Vãn Đường _ Lý Thương Ẩn

Chu Anh Duy
(boytotbung)

Điều hành viên
LÝ THƯƠNG ẨN
(831-858)

Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê sinh. Người huyện Hà Nội (tỉnh Hà Nam). Năm 837 (đời Ðường Văn Tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Ðào, con của Lệnh Hồ Sở mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào việc thư ký và gả con gái cho.Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở, nên ông bị coi là người vong ân. Khi Mậu Nguyên chết, ông có đến kinh thành nhưng không được quan chức gì. Sau nhờ Trịnh Á, ông được bổ làm chức Quan-sát phán-quan. Ba năm sau, về triều, được làm một chức quan nhỏ tại Kinh Triệu. Khi Lệnh Hồ Ðào làm tể tướng, ông có nhiều lần dâng thư trần tình, nhưng không được xét đến. Sau nhờ Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Ðông-Thục, ông được dùng làm Tiết-độ phán-quan, kiểm hiệu Công bộ viên-ngoại-lang. Khi họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Về đất Oanh Dương, rồi mắc bệnh, tạ thế.
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Ðình Quân và Ðỗ Mục, nên người người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Ðỗ. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan và Khinh Phượng. Những bài thơ Vô đề của ông đều được làm ra cốt để tả những mối tình bí ẩn này.
Lý Thương Ẩn có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình giống thơ Ðỗ Phủ. Các nhà thơ thuộc phái Tây Côn chủ trương mô phỏng thơ ông khi sáng tác.
 
Vô Đề

IV.

Tương kiến thời nan biệt diệt nan ,
Ðông phong vô lực bách hoa tàn .
Xuân tàm đáo tử ti phương tận ,
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can .
Hiểu kính đản sầu vân mấn cải ,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn .
Bồng lai thử khứ vô đa lộ ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan .



Dịch nghĩa :
Không đầu đề
Lúc gặp gỡ nhau đã khó , mà chia tay nhau cũng khó .
Gió đông không có sức , trăm hoa héo tàn .
Con tằm xuân đến lúc chết , thì tơ mới hết ;
ngọn nến khi thành tro , thì nước mắt mới khô .
Soi gương buổi sáng , chỉ buồn là tóc mây thay đổi .
Ban đêm ngâm thơ , chắc hẳn biết ánh trăng lạnh lẽo .
Từ đây đi đến núi Bồng Lai , không có nhiều con đường ;
chim xanh vì mình ân cần đi trước thăm dò .

- Bồng Lai : tên của một trong ba ngọn núi tiên ở Bột Hải .
_ Thanh điểu : chim xanh báo tin Tây vương Mẫu đến .

Dịch thơ :

Vô Đề

Xa nhau khó tựa gặp nhau ,
Gió đông không sức , hoa ràu xác xơ .
Thác rồi , tằm mới hết tơ ;
Tàn rồi , nến mới cạn khô lệ sầu .
Soi gương , buồn tóc đổi màu ;
Ngâm đêm , mới biết trăng thâu lạnh lùng .
Có xa xôi mấy non Bồng ,
Dò đường hỏi lối , cây cùng chim xanh .


Bản dịch Trần Trọng San

Đã khó gặp nhau lại khó xa
Gió đông sức cạn rụng trăm hoa
Tằm xuân đến thác tơ đành dứt
Nến sáp khi tàn lệ kiệt sa
Sớm ngắm chạnh buồn mây tóc điểm
Đêm ngâm chợt cảm lạnh trăng tà
Bồng lai đến đó khôn nhiều lối
Dò hỏi chim xanh hậu giúp mà

(khuyết danh)
 
Thường Nga


Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm ,
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm .
Thường Nga ưng hối thâu kinh dược ,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm .

Lý Thương Ẩn .

Dịch nghĩa :
Thường Nga
Bóng nến in đậm trên bình phong bằng đá vân mẫu . Sông Ngân hà dần dần xuống thấp , sao sớm lặn chìm . Thường Nga chắc hẳn hối hận đã ăn trộm thuốc thiêng ; hết đêm này sang đêm khác , phơi bày tấm lòng giữa nơi trời xanh , biển biếc .

Dịch thơ :

Thường Nga

Nến in bình đá đêm dài ,
Sông trời dần thấp , sao mai lặn chìm .
Thường Nga hối trộm thuốc tiên ,
Trời xanh biển biếc , đêm đêm tỏ lòng .

Bản dịch Trần Trọng San .

_ Thường Nga : tức Hằng Nga , vợ của Hậu Nghệ . Hậu Nghệ xin được thuốc tiên bất tử của Tây Vương Mẫu ; Thường Nga lấy trộm thuốc của chồng , chạy lên cung trăng .
 
VÔ ÐỀ

I

Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong
Họa lâu tây bạn quế đường đông
Thân vô thái phượng song phi dực
Tâm hữu linh tê nhất điểm thông
Cách tọa tống câu xuân tửu noãn
Phân tào xạ phúc lạp đăng hồng
Ta dư thính cổ ưng quan khứ
Tẩu mã lan đài loại chuyển bổng

Dịch thơ :

Sao sáng đêm qua gió lộng không
Bên tây lầu vẽ quế đường đông
Thân nào cánh phượng bay muôn sắc
Tâm sẵn sừng tê điểm cảm thông
Chuốc rượu xuân nồng ngồi cách biệt
Chia bên đùa bắn dưới đèn hồng
Ôi nghe trống giục đi chầu chúa
Phóng ngựa lên đài tựa cỏ bồng

(khuyết danh )
 
II

Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung
Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung
Mộng vi viễn biệt ðề nan hoán
Thư bị thôi thành mặc vị nùng
Lạp chiếu bán lung kim phỉ thúy
Xạ huân vi ðộ tú phù dung
Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn
Cánh cách Bồng sơn nhất vạn trùng

Dịch nghĩa :

Hẹn đến thì chỉ là nói suông , mà đi rồi thì mất tăm tích . Trăng xế trên lầu , vẳng tiếng chuông lúc canh năm . Mộng thấy mình xa cách nhau , kêu khóc cũng khó tỉnh giấc được . Trong bức thư bị thúc giục viết cho xong , nước mực đậm dòng .
Ánh nến soi lên một nữa chân lông chim phỉ thúy thêu kim tuyến . Mùi hương xạ thoảng bay qua gối phù dung thêu . Chàng Lưu đã hận núi Bồng Lai xa xôi , mà mình lại ở cách núi Bồng Lai đến vạn trùng .
_ Lưu Lang : Lưu Thần gặp tiên nữ ở núi Thiên Thai .

Dịch thơ :

Mờ mịt tăm hơi , hứa hẹn suông ;
Canh năm , trăng xế, chợt nghe chuông .
Mộng ly biệt mãi kêu khôn tỉnh ;
Thư giục mau xong , mực đậm nồng .
Ánh nến nữa in chăn phỉ thúy ;
Thoảng bay hương xạ gối phù dung .
Bồng sơn đã hận đường xa thẳm ,
Lại cách Bồng sơn một vạn trùng .

Bản dịch Trần Trọng San .

Ðến chẳng nói năng biến tuyệt tung
Canh năm chuông ðiểm gác trăng suông
Mộng làm xa cách kêu khôn tiếng
Thư bị thúc thôi mực chẳng nồng
Nến chiếu lung linh chim phỉ thúy
Hương thơm thoang thoảng gấm phù dung
Chàng Lưu vốn hận non Bồng thẳm
Lại cách Bồng sơn cả vạn trùng

(khuyết danh )
 
III

Táp táp đông phong tế vũ lai
Phù dung đường ngoại hữu khinh lôi
Kim thiềm niết tỏa thiêu hương nhập
Ngọc hổ khiên ti cấp tỉnh hồi
Giả thị khuy liêm Hàn duyện thiếu
Mật phi lưu chẩm Ngụy vương tài
Xuân tâm mạc cộng hoa tranh phát
Nhất thốn tương tư nhất thốn hôi

Dịch thơ :

Rào rạt gió đông mưa nhẹ lan
Ngoài ao sen vẳng sấm vang ran
Cóc vàng ngậm khóa thiêu hương tỏa
Hổ ngọc quay dây múc giếng tràn
Trao gối Mật phi tài chúa Ngụy
Liếc rèm Giả thị trẻ quan Hàn
Lòng xuân chớ với hoa đua nở
Một tấc tương tư một tấc tàn

(khuyết danh )
 
V

Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng
Bích văn viên đính dạ thâm phùng
Phiến tài nguyệt sắc tu nan yểm
Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông
Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám
Đoạn vô tiêu tức thạch lưu hồng
Ban chuy chỉ hệ thùy dương ngạn
Hà xứ tây nam nhiệm hảo phong

Dịch thơ :

Phượng vĩ màn hương mỏng mấy trùng
Canh khuya dệt biếc vấn tầng không
Quạt xòe sắc nguyệt che khôn khuất
Xe chạy vang ầm nói chẳng thông
Đây vốn tịch liêu tàn lửa ám
Nào hay tin tức lựu hoa hồng
Ngựa chuy chỉ buộc bên bờ liễu
Đâu chốn tây nam nhận gió nồng ?

(khuyết danh )
 
VI

Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường
Ngọa hậu thanh tiêu tế tế trường
Thần nữ sinh nhai nguyên thị mộng
Tiểu cô cư xứ bản vô lang
Phong ba bất tín lăng chi nhược
Nguyệt lộ thùy giao quế diệp hương
Trực đạo tương tư liễu vô ích
Vị phương trù trướng thị thanh cuồng

Dịch thơ :

Mạc Sầu nhà kín lớp màn buông
Nằm nghỉ đêm dài lướt mãi không
Thần nữ bến sinh nguyên giấc mộng
Tiểu cô nơi trú bặt đàn ông
Chẳng tin sóng gió mềm nhành ấu
Ai khiến trăng sương ngát quế nồng
Đã biết tương tư nào có ích
Nên chưa buồn thảm hóa thanh cuồng

(khuyết danh)
 
CẨM SẮT


Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhật noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên

Dịch nghĩa :

Ðàn gấm vì sao có 50 dây
Mỗi dây ,mỗi trụ đều gợi nhớ về thời tuổi trẻ
Trang Chu tỉnh giấc vẫn còn mơ về hồ điệp
thục đế tình xuân gửi đỗ quyên
Biển xanh ,trăng sáng ,châu lệ đỗ
Lam điền nắng ấm ngọc tạo thành khói
Tình đó đã sớm trở thành nỗi nhớ nhung về dĩ vãng thủa ban đầu đã sớm qua mau

Dịch thơ :

ĐÀN GẤM

Cẩm sắt vì sao ngũ thập huyền
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ hoa niên
Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp
Vọng đế lòng xuân, gởi Ðỗ quyên
Trăng sáng biển xanh, châu đổ lệ
Khói vương nắng ấm, ngọc Lam điền
Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ
Là buổi đầu tiên, chút nỗi niềm.

Huỳnh Minh Ðức

Cây đàn năm chục đường dây
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ ngày còn xanh
Mơ màng giấc bướm Trang sinh
Lòng xuân Vọng đế , đỗ quyên gửi vào
Biển xanh trăng chiếu lệ châu
Ngọc phơi nắng ấm , khói cao Lam Điền
Tình này đợi nhớ nên niềm
Thế nhưng đã ngậm ngùi duyên bấy giờ

Trần Trọng San dịch
 
Đăng Lạc Du Nguyên

Hướng vãn ý bất thích
Khu xa đăng cổ nguyên
Tịch dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn

Dịch nghĩa :
Lúc sắp chiều tối, ý không thỏa thích ; di xe lên khu đất cổ. Bỗng nắng chiếu đẹp đẽ vô hạn, chỉ có điều là gần hoàng hôn.

_ Lạc-Du nguyên : tên một khu du lãm nổi tiếng tại Trường-An, ở phía bắc Khúc-giang trì. Thơ Ðỗ Mục có câu: “ Lạc-Du nguyên thượng vọng Chiêu lăng” (Trên Lạc-Du nguyên, ngắm cảnh Chiêu lăng).

Dịch thơ :

Lên Lạc Du Nguyên

Chiều hôm lòng buồn bã
Đi xe lên cổ phần
Nắng chiều đẹp vô hạn
Chỉ tiếc sắp hoàng hôn

Trần Trọng San
 
Dạ Vũ Ký Bắc

Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì
Hà đương cộng tiễn tây song trúc
Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì

Dịch nghĩa :
Bạn hỏi ngày về , chưa hẹn được ngày
Mưa đêm núi Ba , đầy tràn ao thu
Bao giờ ở cửa sổ hướng tây , cùng nhau chong đèn
Lại cùng trò chuyện về lúc mưa đêm ở núi Ba

-Núi Ba : trong bài này chỉ những ngọn núi ở miền Tứ Xuyên nói chung

dịch thơ

Đêm mưa , gửi thư cho người phương Bắc

Ngày về khó hẹn cho nhau
Ba Sơn mưa núi hồ thu nước đầy
Bao giờ chung bóng song tây
Còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm

Bản dịch Tương Như
 
TẢO KHỞI

Phong lộ đạm thanh thần
Liêm gian độc khởi nhân
Oanh đề hoa hựu tiếu
Tất cánh thị thùy xuân ?

Dịch nghĩa :

Gió lặng sương êm , sớm mai mát mẻ
Trong rèm có người một mình tỉnh dậy
Chim oanh hót , hoa lại cười
Cảnh xuân thực ra dành cho ai ?

Dịch thơ :

DẬY SỚM

Gió lặng sương êm một sớm mai
Trong rèm thức dậy thật khoan thai
Hoa cười oanh hót trên đầu ngọn
Ngẫm xem xuân sắc dành cho ai ?
 
VỊNH SỬ

Lịch lãm tiền hiền quốc dữ gia
Thành do cần kiệm phá do xa
Hà tu hổ phách phương vi chẩm
Khởi đắc chân châu thủy thị xa
Vận khứ bất phùng thanh hải mã
Lực cùng nan bạt độc sơn xà
Kỷ nhân tằng dự Nam huân khúc
Chung cổ Thương ngô khốc thúy hoa

Dịch thơ

Vịnh Sử

Xem sử người xưa nước với nhà
Thành do cần kiệm, phá - xa hoa
Chi mong hổ phách vuông làm gối
Nào được chân châu mới chiến xa
Vận hết khôn mong thêm hải mã
Lực cùng khó chém nổi sơn xà
Bao người từng dự ca Nam khúc
Kết cục Thương ngô khóc thúy hoa

Ðông A dịch
 
MÃ NGÔI

Hải ngoại đồ văn cách cửu châu
Tha sinh vị bốc , thử sinh hưu
Không văn hổ dữ minh tiêu tích
Vô phục kê nhân báo hiểu trù
Thử nhật lục quân đồng trú mã
Đương thời thất tịch tiếu Khiên ngưu
Như hà tứ kỷ vi thiên tử
Bất cập Lư gia hữu Mạc Sầu

Dịch nghĩa :

Ngoài bể nghe đồn còn có chín châu
Kiếp sau chưa biết thế nào , kiếp này thế là thôi
Luống nghe đoàn quân hùng khua mõ ban đêm
Không còn thấy viên quan kê nhân báo thẻ sớm
Ngày ấy toàn thể quân lính đều dừng ngựa , không chịu tiến bước
Nhớ lại buổi xưa , đêm mùng bảy tháng bảy cùng nhìn sao Ngưu Lang mà cười
Tại sao đã gần bốn mươi tám năm làm vua
Mà không bằng chàng họ Lư có nàng Mạc Sầu

- Mã Ngôi : ở phía tây huyện Hưng Bình , tỉnh Thiểm Tây , nơi trước kia Dương Quý Phi bị thắt cổ chết
- Quan kê nhân : chuyên việc báo giờ trước mỗi buổi sáng
- Mạc Sầu :Người mỹ nữ ở Lạc Dương , lấy chồng họ Lư

Dịch thơ :

GÒ MÃ NGÔI

Ngoài bể nghe đồn có chín châu
Kiếp này chưa chắc , chắc chi sau ?
Chỉ nghe hổ lữ đêm khua mõ
Nào thấy kê nhân sáng gọi chầu
Đương độ lục quân cùng đóng ngựa
Nhớ đêm thất tịch ngửng cười Ngâu
Than ôi , bốn kỷ trên ngôi báu
Mà kém nhà Lư có Mạc Sầu

(khuyết danh )


Ngoài biển nghe đồ, lại chín châu ;
Kiếp sau chưa biết , kiếp này sao !
Mõ đêm hổ trướng rền vang mãi ;
Thẻ sáng kê nhân chẳng thấy nào .
Buổi ấy sáu quân đều buộc ngựa ,
Bấy giờ Thất Tịch cợt Khiên ngưu .
Bốn mươi năm lẻ làm Thiên tử ,
Mà kém chàng Lư có Mạc Sầu ?


Bản dịch Trần Trọng San
 
Back
Bên trên