Nguyễn Quang Hưng
(sonnet)
New Member
Gửi các bạn đọc chơi 1 bài ký sự ngắn về đất nước của anh Giang (bạn cũ) nhân chuyến về VN hè năm ngóai. Thêm 1 câu giới thiệu về tác giả bài ký sự: GN trước là DHS (không phải Amser), từng học và tốt nghiệp khoa Luật, sau chuyển sang nghề làm báo, hiện là chairman of VNse section, BBC. Ký sự có nhắc đến 1 số vấn đề các bạn đã biết từ lâu, gặp phải hàng ngày, đã được tranh luận trên HAO. Some "politically sensitive" issues cũng được ký giả nhắc tới nhưng rất nhẹ nhàng, hy vọng là vẫn trong khuôn khổ nội qui HAO Ký sự dành cho các bạn đã ... chín chắn
***********************************************
***********************************************
Chuyện của đất
Chuyến này tôi chỉ về Hà Nội ngắn ngày, thời gian ở Việt Nam đúng một tuần lễ nên lúc máy bay hạ cánh bỗng tự nghĩ là sẽ chẳng có đủ thời gian để cảm nhận được sâu sắc những đổi thay so với lần về trước là tháng 12 năm 2000. Tuy thế, cũng chỉ mất có một buổi chiều thưởng thức cái nóng vào hè của đất Hà Thành là đủ trở lại với thằng người An-na-mít trần trụi của mình như hồi hơn 10 năm trước khi lần đầu rời đất nước. Bởi thành phố tuy phình ra ở nhiều nơi, nhưng chất Việt Nam với hàng quán, vỉa hè, xe đạp xe máy đông đúc vẫn giữ một nét chung bất biến.
Hà Nội bắt đầu nóng, thành phố tuy đã mở thêm nhiều con đường mới, nhiều con phố hoàn toàn mới, xây thêm nhiều cầu cống, kè bê-tông thêm nhiều đoạn sông Tô Lịch hôi thối nhưng người ở xa về vẫn cảm nhận được ngay cảm giác quá tải của mọi thứ. Người và xe bề bộn ngập mọi nẻo đường. Trong và ngoài giờ hành chính đâu cũng đầy xe. Nạn xe máy Trung Quốc đã có từ mấy năm nay hiển hiện. Khói xe máy và bụi đất mù mịt đến nỗi chỉ ra phố chốc lát là mắt cay xè. Trẻ con đi đâu cũng được cho đeo kính đen, kính màu như mafia, đeo khẩu trang gọi là rọ mõm, đeo găng tay kín đến nách kẻo nhiễm bụi và khói xe đến sinh bệnh phổi. Chỉ đến tối muộn đường phố mới dịu đi, cả về nhiệt độ lẫn nhịp sống. Tất nhiên đó là chỉ ở những khu vắng hoạt động buôn bán. Còn tại các khu thị dân đông đúc, các tuyến đường thanh thiếu niên đi chơi như quanh Bờ Hồ, các ngả lên Hồ Tây v.v. thì đêm đến vẫn còn đầy người. Người hành quân vung vẩy hai tay đi bộ tập thể dục đầy quanh hồ Hoàn Kiếm. Hàng đoàn, hàng nhóm đi tấp nập. Các bà xồn xồn, các ông luống tuổi, các cô cậu thanh niên. Thôi thì đủ lứa tuổi, đủ dạng người, trong cái nóng toát mồ hôi của trời tối vẫn hành quân trên vỉa hè, dưới các tán cây loang ánh đèn. Cũng dưới những ánh đèn đó là các nam thanh nữ tú quắp nhau trên ghế đá, ôm nhau hối hả, vặn vẹo đủ tư thế, tất nhiên là vẫn đủ quần áo. Tình yêu ngày lập hạ. Cũng chẳng xa là những hàng quà bánh bên ngọn đèn leo lét, là các chiếu đánh cờ. Các nhóm cả gia đình bạn bè ngồi hóng mát. Xem ra chật chội quá. Và còn cả các hàng cân sức khoẻ nữa chứ. Gần 11 giờ đêm rồi giời ạ. Thế mà vẫn có hàng cân sức khoẻ chờ khách. Chật, đất đai xem ra không đủ chỗ chứa người. Ai như cũng thèm một không gian thoáng mát. Nhất là khi mức sống đã khá hơn. Người hành quân tập thể dục buổi tối xem ra có vẻ phả phê, béo tốt lắm. Nhiều người sợ phát phì là khác. Người bán hàng, bán quán, cân sức khoẻ xem ra thảnh thơi lắm chứ không có vẻ không bán được gì, không cân được ai là đói thót bụng ngay đêm hôm đó.
Ðất đai là chủ đề dân Hà Nội nói đến nhiều nhất. Trước hết là chuyện người ta bảo là mất đất ở biên giới cho Trung Quốc và sau là chuyện thị trường đất và bất động sản đang lại lên cơn sốt. Vụ hiệp định biên giới trên bộ và trên biển được Quốc hội thông qua nhưng nội dung không cho dư luận biết khiến dân chúng bất bình, đặt câu hỏi. Trong giới cán bộ nhà nước còn tại chức, lớp cựu chiến binh hay công chức đã hồi hưu cũng có ý kiến đòi chính quyền giải thích. Về mặt nào đó thì chính quyền đã công nhận là Việt Nam mất đất về tay Trung Quốc. Thác Bản Giốc được nói là chỉ còn phần dưới, mất về phía Trung Quốc phần trên. Ải Nam Quan thì ai cũng biết là đã nằm vào trong đất Trung Quốc chừng hơn một cây số. Chính quyền tìm cách giải toả bức bối về đất của cha ông để lại này bằng cách nói rằng ký hiệp định tuy chịu thiệt nhưng là để ổn định quan hệ với Trung Quốc và ngăn không cho họ lấn tiếp. Người ta cũng cho rằng ông Giang Trạch Dân sang thăm Việt Nam là để tỏ thiện chí (?) và tìm cách xoa dịu đi vấn đề này bằng những lời hứa viện trợ hay giúp đầu tư cho Việt Nam. Tất nhiên đó là cách giải thích nội bộ. Còn báo chí thì vẫn như xưa, tức là nói ‘như nghị quyết’ hoặc chẳng nói gì.
Sang chuyện cơn sốt bất động sản. Xin phép được viết tắt như các báo trong nước là Bờ Ðờ Sờ (BÐS). Một vài vị trí thức và quan chức nhà nước nói cho tôi biết rằng đây là chuyện chứng tỏ Việt Nam còn chưa giải quyết được những khái niệm cơ bản cho một nền kinh tế bình thường và một xã hội bình thường. Nguyên nhân của cơn sốt Bờ Ðờ Sờ chính là chỗ đất ở Việt Nam vô chủ. Nghe tưởng đùa mà hoá thật. Chính báo Pháp Luật của Bộ tư pháp có bài giải thích rõ ràng những lý do khiến giá nhà đất ở Hà Nội vọt lên cao vào loại nhất thế giới. Theo bài báo đó thì Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng do nhà nước làm chủ. Nhà nước là ai nếu không phải các cơ quan chính quyền các cấp và các vị quan chức. Luật pháp giao cho chính quyền một nhiệm vụ nặng nề không kham nổi là quản lý đất đai trên cả nước như một khối tài sản khổng lồ nhưng lại không được coi là hàng hoá. Một vị quan chức ngành quản lý đất đai đã nói " Ðất là vô giá nên không thể coi là hàng hoá " dù ông ta cũng công nhận rằng có một thị trường BÐS và người dân vẫn mua bán đất vì thị trường coi đó là hàng hoá. Những khái niệm quái gở này khiến cho đất vừa là vô chủ, vừa vô số chủ. Một cơ quan nhà nước có thể ‘nhảy dù’ vào một mảnh đất ở ngoại ô Hà Nội. Sau khi trả tiền mua quyền sử dụng là có thể bán lại quyền đó kiếm lời. Vì luật phủ nhận quyền sở hữu nhưng công nhận quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt. Một anh dân nghe tin khu ruộng nào đó sắp được quy hoạch thành mặt đường là có thể mua lại hay nhảy đến chiếm rồi biến đất canh tác thành đất xây dựng, buộc nhà nước hay nhà đầu tư phải bỏ tiền ra bồi thường nếu muốn xây dựng gì đó. Có người bị hàng xóm xây lối đi mới chỉ để cho một cái ngách chừng 30 cm vào nhà của mình, khi ra vào phải đi nghiêng người. Kiện ai bây giờ khi chính quyền bất lực trong việc thi hành luật. Tóm lại, người ta cứ buôn bán, đầu cơ, chiếm hữu đất và xây dựng tuỳ ý một khi có đủ ‘lực’ đủ thần thế, tiền bạc hay độ ‘Chí Phèo’ để chiếm đoạt. Ở cả những khu phố đã xây xong người ta vẫn cứ cơi nới khiến có cảnh cả một dãy phố chạy thẳng nhưng có ngôi nhà chồi ra chừng 1,5 mét. Không rõ thêm được bao nhiêu diện tích bên trong nhưng người ta cứ làm theo một thói quen chiếm đoạt, tranh phần, bất chấp thiên hạ. Cũng có chuyện xây trái luật xong bị phường phố cho xe đến ủi đi nhưng đa số các vụ việc như vậy chỉ kết thúc ở mức chịu phạt. Mà nếu người ta ‘chì’ không nộp phạt hay xây xong bán nhà đi rồi biến thì chính quyền cũng chẳng có cách nào khác. Ở Việt Nam không thể làm giống như ở Phương Tây là ‘giam’ tài khoản hay bắt tù nếu ai đó trốn nợ, trốn tiền phạt.
Chuyện đất cũng được nhắc đến khi tôi hỏi về những vụ bất ổn tại vùng Tây Nguyên. Sự phát triển kinh tế, đà tăng dân số ở các vùng đồng bằng và biên giới phía Bắc tạo ra một làn sóng di dân lên những vùng của người vùng núi cao nguyên miền Trung. Nhà nước dùng quyền sở hữu ‘toàn dân’ về đất đai để khoanh gom rừng vào dưới sự quản lý và khai thác của các lâm trường. Những vùng đất khác thì được giới trồng cà phê bỏ tiền vào đầu tư. Ngoài cả triệu người Kinh là hàng chục vạn dân Tày Nùng từ các tỉnh phía Bắc tràn vào, hoặc lập ra các làng tự phát của họ, hoặc được bố trí khẩn hoang đất đai để sinh sống. Cán cân dân số nay khác xưa. Người bản địa trở thành thiểu số thực sự trên quê hương mình. Họ cũng không theo kịp đà phát triển và bị đẩy ra ngoài lề cuộc khai thác tàn bạo đất và rừng vì lợi nhuận. Họ cũng chẳng được giúp đỡ gì cho tới gần đây, khi vấn đề đã bùng nổ và chính quyền trung ương ý thức được nguy cơ tiềm tàng của xung đột. Ngoài ra, chính ý thức về sự tồn tại của dân tộc họ được khơi dậy bởi chính những người thiểu số có học, được chính quyền đào tạo. Và dù họ có liên lạc với các nhóm người Thượng hải ngoại thì đó cũng chỉ là cách tìm sự giúp đỡ chứ không phải là nguyên nhân chính khiến họ biểu tình. Cho tới nay tình hình Tây Nguyên đã tạm yên nhưng rõ ràng là chính quyền vẫn tiếp tục lo lắng và bộ máy truyền thông cùng các cơ quan từ nghiên cứu đến kinh tế xã hội đang tập trung nhiều sức lực vào đề tài này. Có vị nói với tôi là giới sĩ phu Bắc Hà đùa rằng nhà nước đang sợ nhất ‘Bốn Ông Tây’: Tây Bắc với vấn đề người Hmong và biên giới với Lào, Trung Quốc, Tây Ninh với đạo Cao Ðài, Tây Nguyên với người Thượng và Tây Nam với người Khmer và Campuchia. Khong biết thật hay đùa đến mức nào nhưng nếu đó là chuyện nghiêm túc thì lại thấy làm lạ là chẳng có ông Tây Âu, Tây Mỹ. Hay ‘diễn biến hoà bình’ không còn là đề tài trọng tâm ?
Nói đến đất không thể không nói đến nước. Nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt đang là một vấn đề ở Hà Nội. Các nguồn nước và các dòng sông đang bị ô nhiễm vì công nghiệp hoá kiểu thô sơ với công nghệ cấp thấp. Nhiều người không dám ăn các món truyền thống như ốc, ếch, tôm cua vì sợ nhiễm chì, nhiễm hoá chất có trong bùn, trong nước ở đồng ruộng và ao hồ. Ðiều đáng nói là cách giải quyết của Việt Nam vẫn là dùng bộ máy truyền thông của nhà nước để nêu cao tinh thần và ý thức, dùng các phong trào vận động quần chúng kiểu ngày xưa để xử lý các vấn đề hoàn toàn có tính pháp lý và kỹ thuật. Chẳng hạn như con sông Cầu có tiếng là thơ mộng, từng đi vào thơ ca trước đây nay bị ô nhiễm nặng vì các nhà máy, các xí nghiệp công nghiệp thải nước bẩn ra. Chính quyền đã phát động một phong trào tập hợp hàng nghìn đoàn viên thanh niên ở một loạt tỉnh nằm dọc con sông này tham gia một chương trình cứu dòng sông. Họ trống dong cờ mở kéo đến một bãi sông chỉ để nhặt giấy bẩn và thu lượm rác trên bờ và tất nhiên chiến dịch được coi là thành công tốt đẹp. Một ví dụ của việc phí sức người và thời gian. Một món võ cũ cho một sân đấu mới. Trong khi đó các nhà máy vẫn tiếp tục thải chất độc ra sông. Phải chăng các giám đốc đã lo trên lót dưới đủ đường nên chẳng cơ quan nào đến thanh tra họ ? Và nếu có thanh tra và bắt phạt đi nữa thì chẳng nhẽ đóng cửa nhà máy, đuổi công nhân ra đường ? Xét cho cùng người ta cũng chỉ có công nghệ loại độc hại đó thôi. Kỹ thuật cao và an toàn cho môi sinh đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn. Cái đó Việt Nam sẽ muôn đời thiếu. Và trong cái vòng luẩn quẩn ấy dân chúng chỉ có cách sống ‘an toàn là bạn’. Sợ thì đừng ăn uống bậy mà nếu lỡ số đen bị ngộ độc thực phẩm, dị ứng, tróc da rụng tóc thì ráng mà chịu.
Chuyện của người
Sang chuyện của con người. Góc Hà Nội cũ ngàn năm văn vật nay nhỏ bé đi nhiều so với tầm vóc vươn rộng ra các vùng trước là ngoại ô. Qua lại khu Ba Sáu Phố Phường chỉ thấy nhiều Tây ba lô, du khách châu Á hơn là chính dân thủ đô mua bán. Những điểm ăn uống đặc sản hay quán nhậu, quán cà phê thì đã chạy xa khu phố tạm gọi là cổ từ lâu. Tính gần gần có phố ẩm thực chỗ phố Tống Duy Tân nhưng nó đúng ra đã thuộc về khu phố Tây ngày xưa chứ không còn là Ba Sáu Phố Phường. Các khách sạn to lớn sỗ sàng mọc lên ở nhiều phố cũng khiến cho tầm vóc của khu trung tâm ngày xưa còm cõi đi. Con người cũng lui về các vùng được coi là rộng rãi, thoáng đãng hơn và nhất là được quy hoạch thành đường thành phố lớn hơn, rộng rãi hơn như hướng lên Cầu Giấy, Hoà Lạc hoặc quận Tây Hồ. Nhưng những khu mới nay chưa có sức hấp dẫn cho giới trẻ. Vì thế chiều về, các đám trai gái vẫn lượn xe máy quanh mấy cái hồ và khu Ba Ðình chứ ít ra những vùng xa hơn. Con người Hà Nội sau chừng 15 năm Ðổi Mới đã dạn dĩ hơn với những điều lạ đến từ bên ngoài. Người ta như mất đi cái hào hứng của những năm đầu thời mở cửa. Những đợt phim từ phương Tây, phim Trung Quốc, Hàn Quốc đã vào ồn ào và chỉ để lại không bao nhiêu dấu ấn. Cách ăn mặc bắt chước Tây Tàu, cách xây nhà đắp cửa kiểu chơi ngông nửa Âu nửa Á, cách đón nhận các sự kiện chính trị trong vùng và trên thế giới đều mất đi độ say mê. Khó có thể nói đó là một sự chùng xuống để cảm và nhận ra bản lai diện mục hay là một nỗi bi quan vì thấy Việt Nam đã ở đàng sau thế giới và khu vực quá xa. Khi nói chuyện với người dân thường, cán bộ nhà nước hay đôi ba văn nghệ sĩ tôi đều cảm thấy điều này. Xét ra trong số những người tôi gặp ai cũng đã từng đi ra nước ngoài, ít ra thì cũng đến các nước Ðông Nam Á, châu Úc. Nhiều người đã từng đi châu Âu, Bắc Mỹ trở về. Họ tin gì ? Họ nghĩ gì về Việt Nam ? Khó có thể biết được vì có thể nói lượng thông tin họ nhận được không phải là ít. Nhưng ai cũng như băn khoăn về một hướng đi dứt khoát cho đất nước. Hình như họ cũng hiểu chính bây giờ cần thay đổi nhưng họ cũng thấy thay đổi tổng thể không phải dễ. Tôi đã hỏi nhiều người, từ cậu sinh viên từ tỉnh lên, từ bác bán bánh đầu phố đến những trí thức nhiều bằng cấp là Việt Nam có cần phải thay đổi chế độ chính trị thành dân chủ, có bầu cử tự do, có truyền thông trung thực hay không. Câu trả lời là sớm muộn Việt Nam cũng sẽ ‘phải theo trào lưu thế giới’ mà thôi, nhưng họ không rõ là nên đi nhanh hay đi chậm, là làm thế nào. Họ cũng lo ngại rối loạn và sợ mất đi những gì đạt được những năm qua. Có những người không hiểu và không có đòi hỏi chính trị vĩ mô thì nói là cần phải làm thế nào để ngành công an phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nhiều hơn. Họ kể những chuyện bộ máy công lực lạm dụng quyền chức, những vụ tham nhũng, hành dân và phàn nàn rằng đài báo thì hiếm khi dám đề cập đến đề tài công an. Có người cho rằng bầu cử Quốc hội lần này có tiến bộ hơn trước vì cử tri được gặp các ứng cử viên để nghe về chương trình hành động và vì số đại biểu chuyên trách sẽ tăng lên chừng 25 % gì đó. Nhưng cũng có người cho rằng tổ chức bầu cử rầm rộ là để giải toả sức ép trong giới cựu chiến binh, cán bộ về hưu và có người thì cho là bầu cử làm gì tốn thời gian bởi trước bầu cử người ta cũng ‘cơ cấu’ hết các chức vụ cao cấp rồi và chẳng biết chế độ kiểm phiếu nghiêm túc đến mức nào. Nhưng điểm chung là ai cũng thấy rằng Việt Nam lạc hậu về chính trị ngay cả so với khu vực, chưa nói gì đến chuyện so với Phương Tây và hướng đi dân chủ hoá là không thể tránh khỏi. Từ cách nói ‘ta là lương tâm nhân loại’, là con đường thế giới phải noi theo người ta đã khiêm tốn hơn đến chỗ chỉ nói về những đặc tính Việt Nam khiến cho các giải pháp bên ngoài, chẳng hạn như dân chủ đa nguyên, là chưa thích hợp. Chứ không còn thấy nói rằng Việt Nam là đúng là đỉnh cao này đỉnh cao nọ.
Nhìn các chương trình tivi và xem phản ứng của người dân là có thể thấy phần nào luồng tư tưởng tự phát, tự suy diễn, tự lý giải vẫn còn rất mạnh, bất chấp luồng chính thống. Chuyện đơn giản như xem quảng cáo một sản phẩm thương mại. Người ta cứ xem nhưng có khi ra phố vẫn cứ mua một cái gì khác, nhất là khi tin vỉa hè, tin đồn nói rằng phải một thứ gì khác mới hay, mới thật. Các chương trình truyền hình suốt ngày giới thiệu cái hay cái đẹp của các dân tộc thiểu số, ‘tua’ các bài ca cách mạng, giới thiệu các gương mặt cựu chiến sĩ Ðiện Biên, nhà văn vượt Trường Sơn năm xưa v.v. nhưng người Hà Nội chẳng thấy ai tỏ ra quan tâm đến người dân tộc, có chăng là lên Sa Pa hay Lào Cai đi chơi cho khoái chí. Cũng chẳng ai ‘hơi đâu’ để ý đến tình cảnh của những cựu chiến binh nghèo và hay bất mãn. Học sinh sinh viên thì bỏ hết sức lực và thời gian để ‘nhồi’ tiếng Anh và vi tính. Văn thơ cách mạng họ chỉ học cho phải phép, để thi cử nhưng rất tiết kiệm cảm xúc thực. Ðơn giản là vì những thế hệ bây giờ sinh ra và lớn lên quá xa thời kỳ hào hùng của cha ông họ. Họ cũng chứng kiến bậc cha anh vỡ mộng như thế nào, vồ vập với hàng nhập ngoại như thế nào, bon chen như thế nào để họ có xe máy lượn quanh phố phường, có thời gian đi hát karaoke hay quá mức nữa là đùa với những căn bệnh chết người của thời hiện đại. Và khi nói đến những tệ nạn xã hội người Hà Nội cho tôi biết một khái niệm mới về sự giàu có. Giàu là nuôi được hai thằng nghiện cho đến chết. Một khái niệm về chuyện có tiền của lâu bền chứ không giàu nổi như ngày xưa vốn được tính bằng nhà đất, cây và chỉ vàng.
Tuy thế, cũng xin đừng nghĩ rằng thanh niên chỉ có những kẻ nghiện. Thanh niên Hà Nội và thanh niên, sinh viên từ các tỉnh khác, từ vùng nông thôn vào Hà Nội đi làm và đi học trông đàng hoàng, chững chạc hơn xưa rất nhiều. Tôi nhớ hồi chính mình còn là sinh viên chỉ có chiếc xe đạp ‘còm’ đi lượn vòng quanh nhà bạn bè. Thanh niên bây giờ gần như ai cũng có xe máy, kể cả những bạn từ tỉnh xa về học. Số đi xe đạp và sống ở các ‘ký túc xá’ có lẽ chỉ còn là những người từ nông thôn ra, nhà nghèo nên chỉ đủ tiền ăn học. Nói chuyện với một bạn sinh viên từ một tỉnh xa đến Hà Nội. Cuộc nói chuyện cho thấy, như các nhà nghiên cứu chính trị đã chỉ ra từ lâu nay, khi kinh tế và mức sống phát triển đến một mức nào đó thì ý thức chính trị xã hội của con người ta cũng tăng. Trái với những điều nhiều người thường cho rằng thanh niên Việt Nam không quan tâm đến chính trị, anh sinh viên này nói anh và các bạn đều quan tâm đến những chuyện đang xảy ra trong nước và thế giới. Anh kể : " Hồi ông Nông Ðức Mạnh lên, bọn em cũng tụ tập bàn tán nhiều lắm. Ông ấy là người thế nào ? Sẽ làm được gì cho đất nước ? ". Hay gần đây là " Ông Lê Minh Hương là người thế nào ? Bộ trưởng Công An sao không trả lời báo chí về chuyện giải quyết các vụ tham nhũng lớn ". Rồi chuyện Bin Laden, Mỹ, Afghanistan v.v. Theo anh này thì nhiều sinh viên cho rằng vấn đề chống tham nhũng không thể giải quyết được nếu không có những quyết định chính trị dứt khoát. Nhưng khi hỏi bạn nghĩ thế nào về một mô hình chính trị, xã hội mới thì anh sinh viên này không biết trả lời ra sao. Nhiều bạn trẻ Việt Nam, nhất là từ các tỉnh đến Hà Nội tỏ ra không hài lòng trước chuyện họ không có được cơ hội và quan hệ như người cùng lứa ở thành phố. Nhưng họ không nghĩ đó là vấn đề thuộc về thể chế, chẳng hạn như chế độ hộ khẩu là một sản phẩm đặc trưng của chế độ toàn trị, mà cho rằng đó là những thứ bất công hiển nhiên có ở Việt Nam. Vì thế họ không hài lòng nhưng phải tìm cách ‘đi đường vòng’ để tìm cách giải quyết chứ không chống trên nguyên tắc.
Bữa cơm toàn cầu hoá thay đoạn kết
Tôi về rồi lại đi và tự ý thức được rằng nói thì rất dễ, làm mới khó. Những vấn đề như dân số, đất đai, ô nhiễm môi trường và sự thiếu vắng những bước giải quyết cơ bản về chính trị, xã hội là những điều người sống trong nước đang phải chịu, phải đương đầu. Những vấn đề đó không phải chỉ riêng Việt Nam mới có, kể cả chuyện di dân, tranh chấp đất đai và xung đột ở từng điểm như tại Tây Nguyên. Vấn đề là ở chỗ bộ máy quan liêu khổng lồ của Việt Nam, vốn được xây dựng để kiểm soát hơn là để tạo điều kiện phát triển nay đang phải thay đổi để gánh vác một nhiệm vụ quá nặng nề. Cỗ xe đó cần được đặt trên một đường rầy chính trị rõ ràng để tiết kiệm tài sản, vốn liếng, tài nguyên và sức người. Trong khi đó, dân chúng vẫn cứ xoay xở, tìm giải pháp riêng của mình, như một đàn kiến chạy quanh. Sang châu Âu, sang các nước trong vùng và đi xa hơn nữa. Từ Hà Nội tôi trở lại Bangkok vào làm việc với văn phòng của BBC chừng vài giờ. Ðến tối, một anh bạn ở Ban tiếng Thái dẫn đi khu Patpong xem chợ bán đồ rởm và khu phố đèn đỏ. Ôi trời, sao mà nóng, bụi bậm, ồn ào và chen chúc. Sau khi đi một vòng khu đó, chúng tôi qua đường vào một quán ăn đồ biển ngay trên vỉa hè mà anh bạn nói là đặc trưng Thái Lan. Ngồi đặt món mới phát hiện ra là tất cả những người làm ở đó đều là dân từ Hà Tĩnh chạy sang. Có cô gái nói cô đi bộ vượt rừng sang được chừng vài tháng, có một cậu khác kể đã ở đây được hơn một năm. Họ thuê mặt vỉa hè và mở quán, thỉnh thoảng chi tiền cho cảnh sát để không bị đuổi. Vào bữa ăn vui vẻ tôi hỏi chuyện thêm thì càng thấy thú vị là chẳng ai là người Thái cả. Anh bạn của chúng tôi hoá ra có cha mẹ là người Hoa dù anh sinh ra và lớn lên ở Bangkok. Các chủ quán và hầu bàn người Việt còn người nấu bếp là dân Miến Ðiện. Thế mà món ăn lại rất Thái, theo như khẳng định của anh bạn. Anh cũng ngạc nhiên rằng không nghĩ rằng mấy người làm quán là Việt Nam vì họ nói tiếng Thái rất chuẩn, tuy có lúc hơi chậm. Chà, người Việt ta giỏi thật. Cứ thế, chúng tôi ngồi ăn uống, nói chuyện trên vỉa hè Bangkok, không xa khu phố kinh doanh sex thật xô bồ, nơi các ông bà Tây Tàu đủ loại đến mua vui hoặc đi lượn cho thỏa chí tò mò. Ở đó, chắc chắn là có những cô gái đủ các dân tộc khác nhau đang hì hục kiếm sống trong tiếng nhạc nhảy đến ù tai. Nhạc của thời toàn cầu hoá ? Nếu cho là như một thời kỳ dù thích hay không cũng phải công nhận là rất hết sức thú vị.
NGUYỄN GIANG
***********************************************
***********************************************
- Việt Nam, đất và nước
mùa hạ 2002
NGUYỄN GIANG
Chuyện của đất
Chuyến này tôi chỉ về Hà Nội ngắn ngày, thời gian ở Việt Nam đúng một tuần lễ nên lúc máy bay hạ cánh bỗng tự nghĩ là sẽ chẳng có đủ thời gian để cảm nhận được sâu sắc những đổi thay so với lần về trước là tháng 12 năm 2000. Tuy thế, cũng chỉ mất có một buổi chiều thưởng thức cái nóng vào hè của đất Hà Thành là đủ trở lại với thằng người An-na-mít trần trụi của mình như hồi hơn 10 năm trước khi lần đầu rời đất nước. Bởi thành phố tuy phình ra ở nhiều nơi, nhưng chất Việt Nam với hàng quán, vỉa hè, xe đạp xe máy đông đúc vẫn giữ một nét chung bất biến.
Hà Nội bắt đầu nóng, thành phố tuy đã mở thêm nhiều con đường mới, nhiều con phố hoàn toàn mới, xây thêm nhiều cầu cống, kè bê-tông thêm nhiều đoạn sông Tô Lịch hôi thối nhưng người ở xa về vẫn cảm nhận được ngay cảm giác quá tải của mọi thứ. Người và xe bề bộn ngập mọi nẻo đường. Trong và ngoài giờ hành chính đâu cũng đầy xe. Nạn xe máy Trung Quốc đã có từ mấy năm nay hiển hiện. Khói xe máy và bụi đất mù mịt đến nỗi chỉ ra phố chốc lát là mắt cay xè. Trẻ con đi đâu cũng được cho đeo kính đen, kính màu như mafia, đeo khẩu trang gọi là rọ mõm, đeo găng tay kín đến nách kẻo nhiễm bụi và khói xe đến sinh bệnh phổi. Chỉ đến tối muộn đường phố mới dịu đi, cả về nhiệt độ lẫn nhịp sống. Tất nhiên đó là chỉ ở những khu vắng hoạt động buôn bán. Còn tại các khu thị dân đông đúc, các tuyến đường thanh thiếu niên đi chơi như quanh Bờ Hồ, các ngả lên Hồ Tây v.v. thì đêm đến vẫn còn đầy người. Người hành quân vung vẩy hai tay đi bộ tập thể dục đầy quanh hồ Hoàn Kiếm. Hàng đoàn, hàng nhóm đi tấp nập. Các bà xồn xồn, các ông luống tuổi, các cô cậu thanh niên. Thôi thì đủ lứa tuổi, đủ dạng người, trong cái nóng toát mồ hôi của trời tối vẫn hành quân trên vỉa hè, dưới các tán cây loang ánh đèn. Cũng dưới những ánh đèn đó là các nam thanh nữ tú quắp nhau trên ghế đá, ôm nhau hối hả, vặn vẹo đủ tư thế, tất nhiên là vẫn đủ quần áo. Tình yêu ngày lập hạ. Cũng chẳng xa là những hàng quà bánh bên ngọn đèn leo lét, là các chiếu đánh cờ. Các nhóm cả gia đình bạn bè ngồi hóng mát. Xem ra chật chội quá. Và còn cả các hàng cân sức khoẻ nữa chứ. Gần 11 giờ đêm rồi giời ạ. Thế mà vẫn có hàng cân sức khoẻ chờ khách. Chật, đất đai xem ra không đủ chỗ chứa người. Ai như cũng thèm một không gian thoáng mát. Nhất là khi mức sống đã khá hơn. Người hành quân tập thể dục buổi tối xem ra có vẻ phả phê, béo tốt lắm. Nhiều người sợ phát phì là khác. Người bán hàng, bán quán, cân sức khoẻ xem ra thảnh thơi lắm chứ không có vẻ không bán được gì, không cân được ai là đói thót bụng ngay đêm hôm đó.
Ðất đai là chủ đề dân Hà Nội nói đến nhiều nhất. Trước hết là chuyện người ta bảo là mất đất ở biên giới cho Trung Quốc và sau là chuyện thị trường đất và bất động sản đang lại lên cơn sốt. Vụ hiệp định biên giới trên bộ và trên biển được Quốc hội thông qua nhưng nội dung không cho dư luận biết khiến dân chúng bất bình, đặt câu hỏi. Trong giới cán bộ nhà nước còn tại chức, lớp cựu chiến binh hay công chức đã hồi hưu cũng có ý kiến đòi chính quyền giải thích. Về mặt nào đó thì chính quyền đã công nhận là Việt Nam mất đất về tay Trung Quốc. Thác Bản Giốc được nói là chỉ còn phần dưới, mất về phía Trung Quốc phần trên. Ải Nam Quan thì ai cũng biết là đã nằm vào trong đất Trung Quốc chừng hơn một cây số. Chính quyền tìm cách giải toả bức bối về đất của cha ông để lại này bằng cách nói rằng ký hiệp định tuy chịu thiệt nhưng là để ổn định quan hệ với Trung Quốc và ngăn không cho họ lấn tiếp. Người ta cũng cho rằng ông Giang Trạch Dân sang thăm Việt Nam là để tỏ thiện chí (?) và tìm cách xoa dịu đi vấn đề này bằng những lời hứa viện trợ hay giúp đầu tư cho Việt Nam. Tất nhiên đó là cách giải thích nội bộ. Còn báo chí thì vẫn như xưa, tức là nói ‘như nghị quyết’ hoặc chẳng nói gì.
Sang chuyện cơn sốt bất động sản. Xin phép được viết tắt như các báo trong nước là Bờ Ðờ Sờ (BÐS). Một vài vị trí thức và quan chức nhà nước nói cho tôi biết rằng đây là chuyện chứng tỏ Việt Nam còn chưa giải quyết được những khái niệm cơ bản cho một nền kinh tế bình thường và một xã hội bình thường. Nguyên nhân của cơn sốt Bờ Ðờ Sờ chính là chỗ đất ở Việt Nam vô chủ. Nghe tưởng đùa mà hoá thật. Chính báo Pháp Luật của Bộ tư pháp có bài giải thích rõ ràng những lý do khiến giá nhà đất ở Hà Nội vọt lên cao vào loại nhất thế giới. Theo bài báo đó thì Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng do nhà nước làm chủ. Nhà nước là ai nếu không phải các cơ quan chính quyền các cấp và các vị quan chức. Luật pháp giao cho chính quyền một nhiệm vụ nặng nề không kham nổi là quản lý đất đai trên cả nước như một khối tài sản khổng lồ nhưng lại không được coi là hàng hoá. Một vị quan chức ngành quản lý đất đai đã nói " Ðất là vô giá nên không thể coi là hàng hoá " dù ông ta cũng công nhận rằng có một thị trường BÐS và người dân vẫn mua bán đất vì thị trường coi đó là hàng hoá. Những khái niệm quái gở này khiến cho đất vừa là vô chủ, vừa vô số chủ. Một cơ quan nhà nước có thể ‘nhảy dù’ vào một mảnh đất ở ngoại ô Hà Nội. Sau khi trả tiền mua quyền sử dụng là có thể bán lại quyền đó kiếm lời. Vì luật phủ nhận quyền sở hữu nhưng công nhận quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt. Một anh dân nghe tin khu ruộng nào đó sắp được quy hoạch thành mặt đường là có thể mua lại hay nhảy đến chiếm rồi biến đất canh tác thành đất xây dựng, buộc nhà nước hay nhà đầu tư phải bỏ tiền ra bồi thường nếu muốn xây dựng gì đó. Có người bị hàng xóm xây lối đi mới chỉ để cho một cái ngách chừng 30 cm vào nhà của mình, khi ra vào phải đi nghiêng người. Kiện ai bây giờ khi chính quyền bất lực trong việc thi hành luật. Tóm lại, người ta cứ buôn bán, đầu cơ, chiếm hữu đất và xây dựng tuỳ ý một khi có đủ ‘lực’ đủ thần thế, tiền bạc hay độ ‘Chí Phèo’ để chiếm đoạt. Ở cả những khu phố đã xây xong người ta vẫn cứ cơi nới khiến có cảnh cả một dãy phố chạy thẳng nhưng có ngôi nhà chồi ra chừng 1,5 mét. Không rõ thêm được bao nhiêu diện tích bên trong nhưng người ta cứ làm theo một thói quen chiếm đoạt, tranh phần, bất chấp thiên hạ. Cũng có chuyện xây trái luật xong bị phường phố cho xe đến ủi đi nhưng đa số các vụ việc như vậy chỉ kết thúc ở mức chịu phạt. Mà nếu người ta ‘chì’ không nộp phạt hay xây xong bán nhà đi rồi biến thì chính quyền cũng chẳng có cách nào khác. Ở Việt Nam không thể làm giống như ở Phương Tây là ‘giam’ tài khoản hay bắt tù nếu ai đó trốn nợ, trốn tiền phạt.
Chuyện đất cũng được nhắc đến khi tôi hỏi về những vụ bất ổn tại vùng Tây Nguyên. Sự phát triển kinh tế, đà tăng dân số ở các vùng đồng bằng và biên giới phía Bắc tạo ra một làn sóng di dân lên những vùng của người vùng núi cao nguyên miền Trung. Nhà nước dùng quyền sở hữu ‘toàn dân’ về đất đai để khoanh gom rừng vào dưới sự quản lý và khai thác của các lâm trường. Những vùng đất khác thì được giới trồng cà phê bỏ tiền vào đầu tư. Ngoài cả triệu người Kinh là hàng chục vạn dân Tày Nùng từ các tỉnh phía Bắc tràn vào, hoặc lập ra các làng tự phát của họ, hoặc được bố trí khẩn hoang đất đai để sinh sống. Cán cân dân số nay khác xưa. Người bản địa trở thành thiểu số thực sự trên quê hương mình. Họ cũng không theo kịp đà phát triển và bị đẩy ra ngoài lề cuộc khai thác tàn bạo đất và rừng vì lợi nhuận. Họ cũng chẳng được giúp đỡ gì cho tới gần đây, khi vấn đề đã bùng nổ và chính quyền trung ương ý thức được nguy cơ tiềm tàng của xung đột. Ngoài ra, chính ý thức về sự tồn tại của dân tộc họ được khơi dậy bởi chính những người thiểu số có học, được chính quyền đào tạo. Và dù họ có liên lạc với các nhóm người Thượng hải ngoại thì đó cũng chỉ là cách tìm sự giúp đỡ chứ không phải là nguyên nhân chính khiến họ biểu tình. Cho tới nay tình hình Tây Nguyên đã tạm yên nhưng rõ ràng là chính quyền vẫn tiếp tục lo lắng và bộ máy truyền thông cùng các cơ quan từ nghiên cứu đến kinh tế xã hội đang tập trung nhiều sức lực vào đề tài này. Có vị nói với tôi là giới sĩ phu Bắc Hà đùa rằng nhà nước đang sợ nhất ‘Bốn Ông Tây’: Tây Bắc với vấn đề người Hmong và biên giới với Lào, Trung Quốc, Tây Ninh với đạo Cao Ðài, Tây Nguyên với người Thượng và Tây Nam với người Khmer và Campuchia. Khong biết thật hay đùa đến mức nào nhưng nếu đó là chuyện nghiêm túc thì lại thấy làm lạ là chẳng có ông Tây Âu, Tây Mỹ. Hay ‘diễn biến hoà bình’ không còn là đề tài trọng tâm ?
Nói đến đất không thể không nói đến nước. Nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt đang là một vấn đề ở Hà Nội. Các nguồn nước và các dòng sông đang bị ô nhiễm vì công nghiệp hoá kiểu thô sơ với công nghệ cấp thấp. Nhiều người không dám ăn các món truyền thống như ốc, ếch, tôm cua vì sợ nhiễm chì, nhiễm hoá chất có trong bùn, trong nước ở đồng ruộng và ao hồ. Ðiều đáng nói là cách giải quyết của Việt Nam vẫn là dùng bộ máy truyền thông của nhà nước để nêu cao tinh thần và ý thức, dùng các phong trào vận động quần chúng kiểu ngày xưa để xử lý các vấn đề hoàn toàn có tính pháp lý và kỹ thuật. Chẳng hạn như con sông Cầu có tiếng là thơ mộng, từng đi vào thơ ca trước đây nay bị ô nhiễm nặng vì các nhà máy, các xí nghiệp công nghiệp thải nước bẩn ra. Chính quyền đã phát động một phong trào tập hợp hàng nghìn đoàn viên thanh niên ở một loạt tỉnh nằm dọc con sông này tham gia một chương trình cứu dòng sông. Họ trống dong cờ mở kéo đến một bãi sông chỉ để nhặt giấy bẩn và thu lượm rác trên bờ và tất nhiên chiến dịch được coi là thành công tốt đẹp. Một ví dụ của việc phí sức người và thời gian. Một món võ cũ cho một sân đấu mới. Trong khi đó các nhà máy vẫn tiếp tục thải chất độc ra sông. Phải chăng các giám đốc đã lo trên lót dưới đủ đường nên chẳng cơ quan nào đến thanh tra họ ? Và nếu có thanh tra và bắt phạt đi nữa thì chẳng nhẽ đóng cửa nhà máy, đuổi công nhân ra đường ? Xét cho cùng người ta cũng chỉ có công nghệ loại độc hại đó thôi. Kỹ thuật cao và an toàn cho môi sinh đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn. Cái đó Việt Nam sẽ muôn đời thiếu. Và trong cái vòng luẩn quẩn ấy dân chúng chỉ có cách sống ‘an toàn là bạn’. Sợ thì đừng ăn uống bậy mà nếu lỡ số đen bị ngộ độc thực phẩm, dị ứng, tróc da rụng tóc thì ráng mà chịu.
Chuyện của người
Sang chuyện của con người. Góc Hà Nội cũ ngàn năm văn vật nay nhỏ bé đi nhiều so với tầm vóc vươn rộng ra các vùng trước là ngoại ô. Qua lại khu Ba Sáu Phố Phường chỉ thấy nhiều Tây ba lô, du khách châu Á hơn là chính dân thủ đô mua bán. Những điểm ăn uống đặc sản hay quán nhậu, quán cà phê thì đã chạy xa khu phố tạm gọi là cổ từ lâu. Tính gần gần có phố ẩm thực chỗ phố Tống Duy Tân nhưng nó đúng ra đã thuộc về khu phố Tây ngày xưa chứ không còn là Ba Sáu Phố Phường. Các khách sạn to lớn sỗ sàng mọc lên ở nhiều phố cũng khiến cho tầm vóc của khu trung tâm ngày xưa còm cõi đi. Con người cũng lui về các vùng được coi là rộng rãi, thoáng đãng hơn và nhất là được quy hoạch thành đường thành phố lớn hơn, rộng rãi hơn như hướng lên Cầu Giấy, Hoà Lạc hoặc quận Tây Hồ. Nhưng những khu mới nay chưa có sức hấp dẫn cho giới trẻ. Vì thế chiều về, các đám trai gái vẫn lượn xe máy quanh mấy cái hồ và khu Ba Ðình chứ ít ra những vùng xa hơn. Con người Hà Nội sau chừng 15 năm Ðổi Mới đã dạn dĩ hơn với những điều lạ đến từ bên ngoài. Người ta như mất đi cái hào hứng của những năm đầu thời mở cửa. Những đợt phim từ phương Tây, phim Trung Quốc, Hàn Quốc đã vào ồn ào và chỉ để lại không bao nhiêu dấu ấn. Cách ăn mặc bắt chước Tây Tàu, cách xây nhà đắp cửa kiểu chơi ngông nửa Âu nửa Á, cách đón nhận các sự kiện chính trị trong vùng và trên thế giới đều mất đi độ say mê. Khó có thể nói đó là một sự chùng xuống để cảm và nhận ra bản lai diện mục hay là một nỗi bi quan vì thấy Việt Nam đã ở đàng sau thế giới và khu vực quá xa. Khi nói chuyện với người dân thường, cán bộ nhà nước hay đôi ba văn nghệ sĩ tôi đều cảm thấy điều này. Xét ra trong số những người tôi gặp ai cũng đã từng đi ra nước ngoài, ít ra thì cũng đến các nước Ðông Nam Á, châu Úc. Nhiều người đã từng đi châu Âu, Bắc Mỹ trở về. Họ tin gì ? Họ nghĩ gì về Việt Nam ? Khó có thể biết được vì có thể nói lượng thông tin họ nhận được không phải là ít. Nhưng ai cũng như băn khoăn về một hướng đi dứt khoát cho đất nước. Hình như họ cũng hiểu chính bây giờ cần thay đổi nhưng họ cũng thấy thay đổi tổng thể không phải dễ. Tôi đã hỏi nhiều người, từ cậu sinh viên từ tỉnh lên, từ bác bán bánh đầu phố đến những trí thức nhiều bằng cấp là Việt Nam có cần phải thay đổi chế độ chính trị thành dân chủ, có bầu cử tự do, có truyền thông trung thực hay không. Câu trả lời là sớm muộn Việt Nam cũng sẽ ‘phải theo trào lưu thế giới’ mà thôi, nhưng họ không rõ là nên đi nhanh hay đi chậm, là làm thế nào. Họ cũng lo ngại rối loạn và sợ mất đi những gì đạt được những năm qua. Có những người không hiểu và không có đòi hỏi chính trị vĩ mô thì nói là cần phải làm thế nào để ngành công an phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nhiều hơn. Họ kể những chuyện bộ máy công lực lạm dụng quyền chức, những vụ tham nhũng, hành dân và phàn nàn rằng đài báo thì hiếm khi dám đề cập đến đề tài công an. Có người cho rằng bầu cử Quốc hội lần này có tiến bộ hơn trước vì cử tri được gặp các ứng cử viên để nghe về chương trình hành động và vì số đại biểu chuyên trách sẽ tăng lên chừng 25 % gì đó. Nhưng cũng có người cho rằng tổ chức bầu cử rầm rộ là để giải toả sức ép trong giới cựu chiến binh, cán bộ về hưu và có người thì cho là bầu cử làm gì tốn thời gian bởi trước bầu cử người ta cũng ‘cơ cấu’ hết các chức vụ cao cấp rồi và chẳng biết chế độ kiểm phiếu nghiêm túc đến mức nào. Nhưng điểm chung là ai cũng thấy rằng Việt Nam lạc hậu về chính trị ngay cả so với khu vực, chưa nói gì đến chuyện so với Phương Tây và hướng đi dân chủ hoá là không thể tránh khỏi. Từ cách nói ‘ta là lương tâm nhân loại’, là con đường thế giới phải noi theo người ta đã khiêm tốn hơn đến chỗ chỉ nói về những đặc tính Việt Nam khiến cho các giải pháp bên ngoài, chẳng hạn như dân chủ đa nguyên, là chưa thích hợp. Chứ không còn thấy nói rằng Việt Nam là đúng là đỉnh cao này đỉnh cao nọ.
Nhìn các chương trình tivi và xem phản ứng của người dân là có thể thấy phần nào luồng tư tưởng tự phát, tự suy diễn, tự lý giải vẫn còn rất mạnh, bất chấp luồng chính thống. Chuyện đơn giản như xem quảng cáo một sản phẩm thương mại. Người ta cứ xem nhưng có khi ra phố vẫn cứ mua một cái gì khác, nhất là khi tin vỉa hè, tin đồn nói rằng phải một thứ gì khác mới hay, mới thật. Các chương trình truyền hình suốt ngày giới thiệu cái hay cái đẹp của các dân tộc thiểu số, ‘tua’ các bài ca cách mạng, giới thiệu các gương mặt cựu chiến sĩ Ðiện Biên, nhà văn vượt Trường Sơn năm xưa v.v. nhưng người Hà Nội chẳng thấy ai tỏ ra quan tâm đến người dân tộc, có chăng là lên Sa Pa hay Lào Cai đi chơi cho khoái chí. Cũng chẳng ai ‘hơi đâu’ để ý đến tình cảnh của những cựu chiến binh nghèo và hay bất mãn. Học sinh sinh viên thì bỏ hết sức lực và thời gian để ‘nhồi’ tiếng Anh và vi tính. Văn thơ cách mạng họ chỉ học cho phải phép, để thi cử nhưng rất tiết kiệm cảm xúc thực. Ðơn giản là vì những thế hệ bây giờ sinh ra và lớn lên quá xa thời kỳ hào hùng của cha ông họ. Họ cũng chứng kiến bậc cha anh vỡ mộng như thế nào, vồ vập với hàng nhập ngoại như thế nào, bon chen như thế nào để họ có xe máy lượn quanh phố phường, có thời gian đi hát karaoke hay quá mức nữa là đùa với những căn bệnh chết người của thời hiện đại. Và khi nói đến những tệ nạn xã hội người Hà Nội cho tôi biết một khái niệm mới về sự giàu có. Giàu là nuôi được hai thằng nghiện cho đến chết. Một khái niệm về chuyện có tiền của lâu bền chứ không giàu nổi như ngày xưa vốn được tính bằng nhà đất, cây và chỉ vàng.
Tuy thế, cũng xin đừng nghĩ rằng thanh niên chỉ có những kẻ nghiện. Thanh niên Hà Nội và thanh niên, sinh viên từ các tỉnh khác, từ vùng nông thôn vào Hà Nội đi làm và đi học trông đàng hoàng, chững chạc hơn xưa rất nhiều. Tôi nhớ hồi chính mình còn là sinh viên chỉ có chiếc xe đạp ‘còm’ đi lượn vòng quanh nhà bạn bè. Thanh niên bây giờ gần như ai cũng có xe máy, kể cả những bạn từ tỉnh xa về học. Số đi xe đạp và sống ở các ‘ký túc xá’ có lẽ chỉ còn là những người từ nông thôn ra, nhà nghèo nên chỉ đủ tiền ăn học. Nói chuyện với một bạn sinh viên từ một tỉnh xa đến Hà Nội. Cuộc nói chuyện cho thấy, như các nhà nghiên cứu chính trị đã chỉ ra từ lâu nay, khi kinh tế và mức sống phát triển đến một mức nào đó thì ý thức chính trị xã hội của con người ta cũng tăng. Trái với những điều nhiều người thường cho rằng thanh niên Việt Nam không quan tâm đến chính trị, anh sinh viên này nói anh và các bạn đều quan tâm đến những chuyện đang xảy ra trong nước và thế giới. Anh kể : " Hồi ông Nông Ðức Mạnh lên, bọn em cũng tụ tập bàn tán nhiều lắm. Ông ấy là người thế nào ? Sẽ làm được gì cho đất nước ? ". Hay gần đây là " Ông Lê Minh Hương là người thế nào ? Bộ trưởng Công An sao không trả lời báo chí về chuyện giải quyết các vụ tham nhũng lớn ". Rồi chuyện Bin Laden, Mỹ, Afghanistan v.v. Theo anh này thì nhiều sinh viên cho rằng vấn đề chống tham nhũng không thể giải quyết được nếu không có những quyết định chính trị dứt khoát. Nhưng khi hỏi bạn nghĩ thế nào về một mô hình chính trị, xã hội mới thì anh sinh viên này không biết trả lời ra sao. Nhiều bạn trẻ Việt Nam, nhất là từ các tỉnh đến Hà Nội tỏ ra không hài lòng trước chuyện họ không có được cơ hội và quan hệ như người cùng lứa ở thành phố. Nhưng họ không nghĩ đó là vấn đề thuộc về thể chế, chẳng hạn như chế độ hộ khẩu là một sản phẩm đặc trưng của chế độ toàn trị, mà cho rằng đó là những thứ bất công hiển nhiên có ở Việt Nam. Vì thế họ không hài lòng nhưng phải tìm cách ‘đi đường vòng’ để tìm cách giải quyết chứ không chống trên nguyên tắc.
Bữa cơm toàn cầu hoá thay đoạn kết
Tôi về rồi lại đi và tự ý thức được rằng nói thì rất dễ, làm mới khó. Những vấn đề như dân số, đất đai, ô nhiễm môi trường và sự thiếu vắng những bước giải quyết cơ bản về chính trị, xã hội là những điều người sống trong nước đang phải chịu, phải đương đầu. Những vấn đề đó không phải chỉ riêng Việt Nam mới có, kể cả chuyện di dân, tranh chấp đất đai và xung đột ở từng điểm như tại Tây Nguyên. Vấn đề là ở chỗ bộ máy quan liêu khổng lồ của Việt Nam, vốn được xây dựng để kiểm soát hơn là để tạo điều kiện phát triển nay đang phải thay đổi để gánh vác một nhiệm vụ quá nặng nề. Cỗ xe đó cần được đặt trên một đường rầy chính trị rõ ràng để tiết kiệm tài sản, vốn liếng, tài nguyên và sức người. Trong khi đó, dân chúng vẫn cứ xoay xở, tìm giải pháp riêng của mình, như một đàn kiến chạy quanh. Sang châu Âu, sang các nước trong vùng và đi xa hơn nữa. Từ Hà Nội tôi trở lại Bangkok vào làm việc với văn phòng của BBC chừng vài giờ. Ðến tối, một anh bạn ở Ban tiếng Thái dẫn đi khu Patpong xem chợ bán đồ rởm và khu phố đèn đỏ. Ôi trời, sao mà nóng, bụi bậm, ồn ào và chen chúc. Sau khi đi một vòng khu đó, chúng tôi qua đường vào một quán ăn đồ biển ngay trên vỉa hè mà anh bạn nói là đặc trưng Thái Lan. Ngồi đặt món mới phát hiện ra là tất cả những người làm ở đó đều là dân từ Hà Tĩnh chạy sang. Có cô gái nói cô đi bộ vượt rừng sang được chừng vài tháng, có một cậu khác kể đã ở đây được hơn một năm. Họ thuê mặt vỉa hè và mở quán, thỉnh thoảng chi tiền cho cảnh sát để không bị đuổi. Vào bữa ăn vui vẻ tôi hỏi chuyện thêm thì càng thấy thú vị là chẳng ai là người Thái cả. Anh bạn của chúng tôi hoá ra có cha mẹ là người Hoa dù anh sinh ra và lớn lên ở Bangkok. Các chủ quán và hầu bàn người Việt còn người nấu bếp là dân Miến Ðiện. Thế mà món ăn lại rất Thái, theo như khẳng định của anh bạn. Anh cũng ngạc nhiên rằng không nghĩ rằng mấy người làm quán là Việt Nam vì họ nói tiếng Thái rất chuẩn, tuy có lúc hơi chậm. Chà, người Việt ta giỏi thật. Cứ thế, chúng tôi ngồi ăn uống, nói chuyện trên vỉa hè Bangkok, không xa khu phố kinh doanh sex thật xô bồ, nơi các ông bà Tây Tàu đủ loại đến mua vui hoặc đi lượn cho thỏa chí tò mò. Ở đó, chắc chắn là có những cô gái đủ các dân tộc khác nhau đang hì hục kiếm sống trong tiếng nhạc nhảy đến ù tai. Nhạc của thời toàn cầu hoá ? Nếu cho là như một thời kỳ dù thích hay không cũng phải công nhận là rất hết sức thú vị.
NGUYỄN GIANG
Chỉnh sửa lần cuối: