6. Cân bằng trình độ?
Còn có một quan điểm khác cũng cần phải đề cập tới: đó là quan điểm cho rằng cần phải hạn chế tuyển sinh đại học vì hiện đang có sự mất cân đối trong công tác đào tạo của nước ta: Có quá nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng thiếu người có trình độ trung cấp hay cao đẳng. Bởi vậy cần phải hạn chế số lượng tuyển sinh vào đại học để buộc một số học sinh phải học trung cấp hay cao đẳng.
Ðây thực ra là một quan điểm có phần ngụy biện. Không ai có thể phủ nhận được rằng, thi cao đẳng hiện nay cũng khó chẳng kém gì đại học và tỷ lệ thi trượt vào các trường trung cấp hay cao đẳng cũng rất cao, thường thì cũng phải 1 chọi 6-7 trở lên. Ngay như hệ đại học tại chức cũng đã có tỷ lệ thi trượt là 1/6-7 hoặc cao hơn nữa.
Mặt khác, nếu nói là nước ta đã có quá nhiều người tốt nghiệp đại học thì lại càng sai, vì nước ta hiện đang được xếp vào những nước có tỷ lệ dân số đạt trình độ đại học trở lên thấp nhất của khu vực và trên thế giới. Ngay bên cạnh ta, các nước đang phấn đấu để đạt được tỷ lệ tuyển sinh đại học là 60 - 80% hoặc cao hơn nữa, trong khi chúng ta mới chỉ đạt được khoảng 10 - 15%.
Chỉ cần nêu một vài quan điểm thường được đưa ra để giải thích tình hình tuyển sinh căng thẳng hiện nay chúng ta đã có thể thấy được rằng cần phải xác định đúng nguyên nhân gây nên tình trạng này. Vậy, đâu là nguyên nhân gây nên tình trạng tuyển sinh đại học và cao đẳng hết sức căng thẳng như hiện nay?
Câu trả lời sẽ liên quan đến hai bình diện: Thứ nhất, đó là sự "bùng nổ dân số". Khái niệm này chắc không xa lạ với nhiều người, nhưng hiểu cho đúng và đưa ra được đối sách hợp lý để khắc phục hậu quả của nó thì không phải là một điều đơn giản. Và đó cũng chính là bình diện thứ hai của câu trả lời: Trong lĩnh vực giáo dục, chúng ta đã không phản ứng đúng và nhanh trước hậu quả của sự bùng nổ dân số.
Bùng nổ dân số bao giờ cũng dẫn tới hai kết quả. Dân số tăng vọt và xã hội có dân số trẻ. Tỷ lệ dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các nhu cầu về dịch vụ xã hội, trong đó giáo dục và y tế là hai lĩnh vực chịu nhiều sức ép nhất. Nhu cầu về cái ăn, cái mặc đối với một nước có thời điểm kinh tế thấp như Việt Nam ta không phải là lĩnh vực đáng ngại lắm, vì chỉ cần giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mức tăng dân số là chúng ta duy trì được sự cải thiện đời sống hay ít nhất cũng giữ được mức sống cũ. Giáo dục hay y tế lẽ ra cũng phải đi theo hương đó để không bị tụt hậu so với nhu cầu.
Chúng ta hãy làm một sự so sánh: Năm 1967 - 1968, dân số nước ta vào khoảng 36 triệu người. Vào khoảng đầu những năm 90, dân số nước ta đã tăng lên gấp đôi, tức là khoảng 72 triệu người, còn nếu tính tới thời điểm hiện nay thì con số đó đã lên đến khoảng 80 triệu. Giả sử, chúng ta muốn duy trì một quy mô giáo dục của đất nước giống như quy mô của những năm 60 và 70, chúng ta đã phải tăng quy mô đào tạo lên gấp đôi vào đầu những năm 90.
Thế nhưng, còn phải tính đến một yếu tố khách quan nữa, đó là: trong khoảng thời gian những năm 60 và 70 đó, nước ta đã có một số điều kiện khiến cho quy mô đào tạo của đất nước không phản ánh đúng nhu cầu giáo dục của xã hội: đất nước còn đang trong chiến tranh, một số lượng lớn thanh niên phải tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu; mỗi năm, có hàng nghìn học sinh tốt nghiệp phổ thông được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Nếu tính gộp cả lại thì quy mô đào tạo của đất nước trong những năm đó phải lớn hơn rất nhiều. Ðương nhiên, một đất nước đang phát triển nhanh như đất nước ta, không thể phấn đấu để đạt quy mô giáo dục và đào tạo của những năm 60 và 70. Nghĩa là lẽ ra quy mô đào tạo của đất nước ta ở những năm đầu của thế kỷ 21 này phải tăng khoảng 3-4 lần so với quy mô của thời gian đó.
Tuy nhiên, sự việc lại không chỉ đơn giản như vậy. Bùng nổ dân số còn tạo ra một yếu tố rất quan trọng khác có tác động rất lớn tới các nhu cầu giáo dục và đào tạo - đó là tạo ra một xã hội dân số trẻ. Xã hội dân số trẻ là xã hội có tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học tăng lên nhanh chóng. Việt Nam hiện là nước có dân số trẻ như vậy: Trẻ em dưới 15 tuổi hiện đang chiếm tới 40% toàn bộ dân số đất nước, nghĩa là chúng ta có khoảng 32 triệu trẻ em đang ở độ tuổi học phổ thông cấp I và cấp II.
Rất may là chúng ta có chính sách phổ cập giáo dục buộc phải thu nhận tất cả các trẻ em trong độ tuổi đến trường nên không có áp lực lớn lắm đối với việc tuyển sinh ở các cấp I và cấp II. Song, đối với cấp III, do có chế độ thi tuyển nghiêm ngặt hơn và có sự phân biệt các hệ đào tạo và đặc biệt là do không tính toán cụ thể đến sự tăng trưởng của nhu cầu giáo dục nên áp lực đã rất lớn.
Học sinh đi thi vào cấp III hiện nay có lẽ còn căng thẳng hơn thi đại học trước đây. Hàng năm, dân số nước ta được bổ sung thêm khoảng 1,2 - 1,3 người và tất cả số này đều phải được đi học. Chỉ cần 10 hoặc 15% số này có nhu cầu vào đại học (một tỷ lệ rất thấp so với nhiều nước đang phát triển) thì hàng năm các trường đại học của ta sẽ phải tăng số lượng tuyển sinh lên khoảng 120.000 - 195.000 người. Xin lưu ý: đây là số lượng tuyển sinh cần phải tăng lên hàng năm.
Trong khi đó thì chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Ðào tạo dành cho các trường có những năm hầu như không thay đổi hoặc chỉ tăng lên chút ít. Thời gian gần đây, chỉ tiêu tuyển sinh có tăng lên khá hơn nhưng cũng không dựa trên một sự tính toán khoa học nào: năm 2001 tăng lên 13.000 người (từ 147.000 tăng lên 160.000), nhưng năm 2002 này chỉ tiêu đó lại chỉ tăng lên 8.000 người (từ 160.000 lên 168.000). Tổng cộng, năm 2002, số lượng tuyển sinh đại học và cao đẳng thuộc các hệ ở nước ta ước chỉ vào khoảng trên dưới 200.000!.
Con số tuyển sinh này thậm chí mới chỉ bằng con số tuyển sinh cần phải tăng lên hàng năm. Ðể thấy rõ hơn vấn đề này, ta hãy lấy một cái mốc là năm 1989. Ðó là năm có thể coi như chúng ta không còn được gửi nhiều sinh viên đi du học ở nước ngoài nữa. Khi đó, dân số nước ta vào khoảng 64 triệu người và tốc độ gia tăng trung bình của dân số những năm trước đó là 1,2 triệu người/năm. Số lượng tuyển sinh của năm đó ở nước ta là khoảng 100.000 người (một con số quá ít so với quy mô dân số lúc bấy giờ).
Như vậy, theo sự tính toán ở trên thì năm 1990, lẽ ra các trường đại học của ta phải mở rộng quy mô đào tạo lên gấp đôi. Và cứ như vậy, để giữ được trình độ dân trí (tức là tỷ lệ người có trình độ đại học) như năm 1989 thì năm 1999, ngành giáo dục và đào tạo lẽ ra phải tăng quy mô tuyển sinh lên 10 lần. Ðiều đó đã không xảy ra. Và đó chính là lý do tại sao tỷ lệ tuyển sinh một số trường đang từ 1/2 - 3 tăng lên 1/20 - 30 và năm 2001 vừa qua đã tăng lên 1/70 - 80.
Chắc chắn mùa tuyển sinh năm nay sẽ còn cao hơn nữa. Nếu vấn đề mấu chốt này không được giải quyết thì trong vòng vài năm tới, tình hình sẽ cực kỳ căng thẳng và có thể không còn kiểm soát được.