truyện ngắn O'Henry

Đào Huy Kiên
(spider kien)

Thành viên<br><a href="http://www.hn-ams.org/forum
Vài nét về O'henry
ohenry.jpg



O. Henry là cây bút truyện ngắn có bút lực dồi dào của Mỹ. Ông nổi tiếng với những tác phẩm có kết thúc bất ngờ, những tình huống ngẫu nhiên, pha trộn chất mỉa mai châm biếm và giọng điệu thương cảm, xót xa khi viết về những người lao động bình thường, những con người sống dưới đáy của một xã hội xa hoa, giàu có.

O. Henry tên thật là William Sydney Porter, ông sinh ra tại Greenboro, Bắc Carolina trong một gia đình có bố là bác sĩ. Năm William 3 tuổi, mẹ ông qua đời, William lớn lên trong vòng tay của bà và các cô chú. Không được học hành đến nơi đến chốn nhưng William là một cậu bé mê đọc sách. Năm 15 tuổi, ông bỏ học và làm việc tại hiệu thuốc của người chú ruột ở Texas. Một thời gian sau, ông đến Houston và làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Ông kết hôn với Athol Estes Roach năm 1887 và có một đứa con.

Năm 1894, Porter lập ra tuần báo The Rolling Stone và bắt đầu nghiện rượu nặng. The Rolling Stone nhanh chóng phá sản. Ông chuyển sang làm phóng viên và viết bình luận cho tờ Houston Post, đồng thời công bố những tác phẩm đầu tiên của mình trên báo chí. Năm 1894, khi đang làm thủ quỹ cho một ngân hàng ở Austin, ông bị gọi ra tòa vì nghi ngờ có liên quan đến việc thụt két. Trước nguy cơ phải đối mặt với tù tội, nhà văn bỏ trốn đến Honduras. Không ai biết rõ Porter làm gì trong 2 năm ở đây nhưng một số nguồn tin cho rằng, ông gặp gỡ Al Jennings (nhà văn Mỹ, người từng có một số tiền án, tiền sự về trộm cắp), cùng nhau rong chơi ở Nam Mỹ và Mexico bằng số tiền mà Jenning đánh cắp được. Khi nghe tin vợ mình hấp hối, Porter vội vã trở về Austin. Tại đây, ông bị bắt vì tội biển thủ công quỹ và bị đưa đi cải tạo tại nhà tù Columbus, Ohio. Tuy nhiên, tội trạng của Porter đến nay vẫn còn gây tranh cãi, một số ý kiến cho rằng, ông không thụt két mà chỉ sơ suất trong việc quản lý sổ sách, giấy tờ.

Trong tù, Porter tích cực viết truyện ngắn để kiếm tiền nuôi cô con gái Margaret. Bị kết án 5 năm nhưng sau 3 năm cải tạo tốt, ông được tự do. Sau khi ra tù, ông tiếp tục viết truyện ngắn với bút danh O. Henry. Một số giai thoại cho rằng, bút danh này được Porter sử dụng để tỏ lòng biết ơn đến người cai ngục tốt bụng tên là Orrin Henry. Nhưng O Henry cũng có thể là cách viết tắt của Eteinne-Ossian Henry – tên một dược sĩ người Pháp xuất hiện trong cuốn sách thuốc mà Porter từng tham khảo.

O. Henry chuyển đến New York năm 1902. Từ 12/1903 đến 1/1906, ông tham gia viết truyện đều đặn cho tờ World. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông - Cabbages and Kings (Bắp cải và vua chúa) - xuất bản năm 1904. Tập thứ 2 - Bốn triệu - ra đời 2 năm sau đó, tập hợp những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn như Món quà của các nhà hiền triết, Căn gác xép, Chiếc lá cuối cùng…

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Henry từng xuất bản 10 tập truyện, sở hữu khoảng 600 truyện ngắn. Bút lực dồi dào của ông có thể được so sánh với bậc thầy người Nga Anton Checkhov (1860-1904). Tuy nghiện ngập nhưng rượu chè vẫn không hề ảnh hưởng đến những trang viết của nhà văn. Nhiều sáng tác của ông đã trở thành những truyện ngắn mẫu mực và kinh điển.

Năm 1907, O. Henry tái hôn với Sara Lindsay Coleman – người bạn gái thân thiết từ thuở nhỏ. Nhưng cuộc hôn nhân của hai người không mấy hạnh phúc. Họ chia tay một năm sau đó. Ngày 5/6/1910, ông qua đời vì bệnh gan mãn tính, kết thúc một cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy kịch tính. Câu cuối cùng nhà văn nói trước khi mất là: “Bật đèn lên, tôi không muốn về nhà trong cảnh tối tăm”. Năm 1918, giải thưởng Tưởng niệm O. Henry đã được thành lập tại Mỹ nhằm tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn.

Nguồn: eVăn
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Món quà của các đạo sĩ
Tác giả: O'Henry
Người dịch: Ngô Vĩnh Viễn



Một đô la tám hào bảy xu. Tất cả chỉ có thế. Trong đó sáu hào là tiền xu. Những đồng xu dành dụm được bằng cách cò kè ráo riết với lão chủ hiệu tạp hoá, người bán rau, ông hàng thịt cho đến lúc mà phải nóng rát lên vì thái độ thầm dè bỉu là keo kiệt lối mặc cả quá chặt chẽ ấy gây ra. Đó là lần Đêla đếm đi đếm lại số tiền. Một đô la tám hào bảy xu. Thế mà ngày mai đã là Nôen rồi.

Rõ ràng là chẳng còn làm được gì khác ngoài việc gieo mình xuống chiếc giường nhỏ tồi tàn mà gào khóc. Và Đêla đã làm như vậy. Tình cảnh này khiến người ta phải triết lý rằng cuộc đời chỉ toàn là những tiếng nức nở, những tiếng khóc thét và những nụ cười, trong đó những tiếng thét chiếm nhiều hơn cả.

Trong lúc bà chủ nhà đang nguôi dần từ nức nở chuyển sang thút thít, mời bạn hãy ngó qua căn buồng. Một căn buồng thuê tám đô la một tuần với cả đồ đạc. Đúng ra, không phải là không thể mô tả được căn buồng, nhưng chắc chắn là nó phải đề phòng đội cảnh sát bắt ăn mày đến kiểm soát.

Trong phòng đợi ở tầng dưới, có một hòm thư và một cái nút chuông, nhưng hòm thì chẳng bao giờ có lấy được một bức thư bỏ vào, còn chuông thì chẳng hề có một ngón tay người ấn nút, reo chuông. Ở đấy còn một tấm thiếp mang tên “Ông Giêm Đilingghêm Iơng”.
Thời kỳ sung túc trước đây, khi chủ nó còn được trả 30 đô la một tuần, tấm thiếp “Đilingghêm” đã theo gió bay đi khắp nơi. Bây giờ thu nhập co lại chỉ còn 20 đô la thì những chữ Đilingghêm nom cũng mờ đi như thể thật sự muốn thu mình lại chỉ còn một chữ “Đ” khiêm tốn và nhũn nhặn. Nhưng mỗi khi ông, Giêm Đilingghêm Iơng về đến nhà, leo lên tới buồng mình trên gác, ông ta vẫn được bà Giêm Đilingghêm Iơng - đã được giới thiệu với các bạn là Đêla - ôm choàng lấy mà gọi là “Gim”. Và như thế thật là hạnh phúc.

Đêla thôi không khóc nữa và lấy núm bông đánh phấn sửa sang lại đôi má. Cô đứng bên cửa sổ, ủ rột nhìn một con mèo xám đang đi trên một hàng rào màu xám trong một cái sân cũng màu xám xịt. Ngày mai đã là Nôen rồi, thế mà cô chỉ có một đô la tám hào bảy xu để mua quà tặng Gim. Cô đã hết sức dành dụm từng xu một hàng bao nhiêu tháng trời. Vậy mà kết quả chỉ được có thế. Hai mươi đô la một tuần chẳng được mấy nỗi. Chi tiêu đã vượt quá mức cô dự tính. Bao giờ cũng vậy. Chỉ có một đô la tám hào bảy xu để mua quà tặng Gim. Gim của cô. Cô đã bỏ ra không biết bao nhiêu giờ sung sướng dự tính mua cái gì thật đẹp cho Gim. Một cái gì đẹp, hiếm, có giá trị thật sự , một cái gì có thể tạm xứng đáng với vinh dự được là của Gim.

Trong phòng giữa hai cửa sổ có gắn một tấm gương dài. Có lẽ các bạn đã từng trông thấy một cái gương dài gắn vào tường trong một căn buồng thuê 8 đô la một tuần. Một người thật mảnh dẻ và thật nhanh nhẹn, có thể có được một ý niệm chính xác về dung mạo của mình bằng cách ngắm bóng mình qua một loại hình ảnh phản chiếu rất nhanh trên gương thành những vệt dài. Đêla thanh mảnh nên đã nắm vững được nghệ thuật soi gương ấy.

Bỗng cô rời cửa sổ quay ngoắt lại đến đứng trước gương. Mắt cô sáng lên long lanh, nhưng chỉ hai mươi giây sau, sắc mặt cô đã tái nhợt. Cô vội xổ tóc ra cho xoã xuống.

Xin nói rằng vợ chồng Đilingghêm Iơng có hai vật sở hữu mà cả hai đều rất đỗi tự hào. Một là chiếc đồng hồ vàng của Gim đã từng là của cha và của ông nội anh. Hai là bộ tóc của Đêla. Giả sử như nữ hoàng xứ Seba sống ở căn phòng phía bên đường phố hẹp như một ống thông hơi thì có ngày Đêla sẽ xõa tóc hong khô trước cửa sổ để hạ giá trị tất cả các châu báu, tặng phẩm của nữ hoàng. Ví thử vua Xalômôn là bác gác cửa, có kho tàng của cải chất đầy dưới hầm thì mỗi lần đi qua Gim sẽ rút đồng hồ ra được thấy nhà vua phải bứt râu vì ghen tị.

Cho nên lúc này bộ tóc đẹp của Đêla xõa xuống, gợn sóng và óng ả như một thác nước màu đen. Tóc dài tới quá đầu gối và hầu như tạo thành một chiếc áo dài cho cô vậy. Rồi Đêla lại run run cuộn vội tóc lên. Cô ngập ngừng trong giây lát và đứng im, một hai giọt nước mắt nhỏ xuống tấm thảm đỏ đã sờn.

Cô khoác vội chiếc áo cũ màu nâu, chụp vội chiếc mũ cũ màu nâu lên đầu. Tà váy tung lên, khoé mắt vẫn còn tia sáng long lanh, cô như bay ra khỏi phòng, bay xuống cầu thang, ra phố.


Nơi cô dừng lại có một tấm biển đề “Bà Xôphrôni. Hàng bằng tóc đủ các loại” Đêla chạy một mạch lên cầu thang, rồi trấn tĩnh lại, thở hổn hển. Bà chủ to béo, trắng bệch, lạnh lùng, trông chẳng có gì giống cái tên “Xôphrôni”:

- Bà có mua tóc của tôi không? - Đêla hỏi.

- Tôi mua - Bà chủ đáp. Chị bỏ mũ ra cho tôi xem tóc chị thế nào.
Cái thác nước màu nâu đổ xuống gợn sóng.

- Hai mươi đô la, bà chủ vừa nói vừa nâng mớ tóc lên với một bàn tay thành thạo.

- Bà đưa tiền đây cho tôi nhanh lên - Đêla nói.

Ôi, hai tiếng đồng hồ sau đó đã trôi qua trên đôi cánh màu hồng. Xin các bạn hãy bỏ quá cho cái lối ví von lộn xộn ấy. Cô sục sạo các cửa hàng để tìm quà mua tặng Gim.

Cuối cùng cô đã tìm thấy. Rõ ràng là người ta đã làm ra nó để dành cho Gim chứ không phải một ai khác. Không có gì sánh được với nó ở bất cứ một cửa hàng nào. Mà cô thì đã lục lọi tung bành tất cả các cửa hàng rồi. Đó là một chiếc dây đeo đồng hồ bằng bạch kim, kiểu giản dị và thanh nhã, tự thực chất của nó thôi cũng đã nói lên đầy đủ giá trị của nó rồi, chứ không phải cái lối trang sức hào nhoáng bên ngoài, mọi vật quý đều phải như thế. Ngay cả với chiếc đồng hồ của Gim, nó cũng xứng đáng. Vừa nhìn thấy nó, cô biết ngay rằng nó phải là của Gim. Nó cũng giống như Gim, trầm tĩnh và quý giá. Sự mô tả này hợp với cả hai. Cô đã phải trả mất hai mươi mốt đô la, rồi hối hả trở về nhà với 87 xu còn lại. Có chiếc dây này móc vào đồng hồ, Gim có thể đàng hoàng xem giờ trước bất kỳ một ai. Chiếc đồng hồ quý giá là thế, vậy mà nhiều khi anh ấy cũng phải len lén xem giờ vì không có dây, anh phải dùng một mẩu dây da cũ.

Khi Đêla về đến nhà thì cảm giác say sưa của cô phần nào đã nhường chỗ cho dè dặt và lý trí. Cô lấy cái cặp uốn tóc ra, đốt bếp hơi lên rồi bắt tay vào việc sang sửa lại những tàn phá do lòng rộng rãi cộng với tình yêu đã gây ra. Việc này bao giờ cũng là một công việc to tát, các bạn ạ, một công việc khổng lồ.

Bốn mươi phút sau, đầu cô đã như đầy những móc tóc loăn xoăn xoắn vào nhau, khiến cô giống hệt một cậu học trò lười hay trốn học. Cô chăm chú nhìn mình trong gương một hồi lâu, chăm chú và xét nét.

“Nếu Gim không giết mình trước khi nhìn lại mình lần thứ hai - cô tự nhủ - thì anh ấy sẽ bảo mình giống một cô gái của đội hợp xướng ở Đảo Côni. Nhưng mình làm gì được đây với một đô la tám hào bảy”

Đến bây giờ cà phê đã pha xong, chảo đã đặt lên lò, đã nóng và sẵn sàng để rán món sườn.

Gim không bao giờ về chậm. Đêla gập chiếc dây đeo đồng hồ trong lòng bàn tay và ngồi vào góc bàn, chỗ gần cửa mà Gim thường vẫn đi vào. Rồi còn nghe tiếng chân anh ở tầng dưới, trên cầu thang thứ nhất và trong giây lát, mặt cô tái nhợt. Cô thường có thói quen cầu nguyện thầm về những việc đơn giản nhất hàng ngày và lúc này cô nghĩ thầm: “Lạy chúa, xin chúa hãy làm cho anh ấy nghĩ rằng con vẫn đẹp”

Cửa mở, Gim bước vào rồi đóng cửa lại, trông anh gầy gò và rất nghiêm trang. Tội nghiệp, mới có hai mươi hai tuổi đầu mà anh đã phải nặng gánh gia đình. Anh cần một chiếc áo khoác mới, lại găng tay nữa anh cũng không có.

Gim dừng lại bên cửa, đứng im không nhúc nhích như một con chó săn khi đánh hơi thấy chim cun cút. Mắt anh nhìn Đêla chằm chằm, trong ánh mắt có một vẻ thế nào ấy Đêla không hiểu được, làm cô hoảng sợ, không phải là giận dữ, hay ngạc nhiên, hay chê trách, cũng chẳng phải là kinh tởm hay bất cứ một tình cảm nào mà cô đã chuẩn bị chờ đón. Anh chỉ giương mắt nhìn cô trừng trừng với vẻ lạ lùng ấy.

Đêla vùng dậy rời khỏi bàn, đến bên chồng.

- Gim, anh yêu quý - cô kêu lên - Đừng nhìn em như thế. Em đã cắt tóc bán rồi, vì em không thể nào sống qua Nôen mà không có chút quà gì tặng anh. Rồi tóc em sẽ mọc lại, anh đừng giận em, anh nhé! Em buộc lòng phải làm thế . Tóc em mọc nhanh lắm. Thôi, Gim, anh hãy nói “Chúc mừng Nôen” đi, và chúng ta hãy vui lên. Anh biết không, em đã mua tặng anh một món quà rất đẹp, rất tuyệt.

- Em đã cắt tóc mất rồi à? - Gim hỏi như rặn ra từng lời, tựa hồ anh vẫn chưa nắm được sự việc hiển nhiên ấy ngay cả sau khi đã suy nghĩ rất vất vả.

- Đã cắt tóc và đã bán rồi - Đêla nói - Dẫu sao anh vẫn yêu em chứ? Không còn tóc thì em vẫn là em kia mà, phải không anh?

Gim nhìn quanh phòng một cách lạ lùng.

- Em bảo là em đã bán tóc đi rồi à? - anh hỏi, vẻ gần như ngớ ngẩn.

- Anh tìm làm gì, - Đêla nói - Bán rồi, em đã nói với anh là bán mất rồi mà. Đêm nay là đêm Nôen anh ạ. Hãy yêu em vì em bán tóc đi là vì anh đấy. - Rồi cô nói tiếp, giọng bỗng nhiên nghiêm trang và dịu dàng - Tóc trên đầu em hoạ chăng có đếm được, nhưng không ai có thể đếm được tình yêu của em đối với anh. Gim, em đi rán sườn nhé!

Gim như chợt tỉnh cơn mê. Anh ôm lấy Đêla của anh, trong mười giây đồng hồ, chúng ta hãy kín đáo quay đi phía khác, xem xét một vật gì đó không quan trọng mấy. Tám đô la là một tuần hay một triệu năm, có gì là khác nhau kia chứ? Một nhà toán học hoặc một nhà thông thái sẽ cho bạn một câu trả lời sai. Các đạo sĩ đã đem những món quà quý tới, nhưng trong số đó không có món quà ấy. Điều khẳng đình tối mò này sẽ được làm sáng tỏ dưới đây.

Gim lấy trong túi áo khoác ra một gói nhỏ, ném lên bàn và hỏi.

- Không, Đêla ạ, đừng hiểu lầm về anh. Anh không hề có ý nghĩ cho rằng một kiểu cắt tóc, một kiểu cạo hay một kiểu gội có thể làm anh bớt yêu em của anh đi một chút nào. Nhưng nếu em mở cái gói này ra em sẽ thấy tại sao lúc đầu em làm anh sững sờ đến thế.

Những ngón tay trắng trẻo nhanh nhẹn cắt đứt sợi dây buộc và xé giấy gói. Tiếp theo là một tiếng rú vui mừng đến cực độ, rồi, hỡi ôi, sau đó là một sự biến đổi mau lẹ vốn dĩ của nữ giới chuyển sang những giọt nước mắt xúc động và những tiếng rên rỉ, đòi hỏi vị chủ nhà phải sử dụng ngay tất cả mọi khả năng an ủi, dỗ dành của mình.

Vì rằng nằm trên bàn tay kia là những chiếc lược. Một bộ lược dùng để cài hai bên và đằng sau, mà Đêla đã say mê từ lâu trong một cửa hàng ở phố Brôtuê. Những chiếc lược tuyệt đẹp, bằng đồi mồi thật, viền nạm đá quý, đúng là thứ để cài lên trên bộ tóc đẹp đã mất. Đó là những chiếc lược rất đắt tiền, Đêla biết vậy và cô chỉ dám tơ tưởng, ao ước trong lòng mà không hề có một chút hy vọng nào có được những chiếc lược ấy. Và bây giờ, chúng đã là của cô, nhưng những bím tóc đáng lẽ được trang điểm bằng những đồ trang sức hằng khao khát ấy thì lại không còn nữa.


Nhưng Đêla vẫn ôm lấy những chiếc lược vào lòng và mãi sau cô mới ngước đôi mắt mờ lệ nhìn lên và mỉm cười nói:

- Tóc em mọc nhanh lắm, anh Gim ạ!

Bỗng cô choàng bật dậy như một con mèo phải bỏng kêu to “Ôi, ôi!”
Gim vẫn chưa trông thấy món quà tuyệt đẹp tặng anh. Cô vội xoè rộng bàn tay chìa ra, chất kim loại mờ mờ quý giá như được nhiệt tình rạng rỡ và sôi nổi của cô rọi vào, sáng loé lên.

- Trông đẹp đấy chứ, có phải không Gim? Em đã đi lùng khắp thành phố mới tìm được đấy. Từ nay anh sẽ phải xem giờ mỗi ngày một trăm lần đấy nhé. Anh đưa đồng hồ đây cho em. Em muốn đeo sợi dây này vào, nó sẽ ra thế nào? Gim không làm theo lời Đêla mà lại nằm lăn ra giường, chắp hai bàn tay sau gáy, mỉm cười bảo:

- Đêla, ta hãy dẹp những món quà Nôen của chúng ta lại, để chúng đấy một thời gian. Những món quà ấy đẹp quá chưa thể dùng ngay bây giờ được. Anh đã bán chiếc đồng hồ để lấy tiền mua lược cho em rồi. Nào bây giờ thì em hãy rán sườn đi, được không?

Như các bạn đều biết, các vị đạo sĩ là những con người khôn ngoan, khôn ngoan tuyệt vời, đã mang quà đến tặng đức chúa hài đồng nằm trong máng lừa. Các vị ấy đã phát minh ra nghệ thuật tặng quà Nôen. Các vị ấy là những con người khôn ngoan, cho nên nhất định là quà của các vị ấy cũng khôn ngoan, đem sao chép lại còn có thể có ưu điểm là đổi chác được. Ở đây tôi đã kể lại một cách vụng về cho các bạn nghe câu chuyện không có gì là ly kỳ về hai đứa trẻ ngốc nghếch sống trong một căn buồng nhỏ, đã hy sinh cho nhau một cách chẳng khôn ngoan tí nào những của cải quý giá nhất trong nhà. Nhưng để nói một lời chót với những kẻ khôn ngoan thời buổi ngày nay, ta hãy khẳng định rằng trong số tất cả những người tặng quà thì hai người ấy là những người khôn ngoan nhất. Trong số tất cả những người tặng và người nhận quà những người như họ cũng là khôn ngoan nhất. Ở bất cứ đâu họ cũng là những người khôn ngoan nhất. Chính họ là những đạo sĩ.
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Người con gái



Trên hàng chữ mạ vàng trên nền kính của cánh cửa phòng 962 là dòng chữ: “Robbins & Hartley, môi giới chứng khoán” Người thư kí vừa rời khỏi. Đó là năm phút trước, và với những bước đi nặng nề của một chú ngựa Percheron, những người đàn bà gày gò đang phủ mây đen lên tòa nhà văn phòng hai mươi tầng. Hơi nóng của không khí hòa với vỏ chanh, khói than đá và dầu cá voi chui vào qua những cánh cửa sổ mở hé.
Robbins, năm mươi, mang một nét gì đó gọi là vẻ đẹp của sự thừa cân, say mê những đêm đầu tiên và những phòng khách sạn có trồng cọ, giả bộ ghen tị với người đồng sự được đi làm xa.
“Cậu sẽ có việc gì đó để làm trên chuyến đi tối nay”, anh nói. “Một thằng cha sống ngoài thành phố như cậu có thể ngồi ở hiên nhà nhâm nhi li rượu, ngắm trăng và nghe tiếng dế kêu. Còn gì tuyệt hơn thế?”
Hartley, hai mươi chín, nghiêm túc, gầy, ưa nhìn, nóng tính, thở dài và hơi nhăn mặt.
“Ừ”, anh nói, “Chúng tôi luôn có những đêm mát mẻ ở Floralhurst, nhất là vào mùa đông”.
Một người đàn ông mang một vẻ bí ẩn bước vào cửa và tới chỗ Hartley.
“Tôi đã tìm thấy nơi cô ấy ở”, anh ta thông báo với một giọng gần như thì thầm.
Hartley quắc mắt nhìn anh ta trong trạng thái im lặng tuyệt đối. Trong lúc ấy, Robbins vớ lấy cây gậy, chỉnh lại cà vạt về vị trí ưa thích, và với một cái gật đầu yêu đời rời khỏi văn phòng để đi tìm những thú vui đô thành.
“Đây là địa chỉ”, người thám tử nói với giọng tự nhiên hơn do thiếu mất một người khán giả làm nền.
Hartley cầm lấy một mảnh giấy được xé ra từ một quyển sách trinh thám cũ bẩn. Trên đó là dòng chữ bằng bút chì “Vivienne Arlington, số 341, phố X, đang chăm sóc bà McComus”

“Chuyển đến từ tuần trước”, người thám tử nói. “Bây giờ, nếu ông muốn mọi góc tối trở nên sáng rõ, ông Hartley, tôi có thể làm công việc dạng này không thua bất cứ người nào ở thành phố này. Chỉ cần bảy đô một ngày và phụ trội. Có thể gửi báo cáo đánh máy hàng ngày, kèm theo…”
“Anh chỉ cần làm đến thế thôi,” người broker ngắt lời. “Đây không phải là một trường hợp dạng đó. Tôi chỉ đơn thuần muốn địa chỉ của cô ấy. Tôi phải trả anh bao nhiêu?”
“Một ngày công”, nhà trinh thám nói. “Mười pao”
Hartley trả tiền và để anh ta đi. Sau đó, Hartley rời văn phòng và lên một chiếc xe Broadway. Trên con đường huyết mạch lớn đầu tiên của chuyến đi anh lên một chuyến xe đi về hướng đông và xuống ở một đại lộ sa sút, nơi những kiến trúc xưa từng một thời là niềm tự hào và thiên đường của thành phố.
Đi qua vài quảng trường, anh tới một tòa nhà mà anh đang tìm kiếm. Đó là một dãy nhà mới, khắc trên cánh cổng bằng đá rẻ tiền cái tên nghe rất kêu “nhà Vallambrosa”. Thang thoát hiểm dẫn zích-zắc xuống đằng trước, chất đầy những đồ gia dụng, quần áo đang phơi và những đứa trẻ la khóc bị đuổi ra bởi cái nóng giữa hè. Đây đó một cây cao su nhợt nhạt nhoi lên trên đống đồ tạp nham, như thể thắc mắc về cái vương quốc mà nó đang ở đó là cây cối, thú vật hay nhân tạo.
Hartley nhấn cái nút “McComus”. Cái then cửa được kéo ra nhanh nhẹn bỗng trở nên từ từ và lưỡng lự, như thể đang dò xét xem đó có thể là một người bạn đáng mến hay một kẻ đòi nợ. Hartley bước vào và bắt đầu leo lên gác với cung cách của người đi tìm bạn của họ trong một “dãy nhà khối”, giống như cách một đứa nhóc trèo lên cây táo, dừng lại khi gặp thứ mà nó muốn.
Khi lên tầng bốn, anh thấy Vivienne đứng ở một cánh cửa mở. Nàng mời anh vào trong với một cái gật đầu và một nụ cười tươi sáng, chân thành. Nàng đặt một chiếc ghế gần cửa sổ cho anh ngồi, và tựa mình một cách duyên dáng cạnh một trong những món đồ nội thất Jekyll-and–Hyde.
Hartley ném cho nàng một cái nhìn liếc mắt, thăm dò và tôn trọng trước khi nói, và tự nhủ với mình rằng anh đã chọn không nhầm người.
Vivienne khoảng hai mươi mốt,. Nàng thuộc tuýp người Saxon điển hình. Tóc nàng là một khối vàng hung đỏ, từng sợi nhỏ trên mái tóc gọn gàng tỏa sáng với một nét rực rỡ đặc biệt và một sắc vẻ thanh nhã. Sự hài hòa hoàn mĩ được tìm thấy trên nước da trắng ngà và đôi mắt tựa biển xanh sâu thẳm ngước nhìn thế giới với vẻ ngây thơ dịu dàng của một nàng tiên cá ở một dòng suối chưa được con người biết đến. Thân hình nàng khỏe mạnh và sở hữu vẻ duyên dáng tự nhiên. Dù với tất cả sự rõ ràng về đường nét và màu sắc của người phương Bắc, vẫn còn chút gì ở nàng hương vị miền nhiệt đới, một thứ gì ở sự thiếu sinh khí trên dáng vẻ ủ ê của nàng, ở vẻ nhàn nhã trong cái kiêu kì tinh tế biểu lộ sự thỏa mãn và thoải mái toát lên dù chỉ qua cách nàng hít thở- một thứ gì như cho phép nàng cái quyền được tồn tại như một sản phẩm hoàn mĩ của tạo hóa và được ngưỡng mộ ngang với một bông hoa quí hiếm hoặc vài chú chim bồ câu xinh đẹp, trắng muốt giữa những đồng loại tầm thường.
Nàng vận một chiếc áo chẽn màu trắng và một chiếc váy tối màu- bộ trang phục kín đáo của một cô gái ngây thơ hay một nữ công tước.
“Vivienne”, Hartley nói, nhìn nàng như van vài, “Em đã không trả lời bức thư của anh. Phải mất gần một tuần tìm kiếm anh mới tìm được đến nơi em chuyển đến. Tại sao em để anh phải chờ đợi khi mà em biết anh đang khắc khoải đợi chờ để được gặp em và nghe em nói?”
Người con gái nhìn ra ngoài cửa sổ mơ màng.
“Anh Hartley”, nàng lưỡng lự nói, “Tôi không biết nói thế nào. Tôi hiểu tất cả những lợi ích trong lời đề nghị của anh, và đôi khi tôi cảm thấy chắc chắn mình có thể bằng lòng với anh. Nhưng một lần nữa, tôi lại nghi ngờ. Tôi là một cô gái sinh ra ở thành phố, và tôi sợ không thể hòa mình vào cuộc sống lặng lẽ ở ngoại ô”.
“Cô gái yêu dấu của tôi ơi”, Hartley nói, giọng sôi nổi, “Chẳng nhẽ anh chưa nói với em rằng em có thể có mọi thứ mà trái tim em mong ước trong khả năng mà anh có thể cho em? Em có thể lên thành phố tới nhà hát, đi mua sắm và thăm bạn bè thường xuyên tùy em nếu cần. Em có thể tin ở anh, em có tin không?”
“Hoàn toàn tin”, nàng nói, đưa đôi mắt thành thật tới anh với một nụ cười. “Em biết anh là người đàn ông tử tế nhất, và người con gái nào lấy được anh sẽ rất may mắn. Em đã biết tất cả về anh khi em còn ở nhà Montgomery”.
“Ah!” Hartley thốt lên, với vẻ êm dịu hồi tưởng trong ánh mắt, “Anh nhớ rõ buổi tối anh gặp em ở nhà Montgomery. Bà Montgomery đã khen em trước mặt anh suốt buổi tối. Và bà ấy nói không hề ngoa. Anh sẽ khó có thể quên được bữa tối hôm đó. Nào, Vivienne, hứa với anh. Anh muốn em. Em sẽ không bao giờ hối tiếc vì đã đi với anh. Không ai khác có thể cho em một mái nhà vừa ý.”
Nàng thở dài và nhìn xuống đôi bàn tay đang chắp lại.
Một nỗi nghi ngờ chợt túm lấy Hartley.
“Nói cho anh biết, Vivienne”, anh hỏi, ánh mắt sắc sảo nhìn nàng , “đã có một người khác… đã có một người khác đúng không?”
Nàng đỏ mặt
“Anh không nên hỏi điều đó, anh Hartley”, nàng nói, với thái độ bối rối. “Nhưng em sẽ nói cho anh. Đã có một người khác… nhưng anh ấy chưa có quyền gì… Em chưa hứa gì với anh ấy”.
“Tên anh ta?”, Hartley lạnh lùng yêu cầu.
“Townsend”.
“Rafford Townsend!” Hartley la lên, với cái quai hàm nghiến chặt lại một cách dữ tợn “Sao anh ta có thể đến gặp em? Sau tất cả những gì anh làm cho anh ta…”
“Ô tô của anh ta vừa mới đỗ ở dưới”, Vivienne nói, ngóng qua cửa sổ. “Anh ấy đang đến để nhận câu trả lời. Ôi em không biết phải làm gì!”
Chuông ở bếp kêu reng reng. Vivienne vội vã đi mở then cửa.
“Ở yên đây”, Hartley nói “Anh sẽ gặp anh ta ở dưới nhà”.
Townsend, trông giống một nhà quí tộc Tây Ban Nha trong bộ đồ sáng màu bằng vải tuýt, mũ Panama và bộ ria mép quăn, đi ba bước một lên gác. Anh ta dừng lại khi gặp ánh mắt của Hartley và lúc đó trông anh ta như một gã ngốc.
“Quay lại”, Hartley nói, dõng dạc, trỏ tay xuống dưới gác.
“Hullo!” Townsend nói, giả vờ ngạc nhiên “Sao thế?Anh làm gì ở đây hở ông bạn cũ?”
“Quay lại”, Hartley lặp lại, cứng rắn. “Luật rừng. Có muốn bị xé xác ra không? Tôi sẽ là người giết anh.”
“Tôi tới đây để tìm người thợ ống nước sửa phòng tắm”, Townsend nói một cách dũng cảm.
“Được”, Hartley nói. “Anh nên trát vữa vào cái linh hồn bội phản của mình. Nào, giờ thì quay lại”. Townsend đi xuống, miệng không ngớt làu bàu. Hartley quay lại cuộc theo đuổi của mình.
“Vivienne” anh nói như một mệnh lệnh. “Anh phải có em. Anh sẽ không nhận thêm một lời khước từ hoặc lẩn tránh”
“Khi nào anh muốn có em” nàng hỏi.
“Ngay bây giờ. Ngay khi em sẵn sàng”
Nàng đứng bình thản trước mặt anh và nhìn vào mắt anh.
“Anh đã dừng lại một giây để suy nghĩ chưa”, nàng nói, “rằng liệu em có đặt chân vào nhà anh khi Heloise còn ở đó?”
Hartley co rúm lại như thể bị dính một cú đánh bất ngờ. Anh khoanh tay và đi đi lại lại trên tấm thảm một hai vòng. “Cô ta sẽ đi”, anh tuyên bố dứt khoát, mồ hôi lấm tấm trên trán “Tại sao anh lại để cho người phụ nữ ấy khiến đời anh đau khổ? Chưa ngày nào anh không gặp rắc rối kể từ khi gặp cô ta. Em nói đúng, Vivienne. Heloise phải đi khỏi trước khi anh có thể đưa em về nhà. Nhưng cô ta sẽ đi. Anh đã quyết định rồi. Anh sẽ tống cô ta ra khỏi cửa”.
“Khi nào anh làm điều đó?” nàng hỏi.
Hartley nghiến răng và cau mày.
“Tối nay”, anh nói, giọng kiên quyết. “Anh sẽ đưa cô ta đi vào tối nay”
“Vậy”, Vivienne nói, “câu trả lời của em là ‘có’. Hãy đến đón em khi nào anh sẵn sàng”
Nàng nhìn vào đôi mắt anh với một ánh mắt ngọt ngào, chân thật. Hartley khó có thể tin được sự đầu hàng của nàng là sự thật, nó diễn ra quá nhanh và hoàn toàn.
“Hứa với anh”, anh nói đầy cảm xúc, “hứa danh dự”
“Hứa danh dự”, nàng lặp lại nhẹ nhàng.
Anh quay lại cửa và nhìn nàng trân trân một cách hạnh phúc, nhưng như một người chưa tin vào niềm mong ước đã trở thành hiện thực.
“Ngày mai”, anh nói, với ngón trỏ giơ lên như nhắc nhở.
“Ngày mai”, nàng lặp lại với nụ cười của sự chân thành.
Sau một giờ và bốn mươi phút Hartley bước ra khỏi tàu ở đồi Floralhurst. Một chuyến đi bộ ngắn trong mười phút đưa anh đến cái cổng của ngôi nhà hai tầng xinh xắn trên một bãi cỏ rộng và được chăm sóc cẩn thận. Đi được nửa quãng đường vào nhà anh bị một người đàn bà mái tóc đen huyền thắt bím mặc áo dài trắng mùa hè túm lấy, gần như bóp nghẹt anh mà không có lí do rõ ràng.
Khi họ bước vào hiên nhà cô ta nói:
“Mẹ sẽ tới đây. Xe đang đến đón bà ấy trong nửa tiếng nữa. Mẹ đến dùng bữa tối, nhưng không có bữa tối nào.”
“Anh có vài điều muốn nói với em” Hartley nói “Anh đã nghĩ sẽ nói với em từ tốn, nhưng khi mẹ đã đến đây thì có thể chúng ta sẽ không nói chuyện được”.
Anh cúi xuống ghé vào tai cô ta thì thầm một điều gì đó.
Vợ anh hét lên. Mẹ cô đang bước đến hiên nhà. Nàng la lên một lần nữa, niềm vui sướng của một người phụ nữ đáng yêu và được cưng chiều.
“Ôi, mẹ” Nàng khóc sung sướng, ”Mẹ biết không? Vivienne sẽ tới nấu ăn cho chúng ta! Cô ấy là người đã ở với nhà Montgomery cả một năm trời. Và giờ, Billy, anh yêu dấu,”, nàng kết thúc, “Anh phải vào ngay bếp và đuổi con Heloise đi. Nó lại say rượu suốt cả ngày hôm nay”.

Người dịch: spiderkien
Hết
 
Truyện này kết thúc bất ngờ quá. Cả đoạn dài dằng dặc ở trên làm người đọc hồi hộp chờ đợi....
Nhưng nói chung cái kết này nhẹ nhàng, đơn giản, rất hợp để đọc thư giãn
Luôn luôn có kết bất ngờ, đúng là phong cách O'Henry
 
Cảm ơn bạn Kiên. Bây giờ tớ mới có thời gian ngồi đọc. Có ý kiến là bạn Kiên có thể tách dòng ra như câu chuyện đầu tiên được không? Đọc thế kia hơi đau mắt :x
 
em thích truyện "Chiếc lá cuối cùng" của o'Henry hơn
 
anh định đưa "chiếc lá cuối cùng" từ đầu nhưng chưa tìm được bản dịch của Ngô Vĩnh Viễn trên mạng, chỉ có 1 bản người khác dịch không hay :(
mà type ra thì lười lắm :p
tiện đây post truyện này hồi xưa em Dung đã post rồi :)
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Cây xương rồng

Điều quý nhất của Thời gian là nó chỉ thuần tương đối. Theo sự nhất trí chung, phần lớn những hồi tưởng được giành cho người rơi xuống nước đang thì thụp; và ta không quá lời là con người có thể duyệt lại toàn bộ cuộc tình khi họ đang cởi đôi găng tay ra.

Đấy là việc Trysdale đang làm, khi anh đứng bên chiếc bàn trong căn phòng độc thân anh thuê. Trên mặt bàn là một cây xanh trồng trong một chiếc lọ bằng đất nung đỏ. Cây này là một loài xương rồng, với những chiếc lá dài thõng, liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như ra dấu hiệu gì đấy.

Anh bạn của Trysdale, anh trai của cô dâu, đứng kế bên cái tủ bát đĩa, đang phàn nàn vì phải uống rượu một mình. Cả hải đang mặc bộ quần áo dự lễ.
Trong khi Trysdale đang chậm rãi cởi những cúc găng tay, đầu óc anh nhanh chóng và đau xót hồi tưởng lại những giờ vừa trôi qua. Dường như khứu giác của anh vẫn còn đượm mùi hương từ những lẵng hoa xếp dầy đặc trong nhà thờ, và trong tai anh vẫn còn tiếng rầm rì của hàng nghìn giọng hát, tiếng xào xạc của trang phục dòn cứng và, dai dẳng một cách cố chấp nhất, những lời ê a của vị mục sư đang buộc đời cô vào người khác mà không ai gỡ ra được.
Như thể do thói quen của đầu óc anh ta, từ khía nhìn chung cục vô vọng này, anh vẫn cố gắng hết mức để đi đến lý giải tại sao và làm thế nào anh đã để mất cô. Bị một thực tế không thể dung hòa giáng cho anh một cú thô bạo, anh bất ngờ thấy mình đối diện với điều mà từ xưa đến giờ anh chưa bao giờ giáp mặt- cái bản ngã sâu thẳm, nguyên sơ và giản đơn của anh. Anh đã thấy mọi lớp nhung y của tấn trò giả vờ và kiêu kỳ mà anh đã mặc giờ biến thành giẻ rách của tính ngông cuồng. Anh rùng mình với ý nghĩ rằng từ trước đến giờ trong con mắt của thiên hạ trang phục của anh hẳn có vẻ nghèo nàn và tả tơi. tính phù phiếm cùng tật hay dối gạt! Đây là những điểm yếu của anh. riêng cô thì không bao giờ như thế! Nhưng tại sao...

Khi cô đi chậm rãi giữa hai hàng ghế dẫn đến bục làm lễ, anh cảm thấy một nỗi đắc thắng thấp hèn, chán ngán vốn vẫn thường nâng đỡ anh. Anh đã tự nhủ là vẻ nhợt nhạt của cô là do ý nghĩ cô dành cho một người nào khác chứ không phải cho người cô sẽ trao cuộc đời. Nhưng ngay điều an ủi tệ hại này không giữ được lâu. vì lẽ, khi anh thấy cô thoáng ngước lên nhìn, một tia nhìn trong sáng cô dành cho người đã đoạt được cô, tự anh biết rằng anh đã bị quên lãng. Có một lần, cô đã gửi lên anh cùng tia nhìn như thế, và anh đã cố thăm dò ý nghĩa của tia nhìn này. Thật ra, sự lừa dối của anh đã vỡ vụn, mọi chống đỡ đều không còn. Thế thì tại sao cuộc tình lại chấm dứt? Không có bất hòa giữa hai người, không có gì cả.

Cả nghìn lần anh đã duyệt lại trong tâm trí anh sự việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi mọi chuyện đều bị đảo lộn.

Cô luôn khăng khăng muốn tung anh lên mấy xanh, và anh đã chấp nhận việc này với cả huy hoàng. Hương hoa cô dâng lên thật ngọt ngào; thật khiêm tốn (anh tự nhủ như thế), đầy tính trẻ con và đầy vẻ tôn thờ, và (có lần anh đoan chắc như thế) thật thành khẩn. Cô đã gán ghép cho anh, đến mức gần như siêu nhân, mọi đức tính và mọi xuất chúng và mọi tài năng; rồi anh đã hấp thụ việc hiến dâng như thể cây cối sa mạc thu lấy những giọt mưa mà không chắc sẽ nở hoa hoặc kết trái.

Trysdale hồi tưởng lại rõ ràng một kỷ niệm đỉnh cao về tính tự kiêu của anh- đầy ngu xuẩn nhưng hối tiếc thì đã muộn.

Đấy là vào một buổi tối khi anh mời cô lên mây xanh để chia sẻ sự vĩ đại của mình. Giờ thì anh quá đau đớn nên không muốn nhớ lại nhiều về vẻ đẹp đầy thuyết phục của cô tối hôm ấy- mái tóc lượn sóng buông thả, mãnh lực lôi cuốn dịu dàng và trinh nguyên của những tia nhìn và lời nói của cô. Trong khi chuyện trò với nhau, cô nói:
- Và Thuyền trưởng Carruthers đã cho em biết là anh nói tiếng Tây Ban Nha như người bản xứ. Tại sao anh giấu em một tài năng như thế? Có việc gì mà anh không biết không?

Thật ra, Carruthers là một anh dốt. Chắc chắn là anh (Trysdale) đã mang tội (đôi lúc anh như thế) thốt lên trong câu lạc bộ của anh một câu châm ngôn nào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha mà anh đã moi ra từ các thứ hổ lốn trên bìa sau quyển từ điển. Carruthers, vốn là một trong những người ngưỡng mộ anh hết mình, chính là người đã phóng đại việc phô trương cho một óc thông thái đáng nghi ngờ.

Nhưng hỡi ôi! Hương hoa từ lòng ngưỡng mộ của cô đã trở nên quá ngọt và quá bốc! Anh để cho lời gán ghép lan truyền ra mà không đính chính. Không phản đối gì cả, anh đã cho phép cô choàng quanh vầng trán anh chiếc vòng miện giả hiệu về nên uyên bác Tây Ban Nha. Anh đã để chiếc vòng miện xoắn xít mềm dịu tô điểm cho cái đầu thích chinh phục của anh, mà không cảm thấy có những gai nhọn đang châm chích và sau này sẽ xuyên thủng cả anh.

Cô thật là tươi vui, thẹn thùng và dè dặt làm sao ấy! Cô đã vùng vẫy như con chim bị đánh bẫy khi anh đã đem mọi thứ trọng đại của anh ra đặt dưới chân cô! Anh đã có thể đoán chắc, và giờ anh vẫn đoán chắc mà không nhầm lẫn, là cô đã chấp nhận anh. Chỉ có điều cô không thể trả lời trực tiếp cho anh, vì cô còn e thẹn. Cô bảo:" Ngày mai em sẽ gửi anh câu trả lời"; và anh, kẻ chiến thắng với thái độ buông thả, tự tin, đã mỉm cười ban cho cô quyền được trễ hạn.

Ngày kế, anh nóng nảy trông chờ câu trả lời của cô. Đến trưa, anh nài ngựa của cô đến gõ cửa phòng anh, rồi để lại cây xương rồng lạ lùng trong chiếc bình đất nung đỏ. Không hề có tờ thư hoặc lời nhắn, chỉ có chiếc thẻ cột vào cây xương rồng mang một danh từ ngoại ngữ man di hoặc là một tên thực vật. Anh đã chờ cho đến tối, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời của cô. Tự ái to phồng và tính phù phiếm bị tổn thương khiến anh không muốn đến tìm cô. Hai ngày sau, họ gặp lại nhau trong một bữa ăn tối. Họ chào hỏi nhau theo cách bình thường, nhưng cô nhìn anh, ngừng thở, băn khoăn, giận dữ. Anh lịch sự khăng khăng chờ nghe cô giải thích. Với tính nhạy cảm của phụ nữ, cô đoán ra ý anh, rồi trở nên lạnh lùng như băng tuyết. Từ ngày ấy, họ rời xa nhau dần. Anh đã có lỗi chỗ nào? Lỗi thuộc về ai? Giờ trở nên khiêm tốn, anh tìm kiếm câu trả lời giữa những hoang tàn của việc tự thổi phồng. Nếu...

Tiếng nói của người thanh niên tọc mạch chen vào luồng hồi tưởng:
- Này, Trysdale, có chuyện gì thế? Cậu có vẻ đau khổ cứ như chính cậu là chú rể thay vì chỉ đóng vai làm đồng lõa! Nhìn tớ đây này, một món phụ tùng khác, đã đi hai nghìn dặm suốt từ Nam Mỹ trên một con tầu đầy tỏi và gián để nhắm mắt làm ngơ sự hy sinh- hãy nhìn xem tội lỗi tớ chất nhẹ như thế nào trên hai vai! Tớ chỉ có một đứa em gái, và giờ nó đã đi. Này, uống tí gì đi để xoa dịu lương tâm của cậu!
- Tớ không muốn uống gì trong lúc này, cảm ơn.
Anh bạn đi đến gần anh, tiếp tục:
- Rượu cô-nhắc của cậu tồi quá. Ngày nào đấy chạy xuống Punta Redonda để gặp tớ, thử mấy thứ ông già Garcia mang lậu vào. Chuyến đi đáng công lắm. A này! Gặp lại cố nhân ở đây! Cậu đào đâu ra cây xương rồng này thế, Trysdale?
- Món quà từ một người bạn. Có biết loài cây này không?
- Biết rõ lắm chứ! Nó thuộc miền nhiệt đới. Có hàng trăm mọc quanh Punta. Tên nó ghi trên tấm thẻ đây này. Có biết một chữ Tây Ban Nha nào không, Trysdale?
Trysdale đáp, với bóng ma cay đắng của một nụ cười
- Không. Đấy là tên Tây Ban Nha à?
- Đúng thế. Dân bản xứ mường tượng là những chiếc lá của nó vươn dài để ra hiệu cho ta. Họ gọi nó bởi tên này- Ventomarme. Tên có nghĩa là:" Hãy đến mang tôi đi".
 
Sự lãng mạn của chàng broker bận rộn

Pitcher, người thư kí được tin cẩn trong văn phòng của Harvey Maxwell, người môi giới chứng khoán, cho phép một cái nhìn thoáng thích thú và ngạc nhiên được hiện lên trên vẻ mặt bình thường vẫn thờ ơ của anh khi người chủ nhanh nhẹn bước vào công ty lúc chín giờ rưỡi cùng với cô tốc kí trẻ của mình.Buông một câu gọn lỏn “Chào buổi sáng, Pitcher”, Maxwell lao vào bàn của mình như thể anh định nhảy chồm qua nó, rồi chúi đầu vào đống thư từ và điện tín đang chờ anh.

Cô gái trẻ đã làm tốc kí cho Maxwell được một năm. Cô đẹp theo một vẻ chắc chắn không theo hình mẫu một người tốc kí. Cô đi trước sự tráng lệ của kiểu tóc pompadour lộng lẫy. Cô không đeo dây chuyền, lắc tay hay mặt trái tim. Cô không có cái vẻ sẵn sàng nhận một lời mời ăn trưa. Cô mặc váy màu xám và đơn giản, nhưng nó hợp với tính cách của cô: trung thực và chín chắn. Trên chiếc mũ màu đen gọn gàng của cô đính chiếc lông vẹt màu vàng xanh. Trong buổi sáng hôm nay, cô rạng rỡ một cách dịu dàng và e lệ. Đôi mắt cô tươi màu mộng mơ, má cô hồng tựa hoa đào, mọi thứ ở cô biểu lộ niềm hạnh phúc, đượm vẻ hồi tưởng.

Pitcher, vẫn còn thoáng tò mò, nhận thấy sự khác biệt của cô trong buổi sáng hôm nay. Thay vì đi thẳng tới phòng kế bên, nơi đặt bàn làm việc của mình, cô chần chừ, phân vân, đứng ở bên ngoài văn phòng. Một lần cô bước tới bàn làm việc của Maxwell, đủ gần để anh nhận thấy sự có mặt của cô.
Cỗ máy đang ngồi ở cái bàn đó không còn là một con người, đó là người broker New York bận rộn, được vận hành bởi những bánh xe quay vù vù và những lò xo bị kéo căng.

“Nào- Gì vậy? Có chuyện gì không?” Maxwell hỏi. Thư từ trên bàn anh giống như một đống tuyết. Đôi mắt xám sắc sảo, vô cảm và cộc cằn, lướt nhanh trên nửa người cô.

“Không có gì”, người tốc kí trả lời, bước ra với một nụ cười mỉm.

“Anh Pitcher”, cô nói với người thư kí tin cẩn, “Ông Maxwell hôm qua có nói gì về việc tuyển một người tốc kí khác chưa?”

“Có”, Pitcher trả lời. “Anh ấy bảo tôi kiếm một người khác. Tôi đã nhắc trung tâm môi giới lúc chiều qua gửi tới một vài ứng viên vào sáng nay. Bây giờ đã 9 giờ 45 mà chưa có một chiếc mũ hay một mẩu kẹo cao su dứa nào xuất hiện cả”

“Vậy thì tôi sẽ làm việc như mọi khi”, cô gái trẻ nói, “cho đến khi có ai đó tới lấp chỗ trống”. Rồi cô bước tới bàn làm việc của mình và treo chiếc mũ đen đính chiếc lông vẹt màu vàng xanh lên chỗ quen thuộc của nó.

Ai chưa từng trông thấy cảnh tượng tất bật của người broker Manhattan trong giờ cao điểm coi như bị khiếm khuyết về môn nhân chủng học. Người thi sĩ hát khúc ca “giờ chật ních của cuộc sống thiên đường”. Và giờ của người broker không chỉ chật ních, mà mỗi phút mỗi giây phải treo trên tất cả những tay cầm và phải đứng ở trước và sau bậc lên xuống.

Và ngày hôm nay là một ngày bận rộn của Harvey Maxwell. Máy điện báo bắt đầu tuôn ra từng cuộn băng điện tín, điện thoại bàn liên tục đổ chuông. Mọi người đổ xô vào văn phòng và gọi anh qua thanh chắn với đủ mọi thứ giọng: vui vẻ, gay gắt, hằn học hay phấn khích. Những chú bé liên lạc chạy ra chạy vào đem theo những tin nhắn và điện tín. Những người giúp việc trong văn phòng hớt hải như những thủy thủ trong cơn giông bão. Ngay cả khuôn mặt của Pitcher cũng giãn ra như là hào hứng.

Tại sở chứng khoán như đang có những cơn bão tố, những vụ lở đất, những cơn bão tuyết, những dòng băng tan, những trận núi lửa, và từng vụ thiên tai ấy lại được tái hiện ở một mức nhỏ hơn trong văn phòng của người môi giới chứng khoán. Maxwell xôchiếc ghế vào tường và thực hiện những vụ giao dịch theo cái cách của một vũ công ba-lê. Anh nhảy từ máy điện báo tới điện thoại, từ bàn cho tới cửa với sự lanh lẹ của một anh hề xiếc.

Giữa những sức ép của sự căng thẳng ngày càng tăng, người broker chợt nhận ra mái tóc vàng được uốn cao dưới một cái mạn bằng nhung và lông đà điểu, một chiếc áo giả da hải cẩu và một chuỗi hạt mà hạt nào hạt nấy to như hạt mít, thòng xuống gần mặt sàn với một quả tim bạc. Đó là những món đồ tô điểm cho một phụ nữ trẻ có dáng điệu bình thản, và Pitcher đứng đó để giải thích về cô.

“Cô đây do trung tâm môi giới tốc kí gửi tới để thử việc”, Pitcher nói.

Maxwell xoay nửa vòng, đôi tay anh nắm đầy những mẩu giấy và những băng điện tín.
“Cho vị trí nào?” anh cau mày hỏi.

“Vị trí tốc kí”, Pitcher nói. “Hôm qua ông đã dặn tôi gọi họ bảo gửi một người đến vào sáng nay”

“Anh mất trí rồi, Pitcher”, Maxwell nói. “Tại sao tôi phải bảo anh làm thế? Cô Leslie khiến tôi hoàn toàn hài lòng trong suốt một năm cô ở đây. Vị trí đó thuộc về cô ấy chừng nào cô ấy còn muốn ở lại. Không có chỗ nào trống ở đây, thưa cô. Hãy hủy yêu cầu với trung tâm môi giới, Pitcher, và đừng dẫn thêm ai tới đây nữa”.

Trái tim bạc rời khỏi văn phòng, đung đưa và va vào nội thất trong văn phòng một cách tức giận. Pitcher cố dành ra một lát để nhận xét với cô kế toán rằng “ông già” dường như ngày càng trở nên đãng trí.

Sự hối hả và nhịp độ của công việc ngày càng trở nên khắc nghiệt và nhanh hơn. Trên sàn người ta đang săn lùng nửa tá cổ phiếu mà khách hàng của Maxwell là những người nắm giữ khối lượng lớn. Lệnh mua và bán được chuyển đến rồi chuyển đi nhanh như én liệng. Một vài cổ phần chính anh nắm giữ đang rơi vào cơn nguy khốn, và anh bắt đầu làm việc như một cỗ máy tinh vi, mạnh mẽ, được gài số cao- căng lên hết mức, chạy hết tốc lực, chính xác, không chút ngập ngừng, với những lời nói, quyết định và hành động quyết đoán và chuẩn xác như một chiếc đồng hồ. Cổ phiếu và trái phiếu, những khoản vay và thế chấp, những khoản dự phòng và bảo lãnh- đây là thế giới của tài chính, và ở đó không có chỗ cho thế giới con người hay thế giới tự nhiên.

Khi gần đến giờ ăn trưa thì sự om xòm bắt đầu lắng xuống. Maxwell đứng ở bàn với đôi bàn tay nắm đầy những bức điện tín và những bản ghi nhớ, với chiếc bút máy dắt trên tai phải và mái tóc bù xù trước trán. Cửa sổ phòng anh để mở, để nàng xuân yêu dấu đem làn hơi ấm áp vào. Và qua ô cửa sổ lạc vào một mùi hương, hương hoa tử đinh hương dìu dịu, ngọt ngào khiến chàng broker sững sờ trong khoảnh khắc. Mùi hương ấy là từ cô Leslie, nó là của cô và chỉ của cô mà thôi. Mùi hương ấy khiến hình ảnh cô trở nên sinh động và gần như hiện hữu trước mắt anh. Cả một thế giới tài chính bỗng dưng thu nhỏ lại thành một hạt bụi. Và cô ở ngay phòng bên cạnh- chỉ cách có hai mươi bước mà thôi.

“Vì chúa, mình phải làm điều đó ngay bây giờ”, Maxwell nói, hơi lớn tiếng. “Mình sẽ hỏi cô ấy ngay bây giờ. Đáng lẽ mình phải làm điều đó từ lâu rồi chứ”

Anh chạy nhào về căn phòng phía trong với sự vội vã kì lạ. Anh nhảy bổ tới bàn cô tốc kí. Cô nhìn anh mỉm cười. Một sắc hồng nhẹ lan trên má cô, đôi mắt cô hiền dịu và chân thành. Maxwell tì một khuỷu tay lên bàn cô. Anh vẫn còn nắm những mảnh giấy phất phơ trong cả hai lòng bàn tay và chiếc bút máy vẫn nằm trên tai.

“Cô Leslie”, anh bắt đầu một cách vội vã, “Tôi chỉ có một chút thời giờ thôi. Tôi muốn nói một điều vào lúc này. Em sẽ làm vợ anh chứ? Anh đã không có thời gian để đem đến cho em một tình yêu theo cách thông thường, nhưng anh thực sự yêu em. Xin em hãy trả lời nhanh lên”.

“Ôi, anh đang nói gì vậy”, cô gái trẻ kêu lên. Cô đứng nhỏm dậy và nhìn anh tròn mắt.

“Em không hiểu sao?” Maxwell hấp tấp nói. “Anh muốn cưới em. Anh yêu em, Leslie. Anh muốn nói với em, và anh đã dành ra một phút khi mọi việc lắng xuống một chút. Họ đang gọi điện cho anh. Bảo họ chờ một phút, Pitcher. Em sẽ đồng ý chứ, Leslie?”

Cô tốc kí hành động một cách kì lạ. Đầu tiên cô dường như sửng sốt, sau đó nước mắt chảy ra từ đôi mắt cô, và rồi cô cười rạng rỡ, một cánh tay cô nhẹ nhàng choàng qua cổ của chàng broker.
“Bây giờ em đã hiểu”, cô nói nhỏ nhẹ. “Công việc này đã xua mọi chuyện khác ra khỏi đầu anh. Lúc đầu anh khiến em thấy sợ. Anh còn nhớ không, Harvey? Chúng ta đã làm lễ cưới vào tám giờ tối qua ở nhà thờ Little Church Around the Corner”.

Người dịch: spiderkien
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Em post cái này rồi :p nhưng mà topic bị chìm đi đâu rồi ý :"> Hnay post lại, ủng hộ anh Kiên :p

Xuân về trên thực đơn

Người dịch : Diệp Minh Tâm


Đấy là một ngày tháng ba.

Không bao giờ, nên nhớ là không bao giờ, bạn viết như thế khi bắt đầu một mẩu chuyện. Không có câu mở đầu nào tệ hại hơn nữa. Như thế là thiếu sáng kiến, khô khan, và có thể rồi chỉ có gió... Nhưng trong hoàn cảnh này, câu trên lại có thể được người đọc chấp nhận. Vì lẽ, câu văn sau đây, đáng lẽ có thể được dùng để khánh thành mẩu truyện, lại quá cường điệu và đường đột nếu ta dứ trước mắt người đọc thiếu chuẩn bị.

Sarah đang khóc trên bản thực đơn của cô.

Cứ nghĩ đến một cô gái New York nhỏ nước mắt trên một bản thực đơn!
Để lý giải việc này, cho phép bạn đoán là có thể do tôm hùm không có trong thực đơn, hoặc là do cô đã thề trong mùa Chay tịnh(*) là sẽ không đụng đến món kem lạnh, hoặc là cô đã lỡ gọi món hành, hoặc là cô đã có một bữa ăn sáng thịnh soạn. Rồi khi mọi giả thuyết này đều không đúng, xin bạn vui lòng để câu chuyện được tiếp tục.

Cái ông đã tuyên bố rằng thế giới chỉ là một con sò mà ông có thể dùng thanh gươm để tách nó ra thì có thể gây tiếng vang lớn hơn là do ông có thực tài. Tách hai mảnh của con sò bằng gươm thì chẳng có gì khó cả. Nhưng có khi nào bạn thử tách con sò trên cạn với cái máy đánh chữ không?
Sarah đã cố tách cái vỏ sò bằng vũ khí của cô. Không biết gì về tốc ký, cô không thể tham gia vào vũ trụ tài năng mà bạn thấy thường đi ăn trưa với đồng nghiệp cấp cao của họ trong thời gian xe điện ngầm bãi công. Cô chỉ là thư ký đánh máy làm việc tự do trong những nghề kỳ lạ chuyên lo ghi chép.
Thành tựu sáng chói và danh giá nhất trong việc Sarah đấu tranh với đời là sự dàn xếp với Nhà hàng Schulenberg's - một cái tên Đức. Nhà hàng này nằm kế cận tòa nhà có phòng cho cô thuê. Một buổi tối nọ, sau một bữa ăn đáng giá 40 cent gồm năm món (được dọn ra cho khách cũng nhanh như khi bạn ném năm quả bóng vào một ông da đen), Sarah mang đi bản thực đơn. Nó được viết bằng nét viết thảo hầu như không ai đọc ra. nó là chữ Anh hoặc chữ Đức, mà cách viết lại lộn xộn đến nỗi nếu bạn không cẩn thận bạn có thể bắt đầu bữa ăn bằng cây tăm xỉa răng, rồi đến bánh ngọt, rồi đến món súp và ngày trong tuần(**).

Ngày kế, Sarah cho Schulenberg xem một tờ thực đơn hoàn chỉnh, chữ đánh máy đẹp, với tên các món ăn được sắp xếp đầy hấp dẫn đúng theo nghĩa vụ của chúng và đặt dưới tiểu tựa thích hợp, từ các món ăn chơi đến việc không nhận trách nhiệm về áo choàng và dù của khách.

Schulenberg xem như được thực thụ nhập tịch thành công dân Mỹ ngay tại chỗ, nhờ việc chỉnh sửa ngữ pháp và chính tả trên bản thực đơn của ông! Sarah đạt được thỏa thuận với ông. Cô sẽ đánh máy tờ thực đơn cho hai mươi mốt bàn ăn trong nhà hàng - một bộ thực đơn mới cho mỗi bữa ăn tối, và thực đơn mới cho các bữa sáng và trưa khi món ăn có nhiều thay đổi hoặc khi tờ thực đơn cũ đã nhăn nheo. Để bù lại, mỗi ngày Schulenberg cung cấp cho Sarah ba bữa ăn do một anh bồi - đầy hăng hái nếu có thể được - mang đến tận phòng trọ. Mỗi buổi chiều Sarah sẽ nhận một bản nháp thực đơn viết bằng bút chì, thảo ra những gì mà Định Mệnh sẽ dành cho thực khách ngày hôm sau.

Hai bên đều hài lòng với thỏa thuận này. Bây giờ thực khách của Schulenberg biết món mình ăn có tên gọi là gì, tuy đôi lúc vẫn còn hoang mang do chính bản chất lôi thôi của các món ăn ấy. Còn Sarah thì được ngày ba bữa trong mùa đông lạnh lẽo, vô vị, và chính yếu đấy là điều cô cần.

Một ngày, bản niên biểu thời tiết dối trá cho là mùa xuân đã đến. Mùa xuân sẽ đến khi nó phải đến. Tuyết của tháng giêng vẫn còn cố chấp bao phủ trên đường phố. Các đàn oc-gan vẫn còn chơi khúc nhạc về mùa hè, với bao âm điệu rộn rã của tháng mười hai. Các ông bắt đầu ghi chú ba mươi ngày trước để nhớ mua áo mùa Phục Sinh. Những người gác dan đã đóng vòi hơi nước(***). Và khi những việc như thế xảy ra, ta có thể biết rằng thành phố vẫn còn bị mùa đông xiết chặt.

Một buổi chiều, Sarah run rẩy trong phòng ngủ lịch sự của cô; tòa nhà được sưởi, được quét dọn kỹ càng, mọi tiện nghi đều có; phải nhìn tận mắt mới đánh giá cao được. Cô không có việc gì để làm ngoại trừ mấy bản thực đơn của Schulenberg. Sarah ngồi trên chiếc ghê đu làm bằng gỗ cây liễu kêu cót két, và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tấm lịch trên tường khóc với cô không ngớt: " Mùa xuân đã đến, Sarah, mùa xuân đã đến, báo cho cô biết đấy. Hãy nhìn con số của tôi đây, Sarah, các con số của tôi chỉ về mùa xuân. Cô cũng có các số đo đẹp - các số đo của mùa xuân - nhưng tại sao cô lại nhìn ra cửa sổ buồn bã thế kia?"

Phòng của Sarah nằm ở mặt sau của tòa nhà. Khi nhìn qua cửa sổ cô có thể thấy bức tường gạch đỏ không cửa sổ của một nhà máy chế tạo bao bì trên con đường kế bên. Nhưng bức tường trong suốt như thủy tinh, và Sarah đang nhìn xuống một con đường mòn dài, rợp bóng cây anh đào và cây du, với hai bên lề lót những bụi mâm xôi và dây hồng dại.

Đội tiền quân đích thực của mùa xuân thì quá tinh tế, tai và mắt ta khó nhận ra. Người khác phải có hoa huệ tây đang nở, sơn thù du, tiếng hót của chim xanh - ngay cả lời nhắc nhở thô thiển như là cái bắt tay vĩnh biệt của kiều mạch và sò biển - trước khi học có thể dang rộng chào đón Nàng Xuân trong vòng tay vô vị.

Vào mùa hè năm trước, Sarah đã đi về miền quê và yêu một nông gia.
Khi bạn viết truyện, không bao giờ bạn nên viết trở về quá khứ theo cách như thế. Đấy là thứ nghệ thuật tồi, làm què quặt mọi sự chú ý. Phải tiến tới, tiến tới nữa.

Một tiếng gõ trên cánh cửa làm tan biến những mơ màng của Sarah về những ngày hạnh phúc ấy. Anh bồi đã mang bản thảo tờ thực đơn cho ngày hôm sau, do ông già Schulenberg thảo nháp bằng viết chì.

Sarah lưu lại trang trại Sunnybrook trong hai tuần. Ở đấy, cô đã yêu Walter, con trai của nông dân Franklin. Mấy nông dân đã từng yêu và thành hôn và trở thành cỏ trong thời gian còn ngắn hơn. Nhưng anh trai trẻ Walter Franklin là một nhà nông học tiến bộ. Walter đã tán tỉnh và chiếm được con tim của Sarah trên con đường mòn ấy, đầy bóng mát và các bụi mâm xôi. Họ đã ngồi bên nhau và hái các nụ hoa bồ công anh(****) để bện thành một vương miện cho mái tóc của cô. Anh đã phóng đại ca ngợi vẻ đẹp của các nụ hoa vàng trên mái tóc nâu của cô, và cô đã bỏ lại sợi dây chuỗi của mình ở đấy, bước đi về nhà vung vẩy chiếc mũ rơm trên tay. Họ hẹn sẽ cưới nhau vào mùa xuân - Walter bảo vào lúc có những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân. Và rồi Sarah phải trở lại thành phố để gõ máy đánh chữ.

Sarah ngồi xuống bên cái máy đánh chữ, luồn một tờ giấy cứng giữa hai trục lăn. Bình thường cô làm khá nhanh, chỉ trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ là cô đánh xong hai mươi mốt bản thực đơn.

Hôm nay thực ăn có nhiều thay đổi hơn bình thường. Các món súp lỏng hơn, không còn có thịt heo trong các món ăn chơi, mà lại có rau diếp Nga trong số các món thịt nướng. Tinh thần sang cả mùa xuân lan tràn trên khắp bản thực đơn. Thịt cừu, vốn ngay trước đây còn nhảy nhót trên các sườn đồi xanh, đã được khai thác với nước sốt để kỷ niệm các vũ điệu. Bài hát của sò biển, tuy không bị ngậm miệng im tiếng, đã trở nên một khúc thầm thì mùa xuân. Cái chảo chiên được xếp xó, bất động, sau mấy thanh vỉ của cái lò nướng. Danh sách các món bánh trái cây dài ngoằng ra; các loại bánh nhiều béo đã biến mất; thịt xúc xích, với tấm áo dầy cộm quấn quanh không ở nán lại lâu.

Các ngón tay của Sarah nhảy múa như đàn chuồn chuồn lượn trên mặt nước ao mùa xuân. Cô đánh tên từng món ăn theo thứ tự từ trên xuống dưới, lấy mắt để diều chỉnh chính xác vị trí mỗi tên tùy dài hay ngắn.
Ngay trên các món tráng miệng là danh sách các loại rau. Cà rốt và đậu, măng tây trên bánh mì nướng, các loại cà chua và ngô phục vụ quanh năm, đậu ngự, bắp cải - và rồi -...

Sarah đang khóc trên bản thực đơn của cô. Những giọt lệ từ sâu thẳm của mối thất vọng thiêng liêng nào đấy dâng lên trong tim cô và trào ra khóe mắt. Cô gục đầu xuống trên cái giá của máy đánh chữ, và các phím canh cách tạo nên khúc đệm khô khan cho những nức nở của cô.

Vì cô đã không nhận được thư từ gì của Walter trong hai tuần nay, và món kế tiếp trên bàn thực đơn là món rau bồ công anh, bồ công anh trộn với trứng gì đấy - nhưng để ý làm gì đến trứng - bồ công anh với những nụ hoa vàng chói mà Walter đã dùng để phong cho cô làm nữ hoàng của tình anh và cô dâu tương lai của anh - bồ công anh, quân tiên phong của mùa xuân, vương miện sầu thảm của nỗi sầu thảm trong cô - đã gợi lại cho cô về những ngày hạnh phúc nhất.

Thưa bà, tôi thách bà dám cười nếu bà trải qua cuộc trắc nghiệm đau khổ này: giả dụ bà thấy những nụ hoa hồng mà ông ấy đã tặng bà khi bà trao con tim mình cho ông ấy, giờ được dùng làm món rau trộng với nước sốt Pháp dọn lên trước mắt bà ở nhà hàng Schulenberg! Nếu nàng Juliet thấy những biểu tượng của tình yêu do chàng Romeo trrao tặng bị làm nhục như thế thì hẳn cô sẽ uống thứ thuốc độc ấy sớm hơn là trong tình sử Shakespear đã viết.

Nhưng nàng xuân quả là ác độc! Nàng cần gửi tín hiệu của mình đến thành phố bao la nhưng lạnh lẽo với toàn đá và sắt. Không có ai để nhờ gửi ngoại trừ anh liên lạc viên rắn rỏi ấy với lớp áo xanh nhám và dáng vẻ khiêm tốn. Anh chỉ là một quân sĩ phiêu lưu, cây dent-de-lion - răng sư tử, theo như giới bồi Pháp gọi. Khi nở, anh hỗ trợ cho tình yêu, lồng lên mái tóc nâu của cô nàng tôi; khi còn non và mọng và còn búp, anh đi vào cái nồi luộc và phát đi tín hiệu của cô chủ tối thượng của anh.

Dần dần, Sarah cố cầm nước mắt. Cần phải đánh máy xong các bản thực đơn, nhưng, vẫn còn chìm đắm trong cơm mơ lặng lờ về hoa bồ công anh vàng chói, cô lơ đãng lướt các ngón tay trên bàn phím một lúc, với trí óc và con tim vẫn còn vương trên con đường mòn giữa cánh đồng với anh nông gia trẻ. Nhưng chẳng bao lâu cô đã nhanh chóng trở lại với nhưng đường mòn lát đã của khu Mahattan, rồi cái máy đánh chữ lại lách tách vang lên như chiêc mô tô của cảnh sát đi giải tán đám đình công.

Lúc 6 giờ, anh bồi mang bữa ăn tối đến cho cô và mang đi các bản thực đơn đánh máy. Khi Sarah ăn, với một tiếng thở dài cô gạt qua một bên đĩa rau bồ công anh trộn trứng. Khi những nụ hoa vàng chói thắm đượm tình yêu đã bị chuyển thể thành mớ rau đen đủi thấp hèn ấy, những hy vọng mà cô ấp ủ từ mùa hè qua cũng héo úa, tàn tạ theo. Tình yêu có thể tự nuôi dưỡng nó, như Shakespear đã nói; nhưng Sarah không thể nuốt nổi món bồ công anh vốn khi còn là hoa cảnh đã tô điểm bàn tiệc tinh thần đầu đời dọn cho tình cảm chân thật của con tim cô.

Lúc 7 giờ 30, đôi vợ chồng phòng bên bắt đầu cãi vã nhau; người đàn ông ở tầng trên đang thử nốt nhạc A trên cây sáo của ông; ga đốt xuống thấp hơn, ba chiếc goòng than đá bắt đầu xuống hàng - âm thanh duy nhất khiến cái máy hát ghen tức; các con mèo trên hàng rào biết đây là giờ cô đọc sách. Cô lấy một quyển ra đọc, bắt đầu lang thang cùng với nhân vật chính trong truyện.

Chuông cửa kêu vang. Bà chủ ra trả lời. Sarah bỏ mặc nhân vật chính, nghe ngóng. Đúng thế, bạn cũng sẽ làm y như cô vậy! Rồi có một tiếng nói mạnh mẽ vang lên từ hành lang bên dưới, rồi Sarah phóng ra cửa, để mặc quyển sách nằm trên sàn nhà.

Bạn đã đoán đúng. Cô chạy xuống đến đầu cầu thang cùng lúc anh nông gia của cô cũng chạy lên đến đấy, nhảy một bước ba bậc, rồi cắt ngay lấy cô, gặt cả cô, không còn để lại gì cho dân đi mót. Sarah nức nở:
- Tại sao anh không viết thư cho em? Tại sao thế?
- New York quả là một thành phố lớn. Tuần trước anh đến tìm em tại địa chỉ cũ. Lúc đấy anh mới biết là em đã dời đi thứ năm rồi. Anh cảm thấy an ủi phần nào, vì tránh được thứ sáu xui xẻo. Nhưng nó cũng không ngăn anh truy lùng em cùng với cảnh sát và nhiều cách khác, kể từ ngày ấy.
Sarah cả quyết:
- Em có viết thư cho anh!
- Anh không hề nhận được.
- Thế thì làm thế nào anh tìm được em?
Anh nông gia trẻ nở một nụ cười xuân
- Tối nay anh ghé vào nhà hàng kế bên. Anh không cần biết ai là chủ; vào mùa này trong năm anh chỉ muốn ăn một món rau xanh gì đấy. Anh lướt mắt qua bản thực đơn đánh máy lịch sự ấy để tìm món như thế. Khi anh đọc xuống quá món bắp cải, anh đánh bật cái ghế ngã chỏng chơ, ầm ỹ gọi ông chủ. Ông ấy cho anh biết em ở đây.
Sarah thở phào vui sướng
- Em nhớ ra rồi. Đấy là món rau bồ công anh, ghi duới bắp cải.
- Anh nhận ra nét chữ W nằm cao hơn hẳn các chữ khác do máy đánh chữ của em tạo ra. Chắc đi đâu trên cả quả đất này anh cũng nhận ra nó!
Sarah ngạc nhiên:
- Sao thế? Trong từ "bồ công anh" không có chữ W!
Anh trai trẻ rút từ túi áo ra bản thực đơn, chỉ vào một dòng.

Sarah nhận ra đấy là bản thứ nhất cô đánh máy ban chiều: ở góc trên bên phải bẫn còn một vết nhòe nơi một giọt nước mắt của cô rơi xuống. Nhưng trên dòng chữ nơi người ta đáng lẽ đọc được tên loại cây trên cánh đồng cỏ, tâm tư vương vấn về các nụ hoa vàng chói đã khiến các ngón tay cô gõ những phím chữ kỳ lạ.

Chen giữa hai món bắp cải và ớt xanh dồn thịt là món:
"Walter yêu dấu, trộn trứng luộc"

-----------------------------------


(*) Thời gian 40 ngày trước Lễ phục sinh, khi nhiều tín đồ Ky-tô thực hành nghi thức tôn giáo gồm nhịn ăn và tỏ lòng sám hối về tội lỗi của mình.
(**) Người phương tây bắt đàu bữa ăn bằng món súp, thường là "súp trong ngày" nếu là trong nhà hàng, cuối cùng là bánh ngọt. Vì thực đơn viết lộn xộn nên thứ tự các món ăn bị đảo lộn, và lại viết không rõ ràng nên món "súp trong ngày" đọc thành "ngày trong tuần".
(***) Hơi nước nóng được bơm vào hệ thống ống dẫn đến các phòng để sưởi ấm.
(****) Cây thảo nhỏ, vì lá có răng cưa sắc nên tiếng Pháp gọi là dent-de-lion (răng sư tử); Anh ngữ phiên âm thành dandelion. Thường mọc hoang phổ biến ở khí hậu mát (có ở Đà Lạt, Tam Đảo...) một vài chủng được trồng làm rau.
 
truyện này hay này :D

NHỮNG QUẢ TIM VÀ BÀN TAY

Dịch giả: Diệp Minh Tâm

Tại ga Denver có một nhóm hành khách đổ xô lên chuyến tàu tốc hành đi về đông của hãng B&M. Trong một ngăn toa, một cô gái trẻ rất đẹp, ăn mặc thanh lịch, đang ngồi giữa những tiện nghi xa xỉ dành cho hành khách thường hay di chuyển. Trong số những người mới lên tàu có hai người đàn ông; một người điển trai với vẻ mặt và cử chỉ hiên ngang và thẳng thắn; người kia bù xù, mặt lầm lì, cao lớn, quần áo lôi thôi lếch thếch. Cả hai bị còng tay lại với nhau.

Khi hai người đi dọc theo hành lang trong toa tàu để tìm chỗ ngồi, họ thấy chỉ có băng ghế đối diện với cô gái là còn trống. Hai người ngồi xuống đấy. Cô gái liếc nhìn họ trong một thoáng xa xôi không bận tâm; rồi, với một nụ cười dễ mến làm gương mặt cô sáng lên và một màu hồng dịu ánh trên đôi má, cô chìa ra một bàn tay nhỏ ủ trong một chiếc găng tay màu xám. Khi cô nói với giọng ngọt ngào và từ tốn, ta có thể nhận ra là cô đã từng nói với người nghe, và từng nghe người nghe nói.
- À, anh Easton, nếu anh cho phép em được nói trước, em xin nói. Có khi nào anh nhận ra bạn cũ anh đã gặp ở miền Tây không?
Người trai trẻ hơi giật nẩy người khi nghe giọng nói, dường như có một chút bối rối nhưng kịp trấn tĩnh ngay được, rồi đưa bàn tay trái của anh nắm lấy những ngón tay của cô. Anh mỉm cười:
- Đây là cô Fairchild. Xin lỗi cho tay phải, hiện đang bận.
Anh nâng bàn tay phải của anh lên một tí, với cái “số tám” bóng loáng cột chung vào bên trái của người đồng hành. Ánh mắt đang tươi vui của cô gái dần dần đổi thành nét hãi hùng hoang mang. Màu hồng mờ dần trên đôi má cô. Đôi môi cô hé mở trong vẻ đau khổ mơ hồ. Easton, với tiếng cười nhỏ như thể lấy làm vui thú, định cất tiếng tiếp khi người kia cắt ngang. Con người lầm lì đã quan sát nét mặt cô gái qua khoé mắt sắc sảo của anh.
- Cô à, tôi xin lỗi đã chen vào câu chuyện, nhưng tôi thấy là cô có quen biết với sếp Sĩ Quan Toà Án(1) này. Nếu cô yêu cầu sếp nói giùm tôi một tiếng khi chúng tôi đến nơi, ông ấy sẽ sẵn lòng, và như vậy sẽ đỡ cho tôi rất nhiều. Ông ấy đang giải tôi đến nhà tù Leavenworth. Tôi bị bảy năm vì tội làm bạc giả.

Cô gái thở phào, nét hồng trở lại trên gương mặt của cô.
- À! Thế là, anh đang thi hành nhiệm vụ đấy à! Một Sĩ Quan Toà Án!

Easton nói giọng nhẹ nhàng:
- Em Fairchild mến, anh phải làm việc gì đấy. Tiền có thể làm ra tất cả, và em biết đấy, phải có tiền để theo kịp với đám đông ở Washington. Anh thấy có thông báo tuyển dụng ở miền Tây, và… à, cái chức Sĩ Quan Toà Án không được cao như đại sứ, nhưng…
Giọng cô gái ấm đi:
- Chức đại sứ không còn kêu nữa. Anh hẳn biết điều ấy. Và bây giờ anh là một trong số những anh hùng miền Tây xông pha đấy, anh cưỡi ngựa và bắn súng và lăn xả vào mọi hiểm nguy. Khác với cuộc sống ở Washington. Đám bạn bè cũ hẳn phải nhớ nhung anh đấy!
Đôi mắt cô gái mở to, trầm trồ nhìn chiếc còng tay sáng bóng.
Người đàn ông kia nói:
- Cô đừng lo cho họ. Mọi Sĩ Quan Toà Án đều phải bị còng chung với tù nhân để giữ cho tù không trốn thoát. Ông Easton biết rõ nhiệm vụ của ông ấy.
Cô gái hỏi:
- Em có thể gặp lại anh ở Washington không?
Easton nói:
- Phải còn lâu. Anh e rằng thời bay nhẩy của anh đã qua rồi.
- Em yêu miền Tây.
Cô gái nói, không có vẻ liên quan gì đến câu chuyện. Đôi mắt cô long lanh dìu dịu. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu. Cô bắt đầu nói một cách chân thật và giản đơn, không còn lớp bóng loáng của kiểu cách và cử chỉ:
- Mẹ em và em đi nghỉ hè ở Denver. Bà trở về nhà tuần trước vì cha đang bệnh. Em có thể sống mà cảm thấy hạnh phúc ở miền Tây. Em nghĩ khí hậu ở đây hợp với em. Tiền bạc không phải là tất cả. Nhưng thiên hạ luôn lẫn lộn nhiều việc và trở thành ngu xuẩn.
Con người lầm lì cắt ngang:
- Nè, ông Sĩ Quan, như vậy là không công bằng gì hết! Tôi cần uống thứ gì đó, với lại cả ngày chưa được hút điếu nào. Ông nói chuyện xong chưa? Ông dẫn tôi đi vào toa hút thuốc đi chớ! Tôi thèm gần chết một điếu thuốc.

Cả hai hành khách bị còng tay vào nhau đứng dậy, Easton với cùng nụ cười chậm chạp trên môi. Anh nói nhỏ:
- Anh không thể từ chối lời yêu cầu về thuốc lá. Nó là bạn của kẻ xấu số. Xin chào em Fairchild. Vì nhiệm vụ, mong em hiểu nhé!
Anh đưa ra bàn tay để từ giã.
Cô nói, lại tròng vào kiểu cách và cử chỉ:
- Tiếc quá, anh không đi về Đông. Nhưng em đoán anh phải đi Leavenworth.
- Đúng thế. Anh phải đi Leavenworth.
Hai người lướt dọc hành lang về phía toa hút thuốc.

Hai hành khách ngồi gần đấy đã nghe gần hết câu chuyện. Một người nói:
- Ông Sĩ Quan đó thật là tế nhị. Một vài anh miền Tây xem ra có vẻ được đấy!
Người kia nói:
- Nhưng trông tuổi còn khá trẻ so với chức vụ đó, phải không?
- Còn trẻ à? Tại sao… Ô hay! Anh không để ý sao? Anh có bao giờ biết một Sĩ Quan Toà Án nào lại còng tội phạm vào tay phải của họ không?

Chú Thích
(1)Tiếng Anh: "Marshal", là cấp chỉ huy có nhiệm vụ thi hành án toà như tầm nã tội phạm, giải tù nhân, và các nhiệm vụ khác mà toà án phán quyết.
 
=D> Đúng là hay thật, người sĩ quan đó thật là tốt :">
Như thế mới biết không thể trông mặt mà bắt hình dong được :D
 
Back
Bên trên