên đã khiến hắn tê liệt trước mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong phim, ở đoạn điệp khúc của bài hát, Pink tìm thấy một con chuột đồng và mang nó về nhà. Bà mẹ phát hoảng và bắt cậu bé vứt nó đi. Pink mang con chuột vào nhà kho để nó trên một cái nệm cỏ khô. Sau đó, khi Pink quay lại thì con chuột đã chết. Pink xách đuôi con chuột lẳng nó xuống sông. Có thể nhiều người sẽ hỏi tại sao lại có cái cảnh với con chuột chả dính dáng gì đến câu chuyện ở đây? Tôi nghĩ cảnh này cho thấy căn bệnh đã suýt giết chết Pink thuở nhỏ đã ảnh hưởng đến hắn đến mức nào. Nó cũng cho thấy cái khía cạnh trắc ẩn ở Pink, điều mà chúng ta không thấy nữa khi hắn lớn lên. Cảnh này cũng có thể giải thích bởi lý thuyết tâm lý - động học của Freud. Con chuột tượng trưng cho chính Pink Một cách vô thức, hắn gán cho cái sinh vật bé nhỏ ấy MỌI CẢM XÚC mà hắn từng cảm thấy, đặc biệt là những cảm xúc từ cái chết của cha. Hắn đã học được từ bà mẹ rằng biểu lộ những cảm xúc ấy là tội lỗi (bà mẹ từ chối con chuột, khiến Pink phải giấu nó trong nhà kho). Khi con chuột bị chết, một phần của Pink cũng chết theo. Hắn thấy cuộc sống không đẹp đẽ và tươi vui, trái lại nó đầy chết chóc và thất vọng, Thế thì hắn làm gì với những cảm xúc ấy? Hắn vứt bỏ chúng, như vứt con chuột chết, xuống dòng nước ngầu bùn. Các nhà phân tâm học cho rằng nước (đặc biệt là trong giấc mơ) tượng trưng cho vô thức. Như thế, khi Pink vứt con chuột xuống nước, hắn đã THỰC SỰ đẩy những cảm xúc của hắn vào vô thức, một cách tự bảo vệ mà người ta gọi là sự ức chế.

Thật đáng ngạc nhiên về số lượng email tôi nhận được về con chuột! Dưới đây là thêm một vài cách giải thích khác: Marco cho rằng con chuột là "một dạng ảo ảnh bị bóp méo, một thứ để hắn trút hy vọng của hắn vào đó. Hắn đã mang nó cho mẹ hắn, người vùi dập con vật bé nhỏ. Rồi Pink tìm thấy nó chết, tất cả hy vọng của hắn tan vỡ và bị ném xuống sông". Con sông, theo tôi, là biểu tượng chính của vô thức, vậy thì giải thích theo Marco nghĩa là những hy vọng tan vỡ và ảo tưởng của hắn đã bị tống vào vô thức. Chúng bị dồn nén cho đến khi chúng bùng nổ ra một cách mãnh liệt nhất. Allen Myers cho rằng con chuột là một biểu tượng về Pink. Khi Pink tìm thấy con chuột, nó ốm yếu và hắn chăm sóc nó. Tuy nhiên khi Pink ốm, mẹ hắn gọi bác sĩ rồi để hắn lại một mình trong bóng tối.
Trong đoạn 2, bác sĩ bắt đầu nói chuyện với Pink dang hôn mê. Lão tiêm cho Pink một mũi để giảm đau, nhưng cái mũi tiêm này có vẻ không những không làm giảm đau mà làm hắn đau thêm. Chắc bạn nhớ tiếng thét của Pink sau mũi tiêm. Tôi đồ rằng cái thứ thuốc đó là Narcan, một chất chống thuốc phiện (opiate antagonist) thường được tiêm cho những người lạm dụng heroin phải đi cấp cứu. Nó cắt cơn phê của họ rất nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu người ta đang đau đớn vì các hoang tưởng (bức tường, chứng tự kỷ) thì chẳng giúp gì được. Sau đó lão bác sĩ lôi Pink đứng dậy, xem mũi tiêm đã ổn chưa. "That'll keep you going through the show." Thông thường, "the show" là ẩn dụ của cuộc sống, nhưng trong đoạn này, tôi nghĩ nó đơn thuần là buổi trình diễn của Pink.

Pink tiếp tục bài hát, vẫn chìm đắm trong hoài niệm. "When I was a child I caught a fleeting glimpse/ Out of the corner of my eye." Trong chớp mắt ấy hắn nhìn thấy cái gì? Thật khó biết. Tôi cho rằng trong thoáng chốc hắn đã thấy được bức tường và ảnh hưởng của nó trên cuộc đời hắn. Nó cũng giống như một dạng xuất thần: hắn nhìn thấy bức tranh khổng lồ về thế giới trong mọi mối tương quan của nó. Dường như nó ngụ ý trong giây phút ấy, lần đầu tiên Pink nhìn thấy thế giới không hề đẹp đẽ tươi vui. Mới là đứa trẻ, hắn đã dự cảm thấy cuộc đời là khắc nghiệt và tàn nhẫn (rất giống như tiếng hát cảnh báo trong "The Thin Ice").

Một giải thích khác của Casey thì cho rằng trong chớp mắt ấy hắn thấy lại tuổi thơ và hắn tưởng như tìm lại được người cha. Hắn vẫn hy vọng ông còn sống. Sau đó, hắn lớn lên, cuối cùng chấp nhận sự thật là người cha đã chết. Khi còn là đứa trẻ, trong chớp mắt hắn thấy được hiện thực cuộc sống và cái chết đen tối. "The child is grown,/ the dream is gone." Cậu bé Pink trong trắng lớn lên và những giấc mơ, những hy vọng tan biến.

Còn Bill Romanelli thì cho rằng trong chớp mắt ấy hắn nhìn thấy cuộc sống, thế giới không có bức tường. Mọi người trên thế giới trong giây phút nào đó đều mong được trở lại tuổi nhỏ thơ ngây, để có thể nhìn lại cuộc đời bằng đôi mắt trẻ thơ. Tất cả chúng ta, khi còn là đứa trẻ, đều đó có cái chớp mắt như thế. Nhưng chỉ thoáng chốc thôi, bởi sự trong trắng trẻ thơ chỉ kéo dài cho đến khi chúng ta 3 hay 4 tuổi, và một vài người trong chúng ta thậm chí đã ý thức đầy đủ về bản thân trước khi tròn 2 tuổi. Điều đó có nghĩa là chỉ có 2 năm của cuộc đời (chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi) chúng ta sống yên ổn, được chăm nom và không lo nghĩ. Chúng ta không bị loạn trí bởi vật chất, cái tôi và những thứ tương tự. Chúng ta tin tưởng tất cả mọi người, tin tuyệt đối. Và rồi thời gian đó qua đi. Đứa trẻ lớn lên, giấc mơ (về một thế giới không có bức tường nào) qua đi.

Trong phim, có những đoạn nhanh quay Pink bị mặc quần áo và lôi đến buổi trình diễn, đi qua một hàng dài những người như cha, thầy giáo, bác sĩ, lính tráng và tất cả những thứ góp phần xây nên bức tường của hắn.

The Wall - Pink Floyd (part.4)
The Show Must Go On

"The Show Must Go On" là một bài hát khác cũng bị cắt không cho vào phim. Đây là một giai điệu ngắn trong đó Pink đặt câu hỏi về tình cảnh mới của hắn. Hắn nói về những thứ hắn đã không còn nhận biết được kể từ khi xây lên bức tường. "I didn't mean to let them take away my soul..." Tiếp đó hắn tự hỏi liệu hắn đã quá già và mọi thứ đã quá muộn chưa để bắt đầu lại từ đầu, để đập tan bức tường và quay trở về với cuộc sống mà hắn đã rời bỏ, hay liệu hắn có nên tiếp tục cố gắng chăng khi cái chết đã ẩn trong góc nhà chờ đợi. Đây có lẽ cũng là một sự chiêm nghiệm về việc tự sát. Pink đã nhận thấy cái gánh nặng tàn ác hắn đang phải chịu và tự hỏi liệu tự tử quách đi có tốt hơn không, và bằng cách đó chấm dứt luôn "the show". Và cuối cùng, hắn quyết định, giống như buổi hoà nhạc, "show" diễn cuộc đời của hắn phải tiếp tục.

In The Flesh

''In The Flesh" (chú ý là ở đây không có dấu hỏi ở cuối) đưa chúng ta đến với buổi hoà nhạc của Pink. Không giống như bài hát "In The Flesh?" lúc đầu, bài này không phải về sự ra đời, mà là về cuộc sống; nó cho thấy con người có thể rồ dại và mù quáng đến chừng nào khi nghe lời những kẻ giật dây họ, và những kẻ đó có thể sử dụng quyền lực của mình một cách nham hiểm đến thế nào. Trong bài hát, Pink buồn rầu thông báo với đám khán giả của hắn: "Pink isn't well, he stayed back at the hotel.". Nói cách khác, Pink cũ đã bị bỏ lại đằng sau, và một Pink mới, sản phẩm của bức tường, đã leo lên dành quyền độc tài. Để kiểm tra sự tận tâm của các fan hâm mộ, Pink ra lệnh cho những kẻ thiểu số đứng quay mặt vào tường, tuyên bố tất cả bọn đồng tính luyến ái, Do Thái, ma cô đều đáng bị bắn chết. NHƯNG ĐỪNG NGHĨ ĐÂY LÀ BÀI HÁT PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC. Bài hát này cho thấy, như đã nói ở trên, những kẻ lãnh đạo chuyên chế điều khiển đám đông như thế nào, giống như Pink, trở thành một dạng Hitler, chỉ huy những kẻ đi theo hắn và cố gắng tiêu diệt những người thiểu số.

Một cách giải thích khác: Pink đã hát bài này là vì, hãy nghe hắn giải thích, những lời của hắn có nghĩa là "Vậy đó, cha tao đã chết, vợ tao bỏ đi, và cuối cùng tao kiếm được một nơi yên ổn để nằm dài yên lặng, nhưng thay cho việc mặc xác tao ở đó hay giúp đỡ tao, bọn mày dựng tao dậy và BÂY GIỜ bọn mày còn muốn tao trình diễn cho cái đám đông chết tiệt những kẻ không rõ mặt này mà tao chả biết là ai? TỐT! Tao sẽ trình diễn... BẰNG CÁCH CỦA TAO!" Đắng cay và giận dữ, Pink đã ném sự thù hằn của hắn vào đám đông hâm mộ.

Một biểu tượng lại xuất hiện trở lại trong bài hát là cây búa. Thay cho chữ thập ngoặc phát xít, Pink sử dụng búa. Như tôi đã nói ở phần trước, những cây búa, trong bài hát và trong phần còn lại của album, đại diện cho sự áp bực bằng bạo lực. Nghĩa là nếu mày không quy phục, mày sẽ bị đàn áp cho đến khi quy phục. Trong trường hợp này, những cây búa dùng để đập tan các nền tảng đạo đức của xã hội (như phát xít đã làm) và xây lên lòng căm thù.

Tôi đã nhận được một email về sự hình thành ý tưởng The Wall như sau:
"Năm 1977, trong tour diễn album Animals, có tên là In the Flesh Tour, trong buổi trình diễn cuối cùng, Roger gần như phát điên bởi cái đám đông kinh khủng trong sân vận động. Trong buổi trình diễn đặc biệt ấy ở Montreal, Quebec, Canada, một fan hâm mộ ở ngay hàng đầu đã khiến Roger nổi giận. Gã này, như sau đó đã trả lời phỏng vấn, không quan tâm lắm đến buỏi trình diễn mà chỉ bắt chước những fan khác xung quanh hắn quấy rầy Roger. Và một lúc trong buổi trình diễn, không kiềm chế được, Roger đã túm lấy gã, tát vào mặt. Sau đó, Roger cảm thấy ân hận về những gì mình đã làm. Ông nhận ra vào một lúc nào đó, đám đông đã làm ông phát điên, khiến ông không còn cái cảm giác riêng tư đối với những người hâm mộ mà ông từng có trước khi trở nên nổi tiếng. Ân hận về điều này, Roger bắt đầu nghĩ cách để cố gắng không lặp lại hành động ấy nữa, và rồi từ từ, một ý niệm về The Wall đã được hình thành".

Run Like Hell

"Run Like Hell" là sự tiếp nối của "In The Flesh". Nó là lời cảnh báo của Pink tới tất cả những kẻ không đi theo hắn hay khác hắn. "You better make your face up in your favorite disguise," Pink đe doạ rằng những kẻ khác hoặc phải theo luật chơi của hắn, hoặc phải giả vờ theo luật chơi của hắn, hoặc nhanh chóng cuốn xéo, vì tất cả những kẻ không thích nghi được với hắn sẽ được gửi về nhà "...in a cardboard box.".
Bill Romanelli viết: "Trong thế chiến 2, những người Do Thái dưới chế độ phát xít phải sống tập trung trong những khu riêng của các thành phố. Trong phim, bài "Run Like Hell" theo ý tôi là sự tái hiện một sự kiện được gọi là "Krystalnacht" hay "đêm pha lê", cái đêm quân phát xít tấn công vào các khu Do Thái, bắn giết va cướp phá. Người ta gọi đó là "đêm pha lê" vì trong đêm ấy, những mảnh kính vỡ tung toé trên đường phố và vỉa hè đã sáng lên lấp lánh dưới ánh trăng. Gợi lại Krystalnact ở đây, giống như phát xít đã tuyên bố với người Do Thái: chúng mày không giống chúng tao, sẽ không bao giờ giống chúng tao nên chúng mày phải bị tiêu diệt. Nếu chúng mày nghĩ có thể trốn thoát được, thì cuốn xéo đi". Đó cũng chính là thông điệp của Pink.


Waiting For The Worms

"Waiting For The Worms" là bài hát thứ 3 và cuối cùng về chủ đề độc tài chuyên chế. Nó bắt đầu với lời nói của Pink rằng không ai có thể khiến hắn ở lại sau bức tường nữa. Chuyện đó qua rồi. Điều đó cho thấy Pink đã bắt đầu tìm đường để thoát khỏi nhà tù tự tạo của hắn. Bây giờ, Pink đang kiên nhẫn ngồi "...in a bunker" sau bức tường và đợi cho những con giun đi đến, đợi tri giác và sự tỉnh thức hay đợi cái chết và sự thối rữa của Old Pink? "In perfect isolation here behind my wall." Pink đã có những gì hắn từng muốn, sự cô lập tuyệt đối, điều hắn đã tìm kiếm khi xây lên bức tường, và trong sự cô độc ấy, hắn đã nhận chân ra toàn bộ ý nghĩa của thế giới.

Lúc này, cái khía cạnh độc đoán của Pink lại xuất hiện. Đi dọc phố với những tín đồ trung thành của hắn, Pink gào lên những điều đe doạ kinh hoàng đối với mọi người. Hắn tự cho phép hắn làm thế vì hắn NỔI TIẾNG. "Waiting to turn on the showers and fire the ovens." Lời ca này chính là sự ám chỉ rõ ràng nhất về Hitler và Thế chiến 2, cuộc chiến dã khiến 6 triệu người Do Thái bị giết bằng hơi ga rồi bị đốt trong các lò thiêu người. Một cách tượng trưng, Pink đã trở thành chính cái thứ gây nên cái chết của cha hắn, cái quyền lực do Hitler nắm giữ, quyền lực đàn áp và bạo ngược. Dường như những điều này không diễn ra trong cuộc đời thực, mà chỉ trong trí óc hỗn loạn của Pink, khiến hắn tự nghĩ mình chính là Thượng đế.

Ryan Meekins viết: "Dòng chữ waiting for the final solution' chính là viết về sự tàn sát người Do Thái. Giải pháp cuối cùng là màn thứ 3 và cuối cùng của Hitler trong cuộc chiến của hắn, trong đó hắn thấy rằng hắn không thể thắng. Giải pháp cuối cùng về cơ bản là quyết định của hắn dồn toàn lực tiêu diệt những người Do Thái. Chính thời gian này là lúc nhiều người Do thái bị giết nhất".

Stop
Pink vứt bỏ những cử chỉ hống hách của mình để nhận ra tình cảnh của hắn. Hắn nói hắn muốn về nhà và từ bỏ cuộc chơi, hắn muốn tự tử và từ bỏ cuộc sống. Cái lý do duy nhất hắn vẫn còn quanh quẩn trong nhà tù, trong thân xác, trong cuộc đời này, là vì hắn muốn biết liệu hắn có có lỗi gì không trong tất cả những gì hắn đã làm: xây lên bức tường, tê dại trước cuộc sống, trở nên tàn ác. Hắn muốn biết có phải hắn là kẻ duy nhất đáng trách trong tất cả những điều đó? Điều đó cho thấy Pink đã có những cảm xúc "of an almost human nature," như trong The trial sẽ nói tới.

Trong phim, Pink ngồi trong toalet, đọc những bài thơ trong cuốn sổ nhỏ màu đen của hắn. Nếu chú ý, bạn sẽ nghe được Pink đang đọc (hát) "Do you remember me? How we used to be? Do you think we should be closer?" chính là lời ca của "Possible Pasts" trong album "The Final Cut". Nhiều người cho rằng "The Final Cut" là phần tiếp nối của The Wall. Thật vậy, trong album này có nhiều chủ đề tương tự, thậm chí nhiều bài dường như hát về Pink như "The Final Cut", cái tính cách tôi cảm thấy giống như Pink ấy là khi hắn chuẩn bị rạch cổ tay bằng dao, thì nghe thấy tiếng chuông điện thoai: "I held the blade in trembling hands, prepared to make it but...just then the phone rang. I never had the nerve to make the final cut." Trong toilet, Pink cũng thì thầm lời ca của một bài hát khác trong album solo của Roger Waters "The Pros and Cons of Hitchhiking" (được Roger viết ra vào cùng thời gian với The Wall). Những lời đó là: "And I put out my hand just to touch your soft hair/ To make sure in the darkness that you were still there/ And I have to admit/ I was just a little afraid, oh yeah/ But then..."

The Trial

Có quá nhiều thứ có thể nói về bài hát này. Vì mặc cảm tội lỗi, Pink ra trước toà án lương tâm, nơi hắn cố gắng thể hiện những "feelings of an almost human nature." Nhân chứng đầu tiên bị gọi ra trước công tố viên là ông thầy giáo của Pink, kẻ đã phàn nàn rằng đáng ra lão đã cho Pink vào khuôn phép nếu "bleeding hearts and artists" không can thiệp vào. Ông thầy biến đi sau khi ném lại câu chú thích cuối rằng lão vẫn có thể "hammer him today."

Tiếp đó là 1 đoạn hát ngắn của Pink về cơn điên của hắn. "Crazy...toys in the attic. I am crazy."
Nhân chứng tiếp theo được gọi là vợ của Pink, người lên án hắn đã làm tan vỡ cuộc hôn nhân của họ. "You should have talked to me more often than you did, but no! You had to go your own way have you broken any homes up lately?" Cũng như ông thầy, sau khi tố cáo, cô vợ hừng hực lửa căm thù: "Just five minutes Worm your honor, him and me alone."

Nhân chứng cuối cùng là mẹ của Pink, người vẫn cứ tiếp tục bộc lộ bản chất che chắn quá đáng của mình. "But I never wanted him to get in any trouble. Why'd he ever have to leave me?" Mẹ của Pink chấm dứt lời chứng của mình với lời cần xin quan toà để cho bà mang Pink về nhà. Và Pink lại cất tiếng hát về cơn điên của hắn.

Quan toà đã sẵn sàng kết án, cho rằng chưa từng thấy kẻ nào đáng bị kết án hơn Pink. Cái điều làm quan toà phẫn nộ là cách đối xử vô lý của Pink đối với "exquisite wife and mother" (chú ý là ông thầy giáo không được nhắc đến). Bản án: Pink không được phép trốn sau bức tường nữa. Hắn phải phá sập bức tường để không còn có thể "comfortably numb" đối với thế giới quanh mình.

Bản án này có cả khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực. Tích cực, ấy là Pink không thể tiếp tục tự giam hãm mình và có thể trở lại với cuộc sống. Còn tiêu cực, là Pink sẽ hoàn toàn trần trụi không có gì bảo vệ trước những thô bạo của cuộc đời.

Trong suốt phiên toà, ta thấy Pink như con búp bê vô hồn. Hắn không hề để tâm rằng hắn có thể bị kết án. Hắn chỉ là con búp bê bị ném qua ném lại giữa những người buộc tội và thỉnh thoảng rên rỉ ("crazy, over the rainbow") nhưng không hề lên tiếng tự bảo vệ vì hắn biết một cách tuyệt đối chắc chắn rằng hắn chỉ có thể tự trách mình về mọi nỗi đau khổ.

Outside The Wall

"Outside The Wall" có lẽ là về những người mà kẻ tù nhân sau bức tường yêu thương thì đúng hơn là về Pink. "The ones who really love you" đang đi lại bên ngoài bức tường, cố tìm cách liên lạc với người ở bên trong. Nhưng những người đang cố gắng với cả tấm lòng để tìm gặp người bên trong đôi khi cũng nản lòng và bỏ cuộc, như vợ của Pink cuối cùng đi tìm 1 người khác khi chồng cô không đáp lại tất cả những cố gắng của cô mong đem hắn ra khỏi bức tường nặng nề. "it's not easy banging your heart against some mad bugger's wall."

Phần đáng nhớ nhất trong bài hát đối với tôi là cảnh được thêm vào trong phim. Những đứa trẻ nhặt nhạnh các mảnh đá, mảnh vữa từ bực tường đã sụp rồi kéo chúng đi trên những chiếc xe tải đồ chơi. Khi xem cảnh này, tôi thực sự bối rối. Chúng nhặt những mảnh vỡ đó để vứt đi, hay đó lại là hình ảnh tượng trưng cho những viên gạch trong những bức tường của chính chúng?

Raven đã chỉ cho tôi thấy một đứa trẻ trong cảnh cuối đang cầm 1 ly coctail Molitov. "nó nếm ly rượu rồi đổ đi. Đó lại là 1 con người bắt đầu biết căm ghét, đã nếm thử vị đắng của lòng thù hận, nhưng sau đó, không giống như Pink, đổ đi thay cho việc uống cạn".

Hết
 
Back
Bên trên