Nếu bạn nguyệt cũng thích "bay" thì vào ủng hộ mấy bài hay đi
1 số bài hát dance nổi tiếng ở việt nam, permanent link:
[mp3]http://members.optuszoo.com.au/crosssyd/Paradise.WMA[/mp3]
http://members.optuszoo.com.au/crosssyd/Paradise.WMA
http://members.optuszoo.com.au/crosssyd/Amore%20Mio.WMA (cái ở gần starbowl phạm ngọc thạch, quên tên, toàn gay ấy, chơi bài này suốt
)
http://members.optuszoo.com.au/crosssyd/Trancemission.WMA
http://members.optuszoo.com.au/crosssyd/You're My Angel.WMA
(bật bài này là cả club vỗ tay ầm ầm =))
)
http://techno.org/electronic-music-guide/
(1 guide khá hay, đọc thêm)
Nhạc Dance có thể chia làm khá nhiều loại. Những ban như AQUA, Toy-Box, Cartoons DK,... ko chơi nhạc Dance chính hiệu mà chỉ là Pop Dance. Một ban nhạc dance có thể nói là khá hay là Venga boys. Nhạc Dance chính hiệu thường hát rất ít, có khi là ko hát. Nhạc Dance với âm thanh chủ đạo là âm thanh điện tử với tempo thật nhanh và tiếng trống liên hồi. Một loại nhạc DAnce khá phổ biến hiện nay là Hamster Dance, gần giống với Techno. Hamster Dance có tempo khá nhanh nhưng khó bắt nhịp hơn so với Techno. Techno lại có nhiều loại riêng. Ko phải techno nào cũng có nhịp điệu nhanh và sôi nổi. Đại diện của loại techno khó nghe này là Bjork với những âm thanh đầy ma quái. Nhạc techno hiện đại thì lại thích hợp với những điệu nhảy uốn éo người trong các vũ trường. Đặc biệt, nhạc Dance có một điểm đáng chú ý: mở volume càng lớn thì nghe càng hay và càng cảm thấy bốc!
Nhạc Dance thì chính thức có thể chia làm các loại sau đây:
- Techno
- trance
- house
- drum 'n' bass
- trip hop
- electronica
- industrial
- ambient
HOUSE:
Trong tất cả các hình thức của nhạc nhảy điện tử, có thể nói rằng nhạc House có truyền thống phong phú nhất về các DJ màu mè và các CLB huyền thoại. Âm thanh này phát triển vào cuối thập niên 70 khi những DJ bắt đầu có óc cải cách, lại thông hiểu về kỹ thuật, chạm trán với bối cảnh nhạc disco bình dân của những tay, đa phần là da đen, dân đồng tính ở Chicago và New York. Những DJ đầu tiên như Larry Levan tại Paradise Garage (New York) hoặc Frankie Knuckles tại Warehouse (Chicago) thường cho chơi đi chơi lại (loop) các đoạn solo trống trong các đĩa nhạc disco, nhằm cung cấp nhiều giờ nhạc nhảy liên tục. Nhiều người cho rằng tên "house" xuất phát từ chữ Warehouse là nơi mà loại nhạc này được định hình.
House được nhận diện bằng tiết điệu 4/4 bới tiếng bass đập thật mạnh và đều đặ thường chảy với tốc độ 125 nhịp/phút. Cấu trúc này cho phép được cách tân, do vậy những thể loại khác bắt nguồn từ house luôn được sản sinh. Ở CLB Body and Soul (New York), R'n'B và Soul được pha chế với nhau để tạo ra diva house hoặc garrage house. Trong khi đó lại CLB Twilo, tay DJ người Anh tên Carl Cox lại pha đậm loại nhạc techno vào house để tạo ra tech-house. Nhạc salsa cũng thường được nghe theo cách pha trộn như vậy trong một xuất nhạc Latin-house.
Basement Jaxx là bộ đôi DJ nhạc house, đã phát hành album đầu tay Remedy với hãng đỉa Astralwerks. Trong album này, sự pha trộn âm thanh của flamenco guitar, chất giọng soul và tiếng bassline ầm ĩ thậ lớn đã khiến một số nhà phê bình bốc đồng, buột miệng nói đến thời phục hưng của house. Và trong khi những người tận tuỵ với house, ko hề cạn kiệt hứng thú với thể loại này trong 15 năm qua, lấy làm buồn lòng vì những lời đó ám chỉ rằng "thời của house đã qua rồi". Đĩa này chỉ thực sự tạo được chú ý vừa đủ để đến với các giới thưởng thức mới và bao quát hơn - những fan của dòng nhạc chính thống.
"Bên trong khuôn khổ của thể loại house", Felix Buxton của Basement Jaxx nói, "bạn có thể làm được rất nhiều điều. Có rất nhiều chất nạc xoay quay tempo đó. Như thể quả tim của bạn, nhịp đập của nó ít nhiều là nhịp bước của cơ thể bạn. Chỉ cần tạo ra một cú hích nhẹ, chất nhạc sẽ đến rất tự nhiên vì house là nhịp điệu của tự nhiên. Nếu bạn đã từng nghe nhiều loại nhạc của các CLB ở Châu Phi, bạn cũng nhận thấy đó là loại âm thanh thuần nguyên, nhạc của những cảm xúc nhât thời của con người. House có được kiểu tempo như vậy".
Tóm lại, house có một tempo khá nhanh, tiếng bass và tiếng trống là chủ đạo, là lớn nhất và nghe khá dồn dập. Đó là điểm cơ bản để phân biện được house.
TECHNO:
Techno có thể là một thuật ngữ dễ gây nhầm lẫn vì thực chất nó xuất hiện trước electronica như là một cụm từ tổng quát nói về loại nhạc điện tử, và ngày nay thuật ngữ này vẫn được dùng cho các hiểu này. Nguồn gốc nhạc techno bắt nguồn từ việc tạo ra cấu trúc metallic pop của ban nhạc synthesizer Đức Fraftwerk. Các đĩa cho Kraftwerk sáng tác trong thập niên 70 và 80 đều được các nhà cải cách techno Mỹ trích dẫn như là nguồn cảm hứng của họ. Đặc biệt phải kể đến bộ ba DJ người Detroit trong giữa thập niên 1980 - Juan Atkins, Derrick May và Kevin Saunderson - phát triển và tinh lọc loại giai điệu tổng hợp đã được ban nhạc Đức này dùng để thử nghiệm, chấm phá vào một chút funk và vay mượn thêm từ bối cảnh âm thanh công nghiệp của vùng Detroit.
Ngày nay, hầu hết các Dj đeo đuổi nghiệp techno đèu có liên quan đến loại nhạc có những tiếng đập nghe hối hả và nhịp chuyển tương đối nhanh, được biểu thị bằng những tiếng trống điện nện thình thịch liên tu bất tận. Nếu House là nhạc nhảy để tán dương con người thì techno là thể loại ca ngợi máy móc - "chát chúa", "vô hồn" hoặc "không thương xót" là những từ mà các dj của techno có thể hãnh diện là đã được dành ra để gọi riêng cho những âm thanh của họ. Các biến thái từ vòng lập này đến vòng lập khác nhìn chung ko khác nhau là mấy, nhưng ngược lại, với house hoặc big beat, người ta có thể thấy âm thanh của loại nhạc này biến đổi nhanh chóng, chỉ một thoáng lấy đà là chúng đã đạt đến cường độ mạnh hơn trước rất nhiều. Richie Hawtin, là tên thật của dj Plastikman, người đã mở đường để định nghĩa cho nhạc techno ngày nay. Trong một album của anh, Decks EFX & 909, Hawtin dùng 2 bàn xoay (deck), một số mô đun hiệu ưng đặc biệt (EFX) và dàn trống điện tử Roland 909 để tạo dấu ấn âm thanh riêng cho album của anh trong khi anh guồng chúng thật nhanh. Tuy nhiên trong album phát hành trước đó, Consumed, Hawtin cũng dùng các thiết bị tương tự nhưng lại áp dụng nguyên lý techno ở mức tối thiểu trong các thành phần âm thanh pha trộn. Bằng cách tập trung vào sự tinh tế trong việc cấu trúc và sau đó phá vỡ cấu trúc các âm thanh, anh tạo ra được loại nhạc lan tỏa ra xung quanh một cách nhịp nhàng, khó nhận thấy. Hawtin nói "Một khi bạn đã du hồn vào đó, lắng nghe nó một hoặc hai lần, và rồi thêm lần thứ 3 hoặc thứ 4, mỗi lần bạn sẽ chợt nhận ra được những điều nhỏ nhặt trong nó".
Tóm lại, techno là một loại nhạc được làm bằng điện tử, máy móc từ A đến Z, nghe rất dễ phân biệt những âm thanh điện tử, thường có những tiếng "chíu chíu" như trong các trò chơi video game.
TRANCE
Trance về cơ bản là House, đôi khi còn được nhắc tới dưới cái tên epic hay progessive house, nhưng nhấn mạnh vào tiếy điệu mê hoặc và giai điệu đẹp. Các sáng tác trance đều tiên tiến hóa từ bối cảnh "rave" và house trong thập niên 90, nhưng giai điệu gợi nhớ của chúng lại từ một nguồn khác, đó là synth-pop giữa thập niên 80 của các nhón như New Order. THử lắng nghe ca khúc Blue Monday của New Order và bạn sẽ nghe được cách sử dụng giai điệu điện tử siêu thoát tương tự. DJ hàng đầu của Trance kiêm nhà sản xuất Paul Van Dyk, thừa nhận là anh đã chịu ảnh hưởng từ New Order.
Sasha, một tay DJ nhạc trance, cùng với John Digweed đóng đô tại Twilo (Manhattan), biểu diễn một suất kéo dài 8 tiếng đồng hồ vào đêm thứ 6 cuối cùng của mỗi tháng. "Nó là loại nhạc rất du dương, rất sảng khoái, rất mơ màng", Sasha giải thích, "Nhưng nó cũng mãnh liệt và có những giây phút vô cùng dữ dội, chuyển từ sáng sang tối, từ cứng sang mềm".
Khi anh chơi, Sasha tạo ra và lại hủy cấu trúc của tempo - tăng cao hoặc giảm thấp mức độ năng lượng của một party - có đến hàng chục lần như vậy trong một đêm. "Khi John và tôi bắt đầu trình diễn âm thanh này cách đây vài năm, nó được gán cho là nhạc epic house của Anh. Loại nhạc này tạo ra một ko gian âm thanh rất điện ảnh, với mức chất lượng gần như vậy. Nhiều đĩa Trance có vẻ như là chỉ có một dj duy nhất phô diễn tài nghệ của mình dù rằng còn nhiều dj khác nữa. Bạn có khúc intro, khúc build-up, khúc breakdown rồi lại một đoạn khác nữa". Chất lượng âm thanh như trong điện ảnh có tác động rất lớn đối với hệ thống âm thanh trầm đục ngân vang trong các CLB lớn. Sasha nói chiều dài của một suất dj maraton của anh cũng là vấn đề quan trọng. "Chính việc pha chế âm thanh kéo dài 5, 6 tiếng, thậm chí có thể lâu hơn, đã cuốn hút bạn. Bạn có thể trộn chung một đống đĩa house với nhau và tạo ra một âm thanh có chất lượng tương đương như trance. Đó là những gì tôi và John tìm kiếm trong đĩa của mình - những âm thanh mê hoặc làm bạn ko dứt ra được".
Nói chung, nhạc Trance về cơ bản vẫn là house, nhưng giai điệu được chú trọng hơn và thường dài hơn.
Hãy nghe DJ Nguyễn Thế Việt nói về Trance - một nhánh trong nhạc điện tử: “Trong các dòng Electronic music thì Trance luôn được ưa chuộng, có chỗ đứng riêng tại các party nhỏ hay những discotheque nổi tiếng. Nhưng nếu coi Trance chỉ là để nhảy thì bạn mới chỉ biết được 30% những điều kì diệu mà nhạc Trance mang lại.
Những âm thanh được tạo ra bằng nhạc cụ điện tử - trừ giọng hát - làm cho bạn cảm thấy như đang đi vào một thế giới khác, một thế giới không có trong từ điển. Thật khó tả, và chỉ biết nói rằng: đó là thế giới mà tôi ưa thích”.
EURO/UPLIFTING/HARD TRANCE: thường là từ 140 – 145 bpm (bmp = beats per minute) và tiếng bass khá nặng kèm theo đó là một female vocal. Những DJ hay chơi dòng này là Kai Tracid, Cosmic Gate, ATB,....
PROGRESSIVE TRANCE: Không phổ biến như EURO/UPLIFTING/HARD TRANCE, tiếng bass sâu và huyền ảo (nghe thường như trống của các bộ lạc thời xưa) , sử dụng rất nhiều âm thanh khác lạ không có trong thực tế. 130 – 140bpm. DJ : Sasha , John Digweed,...
TRANCECORE: là sự kết hợp của Trance và Hardcore,bpm = 160+.Nói thật là khi nghe dòng này tôi có cảm giác hơi sợ sợ vì nó nhanh và âm thanh thì cứ như từ dưới địa ngục lên ấy ,nghe thảm thiết lắm,không dành cho ai yếu tim.
Trance hiện nay ảnh hưởng nhiều của dòng underground, từ underground ở đây thật khó giải thích, nhưng theo tôi thì nó hơi Progressive một tẹo, âm thanh thì mix càng lúc càng phức tạp,những âm thanh từ máy tính và không thực tế ngày càng nhiều và nghe cũng phê hơn.
Sao lại gọi là UnderGround?
Underground là một thuật ngữ theo nghĩa bóng là những thứ gì hơi illegal một chút. Như kiểu tổ chức dance event mà ko có giấy phép của Sở văn hoá ấy.Rất dễ hiểu phải không?
Còn về phần underground music, theo mình biết các DJ và người nghe ở HN hay truyền tụng nhau về dòng underground nhưng thực chất nó chỉ là gồm tribal house, progressive house, tech-house, techno.... là những thứ mà ở các club HN và các DJ hiện nay rất thích nên họ đặt cho cái tên như thế.
TRANCE MUSIC: Trong các dòng thuộc hệ Electronic music thì Trance có lẽ là nhánh được ưa chuộng nhất, từ các party nhỏ hay những discotheque nổi tiếng Trance luôn luôn có chỗ đứng riêng và thật sự tạo được sự khác biệt.
Nhạc Trance thường được coi như một loại nhạc để nhảy ở discotheque, thực sự thì không phải vậy , nếu chỉ nghe để nhảy thì bạn mới chỉ biết được 30% những điều kì diệu mà nhạc Trance mang lại. Hãy thử tắt đèn ,ở trong bóng tối , yên lặng , nhét đĩa In Search of Sunrise 3 của DJ Tiesto và nghe hết tất cả 15 bài với thời gian 79’ 38” – nếu có thể - bạn sẽ phải thay đổi phần nào quan niệm của chính mình về nhạc Trance và với những ai chưa biết gì , thật sự đó là một điều mới lạ mà bạn chưa từng cảm thấy bao giờ. Để nhịp trống , giọng hát, những âm thanh được tạo ra bẳng tất cả nhạc cụ điện tử trừ giọng hát làm cho bạn cảm thấy như đang đi vào một thế giới khác , một thế giới không có trong từ điển ,không thể tả nổi và chỉ biết nói rằng : đó là thế giới mà tôi ưa thích . Đó là những cảm giác mà tôi thật sự có khi nghe đĩa nhạc này , đây mới chỉ là một trong số rất nhiều compilation mix CDs của DJ Tiesto – DJ số một thế giới hiện nay.
DJ là từ viết tắt của Disc Jockey, được hiểu nôm na là người chỉnh nhạc. Hiện nay có 3 dạng DJ chính đó là Radio DJs, Mobile DJs và Club DJs. Cả 3 dạng DJ này đều có một mục đích chung là mang lại sự giải trí cho một nhóm người hoặc một đám đông bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên âm nhạc là phương tiện chính.
Công việc chính của một DJ là sự kết hợp tất cả những nhân tố cần thiết cho buổi trình diễn của họ thành một dạng thức biến đổi sao cho khán/thính giả của anh ta có thể dễ dàng chấp nhận và thưởng thức. Đối với một vài DJ công việc này có thể là cách nói chuyện và giao lưu với khán giả, trong khi đối với những DJ khác thì đó là cách chơi hoặc quay (spinning) những đĩa nhạc mới nhất hay nhất do anh ta chọn lọc để trình diễn cho đám đông khán giả. Một DJ giỏi là một người vừa có khả năng sáng tác và chơi nhạc vừa có khả năng giao lưu với khán giả, tạo nên sự đê mê hưng phấn hoặc phê li xi tê cho đám đông.
-
Mobile DJs là dạng phổ biến nhất. Họ thường là những người trình diễn trong các buổi Party hoặc những sự kiện đặc biệt(đám cưới, sinh nhật…). Công việc của họ thường là đáp ứng nhu cầu giải trí cho một nhóm người gồm nhiều lứa tuổi và sở thích khác nhau (cũng có thể coi một MC là một DJ trong trường hợp này)
-
Radio DJs kém phổ biến hơn. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo không bao giờ để xảy ra những khoảng thời gian chết(lặng) trên sóng phát thanh bằng cách nói chuyện với khán giả hoặc chơi nhạc.
-
Club DJs cũng gần giống như Mobile DJs, tuy nhiên họ hướng vào một nhóm lứa tuổi riêng(thường là những người trẻ tuổi) và được đám đông chờ đợi chơi những track nhạc mới nhất và hay nhất trong suốt buổi trình diễn. Những DJ này thường đòi hỏi phải biết cách chơi và trộn nhạc theo phong cách riêng để tạo nên tên tuổi cho anh ta và cho club mà anh ta chơi nhạc.
Một DJ thường được gọi là remixer , mixer hoặc là producer , một DJ giỏi thường là người có thể có được 3 kĩ năng trên.
-
Remixer : là những DJ chuyên đi remix những bản single sao cho phù hợp với một compilation mix của anh ta hoặc cho một rave party hay cho discotheque , do vậy 1 single khi tung ra có thể được các remixer mix lại theo rất nhiều kiểu khác nhau.
-
Mixer: là DJ, gần như remixer nhưng khác một chút là anh ta không chỉnh sửa nhiều bản gồc của một single nào đó mà chỉ chọn và mix các single hoặc remix song với nhau : đây được gọi là một compilation mix CD . Anh ta sẽ mix khỏang từ 15 – 20 track của các DJ khác nhau cho một CD và compilation disc thường là double CDs , nên biết rằng 1 compilation thường có thể tua được theo từng track như những CD bình thường nhưng những track đó sẽ liền tù tì với nhau (non-stop) từ track đầu tiên cho tới track cuối cùng. Một compilation mix được coi là hay khi người nghe không muốn bỏ qua bất cứ track nào trong CD đó và compilation mix bao giờ cũng được mix theo chủ để và chủ đề đó chính là tên CD và mang phong cách của DJ đó.
Ví dụ có tên một bài hát trong compilation disc được ghi như thế này : Southern Sun – Paul Oakenfold (DJ Tiesto Remix) thì ta sẽ hiểu như sau: đây là bài Southern Sun được produced by DJ Paul Oakenfold và được DJ Tiesto remix lại .
-
Producer : là DJ trực tiếp sáng tác , mix một bài hát của riêng mình từ khâu chọn kiểu nhạc , chọn âm thanh , chọn giọng hát. Có thể nói công việc tạo ra 1 album riêng của một DJ thật sự rất khó khăn, chỉ mãi mãi là nhịp 4/4, âm thanh thì đều do máy tính và các nhạc cụ điện tử tạo ra, chọn chủ đề của bài hát , của album sao cho phù hợp và có sự gắn kết liên tục giữa các bài hát là công việc đòi hỏi trình độ cực cao và nhạy cảm với thời đại. Thông thường thì 1 album riêng của 1 DJ như thế chỉ có từ 8 -12 bài chứ không được nhiều như compilation CDs nhưng về độ dài của CD thì ngang nhau vì những bản gốc thường rất dài : từ 6’ – 12’/bài. Nếu nhạc của anh ta sáng tác hay thì trong các sàn nhảy nó sẽ được remix cho hợp với sàn nhảy , các DJ khác sẽ lấy single đó của anh ta cho compilation của chính mình. Do vậy 1 single có thể có rất nhiều bản remix khác nhau , do các DJ khác nhau remix hoặc do chính tác giả của nó remix để play tại party hay discotheque. Có thể nói việc sáng tác single là một việc không chỉ tạo phong cách cho tác giả mà còn là mang lại những nét độc đáo của các DJ khác khi các DJ đó lấy single cho compilation disc.
Một đĩa nhạc Trance cho dù là album hay compilation mix thì đều dài cả , hiềm có CD nào lại dài dưới 60’ .
Độ tuổi nổi tiếng của một DJ thường thấy là từ 25-35 tuổi , sau khi đã bôn ba đi khắp các sàn nhảy , làm DJ cho các party,dance event thì lúc đó các DJ mới tính chuyện làm compilation hay album riêng cho mình .Trong thời gian từ 5-10 năm đầu tiên khi mới bước vào nghề DJ thì họ chỉ sáng tác những single và sau đó mới ghép lại thành một album riêng.
Những Club nổi tiếng trên thế giới:
Space – Ibiza , Spain
Cream – Liverpool , UK
Gatecrasher., UK
Godskitchen, UK
Matrixx – Amsterdam, The Netherlands
Palazzo , Germany
ClubSpace – Miami, USA
…..
Đây là những club mà việc được chơi nhạc ở đây là một niềm vinh dự với bất cứ một DJ nào trên thế giới , nhờ những club thế này mà sự nổi tiếng càng được nâng cao. Các club này còn thường xuyên mở các dance event và worldtour để lăng xê tên tuồi của các DJ và CLUB.
Dance Event(nơi hội tụ các DJ hàng đầu, thay nhau mix nhạc từ đêm hôm trước đến sáng hôm sau) nổi tiếng:. Nói đến dance event thì không một đất nước nào nhiều dance event hơn The Netherlands – Hà Lan
Trance Energy: 2 lần trong 1 năm tại Hà Lan
Sensation: đây là dance event lớn nhất của Hà Lan và trên thế giới , quy tụ rất nhiều DJ nổi tiếng, thường có 2 ngày cách nhau khỏang 1 tuần , 1 ngày gọi là Sensation White – tất cả từ DJ đến người xem đều mặc tòan đồ trắng,các thể loại được chơi hầu hết là Trance và các dòng con của Trance. Được tổ chứ 1 tuần sau đó là Sensation Black và màu đen là màu chủ đạo,thường chơi hardtrance , hardstyle, techno..
Love Parade: 1 năm 1 lần ở Đức , tòan nhạc techno và hardstyle
Ngòai ra còn có Mystery land, Dance Valley, Q-Dance (hầu hết là hardstyle) ,Innercity (dòng underground) Shockers (techno) ở Hà Lan..
Sau khi các dance event này diễn ra khỏang 1 – 2 tuần thì CD cũng được release , nghe thích thú.
Những CD nên nghe:
Đầu tiên phải nói đến đó là Series Global Underground , đây là một Series hay và quy tụ một số DJ hàng đầu ở UK , họ đi khắp nơi trên thế giới: Hong Kong, Tokyo , Toronto, NewYork , Capetown , Sydney , Budapest , Oslo v.v…. đến nay series này đã ra được 25 compilation mix của các DJ nổi tiếng như Paul Oakenfold , Dave Seaman , Nick Warren , Deepdish v.v…. Nhạc này không khó nghe lắm nhưng hơi khó nhảy.
Tiếp đó là series Trance của ID&T : ID&T Trance , mới ra được 5 compilation mix nhưng lại không phải do các DJ mix mà do người của bên ID&T Recording chọn các bài mới và hay nhất trong thời điểm đó và có một studio chuyên mix mix cho họ, rất hay , tớ thích lọat này nhất..
Cuối cùng là lọat Trance có lẽ có giá trị nghệ thuật cao và càng nghe càng hay và khi nghe hết các lọat CD này , đảm bảo bạn sẽ hiểu nhạc Trance là thế nào. Đó là các Compilation Mix của DJ Tiesto ,DJ số 1 thế giới hiện nay..
Đầu tiên là series Magik gồm có 7 volume
Tiếp đến là Lost Treasure – 9 volume
Forbidden Paradise – 3 volume
In Search of Sunrise – mới có đến Volume 3 và chắc cuối năm nay hoặn đầu năm sau sẽ có vol 4 , đây là series tôi mê nhất và theo tôi thì là hay nhất trong các series của Tiesto.