III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP
* - Nhà Ngô (938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.
* - Nhà Đinh (968 - 980)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.
* - Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.
* - Nhà Lý (1010 -1225)
Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi .
Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Độ, nghe lời Trần Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.
* - Nhà Trần (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Đồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Để phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Đạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt ngôi của Thiếu Đế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.
* - Nhà Hồ (1400-1407)
Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là Hồ Quý Ly, đặt tên nước Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.
* - Nhà Hậu Trần (1409 - 1413)
Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Định Đế chiêu mộ quân chống giặc Minh. Đầu năm 1409 thì Giản Định Đế vào Thanh Hóa để phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Được nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.
* - Nước Ta Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)
Đến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Đồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .
* - 10 Kháng Chiến Chống Quân Minh (1418 - 1427) : Lê Lợi
Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh.
Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Đông Đô (Hà Nội), chém Liễu Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.
* - Hậu Nhà Lê (1428-1527)
Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Đại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền, khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo . Bộ Luật Hồng Đức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận kinh đô Chiêm là thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên chống lại Đại Việt.
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được. Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.
* - Nhà Mạc (1527-1592)
Mạc Đặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên làm vua hiệu là Minh Đức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532, lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Đăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh để được bãi binh & phong chức Đô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.
* - Nhà Lê Trung Hưng (1532-1778)
Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống.