Tiểu thuyết dài kỳ: "Tìm trong nỗi nhớ"

Chị ơi, đọc say mê luôn :D. Đây là chỗ tự do ra vào mà, ai ko thích thì ko đọc nữa là xong. Còn chị và anh Dương cứ phải post cho những người thích đọc chứ :p. Post tiếp cho bọn em nhé. Cám ơn trước. Hehe
 
Tiếp sức với chị Mai và anh Dương:

4



Trời rất trong, rất dịu khi Lan Chi bước ra đường vào buổi sáng hôm nay. Cô đang có tâm trạng khá vui vẻ. Chỉ còn một hôm nữa thôi là hai tuần nghỉ lễ sẽ bắt đầu, lũ trẻ nhà cô sẽ được nghỉ ở nhà, Lan Chi cũng không đi làm vì vào dịp này cửa hàng của cô bao giờ cũng đóng cửa cùng một lúc với các trường học. Và sau đó, vào giữa kỳ nghỉ, Thanh Hoa sẽ cùng chồng con đến chơi với gia đình Lan Chi chừng bốn, năm hôm. Một kế hoạch chu đáo đến từng chi tiết cho dịp hội ngộ này đã được vạch ra. Lần đầu tiên sau rất nhiều năm hoàn toàn dửng dưng với Noel, Lan Chi nhận thấy mình bị cuốn vào không khí náo nức, hội hè của dân châu Âu từ lúc nào không biết.

Một tiếng đồng hồ sau, bên ngoài cửa sổ tình hình thời tiết và không khí đường phố dường như vẫn không có gì thay đổi, nhưng tâm trạng của Lan Chi thì đã không còn dấu vết gì của sự vui vẻ lúc trước. Nguyên nhân của sự biến chuyển đột ngột này là hai cú điện thoại mà cô vừa nhận được. Cú đầu tiên cho Lan Chi biết rằng kỳ nghỉ này nhà cô sẽ không có những người khách đang mong đợi : hai đứa con của Thanh Hoa tự dưng lăn ra ốm làm cho kế hoạch đi nghỉ của cả gia đình phải hủy bỏ. Cú thứ hai thông báo một sự kiện bất ngờ : bà mẹ chồng sẽ từ Paris xuống miền Nam nghỉ Noel đợt này với gia đình Lan Chi. Qua điện thoại, cô em chồng giải thích một cách rất dài dòng lý do dẫn đến chuyến đi Mỹ ngoài dự kiến của vợ chồng mình vào đúng dịp Noel, thổ lộ một cách rất thân tình rằng để má lại một mình ở Paris vào dịp lễ tết này thì tội quá, em đã tính hay đem má đi chơi cùng, mà nhiều việc quá lo không kịp, mà má cũng đâu có muốn... Rồi, sau khi thông báo rằng em đã mua vé máy bay cho má xuống chỗ anh chị ngày mai, cô em như sực nhớ ra bèn hỏi bằng giọng của một người đã biết trước câu trả lời : “Má xuống chơi đường đột vậy có phiền anh chị quá không ?” “Phiền gì đâu”, Lan Chi đáp lại bằng giọng của một người biết rằng mình không có cách trả lời nào khác.



Trưa hôm sau, hết ca làm việc, Lan Chi không về nhà mà lái xe ôtô ra thẳng sân bay đón mẹ chồng. Như thường lệ, ban ngày Trung không có được một phút rảnh rỗi, nếu không bận rộn ở bệnh viện thì lại có người bệnh đợi ở phòng khám, vì vậy, buổi sáng trước khi đi làm, anh giao hẹn với Lan Chi là để lại cho cô chiếc ôtô cùng với nhiệm vụ đi đón mẹ.

Máy bay từ Paris đến chậm hai mươi phút. Hai mươi phút ngồi đợi ở sân bay, không mang theo cái gì để đọc, đầu óc Lan Chi chỉ có mỗi một việc để nghĩ là cuộc giáp mặt sắp tới với mẹ chồng. Lần cuối cùng cô gặp bà cách đây đã năm năm, khi hai bé sinh đôi ra đời và bà nội từ Paris xuống thăm cháu, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh dai dẳng nhiều năm giữa mẹ chồng và nàng dâu. Từ đó đến nay, quan hệ của họ vẫn chỉ dừng lại ở vài câu trao đổi ngắn gọn, lạnh lùng nhưng lịch sự qua điện thoại. Đôi lần, vợ chồng Lan Chi cũng đã dự định thu xếp một kỳ nghỉ nào đó đưa lũ trẻ lên Paris chơi với bà nội, nhưng rồi cô luôn luôn có những lý do chính đáng để hoãn lại chuyến đi, nhiều khi vào phút cuối cùng. Thường thì năm nào Trung cũng có việc phải đi Paris ít nhất một lần, kết hợp luôn ghé thăm mẹ, nhưng gần một năm nay anh quá bận công việc ở đây nên chưa đi được, có lẽ đó cũng là một trong những lý do của việc mẹ anh đột ngột quyết định đến chơi vào kỳ nghỉ cuối năm này.
Phút đầu gặp lại diễn ra hơi sượng sùng. "Thằng Trung đâu ?", bà mẹ chồng hỏi thay câu chào, tuy đã biết từ trước là con trai bận không ra sân bay được. "Dạ, giờ này anh ấy bận ở bệnh viện. Má đưa vali con xách cho", Lan Chi nói rồi tự cảm thấy cái từ "má" phát ra bằng chất giọng Hà Nội trăm phần trăm của mình nghe giả dối đến nỗi cô bực bội cắn vào lưỡi mình một cái.

Ngồi vào ôtô, hai bên trao đi đổi lại những lời thăm hỏi. Đầu tiên, mẹ chồng hỏi lũ nhỏ có khỏe không, có ngoan không, có nhanh lớn không. Lan Chi túm ngay lấy cơ hội kể lể về con để chuyển cách xưng hô, vẫn xưng "con" nhưng gọi mẹ chồng là "bà", cái lối gọi thay con này làm cô nhẹ nhõm hẳn. Nói được chừng năm phút thì Lan Chi nhận thấy mẹ chồng bắt đầu lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, cô bèn chuyển đề tài, hỏi thăm tình hình gia đình cô em chồng ở Paris. Câu hỏi này đem lại cho cô hơn mười phút khỏi động não tìm chuyện để nói, chỉ việc nghe mẹ chồng kể về lũ cháu ngoại một cách say sưa, say sưa đến mức tự dưng cô đâm chạnh lòng nghĩ đến mấy đứa con mình chẳng còn bà ngoại. Rồi Lan Chi hỏi thăm đến gia đình ông chú ruột chồng và được biết tiệm ăn của bà thím dạo này không còn đông khách như trước, cậu em họ sắp cưới đến nơi thì chả biết bị bồ bỏ hay bỏ bồ, giờ lại cặp với một cô bồ khác, lần này là tây ..."Vậy cái cô định cưới thì là người Việt ạ ?", Lan Chi hỏi. "Ờ, ... mà không, con trước cũng tây, nhưng con trước nữa thì là Việt. Con nhỏ nhà ông Tư Bình đó. Hai nhà ưng lắm rồi mà hai đứa nó lại chẳng chịu nhau..." Câu chuyện được chuyển sang nhà ông Tư Bình. Lan Chi thoáng nghĩ không biết ông Tư Bình là ai nhỉ, tuy vậy cô không hỏi để mẹ chồng khỏi mất hứng. Điểm một vòng hết tình hình bà con, người quen và không quen ở Paris, thêm được mười phút nữa mà vẫn chưa về được tới nhà. Mấy phút im lặng nặng nề, rồi mẹ chồng kêu buồn ngủ và ngả người vào lưng ghế lim dim mắt.

Vào đến trung tâm thành phố, ôtô giảm tốc độ rồi lăn từng tí một như bò trên những đường phố tắc nghẽn xe và đông nghịt người qua lại. Ở mỗi ngã tư, đèn hiệu màu xanh lấp lóe như trêu ngươi : cứ mỗi một lần ôtô nhích lại được đến gần thì nó lập tức chuyển sang thành màu đỏ. Mười phút đã trôi qua mà ôtô của Lan Chi vẫn chưa ra khỏi được cái đại lộ chỉ dài có quãng nửa cây số. Không khí nhốn nháo ngoài đường làm sự im lặng trong xe trở nên mỗi lúc một ngột ngạt hơn. Lan Chi hạ cửa kính xuống, gió lạnh và và những âm thanh đường phố hỗn độn ập vào. Mắt vẫn nhắm lim dim, người vẫn ngả trên lưng ghế, mẹ chồng bỗng nói như than : "Chỗ này tỉnh lẻ mà sao cũng đông dữ vậy !" "Dạ, sắp đến Noel nên người ta đi mua sắm", Lan Chi đáp bằng một giọng chán nản. Noel, sao Noel nào cũng vậy, cứ đến cái thời điểm mà thiên hạ vui vẻ nhất thì cô lại thấy lòng mình cô độc nhất.

Cuối cùng thì ngôi nhà nhỏ nằm nép mình buồn bã trong một góc phố vắng cũng hiện ra. Lan Chi nhìn đồng hồ : ba giờ mười lăm, còn hơn một tiếng nữa mới đến giờ đi đón bọn trẻ ở trường về. Ăn trưa giờ này đã muộn nhưng tối qua Lan Chi biết trước là buổi trưa sẽ cập rập nên đã cẩn thận nấu nướng sẵn vài món. Cô vừa vào bếp định làm nóng lại thức ăn thì mẹ chồng nói ngay là không đói, đã ăn trên máy bay rồi. Bà kêu mệt và muốn đi nằm. Lan Chi đành tự thưởng thức một mình những món ăn mà cô đã lụi hụi làm cả tối hôm qua, món nào cũng cho đường ngọt lự để chứng tỏ thiện chí với mẹ chồng.

Cây thông cao mét rưỡi đã được dựng lên ở một góc phòng khách từ cách đây mấy hôm. Thông nhựa, nhưng nhìn xa cũng na ná như thông thật. Đèn màu nhấp nháy, dây kim tuyến lóng lánh, những đồ trang trí hình quả thông, quả chuông, hình ông già Noel ... đủ màu sắc treo lủng lẳng khá vui mắt trên những cành thông. Kỳ nghỉ đã bắt đầu. Không khí Noel cuối cùng cũng đã lan được đến đây.

Sáng 24 tháng 12, tuy không phải đi đâu nhưng Lan Chi dậy rất sớm. Trung vẫn phải đi làm như thường lệ, sáu giờ rưỡi sáng đã vừa ngáp ngắn ngáp dài vừa làu bàu than thở rồi chui ra khỏi giường. Ở phòng bên cạnh, mẹ chồng cũng cựa mình, lục đục. Lan Chi bật dậy theo Trung, xăng xái đi pha cà phê và làm mấy lát bánh cho chồng ăn sáng, mặc dù anh đã ra sức can ngăn "ngủ tiếp đi, anh tự làm lấy được mà". Trung đi rồi, ba đứa con còn ngủ say sưa, Lan Chi bèn tranh thủ dọn dẹp nhà cửa. Bữa ăn Noel tối nay sẽ đặc biệt hơn mọi năm : ngoài mẹ chồng ra, nhà còn có thêm một vị khách nữa là bà hàng xóm Xvetlana. Cô đã có lời mời bà đến ăn tối Noel với gia đình cô từ tuần trước, sau khi tình cờ biết rằng dịp nghỉ lễ này cô con gái duy nhất của bà có việc bận nên không về thăm mẹ được.

Lan Chi vừa đặt vào dưới gốc thông vài gói quà mua sẵn từ hôm trước cho lũ trẻ thì mẹ chồng từ phòng ngủ bước ra. Nhìn thấy những gói quà bọc giấy màu bóng bẩy và thắt nơ diêm dúa, bà sực kêu lên : "Mấy thứ đồ chơi mua ở Paris lại đưa ngay cho sắp nhỏ từ hôm trước mất rồi, tối nay vậy là không còn gì hết trơn cho tụi nó". Cô con dâu phải ra sức can ngăn bà mới đành từ bỏ ý định chạy ra cửa hàng mua thêm quà khác cho cháu, bụng vẫn áy náy không yên, bảo vậy là tối nay lũ trẻ chỉ có quà của ba mẹ chúng thôi mà không có quà của bà. “Quà Noel thì phải để tối Noel mới mở chớ”, bà nói. Rồi bà lại băn khoăn hỏi : “Không biết để quà dưới gốc thông vậy đã đúng chưa, hay phải cho vào trong cái giày cao cổ ? Mà là đưa ngay cho tụi nó tối nay, hay phải giấu đi đợi đến sáng ngày mai mới đúng? Có phải thuê ông già Noel đến đưa quà không ? Vợ chồng con Hạnh ở Paris năm nào cũng thuê người làm ông già Noel mang quà đến tận nhà cho bọn nhỏ đó.”

“Mấy thứ thủ tục ấy con cũng không rõ lắm, - Lan Chi nói. - Thôi thì cứ có quà cho bọn trẻ con nó vui là được rồi, cho nó khỏi thấy khác biệt con nhà người ta. Chứ còn truyền thống của người ta, phong tục của người ta, mình làm sao biết hết, theo hết được. Bọn con cứ phiên phiến thôi bà ạ.”



Bảo là phiên phiến nhưng bữa ăn tối nay vẫn phải có sâm banh và một con gà tây rôti nhồi thịt băm to đùng cho đúng lệ. Trung thắp mấy cây nến thơm tỏa hương ngào ngạt để tạo thêm không khí Noel. Mẹ anh bảo đã thắp nến rồi sao còn để đèn điện làm gì. Cu Nam nghe bà nói liền nhanh nhảu chạy đi tắt đèn. Mọi người ngắm nghía một hồi rồi quyết định phải châm thêm cây nến nữa không thì tối quá. Trung châm thêm luôn hai ngọn nến cuối cùng còn sót lại trong nhà. Cả nhà lại ngắm nghía thêm lần nữa rồi quyết định bật đèn lên, vừa nến vừa đèn càng tốt.

Đúng bảy giờ rưỡi tối thì có tiếng chuông. Lan Chi ra mở cửa. Bà hàng xóm Xvetlana xuất hiện với một chiếc bánh gatô rất to. “Gatô tôi làm theo kiểu Nga đấy,- bà nói,- chắc cô đã ăn loại này rồi chứ nhỉ ?” “Cám ơn bác, cháu cũng không nhớ nữa bác ạ, lâu quá rồi mà, để tí nữa ăn thử có khi lại nhớ”, Lan Chi vừa đáp vừa nhận chiếc bánh từ tay bà hàng xóm rồi mang vào bếp.

Trung giới thiệu bà Xvetlana với mẹ. Sau vài câu chào hỏi xã giao, mẹ anh ồ lên sửng sốt khi biết bà hàng xóm là người Nga.

- Bà nói tiếng Pháp hay quá, hệt như người Pháp vậy, - mẹ Trung khen bà khách bằng một thứ tiếng Pháp ngọng nghịu.

- Tôi sống ở đây gần bốn chục năm rồi, toàn nói tiếng Pháp chứ có mấy dịp để nói tiếng Nga đâu, muốn nói tiếng Nga ở nhà với chồng con cũng khó thì còn nói ở đâu được nữa, - bà hàng xóm cười trả lời.

- Vậy ông nhà là người Pháp ? - mẹ Trung hỏi.
- Ông ấy cũng người gốc Nga, nhưng sinh ở Pháp. Ông ấy mất mười năm rồi.
Mẹ Trung có vẻ định hỏi tiếp điều gì, nhưng xem ra phải diễn đạt bằng một câu tiếng Pháp không đơn giản, cho nên bà nhăn mặt lại, căng thẳng lựa lời, rồi sau một hồi ậm ừ đành bỏ cuộc. Để lấp chỗ trống trong lúc đợi người đối thoại tìm được một câu khác dễ nói hơn, bà Xvetlana quay sang chỉ vào Lan Chi và nói rất âu yếm :

- Cô Lan Chi thì nói tiếng Nga giỏi lắm. Từ khi quen cô ấy, tôi lại có thêm dịp nói tiếng Nga.

Mẹ chồng ném cho con dâu một cái nhìn lạ lẫm nhưng không bình luận gì mà quay sang hỏi thăm chuyện con cái của bà hàng xóm. Đề tài "mấy con, mấy cháu" rõ ràng là vừa đơn giản về mặt ngôn ngữ, vừa thích hợp về mặt tuổi tác và giới tính đối với cả hai người, cho nên câu chuyện lại có cơ kéo dài thêm được.



Bà Xvetlana là người hàng xóm duy nhất ở phố này mà Lan Chi có quen thân. Những người khác thì quan hệ nhiều nhất cũng chỉ ở mức một câu chào khi thỉnh thoảng chạm trán nhau ngoài phố. Trong hai năm đầu Lan Chi sống ở đây, quan hệ của cô với bà Xvetlana thực ra cũng chỉ có vậy. Bà sống ở ngay ngôi nhà bên cạnh, hàng ngày Lan Chi vẫn nhìn thấy bà đi ra đi vào, nhưng cô không hề biết điều gì về bà, thậm chí đến cả cái tên cũng không biết. Thế rồi một hôm cô vừa về đến cửa thì gặp bà đi chợ về. Hai tay xách khệ nệ hai túi to, bà trượt chân ngã làm cà chua, cà rốt, khoai tây ... rơi ra vỉa hè tung tóe. Lan Chi vội chạy đến đỡ bà già dậy, giúp bà nhặt các thứ đồ ăn xếp lại vào trong túi. Rồi tiện thể, cô xách hộ luôn cả hai cái túi đến tận cửa nhà bà. Trong lúc bà già cám ơn Lan Chi rối rít thì tình cờ cô nhìn thấy cái tên đề trên một khung giấy nhỏ phía dưới nút bấm chuông ở cửa : Xvetlana Popova. Một cái tên Nga chính hiệu không lẫn đi đâu được. Lan Chi buột miệng hỏi bằng tiếng Nga : "Bác là người Nga ạ ?" " Vâng", bà già ngẩn người ra sững sờ, đáp lại câu đầu bằng tiếng Pháp, rồi lập tức chuyển sang tiếng Nga : "Sao cô lại nói được tiếng Nga ?" "Cháu đã học ở Nga tám năm". "Những tám năm cơ à ? Vậy cô học ở thành phố nào ?" "Ở Matxcơva ạ ." "Tôi là người Matxcơva đây", bà già nói và đột nhiên cầm lấy tay Lan Chi, miệng cười như mếu, rồi nhất định kéo cô vào nhà chơi, "để nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ". Đang có thời gian rảnh, Lan Chi theo bà hàng xóm vào nhà ngay. Cô cũng muốn nói chuyện về Matxcơva một chút cho đỡ nhớ.

Ngồi nửa tiếng với bà Xvetlana, Lan Chi đã biết rất nhiều điều về bà. Biết rằng bà đến Paris vào đầu những năm sáu mươi, khi đang là sinh viên Pháp văn, được gửi qua Pháp thực tập. Chỉ định đi có một năm thôi, rồi lấy chồng là người gốc Nga (bố mẹ ông ấy sang Pháp sống ngay sau cuộc cách mạng năm 1917), thế rồi ở lại Pháp mãi cho đến tận bây giờ. Mấy năm trước chồng bà chết vì tai nạn ôtô. Cô con gái duy nhất lấy chồng người Pháp, hiện sống ở Lille, một thành phố tận cực bắc nước Pháp, thỉnh thoảng mới đem con về thăm bà. "Sao bác không chuyển đến đó ở cho gần con cháu ?", Lan Chi hỏi. "Tôi sống ở đây mấy chục năm rồi. Nhà cửa ở đây, thói quen cũng ở đây, không nhổ rễ đi đâu được nữa. Nếu đi được thì tôi đã về Matxcơva sống chứ chẳng đi chỗ khác. Bao nhiêu năm nay lúc nào cũng nghĩ đợi thêm ít nữa rồi về Nga hẳn, vậy mà cuối cùng có về được đâu."

Từ đó họ thường xuyên qua lại thăm nhau. Để chia xẻ với nhau những hồi ức về một thành phố xa xăm trong quá khứ. Matxcơva, thời thơ ấu của bà. Matxcơva, tuổi trẻ của cô. Đôi lúc, nhìn cặp mắt long lanh ngấn lệ của bà khi nhắc tới những tên đường, tên phố, Lan Chi tự hỏi không biết đằng sau những cái tên ấy bà cất giữ những kỷ niệm gì. Còn cô, ở mỗi một con đường xưa cô đều nhìn thấy bóng hình Kiên. Ở góc phố này là nụ hôn đầu cháy bỏng của anh, một ngày cuối đông tuyết tan. Ở vỉa hè kia, dưới một hàng hiên, cô đã nép trong vòng tay anh để tránh một cơn mưa tầm tã đến hơn tiếng đồng hồ, hai đứa trò chuyện huyên thuyên, trời tạnh lúc nào không biết. Còn ở con đường nhỏ rợp bóng cây ấy, cô đã gục vào vai anh khóc nức nở sau một trận cãi nhau kịch liệt rồi lại làm lành, hai tháng trước ngày họ chia tay mãi mãi... Bà Xvetlana rất ngạc nhiên và cảm động khi thấy Lan Chi biết rõ cả cái phố nhỏ của bà, một phố hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt ở gần ga Kiev. Đành rằng Lan Chi đã sống ở thành phố này tám năm, nhưng Matxcơva rộng mênh mông, nhiều người sống ở đó cả đời cũng chưa chắc đã biết được hết tất cả các phố. Mà phố của bà thì có danh lam thắng cảnh gì đâu. Lan Chi chỉ cười, không dám khai thật rằng cô hay lui tới nơi này, vì ở gần đó có một "danh lam thắng cảnh" rất quan trọng đối với cô : một cửa hàng bán dụng cụ gia đình khá lớn, nơi thường bán nhiều mặt hàng được dân Việt Nam hồi đó ưa chuộng. Có những buổi chiều cùng Kiên đi "đánh quả" ở đó nhưng chẳng kiếm được gì, cô và anh bèn đi dạo lang thang và bao giờ cũng tạt vào cái phố nhỏ này, một con phố vắng lặng và thơ mộng, tách biệt hẳn thế giới náo động bên ngoài, dường như được làm ra để dành riêng cho các cặp tình nhân. Nếu cô không lầm thì họ đã từng có lần dừng lại hôn nhau ngay trước ngôi nhà mà có thời đã là nhà của bà. Có phải nhà số sáu mươi của bác là cái nhà bốn tầng có cây phong trước cửa, hàng rào xanh, cửa sổ xanh không ạ ? Cây phong thì có đấy, còn hàng rào, cửa sổ tôi cũng không dám chắc nữa cô ạ. Bao nhiêu năm rồi, chắc người ta đã sơn lại nhiều lần. Bao nhiêu năm rồi còn gì...



Các món ăn đã được dọn lên bàn. Sâm banh sủi bọt trong các ly dành cho người lớn. Nước cam vàng óng trong những cốc nhỏ của lũ trẻ con. Mọi người cùng nâng cốc, chẳng biết chúc gì đặc biệt vào lễ Noel, cho nên cuối cùng tất cả đều chúc nhau điều có thể chúc vào bất cứ dịp nào là sức khỏe. Hai bé sinh đôi là hăng hái nhất với việc chạm cốc : chúng nhất định đòi đập cốc rõ to vào ly của từng người một, không chịu bỏ sót một ai.
Câu chuyện được đưa ra khai mào ở bữa ăn tiện nhất tất nhiên vẫn là chuyện thời tiết. Lan Chi nói : “Sao Noel năm nay buồn quá nhỉ, chẳng có lấy một bông tuyết rơi.” Trung bảo : “Hình như ở Paris mấy hôm rồi cũng có tuyết đấy, phải không má (mẹ anh gật đầu), nhưng tuyết thì có gì hay đâu, ở đây miền Nam ấm áp sướng hơn nhiều chứ.” “Đúng là vùng này ấm áp dễ chịu hơn Paris, - bà hàng xóm góp chuyện,- nhưng Noel mà lại không có tuyết thì tôi thấy không giống Noel. Ở Nga vào dịp này thì tuyết phủ trắng đường.” “Năm nào cũng vậy hả bà”, mẹ Trung hỏi. “Vâng, năm nào cũng vậy, tuyết rơi suốt bốn tháng mùa đông”, bà hàng xóm trả lời. Cu Nam hóng chuyện đến đây bèn kêu lên là bốn tháng tuyết rơi liền thì thích quá nhỉ, con thích đi trượt tuyết lắm. Trung bèn vỗ vào vai con trai rồi hứa để kỳ nghỉ sau ba sẽ đưa cả nhà lên núi Pyrenees trượt tuyết, chịu không ?

Chuyện tuyết đến đây hình như là cạn ý. Mọi người bèn cúi đầu vào đĩa chăm chú ăn. Mẹ Trung ăn vài miếng rồi ngẩng lên, quay sang nói với con trai bằng tiếng Việt :
- Cái món gà tây rôti này ăn vài miếng thì được, chớ ăn nhiều ngán thấy mồ, sao Noel nào, nhà nào cũng cứ ăn hoài vậy ?

- Thì nó đã thành tục lệ rồi, làm sao bỏ được. Cũng như bánh chưng bánh tét của mình đó má, - ông con trai trả lời.

- Bánh tét của mình ngon chớ, ăn đâu có ngán. So vậy sao được, - bà mẹ cãi.
Thấy tiếng nói chuyện, bà hàng xóm bèn ngẩng lên nhìn chăm chú. Nhận ra là người ta nói một thứ tiếng mà mình không hiểu, bà mỉm cười hơi ngượng nghịu rồi quay sang Lan Chi :
- Cái món gà tây này cô làm ngon quá, ăn nhiều cũng không sợ ngán, có phải cô làm theo kiểu Việt Nam không, lúc nào bày cho tôi cách làm với nhé.

- Không phải kiểu Việt Nam đâu bác ạ, - Lan Chi trả lời. - Cách làm này cháu học theo một quyển sách Pháp thôi. Thực ra về cơ bản cũng như cách làm thông thường, chỉ đặc biệt ở chỗ có một vài loại gia vị lạ và phải bơm thêm rượu vào dưới da gà cho đỡ ngán. Còn ở Việt Nam thì không có lệ ăn gà tây vào lễ Noel đâu, đúng hơn là không có ăn mừng Noel gì cả.

- Thế à ! - bà Xvetlana tỏ ra sửng sốt.

- Vâng, à mà cháu cũng không biết chắc. Hồi trước thì không có, còn bây giờ thì không biết thế nào. Nghe nói ở châu Âu có gì Việt Nam bây giờ có hết. Nghe nói vậy thôi, chứ cháu đi lâu rồi nên cũng không biết nữa.

- Ở Nga bây giờ cũng thay đổi nhiều lắm, - bà hàng xóm thở dài. - Không như cái hồi xưa tôi ở đó ...

Câu chuyện lại rộ lên quanh bàn ăn. Ở góc này mẹ Trung kể với con trai (bằng tiếng Việt) rằng nhà cô em gái anh ở Paris Noel năm ngoái cũng làm con gà tây to lắm, dễ đến bốn cân, cả nhà ăn hai ngày không xong, ngán quá phải đem vứt đi đến gần một nửa. Rồi bà kể tiếp đến chuyện nhà ông chú, xong chuyển sang nhắc đến người quen nào đó còn sống ở Sài Gòn, xong lại sực nhớ đến một người bà con bên Mỹ... Ở một góc bàn khác, bà Xvetlana và Lan Chi hồi tưởng (bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng Nga) những Noel ở Matxcơva. Rồi cô kể cho bà nghe Noel ở Hà Nội của cô, không có tuyết nhưng cũng lạnh cắt da và thỉnh thoảng lại mưa phùn bác ạ, người ta không ăn gà tây ở nhà, nhưng thanh niên đi ra đường đông như trảy hội, vui lắm, quanh Hồ Gươm đông nghịt toàn người là người...
 
Sau lễ Noel, Trung được nghỉ hai ngày liền. Lâu lắm rồi bữa ăn sáng mới quây quần cả nhà đông vui như vậy. Sáng hôm ấy, trong lúc ngồi ăn, mẹ Trung bảo : “Mai là ngày rằm, má ăn chay đó.” Rồi bà hỏi : "Hai đứa xem liệu ngày mai có đưa má lên chùa được không, à mà ở đây có cái chùa nào không vậy ?" Chuyện chùa chiền thì vợ chồng Lan Chi chịu không có khái niệm gì. Trung bèn gọi điện hỏi bà Thanh, một người quen, sống ở thành phố này đã mấy chục năm. May quá túm đúng được chuyên gia. "Chùa thì thiếu gì, - bà Thanh bảo, - nhưng má cháu muốn đi chùa nào ?" "Chùa nào cũng vậy thôi, - Trung lúng túng, - có cái nào gần gần của người Việt mình là được". "Ấy, không đại khái vậy được đâu, - bà Thanh kêu lên trong điện thoại. - Thì toàn là chùa của người Việt mình đó chớ, nhưng có đến năm bảy cái, năm bảy hội khác nhau, ông nào cũng thờ Phật hết nhưng mỗi ông thờ một kiểu, cách thức khác nhau, khác nhau nhiều thứ lắm, hội nào đi chùa của hội đó thôi. Vậy má cháu thường đi chùa nào ở Paris ?" Đến đây thì Trung đành chịu, anh chuyển máy cho mẹ anh nói chuyện trực tiếp với bà Thanh. Hóa ra mẹ anh cũng là người đã dạn dày kinh nghiệm và chính kiến vững chắc trong lĩnh vực này. Hai bà trao đổi với nhau sôi nổi một hồi, rồi cuối cùng mẹ Trung cũng chọn được một cái chùa phù hợp. Hơi xa một tí, cơ ngơi thì cũng hãy sơ sài, chỉ là một căn phòng ở tầng trệt của một cư xá thôi, nhưng các mặt khác thì đều hợp ý bà cả. Vậy là tốt rồi, thờ Phật tại tâm chớ đâu phải hơn kém nhau cái chỗ chùa to chùa nhỏ.

Sáng hôm sau, Trung đưa mẹ lên chùa. Lan Chi vào phòng ngủ thắp một nén hương trên cái tủ thấp kê ở góc phòng. Ở đó có tấm ảnh đã ố vàng của một người phụ nữ ba mươi nhăm tuổi, trẻ hơn cô hiện nay. Mấy chục năm rồi, vào ngày này bao giờ Lan Chi cũng thắp hương. Bao giờ cô cũng khóc. Mấy chục năm rồi, vết thương chỉ dịu đi chứ không lành hẳn được.

Hai mẹ con Trung đi chùa về khi Lan Chi đang lúi húi chuẩn bị bữa ăn trưa trong bếp. Vừa bước vào cửa, mẹ Trung nhận ngay ra mùa hương. Bà thắc mắc sao ở nhà lại cũng thắp nhang vậy ? Trung thoáng giật mình, hình như lúc này anh mới nhớ ra, anh hạ giọng nói với mẹ rằng hôm nay là ngày giỗ bà ngoại lũ nhỏ đó. Mẹ Trung im lặng không nói gì. Không ai nói gì nữa cả. Mọi người đều biết mẹ Lan Chi mất năm 1972 ở Hà Nội, trong một trận bom B52.

Bữa trưa, món gà tây Noel còn thừa lại được bê ra. Lan Chi rán thêm mấy cái nem vì lũ trẻ không muốn ăn gà tây nữa. Mẹ Trung ăn chay thì có đĩa rau và đĩa đậu phụ riêng. Mùa hương từ phòng ngủ đưa ra làm không khí trầm lắng hẳn. Chỉ có ba đứa trẻ là đùa nghịch trêu ghẹo nhau chí chóe, còn người lớn ai nấy ngồi ăn chẳng nói năng gì. Cuối bữa, mẹ Trung buông đũa rồi quay sang bảo con trai : "Tháng sau là giỗ ba mày. Định làm ở nhà chú Cừ cho nó tiện và mời được bà con đông đủ. Con tính xem rồi cố thu xếp để lên Paris. Năm nay là vừa đúng hai mươi năm rồi đó."

Hai mươi năm trước, mẹ Trung được gọi đến nhận vài thứ kỷ vật của ba anh, sĩ quan của quân đội Sài Gòn cũ, chết bệnh trong một trại cải tạo ở vùng núi phía Bắc. Sau ngày này, cả gia đình Trung rời Việt Nam.



Trung không lên Paris ngày giỗ ba anh được. Bệnh viện đang lúc thiếu người, không thể tìm được một bác sĩ khác để tạm thay anh dù chỉ một hôm. Mẹ anh buồn. Trung cũng buồn và áy náy, nhưng anh hứa với mẹ là ít ngày nữa, đến Tết ta, anh sẽ đưa cả nhà lên Paris cùng ăn Tết, rồi thắp nhang luôn cho ba. Tết âm lịch năm nay rơi đúng vào kỳ nghỉ đông tháng hai của bọn trẻ con, Lan Chi không phải đi làm, Trung cũng đã xin được nghỉ vào ngày hôm đó.

Vậy là đúng ngày ba mươi Tết cả nhà có mặt ở Paris. Đi máy bay thì chỉ hơn một tiếng đồng hồ, nhưng lũ trẻ cứ nhất quyết đòi đi tàu hỏa. Lan Chi cũng cùng ý thích như con nên Trung đành miễn cưỡng đầu hàng. Kết quả là hôm đó cả nhà phải dậy từ sáng sớm, chỉ kịp ăn sáng qua quýt vài miếng rồi chạy vội ra ga, vậy mà đến quá trưa bầu đoàn thê tử mới lếch thếch kéo nhau tới Paris được.

Hạnh, em gái Trung, ra đón anh chị và các cháu ở ga rồi lái xe chở mọi người về thẳng nhà mình. Gia đình cô sống trong một căn hộ bốn phòng, ở tầng ba của một tòa nhà xây theo kiểu cũ, trần rất cao. Mẹ Trung cũng sống trong tòa nhà này, bà có căn hộ một phòng ở ngay tầng trệt. Thành thử, tuy là con gái đã lấy chồng, ở riêng, mà mẹ con bà cháu vẫn được gần nhau.

Vào đến nhà Hạnh, lập tức thấy mùi phở bò thơm ngào ngạt. Hạnh bảo biết anh chị đi tàu mệt và háo lắm, nên em nấu phở bò cho nó dễ ăn, còn cỗ giao thừa thì tối nay mình qua ăn bên chú Cừ, chú thím đã hẹn trước rồi. Mọi người đều đói ngấu nên ngồi vào ăn ngay, không đợi mời đến lần thứ hai. Trung ăn nhoáng một cái đã xong bát phở to đùng, cô em gái lại tất tả làm thêm bát khác. Bốn mẹ con Lan Chi ăn từ tốn hơn. Lan Chi ăn chậm phần vì còn mệt, phần vì thói quen, còn ba đứa trẻ thì rõ ràng không thích ăn phở lắm. Chẳng cần tinh ý cô Hạnh cũng nhận thấy điều này, cô hỏi :

- Sao, ba đứa không thích ăn phở hả ? Có phải tại phở cô nấu khác phở mẹ nấu không ?
- Không phải vậy đâu, - Lan Chi trả lời thay con.- Tại bọn này nó không thích ăn những món nhiều nước lõng bõng. Phở, bún hay miến mì gì cũng vậy thôi.

- Vậy thì cũng giống con Linh nhà này, - cô Hạnh bảo. Rồi cô động viên lũ trẻ : - Các con ráng ăn một chút cho đỡ đói nghen, ngoan rồi mai cô cho đi ăn McDonald với thằng Vinh, con Linh.

Trẻ con cả hai nhà vừa a lên mừng rỡ thì bà chúng đã lừ mắt bảo con gái : "Mai mùng một Tết, thiếu gì cái ăn, sao lại đi ăn McDonald ? " "Tại con quên mất", Hạnh cười xí xóa rồi quay sang hỏi Lan Chi :

- Phở em nấu kiểu Sài Gòn vậy chị ăn được không ?

- Ăn được chứ, - Lan Chi trả lời. - Có phở ăn là thích rồi. Phở Sài Gòn hay phở Hà Nội thì mình đều thấy ngon cả..

- Dân Bắc nhiều người ăn phở Sài Gòn riết rồi lại ghiền hơn phở Hà Nội đó, - Hạnh nói. - Người ta cứ bảo phở Hà Nội thanh, chớ em thấy nó hơi lạt lẽo, lại ít rau, chỉ có vài cọng hành lơ thơ, không đậm đà phong phú như phở Sài Gòn.

"Đừng có dại mà sa vào cái trận chiến muôn thuở này", Lan Chi tự nhủ. Nghĩ vậy, nhưng nuốt miếng phở đang ăn dở trong miệng xong, cô lại quay sang nhìn em chồng, cười thật hiền rồi nói rất nhẹ nhàng :

- Ừ, đúng đấy, phở Sài Gòn ai ăn quen như mình thì thấy cũng ngon lắm. Nhưng người không quen thì họ kêu là cho nhiều đường thành ra hơi ngọt lợ. Với lại ăn kèm giá nó không hợp, cứ tanh tanh thế nào ấy. Rau cho đủ loại cũng hơi hổ lốn, chả vị nào ra vị nào cả.

Trung vừa giải quyết xong hai bát phở bèn ngẩng lên cười bảo : "Lại bắt đầu rồi. Thôi dẹp đi hai bà. Hôm nay ngày Tết đó. Tranh luận mấy cái thứ này thì vài chục năm nữa cũng chưa xong."

Vài chục năm nữa thì chưa biết có đúng không, nhưng trên thực tế cuộc tranh luận này suýt nữa đã kéo dài từ năm cũ sang năm mới. Bữa ăn tất niên ở nhà ông chú, nó lại thập thò xuất hiện ở bàn tiệc, lúc thì dưới dạng cụ thể "bánh tét - bánh chưng", lúc thì ở mức khái quát "Tết Nam - Tết Bắc". Nhưng lần này Lan Chi nhất quyết không chịu tham chiến, phần vì đã ngán, phần nữa lại biết mình thân cô thế cô, sức mấy đọ lại được với một lực lượng áp đảo dễ đến hai chục người của bà con họ hàng nhà chồng. Cô bèn đóng vai gái ngoan nghe lời chồng dạy, đáp lại mọi nhận xét có tính chất "khiêu chiến" bằng một nụ cười tủm tỉm, chẳng ra phản đối, chẳng ra đồng tình. Cuộc tranh luận được nhen lên nhưng thiếu người đối đáp nên đâm ra chết yểu.

Cảm giác rõ rệt nhất mà Lan Chi lưu giữ lại từ bữa tiệc tất niên này là quá đông và quá ồn ào. Hơn hai chục người dự tiệc trong căn phòng rộng thênh thang, tiệm ăn của nhà ông chú : bà thím đã đóng cửa tiệm để ăn tết trong gia đình. Nhưng bữa tiệc gia đình này không có gì giống với những bữa ăn đêm ba mươi Tết đầm ấm ở nhà Lan Chi ngày xưa. Ngoài bánh tét cũng có cả bánh chưng (không biết vì mọi người thích ăn cả hai thứ bánh, hay chỉ do chiếu cố đến cô con dâu Bắc Kỳ ?), nhưng bánh chưng Paris ăn không thấy giống bánh chưng Hà Nội, không buộc lạt, mà lại buộc bằng dây nylon. Lại thêm mấy quả dưa hấu to đùng, kiếm được ở Pháp mùa này là một thành tích không nhỏ. Trung bảo ăn dưa hấu nhớ Tết Sài Gòn quá, nhưng đối với Lan Chi, quả dưa ngày Tết này chẳng khác gì món gà tây Noel.

Vui nhất có lẽ chỉ là khi bữa tiệc đã tàn, lũ trẻ con trổ tài biểu diễn múa hát. Đầu tiên, bà thím đem cô cháu ngoại ra khoe : cô bé sáu tuổi, xinh như một con búp bê, mắt đen láy trong veo, giọng hát cũng trong veo và đặc biệt là hát rất diễn cảm và đúng nhạc.Điệu đàng trong chiếc áo dài màu đỏ xinh xắn may vừa khít, cô bé hát luôn ba bài, hai bài tiếng Pháp và một bài tiếng Việt về trăng Trung Thu, không hợp cảnh lắm, nhưng hát tiếng Việt mà hay được như thế thì đã là quá giỏi. Tất cả mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Thế là trẻ con các nhà khác, được bố mẹ chúng khuyến khích, cũng hăng hái xông ra. Sau khi hai đứa con của Hạnh trình diễn xong một tiết mục song ca, Hạnh bèn quay sang hỏi : “Ba anh em cu Nam chắc cũng biết hát chớ ?” Ba đứa đã nhấp nha nhấp nhổm muốn lên biểu diễn từ lâu, nhưng còn e ngại vì là người lạ, nay thấy cô hỏi vậy phấn khởi đứng lên ngay. Cu Nam chọn bài hát và lĩnh xướng, hai bé sinh đôi ra sức gân cổ hát theo anh. Ba đứa say sưa hát liền một lúc ba bài hát trẻ con tiếng Pháp, hết "Au clair de la lune” đến "Il était un petit navire” , xong lại "Joli tambour" . Được mọi người cổ vũ bằng những tràng pháo tay sôi nổi, cu Nam phấn khởi bèn quyết định gây ấn tượng với dân Paris bằng bài hát tủ của mình : ba anh em liền hát tiếp bài hát thứ tư, một bài hát người lớn mà chúng rất thích và thuộc làu do nghe đĩa CD của mẹ : " À toutes les filles que j'ai aimées avant” . Khỏi phải nói bài hát đã thu được thành công lớn đến thế nào : mọi người vừa cười nghiêng ngả vừa vỗ tay không ngớt, mà người vỗ tay to nhất có lẽ là ông bố của ba đứa. Khi tiếng vỗ tay lắng lại, bà nội hỏi : "Ba đứa có biết bài hát tiếng Việt nào không ? Hát hay lắm, nhưng Tết ta sao toàn hát bài tây vậy ? Má bầy nhỏ không dạy con hát tiếng Việt à ?". Lan Chi cười chống chế : " Hồi nhỏ bọn nó cũng biết nhiều bài hát tiếng Việt lắm ạ. Con có mấy cái băng nhạc cũ mang đi từ Việt Nam, bọn nó nghe rồi hát theo được hết. Nhưng lớn lên, đi học ở trường cả ngày, chúng nó đâm ra quên dần bài hát Việt Nam." Cu Nam cãi lại ngay : "Có bài con vẫn thuộc đấy chứ mẹ !". "Bài nào, hát thử coi", bà nội bảo. " Bài "Hà Nội, niềm tin và hy vọng", cu Nam trả lời. Một thoáng im lặng. Rồi bà nội bỗng à lên như vừa mới sực nhớ ra, bà bèn quay sang nhắc cô Hạnh tuần sau phải gọi thợ đến sửa lại cho bà cái lò sưởi. Trung và Lan Chi cười cười nhìn con trai, chưa biết nói sao thì cu Nam chạy đến bên mẹ, bảo : "Con thuộc thật đấy, ba mẹ không tin con hát cho mà xem". Lan Chi dịu dàng vuốt nhẹ tóc con : "Mẹ tin, mẹ tin chứ. Nhưng hôm nay hát thế nhiều rồi. Để lần sau con nhé."

Mùng một Tết là ngày chủ nhật. Đêm hôm trước, sau bữa tiệc tất niên, lúc vợ chồng nằm trong giường, Lan Chi vừa định nói chuyện với Trung thì anh đã đoán ngay được ý vợ và bảo : "Mình còn ở đây nốt ngày mai thôi. Mai em tranh thủ ghé thăm Thanh Hoa đi. Để con anh giữ cho. Anh sẽ dẫn bọn nhỏ đi chơi với lũ con nhà Hạnh."

Để đền bù cho lũ trẻ chuyện không được đi ăn McDonald ngày mùng một Tết, Hạnh và Trung quyết định cho chúng đi chơi Disneyland. Lan Chi ấn vào tay chồng một cái túi to, nào khăn mùi xoa, nào nước uống, nào bánh phòng khi bọn trẻ đói, nào áo quần dự trữ nhỡ đứa nào ngã bẩn hay uống nước rớt ra còn có cái thay. .. Trung phải sốt ruột kêu lên :" Mấy ba con đi chơi không có mẹ mỗi một buổi thôi mà mẹ làm như xa cả năm vậy." Sau khi lặp lại đến lần thứ ba những lời dặn dò cho cả bốn bố con, Lan Chi tiễn Trung và ba đứa trẻ cùng mẹ con Hạnh ra ôtô rồi đi đến nhà Thanh Hoa bằng tàu điện ngầm.

Bốn năm rồi họ mới lại gặp nhau. Thanh Hoa nhìn Lan Chi vẻ xót xa rồi bảo :
- Tao thấy mày hơi gầy đi đấy.

- Một chồng ba con rồi còn béo làm sao được, - Lan Chi đáp. - Mà mày cũng gầy đi thì phải. Có sụt cân không?

- Sụt hai cân so với trước đây vài năm. Thôi thế là vừa. Khỏi phải thể dục, khỏi phải ăn kiêng để giữ co nữa nhé.
- Tuổi bọn mình bây giờ phải béo mới sang Hoa ạ. Gầy như tao với mày về nước thế nào cũng bị chê là số vất vả.

- Thì vất vả thật chứ còn gì, - Thanh Hoa cười.- Chục năm rồi chẳng được ăn một cái Tết nào cho ra hồn. Ở Việt Nam có ai vất vả đến thế không ?

Rồi Thanh Hoa than thở : "Hôm qua mua một cái bánh chưng ở chợ về, thấy sao mà quái dị. Đã một lớp lá bên trong, lại phải thêm một lớp giấy nylon bên ngoài. Mở ra ăn, thấy nếp đỗ thịt đủ cả, không biết thiếu cái gì, mà sao ăn chẳng giống bánh chưng. Bực mình chỉ muốn mua gạo mua lá về tự gói, nhưng chồng con có ai thích ăn đâu, ăn một mình thì chẳng bõ công gói. Đấy, mấy hôm vừa rồi thấy thèm canh măng quá bèn ninh một nồi rõ to cho có không khí Tết, mà chồng con mỗi người chỉ nếm thử một hai thìa rồi thôi, mình tao ăn chắc phải đến Tết sang năm mới xong. Tết năm ngoái đi chợ thấy có quả gấc đẹp quá lại còn hứng chí vác về nấu đĩa xôi, lão kia (Thanh Hoa hất đầu chỉ về phía ông chồng đang ngồi đọc báo ở góc phòng) ăn một miếng tí teo rồi lịch sự rút lui chẳng phát biểu gì. Còn mấy đứa nhóc không được lịch sự như bố nó nên bảo thẳng : "Khiếp, mẹ nấu món gì mà kinh thế." Từ đó tao cạch, không trổ tài nấu các món ăn dân tộc nữa mày ạ. Chả ai hưởng ứng mình cả, mà mình thì Noel nào cũng chịu khó gặm gà tây với chúng đấy chứ, mày bảo thế có bất công không ? À, may còn món nem thì cả nhà đều thích, nên tao phải tích cực làm nem cho bố con nó ăn, chứ không dám mua ở chợ. Nem mua chợ họ cho đường ăn ngọt khé cổ, hỏng khẩu vị đi mình..."
Pascal, "lão kia", ngồi đọc báo, chẳng hiểu được câu tiếng Việt nào, nhưng chắc nghe giọng điệu của Thanh Hoa, rồi nhìn vẻ mặt của cô và cái hất đầu hướng về phía anh, anh cũng đủ hiểu là vợ mình đang kể khổ, và kẻ phải chịu trách nhiệm về nỗi thống khổ bao la ấy đích thị là mình chứ không còn ai khác. Hẳn là để lập công chuộc tội (hay cũng có thể do đã bàn trước với Thanh Hoa ?), anh đứng dậy lại gần hai người, mỉm cười ra chiều thông cảm và bảo rằng hôm nay là Tết Việt Nam, lại chẳng mấy khi có Lan Chi đến chơi, nếu Thanh Hoa muốn dẫn bạn đi chơi Paris thì anh xung phong quản lý lũ nhóc và chịu trách nhiệm cơm nước, cứ đi đi rồi tí nữa về là có cơm ăn. Thanh Hoa bảo anh trông hai đứa trẻ không để xảy ra chuyện gì là được rồi, còn ăn uống thì bọn này đi chơi tiện đâu ăn đấy (cô quay lại thì thầm với Lan Chi : "Đừng có dại ăn cơm lão ấy nấu !"). Lan Chi hỏi : "Mày định đi đâu ?" "Đi dạo loăng quăng ngoài đường một chút cho thoáng, đâu chả được. Hôm nay mùng một, đi hái lộc !"

Gọi là hái lộc chứ lấy đâu ra lộc mà hái. Hai người đi lang thang trên đường phố, nhìn bất cứ cái gì cũng nhớ đến Tết ở quê hương. Ngày chủ nhật, người đi chơi ngoài đường khá đông vui, Lan Chi bảo nếu mình ở Hà Nội thì giờ này cũng đang đi chúc Tết đấy. Thấy một quầy bán hoa, Thanh Hoa kêu nhớ cái lần cuối bọn mình cùng đi chợ hoa Hàng Lược quá, hôm ấy hai đứa mua được hai cành đào đẹp ghê người, chỉ phải cái hơi đắt, Chi nhớ không, cứ như mới ngày nào Chi nhỉ. Hơn hai chục năm rồi, còn mới mẻ gì nữa, hồi ấy bọn mình chỉ có mười bảy tuổi thôi mà Hoa... Rẽ vào một phố vắng, đi ngang qua một biệt thự, thấy trong vườn nhà người ta có cây gì nở hoa na ná giống hoa đào, Thanh Hoa bảo : "Bây giờ già rồi nên bắt buộc phải đứng đắn, chứ không tao đã nhảy vào kia bẻ trộm một cành về cắm cho đỡ nhớ hoa đào. Không có ngày nào trong năm thấy nhớ nhà như ngày Tết ta, Chi ạ."

Đi một lúc đã đến giữa trưa, Thanh Hoa nói xem gần đây có hiệu nào ăn được thì ghé vào ăn tạm. "Hôm nay Tết ta, mình vào ăn quán Việt Nam đi", Lan Chi đề nghị. "Thôi, ăn Việt Nam làm gì chán lắm, - Thanh Hoa gạt đi. - Gọi là Việt Nam chứ ta chẳng ra ta, Tàu chẳng ra Tàu. Món nào cũng có, món nào cũng hơi giông giống, nhưng chẳng món nào đúng hẳn, ăn cứ như ăn của giả. Ngày Tết ăn như thế càng thêm nhớ nhà. Muốn ăn món ta thì để khi nào về Hà Nội ăn cho bõ. Còn bây giờ ở đây mình đi ăn món Pháp cho xong."

Vào một hiệu ăn tình cờ ở dọc đường, Lan Chi chọn món cá hấp, Thanh Hoa gọi miếng thịt bò bifteck nướng đúng kiểu Pháp, bên trong còn hồng hồng, nước đỏ chảy ra. "Không sợ bò điên à ?", Lan Chi hỏi. "Sợ gì, bây giờ muốn điên cũng không phải dễ đâu", Thanh Hoa cười đáp.

- Vợ chồng mày dạo này thế nào ?, - ăn được một chút, Thanh Hoa bỗng hỏi.
- À, bình thường thôi, vẫn chịu đựng được nhau, - Lan Chi trả lời.
- Chịu được nhau là tốt rồi. Tao với Pascal cũng vậy. Thế mẹ chồng mày bây giờ ra sao ?
- Không có vấn đề gì.
- Quá trình hòa giải hòa hợp dân tộc vậy là tiến triển tốt hả ? - Thanh Hoa cười hỏi .
- Sự thể đã thế, không hòa giải thì mày bảo còn làm gì nữa ? - Lan Chi cũng cười theo. Rồi bỗng nhiên, cô đổi đề tài :

- Lâu nay mày có tin tức gì của Quân không, Hoa ?

- Hình như hiện giờ hắn dạy đại học ở Mỹ hay Canađa ấy, tao cũng không rõ lắm. Mấy năm trước thì hình như ở Anh. Nghe nói hắn có vợ và một con trai rồi thì phải. Toàn là nghe nói thôi, chứ hơn chục năm rồi có lúc nào thư từ cho nhau đâu mà biết rõ được. Còn Kiên ra sao, mày biết tin tức gì của hắn không ?
- Cũng toàn tin cũ và tin "nghe nói" thôi. Thấy bảo Kiên vẫn ở Hà Nội, vợ con đề huề, làm giám đốc công ty gì đó, có biệt thự to hơn đứt bọn mình ở đây.
Im lặng một chút, rồi Thanh Hoa thở dài :
- Tao không bao giờ hiểu nổi vì sao hồi đó mày và Kiên lại bỏ nhau. Yêu nhau dữ dội như Romeo và Juliette, vậy mà đùng một cái...
- Thời đại này chết vì tình hết mốt rồi. Càng Romeo - Juliette thì lại càng dễ tan.
- Nhưng tại sao bọn mày lại bỏ nhau ? Có chuyện gì vậy ? Bao nhiêu năm rồi, tại sao không khi nào mày chịu kể cho tao nghe chuyện gì đã xảy ra ?
- Tại vì chính tao cũng không biết rõ chuyện gì đã xảy ra, - Lan Chi nói. - Có lẽ vì tất cả. Vì Kiên, vì tao, vì hoàn cảnh. Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi mày rời khỏi Matxcơva, Hoa ạ.
 
Chuyện đọc không dứt ra được, cảm xúc rất thật. Mình có cảm giác là tác giả viết một cách thoải mái và không cần phải cố gắng gì cả, chỉ cảm thấy một chút hơi gượng ép ở đoạn kết.
 
thanks em Linh.
Chị Giao, đâu phải em kô chịu post ạ, mà tại weekend ở nhà, truyện để trên cty cơ, mai đi làm em sẽ post tiếp lúc nghỉ trưa :D
 
Đọc truyện này xong nẫu cả lòng... cứ rưng rưng chỉ muốn khóc thôi...mặc dù o đi du học Nga với o cùng thời với nhân vật chính nhưng thấy bóng mình thấp thoáng đâu đó trong truyện này... đọc xong thấy đúng là đời chả biết ngày mai ra sao, o biết mình sẽ lạc đến nơi nào nữa. Có khi ngày mai lấy anh African ở Africa o biết chừng
 
Em xin lỗi chị Mai trước nếu bài này cản trở việc "tìm lại cảm xúc" của chị khi chị post truyện này :p. Nói thật là em thích đọc truyện và cảm xúc của mọi người ở đây luôn cơ. Nhưng mà đang đọc say mê mà bị cắt ngang khó chịu quá, cộng với thói quen dân CNTT là cái gì cũng phải làm 1 "quả google" thành ra tìm được cái link này share cho mọi người. Cái chính là để mọi người khỏi mất công type mỏi tay, nhưng sợ có người thích type để "đắm mình trong câu chuyện" nên phải xin lỗi trước. Thanks for sharing this short novel =D>

http://www.thoiaotrang.com/diendan/index.php?showtopic=12406
 
Oh, em Hải đã làm thì phải làm cho trót, post hết luôn lên đây chứ đưa link đọc thì mất thú vị lắm:)
 
Ặc ặc, vừa ngồi đọc 1 mạch xong cả quyển, giờ phải nghe lời chị Giao post từ từ lại cho nó thấm :p.

-----------------------------------------------------------------------------
Chương 5: Cao trào của tình yêu :D

Mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
Trước đó một năm, chúng tôi cứ tưởng mình không còn có thể hạnh phúc hơn được nữa. Tốt nghiệp đại học xong, về nước nghỉ ngơi được vài tháng thì cả tôi, T.H. và Q. đều được trở lại Matxcơva làm tiếp nghiên cứu sinh. Ba đứa lại cùng đi một chuyến máy bay, lần này có cảm giác như trở về nhà. Sau năm năm, Matxcơva đã trở nên thân thương với đầy kỷ niệm.
K. ra đón tôi ở sân bay. Anh ôm ghì lấy tôi rồi kêu sao có mấy tháng mà em gầy đi thế. “Tại mùa hè nóng quá, em chưa quen lại được với khí hậu ở nhà”, tôi bảo. Tôi không muốn thú nhận với K. rằng lý do chính là vì tôi chưa quen sống xa anh. Kể từ buổi hoàng hôn trên phố Arbat ấy, tôi như bị cuốn theo K. vào một cơn bão lốc. Tình yêu của anh mạnh mẽ, ào ạt đến nỗi tôi không có lúc nào dừng lại để thở, để suy nghĩ, để nhìn ra xung quanh. Lúc nào cũng chỉ thấy có K. trước mắt. Đi đâu cũng có anh ở bên. Tôi ngồi nhà viết luận văn tốt nghiệp, K. mang tài liệu sách vở của anh đến nhà tôi, ngồi bên cạnh, nói là để cùng "thi đua" học tập. Nhưng chốc chốc anh lại rời sách ra, lúc thì vuốt tóc tôi rồi bảo :"Cứ viết đi, đừng để ý gì đến anh", lúc khác lại năn nỉ : "L.C. ơi, cho anh hôn một cái, một cái thôi, không thì anh chết mất !" "Hôn lên trán thôi nhé", tôi đùa. "Hôn trán thì chán chết", K. cười, rồi tự coi là đã được phép, anh nghiêng người về phía tôi, sách vở của hai đứa rơi rào rào xuống sàn nhà và phải đến mười lăm phút sau mới được K. cúi xuống nhặt lên đặt lại vào chỗ cũ. Kết quả là chương cuối cùng trong luận văn của tôi bị ông thầy bắt viết lại lần thứ hai và kêu là mắc nhiều lỗi chính tả vớ vẩn (" Có chuyện gì thế ? Những chương trước khó hơn thì em lại viết rất tốt, và hầu như không có lỗi", - ông thầy tôi ngạc nhiên bảo). May mà trước đó tôi đã viết xong những phần cơ bản, cho nên cuối cùng cũng hoàn thành được luận văn và tốt nghiệp đại học với bằng đỏ. Nhận bằng, vừa mừng vừa lo sợ vì không hình dung nổi về nước sẽ sống ra sao khi không có K.bên cạnh. Thời hạn nghiên cứu sinh của anh còn hai năm nữa mới xong. Tôi và anh đều không dám nghĩ đến chuyện phải sống xa nhau những hai năm. Cả hai đứa đều bám vào niềm hy vọng là mấy tháng sau tôi sẽ được quay lại để học tiếp. "Nhưng nếu em không được sang lại thì sao ?", tôi hỏi. "Thì đến kỳ nghỉ Noel anh sẽ về Hà Nội. Chúng mình sẽ làm đám cưới", K. trả lời chắc như đinh đóng cột. Tôi ngả đầu vào vai anh, mơ màng tưởng tượng đến lễ cưới của mình ở Hà Nội, tưởng tượng đến một bé con sẽ ra đời chín tháng sau đó, tưởng tượng rằng cái nhìn sâu thẳm và nụ cười dễ thương của bé, giống hệt như K., sẽ giúp cho tôi chịu đựng nốt một năm cuối cùng sống xa anh.
Nhưng niềm hy vọng của bọn tôi vậy là đã thành hiện thực. Trước mắt chúng tôi còn có hai năm sống bên nhau ở Matxcơva. Kế hoạch về lễ cưới và "baby" tạm gác lại, bây giờ chuyện cần phải lo là học hành, thi cử, luận án. "Chỉ hoãn lại ba năm, đợi em học xong thôi đấy nhé", K. cảnh cáo tôi. Rồi nghĩ ngợi một lúc, anh hăng hái bảo :"Mà sao phải hoãn lại nhỉ ? Chúng mình cứ làm luôn đám cưới ở Matxcơva ngay bây giờ đi !" Anh đâm ra phấn khởi với sáng kiến đó tới mức ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại đến mấy lần, làm tôi sốt cả ruột. "Thì cứ từ từ, để em thở một cái đã, rồi chúng mình tính sau", tôi bảo.
Tính đi tính lại tôi vẫn muốn đợi lúc học xong về Hà Nội mới làm đám cưới. Tôi muốn lễ cưới của tôi phải có mặt bố tôi, có mặt cô tôi mà từ khi mẹ tôi mất đã thương yêu chăm sóc chị em tôi như mẹ, có mặt đông đủ bạn bè học cùng từ phổ thông đến đại học. Vả lại có gì mà vội ? Cưới hay không thì lúc nào K. cũng vẫn ở bên tôi. "Mày có đuổi hắn cũng chẳng chịu đi đâu, việc gì phải lo giữ", T.H. xui. Lúc tưởng rằng sẽ phải sống xa K. lâu thì tôi phát hoảng, sẵn sàng cưới ngay, sẵn sàng có con ngay. Bây giờ anh đang ở bên, tôi lại nấn ná chưa muốn vội bước vào cuộc sống đó. Tôi luyến tiếc cái thời lãng mạn, tán tỉnh, tặng hoa... "Cưới rồi thì anh vẫn tặng hoa cho em hàng ngày", K. thề thốt. Tôi bèn cò kè mặc cả : "Thôi, không phải ba năm, mà chỉ hai năm nữa thôi nhé. Khi nào anh bảo vệ xong về nước, thì em sẽ xin về phép cùng với anh. Chúng mình cưới ở Hà Nội rồi em quay sang học tiếp. Anh ở lại nhà chẳng biết có đủ sức thủ tiết đợi em một năm không ?" "Đợi em thì mấy chục năm anh cũng đợi được. Nhưng giá em đừng bắt anh đợi ngày nào thì hơn", K. bảo. Nhưng rồi cuối cùng anh cũng đồng ý với "kế hoạch hai năm" của tôi, chỉ bảo thêm rằng nếu em thay đổi ý kiến, muốn cưới sớm hơn thì nói ngay với anh nhé, anh lúc nào cũng sẵn sàng "nộp mạng" cho em.



Tạm thời thì hầu như ngày nào K. cũng đã đến "nộp mạng" ở nhà tôi. Ngoảnh đi ngoảnh lại, tự nhiên tôi thấy căn phòng nhỏ của mình bị lấn chiếm từ lúc nào không biết, khắp nơi bừa bộn sách vở đồ đạc của K. Đầu tiên chỉ là mấy quyển sách thôi, K. mang đến đọc (vẫn với tinh thần "thi đua" như trước), rồi buổi tối đứng dậy ra về thì bảo :"Anh để sách lại đây L.C. nhé. Mai anh đến đọc tiếp". Dần dần, hình như cả tủ sách của K. đã được chuyển hẳn về nhà tôi. Sau thì đến các loại quần áo, đồ dùng, cũng xâm nhập bằng cách ấy. Cuối cùng đến lượt cái giá vẽ cồng kềnh với tất cả đống phụ tùng kèm theo. Hôm K. vác cái đống lỉnh kỉnh này vào nhà, tôi vừa định mở miệng phản đối thì anh chặn họng ngay :
- Thiếu những thứ này anh không sống thoải mái được. Cảm thấy hình như không phải là nhà của mình nữa !
- Thì tất nhiên đây không phải là nhà của anh. Em nhắc cho anh nhớ đây vẫn là nhà em đấy nhé, - tôi nhận xét.
- Ừ nhỉ, dạo này ngày nào cũng ở đây từ sáng đến tối nên đâm ra quên mất, cứ tưởng bở, - K. cười xòa. - Nhưng mà không có em thì anh càng không sống thoải mái đựợc, thấy rõ ràng không phải là nhà của mình. Hay là em chuyển đến chỗ anh ở đi, anh sẽ mang đồ của anh về đó ngay.
Tôi lắc đầu.
- Thấy chưa, - K. đắc thắng. - Chuyển mấy thứ đồ này dễ hơn là chuyển em.
Tôi đành chấp nhận cho cái giá vẽ vị trí thứ nhì trong đời K., sau tôi, và chia sẻ căn phòng chật chội của mình với nó. Nhờ đó mà tôi biết được niềm đam mê lớn của anh : vẽ. Vẽ chỉ là một say mê nghiệp dư của K., ngành học của anh là kiến trúc, nhưng đôi khi tôi có cảm giác là anh dành nhiều tâm huyết cho hoạt động này hơn cho ngành học chính của mình. Anh có thể vẽ hầu như mọi lúc : lúc vui, lúc buồn, lúc gặp bế tắc trong luận án, lúc nghĩ ra một ý tưởng hay. Tranh của K. rất trừu tượng, khó hiểu. Tôi vốn đã mù tịt về hội họa, xem tranh của anh cứ thấy đầu óc mình sao mà u u mê mê. Nhưng càng không hiểu thì lại càng ngưỡng mộ. K. bảo, từ khi anh gặp tôi, trong tranh nào của anh cũng có tôi. Anh nói vậy thì tôi sung sướng tin là vậy, chứ thực ra nhìn căng cả mắt tôi cũng không dám quả quyết là có mình trong tranh của anh. Giữa những bố cục kỳ lạ, đôi khi thấy thấp thoáng mờ ảo cái gì đó giống như một bờ vai gầy với mái tóc đen dài buông xõa, một thân hình thon thả với vạt váy trong gió bay bay, hay là một đôi mắt to, to quá khổ... Tất cả đều là tôi, theo như K. nói. Tôi gật gù đồng tình và nói với vẻ mãn nguyện :"Ít nhất thì những đứa béo quay và tóc ngắn cũng không thể nhận vơ là được anh vẽ. Mấy cô tây tóc vàng cũng không có cớ để nhận xằng !" Rồi tôi chỉ vào bức tranh có đôi mắt to và hỏi : "Mắt em thô lố như thế này à ?" "Mắt em mênh mông như thế đó", K. cười và cúi xuống hôn vào mắt tôi.


T.H. và Q. đến chơi, sửng sốt khi thấy căn phòng của tôi đã biến thành xưởng vẽ với ngổn ngang đồ đạc.
- Chết thật !- cô bạn tôi thốt lên. - Hai vị này đã xây tổ ấm ở đây rồi đấy hả ? Sao không báo cho bà con biết để ăn mừng ?
Tôi hơi ngượng, chưa biết nói sao thì K. đã nhanh nhảu trả lời :
- Chưa xây gì đâu. Mới chỉ là tổng diễn tập thôi. Mục đích là để huấn luyện L.C. dần dần. Tại vì L.C. kêu sợ cuộc sống gia đình, tiếc thời lãng mạn, nên phải có thời kỳ quá độ.
- Thằng cha này số đỏ thật, - Q. bình luận rồi liếc xéo T.H. một cái. - Thời kỳ quá độ như thế này thì mình cũng muốn tiến vào lắm, mà không biết làm sao để tiến được.
Quan hệ giữa Q. và T.H. vẫn đang ở giai đoạn mập mờ khó hiểu. Tất nhiên, cái thời chàng không dám nhìn thẳng vào mắt nàng thì từ lâu đã thuộc về cổ tích. Hai người dạo này thường hay đi chơi với nhau, nhưng mỗi khi tôi hỏi đến, T.H. đều khăng khăng bảo : "Bạn thân thôi, không có gì khác đâu". Giới tự cho là thạo tin trong trường nói rằng Q. đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Nhưng K., nguồn tin sát nhất với Q., lại ngao ngán bảo tôi rằng : "Cái thằng lóng ngóng ấy bao nhiêu lâu rồi vẫn chỉ giơ chân ra, chứ đã bước được bước nào đâu. Dạy mãi rồi mà cũng không khá lên được".
Cái giọng kẻ cả của một kẻ dày dạn kinh nghiệm trong tình trường ấy, K. mới sắm được kể từ ngày có tôi. Lắm lúc tôi bực mình, chỉ muốn dẹp ngay cái giọng này đi. Nhưng khổ nỗi, chẳng làm sao dẹp nổi, vì bọn con trai ở đây thán phục thành tích "đánh nhanh thắng nhanh" của K. đã đồng loạt tôn anh lên làm sư phụ. Thỉnh thoảng lại có một kẻ thất tình đến hỏi ý kiến quân sư. Gì chứ về khoản lời khuyên thì bao giờ K. cũng rộng rãi ban phát. Rồi, sau khi kẻ đi "thỉnh kinh" đã ra về, anh lại quay sang tôi, nói với một vẻ rất hoài nghi :" Chỉ bảo cho cu cậu cặn kẽ lắm rồi đấy, nhưng chẳng biết có ăn thua gì không. Chuyện này nhiều khi học mấy cũng không đủ. Còn phải có khiếu nữa!"
Q. được K. xếp vào loại "học trò" đặc biệt không có khiếu của anh. Về mặt chuyên cần học hỏi và tinh thần cầu tiến thì đố ai dám chê Q. Động có vấn đề gì là anh lại hớt hải đến thỉnh ý quân sư ngay lập tức. Nhiều khi hai gã ngồi bày mưu tính kế cả buổi. K. phán gì, Q. cũng ngoan ngoãn nuốt lấy từng lời. Vậy mà trời chẳng đền đáp cho cái công khó nhọc ấy. Cứ mỗi lần tôi hỏi thăm K. về tình hình "học trò" anh thì anh lại thở dài : "Thê thảm lắm L.C. ạ. Theo đuổi gần hai năm rồi mà vẫn chưa hôn được cái nào thì đúng là tuyệt vọng !" "Lỗi tại thầy trước hết, - tôi nói. - Anh từ chức đi cho Q. kiếm thầy khác". "Vấn đề không phải là ở thầy, -K. phản đối.- Nói em đừng bảo là tự kiêu, chứ thầy giỏi tầm cỡ như anh thì cả Mat(1) này không kiếm được người thứ hai đâu. Tại cái thằng Q. ấy chứ, lý thuyết thì hỏi đến đâu nói vanh vách đến đó, mà thực hành thì chả biết gì sất cả. "
Quả thật, lỗi không phải ở thầy. Nhưng theo tôi, lỗi cũng không phải ở trò nốt. Sau khi gặng hỏi T.H. nhiều lần, tôi ngờ rằng nguyên do chủ yếu là tại cô bạn tôi đọc quá nhiều tiểu thuyết. Từ lâu, T.H. đã mắc phải một khuyết điểm rất lớn là có sự ham mê thái quá đối với các loại truyện tình yêu lâm ly đẫm nước mắt. Đọc nhiều, rồi so sánh với tình cảm của mình và Q., cô nhận thấy là hình như nó không giống. "Không giống cái gì ?", tôi hỏi. "Không giống tình yêu", T.H. trả lời. "Không tình yêu thì là tình bạn à ?", tôi lại hỏi. "Hình như cũng không phải là tình bạn", T.H. ậm ừ nói. Tôi phì cười : "Không tình yêu, không tình bạn, thế thì mày bảo là tình gì ?"
Vấn đề hóa ra là không đơn giản tí nào. Theo như T.H. nói thì cô rất quý mến Q. Đi chơi với Q. thấy rất thoải mái. Lâu không gặp cũng thấy trống trải, vắng vẻ. Như vậy chắc là hơn tình bạn rồi. Khốn nỗi, gọi là trống trải vắng vẻ, nhưng có lần Q. bận việc phải đi xa, không gặp nhau đến hai tuần mà vẫn cứ chịu được. Không hề thấy khắc khoải đau thương như trong sách tả. Lúc gặp lại nhau thì quả là có vui mừng, nhưng không thấy tim mình đập loạn xạ gì hết. Vậy chắc chưa phải là tình yêu.
Tình hình đã phức tạp như vậy thì tôi và K. lại vô tình làm rối thêm. Vẫn theo T.H., thì sau khi nhìn tôi với K., cô mới hiểu thế nào là tình yêu đích thực, mãnh liệt, say đắm và v.v... ( vân vân ở đây là nhiều tính từ mạnh khác.) Tình cảm với Q. lại bị T.H. đem ra so sánh thêm lần nữa, rồi bị nhận thêm một dấu hỏi to đùng.
- Thế mày định thế nào ? - tôi hỏi.
- Chưa định gì hết, - T.H. trả lời.
- Gì thì cũng nên quyết định sớm đi cho Q. nó được nhờ, - tôi bảo. - Nếu không xơ múi gì thì nó còn được giải phóng để đi kiếm chỗ khác. Cứ om nó mãi thế tội nghiệp.
- Tao có om gì đâu, - T.H. cãi. - Tao đã nói hết với Q. như vừa nói với mày ấy. Nhưng Q. vẫn hy vọng là sẽ có lúc tao hiểu ra rằng đó là tình yêu đích thực. Thật tình, tao cũng hy vọng như vậy.



Tất cả chúng tôi đều hy vọng như vậy. Nhưng cuộc đời đã quyết định theo kiểu khác, bằng cách đưa vào một nhân tố mới.
Nhân tố mới này là một nhà khoa học Pháp đến làm việc ba tháng trong phòng thí nghiệm của T.H., theo chương trình hợp tác khoa học Pháp - Nga (T.H. học ngành sinh học phân tử). Cùng với ông thầy của mình, T.H. là một trong những người tham gia trực tiếp vào chương trình này. Vì ông thầy của T.H., một giáo sư có tên tuổi khá uy tín, còn bận rất nhiều việc khác, nên nói chung ông chỉ đứng tên vào đề tài là chính, còn mọi công việc "trâu bò" thì giao cả cho T.H. Lại vì đề tài luận án của T.H. gắn liền với chương trình hợp tác này, cho nên quyền lợi thiết thân của mình khiến cô phải hùng hục kéo cái cày ông thầy giao cho một cách vui vẻ, tự nguyện. Thành thử, cuối cùng, người đại diện cho nền khoa học Nga để làm việc với nền khoa học Pháp, trên thực tế chính là cô bạn T.H. của tôi.
Sứ giả của nền khoa học Pháp là một giáo sư tiến sĩ có những công trình nghiên cứu nghe nói rất đáng nể, nhưng lại hiện diện dưới cái lốt của một người đàn ông trẻ, tuổi mới ngoài ba mươi. Giáo sư hãy còn độc thân vui tính, lại rất say mê khoa học, thành ra suốt ba tháng ở Matxcơva ông chẳng còn biết làm gì, ngoài việc miệt mài tối ngày trong phòng thí nghiệm. Đề tài nghiên cứu nghe nói rất lý thú. Đại diện cho nền khoa học Nga thì rõ ràng vừa có tài, vừa duyên dáng, xinh tươi. Giáo sư không còn muốn rời phòng thí nghiệm ra nữa. Ngày nào ông cũng yêu cầu đồng nghiệp ở lại làm việc cùng ông đến tận gần nửa đêm. Một sự tận tụy với khoa học như vậy hiển nhiên sẽ dẫn đến những kết quả tuôn ra ào ạt. Ào ạt đến nỗi là sau khi thời hạn ba tháng kết thúc, giáo sư Pháp cho rằng sẽ có tội với khoa học nếu dừng chương trình hợp tác lại ở đây. Mọi người đều nhất trí là phải tiếp tục chương trình này, nhưng địa điểm của sự hợp tác sắp tới sẽ chuyển từ Matxcơva sang Paris.
Giáo sư Pháp đúng là người có tác phong làm việc khoa học, nhanh nhẹn. Về Pháp được một tháng, ông đã dàn xếp xong chuyến đi Paris của các nhà khoa học Nga. Ông thầy của T.H. bận đủ thứ việc nên chỉ nhận lời đi một tháng. Về phần T.H. thì lời mời của giáo sư Pháp quả thực là hơi bất ngờ : ông không mời cô đi hợp tác nghiên cứu ngắn hạn, mà đề nghị cô chuyển hẳn sang làm tiếp luận án ở phòng thí nghiệm của ông. Ông đã kiếm được cho cô một học bổng để làm luận án tiến sĩ ở Paris, thời hạn ba năm.
T.H. tự dưng bị đặt trước sự lựa chọn Matxcơva -Paris. Một bên giống như ngôi nhà thân thương với những thói quen, bạn bè, thầy cô, kỷ niệm..., nhưng đi cùng với nó là cuộc sống vất vả : vừa làm khoa học lại phải vừa lo "đánh quả" để có "lương khô" về nước ăn dần. Bên kia là chân trời mới choáng ngợp, niềm mơ ước của bao người, và quan trọng nhất là ở đó, chỉ với khoản tiền học bổng của mình, T.H. cũng đã có thể yên tâm với công việc nghiên cứu khoa học, không phải lo nghĩ nhiều đến chuyện "dự trữ" cho tương lai. Vả lại (cái "vả lại" này chỉ là một lý do tiện thể nói thêm, nhưng xem chừng cũng hơi quan trọng), như T.H. tâm sự với tôi, thì cô thấy mình làm việc với ông thầy hiện nay tuy cũng tốt, nhưng không được ăn ý như khi làm việc với Pascal (giáo sư tiến sĩ Durant, chỉ sau nửa tháng hợp tác khoa học, đã bị đồng nghiệp hạ bệ xuống thành "Pascal" cụt lủn). T.H. cũng có nghĩ đến Q., nhưng những tình cảm mơ hồ của cô đối với anh không đủ sức nặng để thay đổi cán cân lực lượng. Sự lựa chọn như vậy là đã rõ. Ông thầy của T.H. phải trả giá cho sự hợp tác với nền khoa học Pháp bằng việc mất cô học trò cưng. Nhưng sự mất mát này làm sao so sánh nổi với sự mất mát của Q.



T.H. đi rồi, Q. gần như suy sụp hẳn. Một trong những mục tiêu phấn đấu chính của đời anh, tưởng như đã ở trong tầm tay đến nơi, đùng một cái lại tự nhiên biến mất, thử hỏi làm sao mà không suy sụp được? Ngoài những bài toán yêu quý của mình ra, từ nay thế là Q. không còn có chỗ nào để tiêu hao cho hết thời gian và năng lượng. Thỉnh thoảng buồn quá không chịu nổi, Q. lại mò đến nhà tôi để ăn vạ ông bạn thân thiết nhất của mình. K. bị mất vai trò "cố vấn ái tình", nhưng anh lập tức vào vai "chị Thanh Tâm", an ủi, động viên rất khá, cho nên dần dần thì nỗi buồn của Q. cũng có vẻ phần nào nguôi đi. Mà nguôi đi là phải, vì đã là đàn ông chân chính thì không nên để cho những chuyện tình cảm nhỏ mọn ấy nó làm ảnh hưởng đến sự nghiệp lớn của mình, càng không nên chấp nhặt hay luyến tiếc cái bọn đàn bà nhẹ dạ, không biết đâu là giá trị đích thực (câu này là của K. nói với Q., sau khi nhìn quanh quất và hạ giọng thì thào, tưởng rằng tôi không nghe thấy, và được Q. cho là rất chí lý).
Thời gian có lẽ sẽ làm lành mọi vết thương. Cuộc sống có lẽ sẽ trở lại với dòng chảy bình thường của nó.



Nhưng mọi sự đã thay đổi rất nhiều sau khi T.H. rời khỏi Matxcơva.
Tất cả chúng tôi đều bước vào thời kỳ bận rộn với việc làm luận án : năm đầu thong dong đã trôi qua, thời hạn càng rút ngắn đi thì sức ép lại càng lớn.
Trong ba người chúng tôi thì K. là người bận nhất. Anh học trên Q. và tôi một năm, thời hạn bảo vệ luận án của anh đã đến gần, chỉ còn tính bằng từng tháng
Thực ra, những phần cơ bản trong luận án của K. cũng đã hòm hòm, anh có thể ung dung hoàn chỉnh nốt những phần còn lại nếu không bị các công việc khác chi phối. Có điều, bao giờ cũng vậy, bảo vệ luận án xong là phải nghĩ đến chuyện về nước, phải lo đến cuộc sống tương lai ở Việt Nam. Với K., nỗi lo này còn nhân lên gấp bội, vì cái dự định lễ cưới đã ôm ấp từ hai năm nay. Chàng họa sĩ chuyên vẽ tranh siêu thực và trừu tượng của tôi giờ đây đã không còn tâm trí và thời gian để ngó ngàng đến giá vẽ. Trong đầu anh lúc này, chỉ còn bức tranh rất hiện thực và rất cụ thể về một ngôi nhà nhỏ, tổ ấm tương lai của chúng tôi.
"Anh muốn chúng mình cưới xong phải có nhà ở riêng. Anh không muốn em về nước phải vất vả, lam lũ, đầu tắt mặt tối. Anh muốn anh với em có tiền đủ sống để làm công việc chuyên môn của mình. Anh không muốn nhìn thấy em phải đi nuôi lợn, nuôi gà, hay gò lưng may thuê, đan thuê. Anh muốn con mình sinh ra phải được nuôi nấng tử tế..." Để giải quyết những cái "muốn" và "không muốn" này, lúc đó K. chỉ còn một cách là lao đầu vào "đánh quả".
Nhưng "đánh quả" ở Matxcơva trước đã không đơn giản, đến thời kỳ này lại càng rắc rối. Nước Nga đang ở những ngày cuối cùng trước khi Liên Xô sụp đổ. Các cửa hàng hầu như trống rỗng. Tình hình xã hội bắt đầu rối ren. Thời thế thay đổi, những người Việt Nam tháo vát cũng tìm đến những phương án làm ăn khác, chẳng mấy khi buồn bỏ thời gian đi lùng sục cửa hàng để chầu chực mua vài thứ đồ lặt vặt như trước nữa. Hoạt động thương mại của người Việt ở Nga đã chuyển sang giai đoạn "làm ăn lớn" với nhiều cách thức phức tạp mà tôi chỉ có một khái niệm hết sức mù mờ , vì K. kiên quyết không cho tôi tham gia vào những hoạt động này.
Anh bảo, những việc này hoàn toàn không thích hợp với loại con gái chân yếu, tay mềm, ngơ ngác như em. Anh bảo, anh không muốn em làm những cái trò đó vì sợ em sẽ không còn là em nữa. Thế nhưng anh lại bảo, những việc ấy sẽ cho chúng mình nhiều tiền để sống thoải mái ở Việt Nam, vì vậy anh không thể bỏ lỡ cơ hội. Tôi không hiểu mình phải làm gì, không thể và không dám ngăn cản anh, chỉ còn biết thương xót nhìn anh gầy rộc đi giữa những chuyến đi, những chuyến hàng và bản luận án.
Rồi cuối cùng, đúng hạn, K.cũng bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ (2). Ngày anh bảo vệ, lại có những đóa hồng nhung thắm đỏ, nhưng lần này, lần đầu tiên, người tặng là tôi, còn người nhận là anh. Có lẽ đến khi tôi bảo vệ thành công luận án của mình, tôi cũng không thể mừng hơn thế được. Một năm nay, tôi luôn luôn trong tình trạng căng thẳng, nín thở lo sợ nhìn anh chơi trò xiếc leo dây, đi chênh vênh giữa công việc nghiên cứu khoa học và hoạt động kinh tế. Nhiều lúc đứng tim lại vì tưởng thấy anh ngã lộn nhào đến nơi. Nhưng bây giờ, tất cả những nỗi lo sợ này đã chấm dứt, chấm dứt một cách may mắn. K. sẽ về nước với tấm bằng phó tiến sĩ và một khoản tiền, không nhiều lắm nhưng cũng đỡ được phần nào cho cuộc sống tương lai của chúng tôi. Một nỗi buồn ập đến khi tôi nghĩ rằng mình sẽ còn phải ở lại Matxcơva học tiếp một năm nữa, xa K. Nhưng tôi tự an ủi mình là tôi sẽ chỉ xa anh sau khi đã làm đám cưới. Một năm sẽ trôi qua rất nhanh. Tôi sẽ trở về với anh. Chúng tôi sẽ có một cuộc sống gia đình thực sự ở Hà Nội. Những bé con xinh xắn, giống anh và giống tôi, sẽ ra đời. Sau một "thời kỳ quá độ" được K. "huấn luyện", tôi cảm thấy mình đã hoàn toàn sẵn sàng cho cuộc sống đó.
Thế nhưng, người chưa sẵn sàng bây giờ lại là K.
Ở Matxcơva, K. đã nhận bằng. Ở Hà Nội, bố mẹ anh đã đến gặp bố tôi để làm lễ ăn hỏi và bàn chuyện tổ chức đám cưới. Mọi việc đều phải lo tính trước thật chu đáo, vì tôi chỉ được về phép ít ngày, cưới xong là phải quay lại Matxcơva ngay.
Đột nhiên, K. tuyên bố là anh chưa muốn về nước lúc này. Anh muốn ở lại Matxcơva, đợi tôi bảo vệ xong thì hai đứa về luôn một thể. Anh đã xin được giấy tờ để ở lại thêm một năm nữa, dưới dạng "cộng tác viên khoa học". Nhưng anh cũng nói thẳng với tôi rằng chuyện "cộng tác" ấy chỉ là hình thức. Lý do chính của việc anh ở lại đây, ngoài chuyện muốn được ở gần tôi ra (K. nhấn mạnh điều này), là vì anh đang có một mối làm ăn rất tốt, bỏ đi bây giờ thì quá phí. "Chỉ cần thêm một năm nữa thôi, anh sẽ kiếm thừa tiền cho chúng mình về nước sống thoải mái, rồi em xem", K. bảo. Rồi, nhìn thấy vẻ mặt băn khoăn của tôi, anh hỏi : "Em không thích anh ở lại đây với em à ?"
Tất nhiên là tôi thích, nhưng cái thích ấy không đủ để bóp nghẹt nỗi sợ trong tôi. Tôi sợ khi thấy anh quyết định bỏ ra một năm để toàn tâm toàn ý dấn thân vào cái thế giới làm ăn ngày càng trở nên kinh khủng ấy. Gần đây, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tin hãi hùng. Những chuyện trấn lột, đâm chém, giết người xảy ra trong giới làm kinh tế. Tôi sợ cho anh, cho tôi.
Suốt một năm tiếp đó, tôi triền miên sống trong nỗi buồn và nỗi sợ. K. nói là chưa về nước vội để được ở lại gần tôi, nhưng công việc làm ăn cứ buộc anh phải đi vắng suốt. Những chuyến đi ngày một xa hơn, ngày một kéo dài hơn. Đầu tiên chỉ là đi đến các thành phố khác, vài ngày thôi. Rồi sau đó anh bắt đầu phải đi xa hơn, sang Ba Lan. Độ dài cây số kéo theo độ dài thời gian. K. bắt đầu vắng mặt một tuần, hai tuần, rồi đôi khi thành cả tháng.
Nếu không có bản luận án phải hoàn thành mà thời hạn bảo vệ ngày càng đến sát, thì có lẽ sự đợi chờ căng thẳng đã làm cho tôi phát điên lên. Tôi vùi đầu vào luận án, tự nhủ rằng một khi tôi bảo vệ xong, thì mọi chuyện điên rồ này sẽ chấm dứt.



Sau mỗi chuyến đi về, giờ đây K. đến ở hẳn nhà tôi. Căn phòng của anh bây giờ hoàn toàn bỏ trống, kể cả ban đêm.
Lần đầu tiên chuyện đó xảy ra là khi K. trở về sau một phi vụ làm ăn ở một thành phố phía Nam. Chuyến tàu của anh quá nửa đêm mới về đến Matxcơva. Gần một giờ, khi tôi đã lên giường ngủ, nhưng chưa tài nào ngủ được vì những nỗi lo cho K. ám ảnh trong đầu, thì anh đập cửa và ào vào như một cơn gió lốc. Anh bảo, anh nhớ em quá không chịu được nên phải đến đây ngay. Anh bảo, anh không muốn một mình về ngủ trong căn phòng lạnh lẽo trống hơ trống hoác của anh nữa. Anh bảo, em nhìn bạn bè mà xem, mọi người có cần đợi cưới đâu mà đều đã sống hẳn với nhau rồi. Anh bảo, chúng mình đã ăn hỏi, lẽ ra là đã cưới, thực chất cũng sắp cưới, anh có điên mới trở về ngủ một mình ở cái căn phòng đáng ghét ấy. Anh bảo... rất nhiều thứ, tôi không kịp nghe, không kịp hiểu, không kịp có ý kiến, chỉ còn kịp nhận thấy những cái hôn của anh tới tấp phủ khắp người mình. Nỗi mừng được gặp lại anh, nỗi nhẹ nhõm vì anh đã trở về nguyên vẹn, tình yêu dâng lên tràn ngập khiến tôi không còn đủ sức kháng cự, không còn ý định kháng cự. Tôi để yên cho anh kéo mình vào một cơn xoáy lốc điên cuồng.
Buổi sáng tỉnh dậy, một cảm giác dịu dàng tràn ngập người tôi. Bàn tay anh đang nhẹ nhàng nghịch một túm tóc tôi. Mở mắt ra, tôi nhận thấy anh đang nhìn tôi đăm đắm. "Sáng dậy, ngái ngủ trông em xinh quá !", anh nói. Tôi mỉm cười, định đáp lại là trông anh cũng rất "xinh", nhưng anh đã cắt ngang câu nói của tôi bằng một nụ hôn cuồng nhiệt.
Ngày hôm ấy, chúng tôi nằm lỳ trong giường đến hơn mười một giờ sáng. K. bảo hôm nay anh quyết định nghỉ ngơi, không làm việc gì cả. Tôi cũng không muốn làm việc, bản luận án cứ để nằm đấy đợi tôi thêm một ngày cũng chẳng sao. Hai đứa chúng tôi nói đủ thứ chuyện linh tinh. Anh hỏi : “Tình hình luận án của em bây giờ ra sao, có cần anh phát hộ anketa nữa không ?” Tôi bảo : “Bây giờ mà còn đợi anh giúp thì chắc luận án của em toi mất rồi anh ạ.” Rồi tôi hỏi về những chuyến đi của anh. K. kể cho tôi về những thành phố mà anh đến, về những câu chuyện buồn cười mà anh gặp ở dọc đường, về nỗi nhớ tôi, nỗi nhớ đã làm anh khổ sở ra sao..., nhưng không đả động một câu nào đến những chuyện làm ăn của anh. Sau này cũng vậy, không bao giờ anh hé răng nói một lời đến chuyện đó. Tôi có gặng hỏi thì anh cũng dứt khoát gạt đi bằng một câu trả lời ngắn gọn là anh không muốn tôi phải dính vào những chuyện như thế.
Lâu lắm rồi chúng tôi mới lại cảm thấy hạnh phúc đến như vậy. K. không muốn xa tôi nửa bước. Như thời xưa, anh lại luẩn quẩn bên tôi khi tôi ngồi viết luận án. Nhưng bây giờ K. đã bảo vệ luận án rồi, anh không còn gì để "thi đua" với tôi, thành thử anh bèn trở về với niềm say mê của mình là cái giá vẽ. Và thế là tôi lại được dịp căng mắt ra để tìm những đường nét của mình trong bức tranh khó hiểu của anh.
Một tuần sau đó, lẽ ra K. lại có việc phải đi xa. Nhưng đang ở trạng thái ngất ngây như trong tuần trăng mật, anh quyết định tung hê tất cả. Anh bảo anh không thích đi đâu bây giờ, thế thôi, muốn ra sao thì ra. Sau một cú điện thoại gọi đến một nơi nào đó, thuyết phục, cãi cọ một hồi, cuối cùng K. bảo tôi rằng anh đã giải quyết xong việc này. Chuyến đi đã hoãn lại. Tuần này, anh sẽ ở nhà với em, đồng ý không L.C. ?



Ngày tôi bảo vệ luận án, K. không ở nhà với tôi. Tôi khóc, khi nhận những bông hoa hồng nhung do bạn bè tặng. K. đang có việc bận ở Ba Lan. Cách đó vài ngày, anh còn gọi điện thoại cho tôi, bảo rằng nhất định anh sẽ về. Rằng anh không thể vắng mặt trong một ngày như vậy được. Nhưng cuối cùng anh đã vắng mặt.
Hai ngày sau anh mới trở về. Với một đống quà, một bó hồng nhung đồ sộ và hàng trăm lời thanh minh, hàng ngàn lời xin lỗi. Rằng anh bị giữ lại đúng phút cuối cùng. Rằng nếu anh bỏ đi lúc đó thì hỏng hết cả, bao nhiêu công lao của mình bấy lâu nay sẽ thành công cốc... Tôi thấy mình quá mệt mỏi, những lời anh nói nghe bập bùng chẳng lọt vào tai. Đợi cho anh nói xong, tôi hỏi :
- Bao giờ chúng mình về nước ?
- Từ từ cái đã, để anh giải quyết xong mấy việc rồi tính sau, - K. hơi bối rối.
- Anh đã nói là đợi em bảo vệ luận án xong thì chúng mình sẽ cùng về nước. Em đã bảo vệ xong rồi. Vậy bao giờ thì chúng mình về ? - tôi nhắc lại.
- Anh nghĩ là chỉ khoảng hai tháng nữa là anh giải quyết xong mọi chuyện. Đợi anh hai tháng nữa thôi, L.C. nhé.
Tôi đã đợi anh hai tháng. Tôi lại đợi anh thêm hai tháng nữa. Những tháng ngày dài dằng dặc sau khi bảo vệ luận án. Không còn có việc gì làm cho khỏi điên đầu. Tôi sống vật vờ giữa những chuyến đi của anh, giữa những ngày nhớ nhung lo sợ dài lê thê, và những đêm yêu đương cuồng nhiệt ngắn ngủi.
Loáng thoáng đến tai tôi những tin đồn thực hư chẳng biết ra sao. Người ta bảo là K. gần đây "đánh quả" bị lừa mất sạch hết tiền. Rồi có cô bạn cùng trường lại nói với tôi, vẻ rất thương hại, rằng thấy bảo hình như K. đã từng qua đêm ở đâu đó, với một cô gái nào đó, trong hội cùng đi "đánh quả". "Nghe đồn vậy thôi, chứ chẳng có gì chắc chắn đâu. Nhưng L.C. cũng nên biết để đề phòng. Khi người ta đi làm ăn xa nhà thì những chuyện như vậy cũng dễ xảy ra lắm", cô bạn bảo.
Sức chịu đựng của tôi đã đến lúc cạn kiệt.



Anh lại trở về sau một chuyến đi, ập vào nhà, ôm ghì lấy tôi, dữ dội và cuồng nhiệt như lần nào cũng vậy.
Tôi quay mặt đi để tránh cái hôn của anh.
- Có chuyện gì thế, L.C. ? - anh sững sờ hỏi.
- Bao giờ chúng mình về nước ? - tôi trả lời bằng một câu hỏi khác.
- Sao em cứ hỏi mãi một câu ấy thế, - K. nói với vẻ chán nản. - Anh đã bảo đợi thêm một thời gian nữa, anh giải quyết xong mọi việc thì chúng mình về.
- Em không muốn đợi thêm nữa, - tôi nói gay gắt.
- Vậy em muốn gì ? - K. bực bội hỏi.
- Anh không biết là em muốn gì à ? - tôi gào lên. - Em muốn chúng mình về nước. Em muốn chúng mình làm lễ cưới. Em muốn đi làm. Em muốn có một gia đình. Em muốn có con. Em muốn có con !
Chợt nhìn thấy vỉ thuốc tránh thai đang uống giở để trên cái tủ nhỏ phía đầu giường, tôi chộp lấy, giơ lên và nói vẻ hăm dọa :
- Em nói cho anh biết, em không nuốt cái của này vào người nữa đâu !
Rồi tôi xăm xăm cầm vỉ thuốc ra bỏ tọt vào sọt rác.
K. đứng đờ người ra, nhìn tôi kinh hãi. Anh chưa bao giờ nhìn thấy tôi hung hăng như vậy cả. Anh lúng búng :
- L.C, nghe anh nói đây...
Nhưng tôi không còn muốn nghe gì nữa. Tôi khóc òa lên, vớ lấy cái áo khoác rồi chạy ra ngoài cửa.
K. chạy theo tôi. Tôi lao vào thang máy, ấn nút. Cánh cửa tự động đóng sập lại trước mặt anh.
Khi bước ra khỏi thang máy, tôi nghe tiếng K. gọi từ cầu thang vọng xuống. Phòng chúng tôi ở trên tầng thứ bảy, không biết bằng cách nào mà anh đã chạy được gần xuống tới tầng trệt.
Người tôi mụ mẫm đi, không còn suy nghĩ được gì. Tôi cứ vừa khóc vừa lao ra đường, mặc cho K. đuổi theo gọi đằng sau. Trong đầu tôi bây giờ chỉ còn một ý muốn là hành hạ anh cho bõ ghét.
Một chiếc xe buýt xịch đến, tôi nhảy vội lên ngay. Khi xe bắt đầu chạy tiếp, tôi ngoái lại nhìn qua cửa kính, thấy K. đang vẫy một chiếc taxi.
Xe đi qua bao nhiêu bến tôi cũng không nhớ nữa. Đứng dựa vào thành xe, nhìn ra ngoài đường, tôi thổn thức, mặc kệ những cái nhìn tò mò của hành khách trên xe.
Khi xe dừng lại ở một phố nhỏ rợp bóng cây, mấy hành khách đứng sau tôi lách ra để xuống. Tôi bèn xuống theo họ, thẫn thờ bước đi, như một cái máy, chẳng hiểu mình định đi đâu.
Có tiếng bước chân chạy phía sau tôi. Tôi chẳng buồn quay lại mà vẫn biết đó là ai. Rồi K. chạy tới gần. Anh thở hổn hển, đặt tay lên vai tôi và bảo : "L.C., tha lỗi cho anh. Anh biết anh làm khổ em nhiều lắm. Nhưng anh không bao giờ muốn như thế cả. Đó là vì hoàn cảnh. Có những chuyện không may..."
Không đợi K. nói hết câu, tôi gục đầu vào vai anh, khóc như mưa như gió.



Đêm, nằm trên giường, trong vòng tay K., tôi lặp lại câu hỏi cũ :" Bao giờ chúng mình về nước ?" "Cho anh thêm một tháng nữa, anh sẽ cố thu xếp xong mọi việc, rồi chúng mình về", K. hứa. Rồi anh nói rằng chính anh cũng rất muốn về, muốn chúng tôi làm lễ cưới, muốn có con với tôi ... "Em sẽ sinh ngay cho anh một thằng cu thật giống anh", tôi bảo. "Không, con trai để sau. Anh muốn đứa đầu của chúng mình là con gái. Một bé gái giống hệt như em. Nước da trắng mịn như thế này này. Hàng mi rợp như thế này này. Và đôi mắt phải đúng như thế này này, mênh mông, mênh mông... " Và K. kết thúc bài văn tả chân dung của mình bằng những cái hôn cuồng nhiệt như thường lệ.



Một tháng sau đêm đó, K. lại đang trong một chuyến đi xa.
Tôi đi mua một vé máy bay về Hà Nội. Ngày bay ghi trên vé là đúng một tháng sau. Tôi đã cho anh một tháng như anh yêu cầu. Tôi lại sẽ cho anh thêm một tháng nữa. Nhưng đây là lần cuối cùng.
Một tuần lễ trôi qua, K. trở về. Tôi lẳng lặng đưa vé máy bay của mình cho anh xem. Mặt K. nhợt đi.
- Sao em tự ý mua, không bàn bạc gì với anh cả ?
- Anh đi đánh quả có bao giờ bàn bạc gì với em không ?
Im lặng một lúc, rồi K. lại hỏi :
- Em định bỏ anh thật đấy à, L.C. ?
- Không. Em không bao giờ bỏ anh cả. Em chỉ về Hà Nội thôi. Anh cũng về với em đi.
- Nhưng anh không về được, lúc này anh không thể về được, - K. nói như rên lên.
- Tại sao thế ? Anh có vay nợ gì ai không ? - tôi hỏi.
- Có những khó khăn, - K. lấp lửng. Rồi anh lại giở bài ca quen thuộc của mình : - Anh không muốn em phải dính vào những chuyện như thế này. Em biết cũng chẳng ích gì, chỉ tổ đau đầu. Để đó rồi dần dần anh sẽ giải quyết xong.
- Vậy thì anh cứ giải quyết đi, - tôi nói. - Nhưng nhanh nhanh lên. Em sẽ đợi anh ở Hà Nội. Đừng bắt em phải đợi cả đời.
- Sao em không ở lại đây đợi anh ? Trả vé máy bay lại đi, L.C., trả vé lại đi, anh xin em, - anh nhìn tôi với một vẻ van xin, tội nghiệp đến nỗi tôi suýt khóc.
- Em không thể chịu đựng nổi cuộc sống như thế này nữa. Nếu em không về, anh sẽ chẳng bao giờ về cả. Em phải về để kéo anh ra khỏi cái vũng lầy ấy, - tôi nói.
K. không nài nỉ gì thêm nữa. Anh ngồi ngả lưng vào ghế, nhắm mắt lại, vẻ hết sức mệt mỏi.



Ba tuần cuối cùng trước khi tôi về Hà Nội, K. không đi đâu xa cả. Anh cùng tôi đi mua sắm những đồ linh tinh vớ vẩn, giúp tôi thu dọn đồ đạc, giành lấy việc xếp vali cho tôi. Anh nhét vào vali của tôi một xấp phong bì đã có sẵn tem Nga, ghi sẵn tên và địa chỉ của anh, và dặn :" Nếu có ai đi Nga thì em nhờ gửi thư cho nhanh nhé, còn nếu không cứ bỏ bưu điện ở Hà Nội cũng được, đừng để anh đợi lâu". Anh có vẻ khá là bình thản. Tôi nghĩ, anh đã hiểu quyết định về Hà Nội của tôi là đúng.
K. giữ được vẻ bình thản ấy cho đến tận lúc tiễn tôi ra sân bay. Nhưng đến khi chuẩn bị chia tay, chúng tôi hôn nhau lần cuối, cái hôn từ biệt, thì tự nhiên anh xiết chặt lấy tôi, chặt đến nỗi làm tôi phát đau lên, và toàn thân anh run lên trong những tiếng nức nở cố ghìm.
- Anh không muốn mất em, - anh nói bằng một giọng khàn khàn, đứt đoạn.
- Nhưng anh có mất em đâu, - tôi đáp, nước mắt rơi lã chã. - Về với em đi. Em chờ anh ở Hà Nội.
Tôi đợi K. nói rằng anh sẽ về ngay đây, ngay trong chuyến bay sau. Nhưng anh đứng đờ đẫn, không nói gì hết cả, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt chẳng buồn lau. Đây là lần đầu tiên tôi thấy anh khóc. Từ trước đến giờ, chỉ có tôi chuyên lấy nước mắt để dọa anh.
Tôi vừa bước lên máy bay vừa khóc, nhưng vẫn tin rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lại gặp anh. Tôi biết anh không thể chịu đựng nổi cuộc sống xa tôi quá lâu. Anh sẽ vứt bỏ tất cả để về Hà Nội với tôi, chậm nhất thì cũng chỉ thêm vài tháng nữa. Tôi tin chắc là như vậy.
 
Chương này đọc vui cực =)). Mà các thế hệ đi trước cho em hỏi phát. Học đhọc 5 năm ở Nga thì bình thường rồi, nhưng sau đó lại chỉ cần 3 năm là có luôn bằng phó tiến sĩ (bây giờ là tiến sĩ) à? Ko cần phải thạc sĩ (master) gì sao?

------------------------------------------------------------------------
Chương 6: Chuyện những ông tiến sĩ

Không điều gì có thể tin chắc được ở đời, đặc biệt khi đó lại là lời hứa của một ông chồng mắc bệnh đãng trí. Lan Chi đã rút ra kết luận này vào buổi tối hôm nay, khi cô hỏi Trung :
- Chú Cừ bảo thế nào hả anh ?
- Bảo cái gì nhỉ ? - Trung lơ đãng hỏi lại.
- Ơ kìa, còn cái gì nữa ! Thế anh đã gọi điện cho chú Cừ chưa ? - Lan Chi sốt ruột kêu lên.
- Trời đất ! Anh quên béng đi mất cái chuyện này rồi ! - Trung ồ lên, có vẻ bây giờ mới sực nhớ ra.
- Quên là thế nào ? - Lan Chi cáu. - Anh đã hứa đi hứa lại với em bao nhiêu lần, chắc như đinh đóng cột. Em tin anh mới đi hứa lại với Thanh Hoa. Bây giờ để lỡ việc của người ta ra thì có phải ê mặt mình không !
- Lỡ sao được, anh sẽ đi gọi điện ngay bây giờ đây, - Trung cười xí xóa. - Vậy cái ông viện sĩ của em bao giờ thì về nước đó ?
- Thấy Thanh Hoa bảo là ngày hai mươi tư tháng ba này ông ta sẽ bay về Hà Nội. Hôm nay là ngày bao nhiêu nhỉ ? - Lan Chi nhìn lịch và nhẩm tính. - Mười chín tháng ba. Như vậy chỉ còn năm hôm nữa thôi. Anh làm sao giải quyết cho xong việc này thì làm.
- Rồi, xong ngay chớ có gì đâu, - Trung đáp. - Mà nói thiệt, anh vẫn chưa hiểu tại sao em với Thanh Hoa lại nghĩ ra cái trò này. Hết sức vớ vẩn. Vậy mà em cứ làm như quan trọng lắm, - Trung làu bàu nói, nhưng không giấu được nụ cười tủm tỉm.



Không riêng Trung, mà đến cả Lan Chi lúc đầu cũng không hiểu được ngay tầm quan trọng của vấn đề. Cô hết sức sửng sốt khi Thanh Hoa gọi điện cho cô, tha thiết nhờ vợ chồng cô giúp cho việc tổ chức cuộc gặp gỡ giữa một nhà khoa học Việt Nam, giáo sư viện sĩ viện gì đó, với ông chú của chồng cô.
- Này, mày định đùa đấy hả ? - Lan Chi hỏi. - Giáo sư, viện sĩ thì gặp cái ông hâm ấy để làm gì ?
- À, nhưng mà giáo sư viện sĩ này lại là lão Tài mày ạ, - Thanh Hoa đáp.
- Tài nào ? - Lan Chi hỏi.
- Tài "ủng " ấy, cây si của mày ngày xưa ấy. Mày không nhớ à ?
- Tài "ủng" thì tao nhớ. Nhưng sao mày lại bảo là giáo sư, viện sĩ ? - Lan Chi vẫn chưa hiểu.
- Chậm hiểu quá, - Thanh Hoa cười rộ lên trong máy điện thoại. - Này, bây giờ chớ có gọi là Tài "ủng" mà phạm thượng đấy nhé. Người ta bây giờ là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài !
Hóa ra là từ cái thuở trồng cây si trước cửa phòng Lan Chi đến giờ, Tài "ủng" đã đi được một chặng đường rất xa, vượt lên tất cả bạn bè cùng trang lứa. Vượt một cách xuất sắc mà không ai ngờ đến.
Tất nhiên, ở Matxcơva thời ấy, ai cũng phải công nhận Tài là một tay anh hùng hảo hán, chứ không phải là loại tầm thường. Trong khi thiên hạ đi buôn hầu như ai cũng phải trải qua những thời kỳ lên voi xuống chó, thì Tài bao giờ cũng vẫn cứ giàu sụ. Bất kể thời nào, bất kể phương thức làm ăn nào, Tài luôn luôn ung dung giữ vai trò thủ lĩnh trên thương trường. Về cái khoản làm kinh tế này, thì tài năng và bản lĩnh của Tài đã thể hiện quá rõ. Giá như bảo rằng anh bây giờ đã trở thành triệu phú, tỷ phú, giám đốc công ty gì gì đó..., thì hẳn là chẳng có ai lấy làm ngạc nhiên.
Thế nhưng, không hiểu mồ mả tổ tiên anh chọn được chỗ long mạch tốt thế nào, mà bây giờ con cháu không những chỉ được hưởng phúc đức ở khoản no cơm ấm cật, mà lại còn phát cả sang đường khoa học nữa ! Điều này quả thật nghe có hơi lạ tai. Rất lạ tai đối với những người đã biết Tài từ cái thời Matxcơva xa vắng ấy.
Thời ấy, ai cũng biết là toàn bộ thời gian, tâm huyết của Tài đều được dành hết cho việc làm kinh tế. Làm kinh tế, chứ không phải là nghiên cứu kinh tế học, cái ngành học của anh. Nói đến việc học của anh, thì kết quả của nó cho thấy rằng kinh tế học hóa ra lại là một khoa học hết sức xa rời thực tế. Vì thế mới có hiện tượng quái lạ như thế này : một nhà thực hành kinh tế xuất sắc như Tài, trong khi toàn bộ tài ba và nhiệt huyết đã thể hiện chói sáng trên thương trường không ai có thể chối cãi, thì cứ đến kỳ thi ở khoa Kinh tế lại vác về một đống điểm hai ! Tình hình trầm trọng đến mức suýt nữa Tài đã bị đuổi học. May quá, cuối cùng nhờ rất nhiều tác động ở đủ mọi phía, nhờ cả thái độ ăn năn thành khẩn, những lời hứa quyết tâm học tập và những điểm ba khi thi lại của Tài, cuối cùng, khoa Kinh tế đã tránh được cái sai lầm tai hại là đuổi nhầm một nhà kinh tế có tài năng thực sự.
Rồi mọi việc cũng đâu vào đấy. Tài cũng bảo vệ xong luận án phó tiến sĩ, nhận bằng đàng hoàng. Bọn xấu miệng thì bảo rằng đó là bằng đi mua. Những kẻ khác (có thể do ghen tị với tài sản của anh) thì bảo rằng luận án của anh là thuê người viết, chứ một chữ trong đó anh cũng chẳng hiểu. Mua hay thuê không biết, không có bằng chứng gì cả. Có điều chắc chắn rằng đó là bằng thật, xịn một trăm phần trăm. Đố ai dám bảo đó là bằng giả. Điều này mới là quan trọng, chứ còn miệng lưỡi thế gian thì người đứng đắn hơi đâu thèm để ý đến.
Có lẽ chính nhờ một số người giữ những trọng trách nào đó ở trong nước có thái độ nghiêm túc và thận trọng với những điều thị phi như vậy, mà Tài bỗng dưng xuất hiện ở Việt Nam với danh nghĩa một nhà khoa học có tên tuổi tầm cỡ thế giới. Trong khi bạn bè cứ tưởng anh vẫn còn đi buôn ở Nga, thì báo chí trong nước cho biết rằng anh hiện là giáo sư viện sĩ của những cơ quan khoa học danh tiếng ở nước ngoài, niềm tự hào của khoa học Việt Nam, người đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới. Giáo sư trường nào, viện sĩ ở đâu thì còn là một vấn đề khó hiểu. Vì cứ căn cứ vào những cái tên trường, tên viện mà một vài tờ báo trong nước cung cấp, thì bạn bè của anh ở nước ngoài chưa lần ra được, hoặc đã lần ra được rồi nhưng lại thấy nó không giống như báo nói. Theo như những kẻ tò mò, đa nghi, cứ thích đi kiểm tra lại những điều viết trong báo, thì cái trường mà anh nhận chức danh giáo sư chỉ là một cái trường ma, không hề tồn tại trên đời. Còn cái viện hàn lâm khoa học mà anh là viện sĩ thì quả là có thật, nhưng lại không thiêng liêng như sự mô tả của nhà báo. Là vì bất cứ ai có được tấm bằng tiến sĩ(1) đều có thể thành viện sĩ ở đây, không cần phải qua bầu chọn gì hết cả. Điều kiện duy nhất để có được danh hiệu cao quý đó là phải nộp tiền. Tai hại nhất là cái viện hàn lâm khoa học này lại không hề biết giữ giá, lại đi bán giấy chứng nhận viện sĩ với giá rẻ mạt đến mức đau lòng. Thành thử người Việt mình làm ăn ở Nga thừa tiền là đua nhau trở thành viện sĩ cả loạt.
Về phần Tài thì, với những chức danh khoa học vẻ vang trên, tuy làm ăn ( hay là hoạt động khoa học, theo cách gọi của báo chí) ở Nga, nhưng anh vẫn thường xuyên đi về thăm Tổ quốc. Nghe nói mỗi lần anh về nước là báo chí lại có dịp để bàn về tương lai tươi sáng của khoa học Việt Nam, mà một trong những niềm hy vọng lớn là Tài. Thậm chí, hình như có một đài truyền hình nào đó còn phấn chấn đến mức làm hẳn một bộ phim tài liệu về cuộc đời hoạt động khoa học của anh, tái hiện lại những nỗ lực của anh trong việc vượt khó khăn để làm khoa học, cảm động không kém gì chuyện Lomonoxop ngày xưa đi bộ hàng ngàn cây số từ nhà quê lên Matxcơva để tìm đến với khoa học vậy. Xem phim, bạn bè của Tài sững sờ được biết rằng thuở hàn vi, khi còn làm nghiên cứu sinh ở Matxcơva, do không muốn mất thời giờ vào chuyện làm ăn buôn bán, nên Tài đã phải sống rất vất vả bằng số tiền học bổng ít ỏi, chỉ toàn ăn bánh mỳ với bơ thôi mà đã đóng góp được cho đời những công trình khoa học đồ sộ.
Sau khi danh tiếng đã nổi như cồn ở trong nước, tiền đô đã ních chặt túi ở Nga, Tài quyết định về nước hẳn để dành trọn những ngày còn lại của đời mình (nếu không có gì bất trắc thì còn khá dài) cho nền khoa học nước nhà. Dễ hiểu là với một tên tuổi như vậy, anh được mời ngay về làm việc ở một viện khoa học lớn, được giao cho một chức vụ khá quan trọng. Và bây giờ, với tư cách là đại diện cho viện khoa học này, anh đang có mặt ở Paris.



Thực ra, chuyện giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài đến Paris cũng có nhiều pha khá là gay cấn, chứ không đơn giản như việc người ta đi trao đổi khoa học thông thường. Số là, tuy rằng anh đã mở ra một chân trời mới cho nền khoa học thế giới như báo chí nước nhà cho biết, nhưng các nhà khoa học Pháp hình như thiếu thông tin, nên không hề biết đến anh là ai. Vì vậy, sau nhiều năm tung hoành ngang dọc ở Nga, giờ đây Tài muốn đưa chân trời của anh đến phương tây, cụ thể là sang Pháp, nhưng tìm mãi mà chưa thấy được nhà khoa học nào ở nước này hưởng ứng.
May thay, trời thương (hoặc là do long mạch của tổ tiên anh quá tốt), cứ mỗi lúc Tài bí kế thì lại có trời hiến kế cho. Tự dưng, vợ Tài được một suất đi thực tập ở Pháp một năm. Tài bèn quyết định nhân dịp này bám váy vợ sang Pháp để xem xét tình hình khoa học của nước này.
Tuy vậy, tham vọng của Tài là mang lại vinh quang cho khoa học nước nhà. Là để chứng tỏ cho đồng nghiệp trong nước rằng uy tín khoa học của anh vang dội không chỉ ở Nga, mà còn ở phương tây. Là để báo chí nước nhà còn có dịp vui mừng bàn luận về vị trí sáng giá của các nhà khoa học Việt Nam trong nền khoa học thế giới. Vì thế, nếu giáo sư viện sĩ lại xuất ngoại một cách chính thức dưới dạng bám váy vợ thì còn ăn thua gì nữa.
Cần phải có một cái giấy mời. Một cái giấy mời khống cũng được, nhưng phải là giấy mời hẳn hoi. Do một nhà khoa học hẳn hoi hoặc một cơ quan khoa học hẳn hoi ở Pháp đứng tên chịu trách nhiệm. Tài nghĩ rằng việc xin cái giấy mời này có thể là chuyện khả thi nếu anh hứa với phía mời là anh không đòi hỏi gì hết, không quấy rầy gì hết. Không đòi hỏi kinh phí tài chính cho chuyến đi. Không đòi hỏi cả việc đón tiếp. Tức là trong thời gian anh ở Pháp, phía mời thậm chí không cần biết đến mặt anh. Chỉ cần họ biết tên anh để viết giấy mời cho đúng. Đã có vợ Tài ở Pháp để lo cho anh những chuyện lạ nước lạ cái, Tài chỉ cần một tấm giấy mời để xuất ngoại cho vẻ vang.
Với những yêu cầu khiêm tốn như thế, Tài thấy rằng không cần các nhà khoa học Pháp phải biết đến chân trời khoa học của anh. Chỉ cần anh tìm được một người nào đang ở Pháp, có nhiều quan hệ trong giới khoa học Pháp, có thể đứng ra đảm bảo về những lời hứa của anh để xin được cho anh một tấm giấy mời. Sau một thời gian ngắn đi điều tra tìm hiểu, Tài đã chộp được đúng cái con người hội đủ mọi điều kiện ấy. Người ấy là Thanh Hoa.



Lan Chi rất ngạc nhiên trước sự tận tâm của Thanh Hoa trong việc thực hiện những tham vọng của Tài "ủng". Theo trí nhớ của cô thì thời ở Matxcơva hai người này có thân thiết gì với nhau đâu. Hay là họ có những mối liên quan họ hàng mà hồi trước Thanh Hoa không cho cô biết ?
- Không có họ hàng gì cả, - Thanh Hoa bảo. - Nhưng lại quan trọng hơn cả họ hàng mày ạ. Là vì em họ của vợ Tài "ủng" là cô giáo của thằng con trai của ông anh ruột của tao.
Chết thật, một cái quan hệ phức tạp như thế này thì người thường nghe qua làm sao có thể hiểu được cho thấu đáo. Lan Chi cứ phải hỏi đi hỏi lại mấy bận, đếm đi đếm lại mấy lần "của", mà cuối cùng vẫn chịu chết không luận ra nổi tầm quan trọng của mối quan hệ ấy. Cô chỉ vỡ ra sau khi đã được Thanh Hoa bỏ công giải thích cặn kẽ. Phải thừa nhận rằng đây là một chuyện không thể xem nhẹ được.
Sự thể là thế này : vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa có độc mỗi một cậu quý tử, năm nay học lớp bảy. Cậu này không những là niềm hy vọng duy nhất của hai bậc thân sinh, mà còn là biểu tượng tương lai của cả dòng họ. Là vì dòng họ nhà Thanh Hoa đã ba bốn đời rồi toàn là độc đinh cả. Bố cô là con trai duy nhất, anh cô là con trai duy nhất, và đời này thì đến lượt cậu quý tử này. Nhưng cu cậu vô tư, chẳng hề ý thức chút nào về trách nhiệm nặng nề của mình đối với tổ tiên, cho nên học hành hết sức ấm ớ, năm ngoái vừa mới bị đúp. Cả họ phát hoảng, phải họp bàn, rồi ra quyết định là tốn bao nhiêu thì tốn cũng phải lo cho quý tử nên người bằng được, mục tiêu phấn đấu lâu dài là phải nhồi cho được cu cậu vào đại học, mục tiêu cụ thể trước mắt là làm sao đừng có đúp năm nào nữa. Vợ chồng ông anh ruột của Thanh Hoa, chịu trách nhiệm trước dòng họ về việc thực hiện những mục tiêu khó khăn trên, đã đến gặp cô giáo chủ nhiệm của quý tử để bàn bạc cặn kẽ những phương án thực hiện. May được cô giáo thông cảm, nhận lời giúp đỡ. Chỉ sau ba tháng học thêm ở nhà cô giáo theo chế độ đặc biệt (số giờ học gấp đôi các bạn cùng lớp, số tiền học còn gấp nhiều lần hơn), cu cậu đã có những kết quả khá là hứa hẹn, tuy chưa được hẳn như mong muốn. Bố mẹ quý tử nhẩm tính rằng nếu tăng tiền học lên mà kết quả tăng nhanh hơn thì cũng bõ. Thế nhưng, chưa kịp bàn phương án này với cô giáo thì cô đã đích thân đến tận nhà, bảo là có việc muốn nhờ vả. Cái việc ấy, tất nhiên, chính là cái việc mà Tài "ủng" muốn nhờ Thanh Hoa.
Cô giáo hết sức tha thiết muốn giúp đỡ ông anh rể họ, vì tuy chỉ là em họ, nhưng quan hệ của cô với vợ chồng Tài thân thiết quý hóa có khi còn hơn anh chị em ruột trong nhà. Chẳng thân, chẳng quý, sao khi vợ chồng cô mua nhà, ông anh rể họ lại đồng ý cho vay ngay năm ngàn đô ? Mà là với lãi suất hữu nghị thôi đấy nhé. Năm ngàn đô ấy, cô mới trả được có hai ngàn, còn ba ngàn hiện chưa có khả năng, anh chị họ cũng không nỡ thúc ép quá (đành rằng đôi khi anh chị cũng có nhắc nhở, bảo rằng đang có nhiều khoản cần tiêu). Bây giờ, anh rể muốn nhờ mỗi một việc này, mà mình không giúp được, thì thật là áy náy.
Không những cô giáo áy náy, mà anh ruột chị dâu của Thanh Hoa cũng áy náy, thậm chí đến mẹ của Thanh Hoa cũng áy náy nốt. Cho nên, sau khi ông anh ruột đích thân gọi điện sang Pháp để bàn với Thanh Hoa về việc này, thì mẹ cô vẫn không yên tâm, còn phải gọi điện thêm lần nữa. Bảo rằng con cố giúp anh Tài con nhé, chứ có mỗi một việc như vậy mà không giúp người ta được thì cô giáo của thằng Thắng cô ấy giận cho đấy, mà thằng Thắng nó lại đúp thêm một lần nữa thì mẹ khổ lắm con ơi. Thanh Hoa hiểu rằng vấn đề không đơn giản là một cái giấy mời, mà là danh dự của cả dòng họ.
Phải nói thêm rằng sở dĩ Thanh Hoa được Tài "ủng" chọn mặt gửi vàng, là vì gia đình chồng cô là một gia đình có nhiều quan hệ rộng rãi trong giới khoa học Pháp. Bố chồng cô, mẹ chồng cô đều là những giáo sư đại học có tên tuổi. Bản thân Pascal, chồng Thanh Hoa, cũng đã trở thành giáo sư từ khi tuổi còn rất trẻ, chưa đến ba mươi. Chuyện này thì cả Hà Nội đều biết, thậm chí còn biết hơn cả Thanh Hoa. Có lần cô về Hà Nội thăm nhà, nghe nói chuyện mới vỡ nhẽ ra rằng cả bố chồng, mẹ chồng lẫn chồng mình đều là viện sĩ hết.



Như vậy, Thanh Hoa đã phải huy động hết những mối quen biết của mình, của chồng ra để tìm cho được một nhà kinh tế học đồng ý làm một cái giấy mời khống cho Tài. Cuối cùng thì cũng tìm được một ông bạn của Pascal nhận giúp cho việc đó. Cái giấy mời lập tức được gửi về Hà Nội. Công việc đến đây tưởng là đã xong.
Nhưng giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài đến được Paris rồi thì lại nảy ra những tham vọng khác. Sau khi đi dạo Paris một vòng, chụp một cái ảnh ở nhà thờ Đức Bà Paris, ba cái ở tháp Eiffel (ba góc độ khác nhau), một cái đứng tư lự bên dòng sông Seine, hai cái cười trước trường Đại học Tổng hợp Paris 7, một cái cũng trước trường này nhưng đăm chiêu trầm tư..., Tài thấy rằng tư liệu ảnh để cung cấp cho giới báo chí vậy là đã đủ. Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó. Một cái gì đó làm bằng chứng về những hoạt động khoa học của Tài ở Paris.
Suy đi nghĩ lại, Tài nảy ra ý muốn gặp gỡ một nhà kinh tế học Pháp để bàn luận, trao đổi. Không nhất thiết phải bàn luận sâu vào những vấn đề chuyên môn cụ thể, mà chỉ cần là một sự gặp gỡ làm quen giữa giới kinh tế học hai nước, đặt tiền đề cho sự hợp tác khoa học trong tương lai. Bản thân Tài cũng không sẵn sàng cho những trao đổi chuyên môn, vì khi sang đây, có thể do quá nặng, anh không mang theo tài liệu công trình gì của mình hết cả . Bù lại, Tài mang theo một đống danh thiếp, in rất đẹp, chữ đã lấp lánh lại còn tỏa mùi thơm ngan ngát, trong đó ghi rõ họ tên chức vụ và mọi học hàm học vị của anh. Ngoài ra, Tài còn cẩn thận mang kèm cả tờ giấy giới thiệu của viện khoa học nơi anh làm việc, viết cả bằng hai thứ tiếng Việt - Pháp, xác nhận tư cách đại diện cho viện của anh. Giấy giới thiệu có đóng dấu đỏ chói, hoàn toàn là dấu thật (Trần Sỹ Tài xưa nay không có xài của rởm bao giờ !) Với từng ấy thứ giấy tờ, Tài thấy anh đã được trang bị đầy đủ cho một cuộc gặp gỡ khoa học. Vấn đề là phải tìm cho được ra đối tác.
Chuyện này tất nhiên lại phải nhờ đến Thanh Hoa. Cô bạn của Lan Chi, sau khi nghe Tài bày tỏ nguyện vọng trên, thì vò đầu kêu khổ. Là vì cô không hình dung được có nhà kinh tế học Pháp nào lại chịu bỏ thời gian ra để làm cái công việc khó nhọc đó. Nhưng cô không dám gạt phắt đi, vì sợ làm cho nhiều người ở Hà Nội áy náy.
Được cái, Thanh Hoa xưa nay bao giờ cũng là người lắm sáng kiến. Vò đầu bứt trán, đào sâu suy nghĩ một hồi, trong đầu cô chợt lóe ra một cái tên. Một cái tên hoàn toàn ngang tầm cỡ giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Hoàn toàn đủ tư cách để đàm đạo khoa học với giáo sư viện sĩ. Cái tên đó là Ba Lê Dị Nhân.



Ba Lê Dị Nhân chính là ông chú của chồng Lan Chi. Tên cha sinh mẹ đẻ của ông là Phan Cừ. Tên riêng của ông khi nhập làng tây là Philippe. Tên đầy đủ của ông khi xuất hiện trên những tờ báo tiếng Việt của cộng đồng người Việt hải ngoại là giáo sư tiến sĩ Philippe Phan Cừ. Tên do những miệng lưỡi thích châm chọc ở Paris đặt cho ông và được những người quen dùng để gọi vụng sau lưng ông là Ba Lê Dị Nhân.
Ba Lê Dị Nhân có một lý lịch khoa học kỳ bí không kém gì giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Trước năm 1975, ông đã từng học luật ở Sài Gòn. Nhưng học được hai năm thì phải đi quân dịch, thành ra sự học nửa chừng dang dở. Rời Sài Gòn sau tháng 4 năm 1975, ông đến Paris, lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi. Thôi binh nghiệp, không biết làm gì, ông bèn quyết chí trở lại với con đường khoa bảng. Lần này, ông chọn học ngành kinh tế.
Chí lớn, thế thời thuận lợi, nhưng không rõ vì lý do gì ông cũng chỉ mài đũng quần trên ghế giảng đường đại học ba năm rồi thôi. Hẳn là ông cho rằng đã đến lúc nên mang học vấn của mình ra giúp sức cho đời. Bằng chứng là từ đó ông thôi hẳn đời học trò dài lưng tốn vải, chuyển sang ngạch làm công ăn lương.
Tiểu sử của Ba Lê Dị Nhân đến chỗ này thì hoàn toàn minh bạch. Bà con, bạn bè nhiều người có thể đứng ra xác nhận cho ông.
Hành tung của ông mới chỉ trở nên mù mờ bí hiểm trong vòng một chục năm trở lại đây, khi tên tuổi ông bỗng dưng xuất hiện rộn rã trên báo chí tiếng Việt hải ngoại, kèm theo các chức danh "tiến sĩ kinh tế học, giáo sư trường X kiêm giám đốc viện Y". Những người quen ông lúc bấy giờ mới ngã ngửa ra, không hiểu ông âm thầm đi học lấy bằng tiến sĩ lúc nào mà khiêm tốn không cho bà con biết. Nhiều người thường gặp ông ở trường X, nơi ông lui tới làm việc hàng ngày, thì bảo rằng chức danh của ông tại đó là nhân viên thư viện, chứ chẳng phải giáo sư gì hết. Thực hư chưa biết thế nào, nhưng ít ra trường X còn tồn tại thật bằng gạch, bằng bê tông ở giữa Paris, chứ còn viện Y nơi ông làm giám đốc thì chỉ có độc mỗi một cái tên và một địa chỉ e-mail trên Internet.
Ba Lê Dị Nhân là một nhà khoa học uyên bác trong nhiều lĩnh vực. Ông không chỉ thu hẹp hoạt động khoa học của mình trong lĩnh vực kinh tế học, mà còn xông xáo đánh Nam dẹp Bắc trong cả chính trị học và sử học. Tất cả các công trình nghiên cứu khoa học của ông đều được đăng tải trên các tờ báo tiếng Việt đại chúng hải ngoại, báo giấy hoặc báo Internet. Theo như ông cho biết, thì bản gốc của những công trình này được công bố dưới dạng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, trên những tạp chí khoa học quốc tế danh tiếng. Nhưng do khiêm tốn, hoặc vì thông cảm với trình độ ngoại ngữ có hạn của đồng bào mình, không bao giờ ông chịu nên tên những tạp chí quốc tế đã đăng công trình của ông ra.
Một trong những điều khiến Ba Lê Dị Nhân nổi bật lên trong giới khoa học là vốn cổ học vô cùng thâm thúy của ông. Các công trình khoa học của ông, do vậy, là một sự kết hợp tài tình đông tây kim cổ. Tên gọi thì là "điều trần khoa học" hoặc "tham luận khoa học", từ ngữ sử dụng thì "khảo sát", "chứng minh", "luận cứ", luận điểm"... đâu ra đấy, nhưng nội dung khoa học (bản tiếng Việt, còn tiếng ngoại quốc không biết ra sao) lại thường được trình bày bằng thể văn biền ngẫu, thỉnh thoảng lại xen một hai khổ thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ý tứ hết sức sâu xa. Làm khoa học với cả bầu nhiệt huyết, nên ông không thể che giấu được cảm xúc của mình : nhiều khi chứng minh xong một "luận điểm khoa học", ông lại tuôn ra một câu cảm thán "ô hô, ai tai"... Có lẽ, chính do đem cái phong cách quân tử Tàu này ra làm khoa học, nên ông mới được nhận cái tên gọi là Ba Lê Dị Nhân.



Xem đi xét lại, Thanh Hoa thấy rằng không thể tìm ra được một đối tượng nào phù hợp hơn là Ba Lê Dị Nhân cho cuộc gặp gỡ khoa học với giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài. Ngành nghề phù hợp, chức danh tương đương, tên tuổi đều vang dội như nhau trên báo chí : một người là niềm hy vọng của khoa học nước nhà, người kia lại là biểu tượng "vẻ vang dân Việt" của cộng đồng người Việt hải ngoại. Thanh Hoa bèn đề xuất ý kiến này với Tài. Mới đầu, Tài không được phấn khởi lắm, vì anh muốn gặp một nhà kinh tế học Pháp xịn kia. Nhưng Thanh Hoa đã thuyết phục được Tài bằng cách đưa ra đầy đủ học hàm, học vị, chức vụ của đối tác, kèm thêm cả cái tên tây Philippe của ông.
Nhiệm vụ môi giới được giao cho vợ chồng Lan Chi, mà Trung là người trực tiếp thực hiện.
Đúng như Lan Chi dự kiến, thoạt đầu ông chú của chồng cô tỏ ra không mặn mà với cuộc trao đổi khoa học này. Ông bảo là ngôn ngữ bất đồng, e rằng không nói chuyện với nhau được.
Phải công nhận rằng nỗi lo ngại của Ba Lê Dị Nhân là hoàn toàn có cơ sở. Ai cũng biết rằng tiếng Việt Hà Nội với tiếng Việt Sài Gòn vốn đã có nhiều chỗ khác nhau, đằng này lại là tiếng Việt Hà Nội nguyên chất từ trong nước, và tiếng Việt Sài Gòn đã phôi pha nhiều năm ở Paris, thì sự khác nhau có thể còn hơn cả tiếng Việt và tiếng Pháp.
Nhưng Trung không phải là người dễ đầu hàng. Một trong những ưu điểm lớn của anh là rất kính nể vợ, nên nhiệm vụ vợ giao anh quyết thực hiện cho bằng được, chứ không có chuyện nửa chừng thoái lui. Anh ra sức thuyết phục ông chú bằng nhiều lý lẽ, đặc biệt là cứ nhằm vào tình yêu khoa học của ông mà kích động.
Có cái may là người Việt mình, tuy có thể không nhìn mặt nhau vì đối lập chính kiến, cãi nhau chí chóe vì dị biệt địa phương, nhưng vẫn mang trong người rất nhiều điểm chung chứng tỏ ngày xưa chui ra từ cùng một bọc. Một trong những điểm chung ấy chính là tình yêu thiêng liêng đến mức sùng kính đối với khoa học (cụ thể trong trường hợp này là đối với các danh vị khoa học, đặc biệt là danh vị ngoại). Bị Trung lôi cái tình yêu ấy ra để kích động, bằng cách trưng bày toàn danh vị có nguồn gốc châu Âu, kêu vang như tiếng kèn đồng, của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài, cuối cùng Ba Lê Dị Nhân đã phải xiêu lòng, nhượng bộ. Ông đồng ý tiến hành cuộc trao đổi khoa học này.
Cuộc gặp gỡ như vậy về nguyên tắc đã có thể tiến hành, nhưng cụ thể thế nào thì còn phải để Ba Lê Dị Nhân xem lại lịch làm việc cái đã. Vì rằng lịch làm việc của ông bao giờ cũng xếp đặt trước cả tháng rất khít khao. Những người thường gặp ông luẩn quẩn ở nhà hàng của vợ ông mà tưởng rằng ông rỗi rãi là hết sức nhầm. Phải đọc báo tiếng Việt hải ngoại thì mới biết là hoạt động khoa học của ông cực kỳ bận rộn : lúc thì đi điều trần ở viện khoa học uy tín nọ, khi lại đi thỉnh giảng ở trường đại học danh tiếng kia...
Cái sự xem lại lịch của ông chú làm Lan Chi hơi lo, vì thời gian còn lại trước chuyến bay của Tài không còn nhiều, nhỡ trong thời gian đó ông chú lại phải đi thỉnh giảng ở đâu thì phiền quá. Nhưng đúng là vì số Tài bao giờ cũng đỏ, cho nên cuối cùng Ba Lê Dị Nhân cũng tìm được một ngày còn trống trong lịch làm việc của ông. Ông ấn định cuộc gặp gỡ vào ngày hai mươi hai tháng đó, vào lúc bốn giờ chiều.



Cuộc gặp gỡ của đại diện giới kinh tế học hai nước Việt -Pháp mới đầu dự định tổ chức trong phòng giám đốc của viện Y, nhưng đến phút cuối cùng, Ba Lê Dị Nhân cho biết phòng làm việc của ông tạm thời không sử dụng được, vì có một vài công việc thay đổi về trang trí nội thất đang tiến hành dở dang. Ông đề nghị chuyển địa điểm gặp gỡ sang nhà hàng của vợ ông cho ấm cúng.
Vì theo như thỏa thuận thì cuộc gặp gỡ này mới chỉ có tính chất làm quen, giới thiệu, đặt nền móng..., cho nên nó diễn ra khá là ngắn ngủi. Nó được bắt đầu bằng sự kiện then chốt là hai bên trao cho nhau những chứng cớ khoa học của mình, tức là hai tấm danh thiếp, nội dung dài xấp xỉ nhau, về độ lấp lánh thì tài liệu Hà Nội xem ra có phần trội hơn tài liệu Paris một chút. Sau khi bên này đã khảo sát kỹ càng tài liệu của bên kia, sự tin cậy có vẻ đã được thiết lập. Hai bên bèn chuyển sang bàn đến những vấn đề cụ thể hơn của việc hợp tác khoa học Pháp - Việt trong tương lai.
Kết quả của sự hợp tác khoa học này như thế nào thì phải đợi tương lai lâu dài mới biết rõ được, vì làm khoa học là một quá trình gian khổ, không phải ngày một ngày hai là xong. Tuy vậy, trong tương lai không xa lắm, tức là chỉ khoảng một tháng sau, cuộc gặp gỡ này cũng đã đem lại cho đời được hai kết quả cụ thể là hai bài báo. Bài thứ nhất đăng trên một tờ báo đứng đắn ở trong nước, thuật lại những hoạt động khoa học của giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài ở Paris, mà đáng chú ý nhất là việc xây dựng một đề án hợp tác khoa học với giới kinh tế học Pháp, đại diện là giáo sư tiến sĩ giám đốc Philippe Phan Cừ. Bài thứ hai đăng trên một tờ báo tiếng Việt hải ngoại, cũng đứng đắn không kém, trong đó tác giả (chính là Ba Lê Dị Nhân) cho biết rằng vừa rồi, trên cương vị giám đốc của mình, ông đã giúp cho ngành kinh tế học Việt Nam (thông qua một giáo sư viện sĩ) một số phương hướng nghiên cứu mới, ngõ hầu đưa kinh tế học Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu so với thế giới.
Trước mắt thì cuộc gặp gỡ này có một kết quả rõ ràng là giáo sư viện sĩ Trần Sỹ Tài khá thỏa mãn, Thanh Hoa cũng nhẹ cả người, và ở Hà Nội không có ai phải áy náy cả. Công việc đến đây hẳn đã là xong.



Buổi sáng ngày hai mươi ba tháng ba, Lan Chi đang ngồi ở hiệu sách thì một hồi chuông điện thoại vang lên. Cô nhấc ống nghe. Một giọng đàn ông nói bằng tiếng Việt xin được gặp cô.
- Vâng, tôi đây, - Lan Chi trả lời.
- Hê hê hê hê...- lập tức, một tràng cười vang dội lên ở đầu máy bên kia. - Lan Chi đấy hả, Sỹ Tài đây, có nhận ra anh không em ?
Bao nhiêu năm rồi mà nghe cái tiếng cười khả ố ấy Lan Chi vẫn thấy gai cả người. "Lại vẫn xoen xoét anh em như là thân thiết lắm", cô nghĩ thầm rồi nói :
- Vâng, chào anh Tài, nghe Thanh Hoa bảo anh đang ở Paris phải không ?
Tài gọi điện để cảm ơn về việc vợ chồng Lan Chi đã giúp anh. Mồm miệng vẫn dẻo như xưa, anh kể tràng giang đại hải về những ấn tượng của anh khi đến Paris, rồi về cuộc sống và công việc của anh ở Hà Nội ("Sống trong nước bây giờ sướng lắm rồi, Lan Chi ạ. Gì cũng có, mà rẻ hơn ở Pháp nhiều !"). Tiếp đó, Tài nhắc đến những bạn bè thuở Matxcơva hiện sống ở Hà Nội, ai cũng ăn nên làm ra. Vẻ hết sức tình cờ, Tài kể chuyện trước hôm đi sang đây anh có gặp Kiên.
- Kiên bây giờ làm ăn rất phát đạt, xây nhà ba tầng, có một con trai rồi, vợ trẻ và xinh lắm, chắc Lan Chi cũng biết ?
- Vâng, cũng có nghe nói thế, - Lan Chi trả lời, cố giữ giọng thật bình thản.
- Anh có bảo Kiên nếu muốn gửi thư hay quà gì cho Lan Chi thì anh cầm sang cho, nhưng không thấy nó đến gửi gì cả. À, mà đến giữa tháng bảy này thì Kiên đi công tác sang Berlin hai tuần đấy. - Tài nói, rồi sau một lúc im lặng tế nhị đủ để cho cái tin ấy có thời giờ tác động đến Lan Chi, anh nói tiếp, vẫn với một vẻ hết sức tình cờ :
- Thấy Thanh Hoa bảo cậu em của Lan Chi ở Đức đang mời Lan Chi sang đó chơi. Hè này Lan Chi có định sang Đức chơi với cậu em không đấy ?
"Sang hay không thì việc gì đến ông mà hỏi", Lan Chi bực bội nghĩ rồi xẵng giọng trả lời :
- Chưa định gì hết cả. Để xem tình hình thế nào cái đã.
 
Thế thôi, post 2 chương cho đúng lệ làng, để người khác có cơ hội phát biểu ý kiến và post tiếp :D. Truyện hay, truyện hay. Chương vừa rồi có vẻ hơi phóng đại quá 1 tí, nhưng chắc là có nhiều chuyện như thế thật :(. Giờ mà thấy tiến sĩ ở Nga về mà lên báo nhiều thì phải cẩn thận mới được :)).
 
Lê Minh Hải đã viết:
Em xin lỗi chị Mai trước nếu bài này cản trở việc "tìm lại cảm xúc" của chị khi chị post truyện này :p. Nói thật là em thích đọc truyện và cảm xúc của mọi người ở đây luôn cơ. Nhưng mà đang đọc say mê mà bị cắt ngang khó chịu quá, cộng với thói quen dân CNTT là cái gì cũng phải làm 1 "quả google" thành ra tìm được cái link này share cho mọi người. Cái chính là để mọi người khỏi mất công type mỏi tay, nhưng sợ có người thích type để "đắm mình trong câu chuyện" nên phải xin lỗi trước. Thanks for sharing this short novel =D>

Thôi thế là xong! Đang hăm hở vào đây định post. Ở đây ai thích lên google search mà chẳng ra đc hả em, cái chính là tạo đc cảm xúc cho người đọc bằng những phút giây chờ đợi hồi hộp câu chuyện sẽ tiếp diễn thế nào thôi. By the way, tự nhiên mất hứng :(
 
Mà các thế hệ đi trước cho em hỏi phát. Học đhọc 5 năm ở Nga thì bình thường rồi, nhưng sau đó lại chỉ cần 3 năm là có luôn bằng phó tiến sĩ (bây giờ là tiến sĩ) à? Ko cần phải thạc sĩ (master) gì sao?

Thời trước hệ thống học vấn của Nga là 1 hệ thống riêng, học được cái bằng ĐH ở Nga mất 5 năm, muốn làm PTS (kandidat nauk) mất 3 năm nữa. Đến khi hệ thống học vấn ở Nga "hòa nhập" chung với hệ thống của các nước khác thì học xong 5 năm ĐH được cấp bằng Master (năm bọn chị là năm đầu tiên nhận bằng Master sau khi tốt nghiệp ĐH) và PTS ở Nga tương đương với PhD.

Đọc chuyện này đúng ra đọc nhâm nhi từng chút một thì cảm nhận được cái thời gian, không gian của nó hay hơn, nhất là khi nó gợi lại cho mình những kỉ niệm của một thời xa vắng. :) Em Mai thông cảm cho em Hải Anh, em nó đang còn ở giai đoạn nông nổi của tình đầu nên chỉ mong được nhìn thấy cái kết cục sớm sớm, chứ những người già cả như chị mình thì lại muốn đi gom nhặt lại từng kỉ niệm để rồi lại cố lãng quên đi. Em post tiếp lên đi chứ!
 
Hic, đã xin lỗi trước rồi mà. Thật ra em nghĩ những truyện hay thì phải đọc đi đọc lại, tùy mỗi người cảm nhận được bao nhiêu nữa. Chị Mai đã đọc rồi nên muốn post từ từ lại, trong khi những người khác như em thì lại muốn đọc hết 1 lượt rồi từ từ mới ngâm lại (cũng có khi chỉ mình em có cái kiểu đọc sách khác người thế) nên mới có ý giúp đỡ những ai ko biết thôi mà. Với lại em cũng đã post hết đâu, mới được có nửa truyện, chị cứ post tiếp đi chứ.

P.S.: Cám ơn chị Giao đã trả lời câu hỏi. Mà chị nói thế nào ấy chứ chị Mai hơn em có vài tuổi, già là già thế nào? Ngay cả chị Giao mà em còn thấy trẻ chán thì chị Mai càng ko thể già được :D. Hơn nữa cái câu: "Nông nổi của tình đầu" nghe hay ghê, mặc dù ko đúng lắm. Nhưng cũng sẽ ko cãi, cãi quá mấy bà chị lại bảo là: "Nông nổi nên gân cổ mà cãi" :p
 
Em Hải :D, kô có gì đâu, tại sáng nay chị đang hăm hở định vào post nhìn thấy quả link của em như 1 phát nước lạnh vào mặt :D anyway khô rồi :D. Ở đây làm gì có ai phải type mà mệt, cái chính là muốn phục vụ bà con theo đúng kiểu văn hóa sách báo là phải có chương hồi đàng hoàng và chia kỳ ra đọc cho nó thấp thỏm hồi hộp nên mới cố tình làm thế này, và cũng là để mọi người có cơ hội thảo luận. Chứ ngay từ đầu post bụp quả link lên nhìn thấy 1 đống chữ thế chắc gì đã có ai muốn đọc. Anyway link thì đã post rồi, ai thích đọc thì đọc trên link cũng đc (trừ phi em Hải xóa đi :D), còn ở đây mong mọi người (Dương iu quí, em Linh, em Hải và bất kỳ ai khác) post cùng để hoàn thiện tác phẩm vậy, chẳng lẽ lại để dở dang.

Anyway, chị thì cũng kô dám nói là quá trẻ để "nông nổi" :D (chỉ trẻ hơn chị Giao chút thôi :D), nhưng cũng chưa quá già để có thể quên hết những vui buồn đã trải qua. Thế nên mới lấy câu truyện này làm cái để chia sẻ cùng mọi người. Nó gợi lại nhiều kỷ niệm thời đi học xa nhà (và bây giờ vẫn đang xa nhà :( ), thấy có nhiều đoạn giống với chuyện của chị (hóa ra trên đời này vẫn có nhiều người giống mình nhỉ :D). Nhưng đến cuối truyện dù buồn nhưng vẫn tự an ủi là mình sẽ kô phải rơi vào hoàn cảnh của cô L.C trong truyện vì ít ra là kô phải đi bán sách :)) mà vẫn có được công việc ổn định :)
 
Chương 7
(Phần 1)

“Anh ch
ưa định gì hết c. Để xem tình hình thế nào cái đã.”

K.
đã trli tôi như vy trong cuc nói chuyn đin thoi ln thhai ca chúng tôi sau ngày tôi vHà Ni, khi tôi nhc li câu hi muôn thuca mình : “Anh định bao githì về nước ?”

L
n nói chuyn đầu tiên, lúc tôi mi về được mt tun, K. vn còn bo anh scvsau mt, hai tháng na. Mt tháng trôi qua, bây gi, đến cmt cái thi hn anh cũng không thể xác định ni. Ging anh đầy vmt mi và thiếu tin tưởng đến ni tôi không dám gng hi gì thêm. Mà có hi na thì cũng vô ích. K. vn tránh nói vchuyn làm ăn ca mình như thường l. Chnói đi nói li là anh rt nhtôi. Ri anh hi tôi đã quen được vi cuc sng trong nước chưa, đã nghĩ đến chuyn thử đi xin vic làm chưa ?

R
i máy đin thoi, tôi ngi lng hi lâu, nước mt chchc trào ra. Tôi đã hy vng biết bao nhiêu vào cú đin thoi này. Tôi cứ đinh ninh rng K. gi đin để báo cho tôi biết ngày gianh vnước. Thế mà giờ đây thm chí anh không còn dám ha hn bt cứ điu gì. Tình hình ngày càng xu hơn, hay trước kia nó đã xu như vy ri, mà K. cha ba để gitôi li ? Mt linh cm đen ti p đến bóp nght tim tôi. Ln đầu tiên ktngày cm trên tay tấm vé máy bay vHà Ni, tôi thi liu quyết định vnước ca mình lúc đó có vi vàng quá không ?

Dù th
ế nào đi na thì bây gicũng không thnghĩ đến chuyn trli Matxcơva được. Chỉ còn cách duy nht là n định dn cuc sng Hà Ni trong lúc chờ đợi K. v. Mt tháng sau ngày vnước, tôi bt đầu tính chuyn đi xin vic. Lúc mi v, nhiu người xui tôi là cnghngơi vài tháng cho bõ tám năm đèn sách nhc nhn, chlàm vic thì còn làm cả đời, đi đâu mà vi. Nhưng chnghỉ được hai ba tun, đi thăm hhàng bn bè mt lượt xong, tôi đã bt đầu cm thy bun chán. Na năm ngi đợi K. Matxcơva đã làm tôi ngấy đến tn ccuc sng ăn không ngi ri. Thêm na, nhìn bn bè nhiu người vnước trước tôi cnăm mà givn clông bông chưa có vic làm, tôi đâm ra st rut, nghĩ mình cn phải nhanh chân, chkhông li rơi vào cnh trâu chm ung nước đục.

Tôi b
t đầu bng vic đi tìm hiu tình hình, lên mt danh sách các cơ quan cn đến những ngành nghgn gũi vi chuyên môn ca tôi. Sơ bban đầu, có khong hơn mt chc cơ quan như vy đóng trên địa bàn Hà Ni hoc các vùng lân cn. Tôi đánh stheo thtự ưu tiên, đứng đầu là nhng cơ quan mà tôi thích nht, đến cui bng thì là nhng nơi không tht phù hp vi ngành hc ca tôi, nhưng nếu không kiếm được chkhác thì làm vic ở đó cũng tm được.

Tuy
đã đi hc nước ngoài tám năm, tôi vn có đủ kiến thc thc tế để hiu rng nếu tự dưng li tò tò vác mt đến xin vic mt cơ quan không có quan hquen biết gì, thì chắc chn người ta snhìn mình như nhìn người thành tinh khác rơi xung. Vì vy, bước tiếp theo ca tôi là mcuc điu tra trong tt cbà con hhàng xa gn ln bn bè người quen thân sơ, xem có người nào dính dáng dây mơ rmá gì đến nhng cơ quan mà tôi đang nhòm ngó không.

Th
t là mt công vic mò kim đáy b. Hai bcon tôi ngi bàn bc sut cbui ti mà không tìm ra được mt ai có thgiúp tôi xin vic. Chnhà tôi xưa nay chng có ai hc ngành tâm lý bao gi. Btôi là ksư, làm vic mt Vin khoa hc kthut. Mtôi khi còn sng cũng là ksư, làm vic mt nhà máy.Tóm li là phm vi quan hca bmtôi hoàn toàn không có liên quan gì đến lĩnh vc ngành nghca tôi.

Tình hình kh
quan hn lên khi bcon tôi đi tham kho ý kiến hhàng. Chú tôi cho biết rng mt bà làm vic cùng phòng vi chú có ông chng vn là vin phó ca vin B (cơ quan đứng thhai trong danh sách ca tôi), nay đã vhưu. Cô tôi thì nhra được rng mca anh bn rt thân ca cu em htôi (tc là con trai đầu ca cô tôi) là ging viên đại hc, dy chính khoa C (đứng thba trong danh sách ca tôi). Bà bác rut (chrut ca mtôi) li cung cấp thêm rng cô em chng ca bác có ông chng làm vic cơ quan E (đứng thnăm trong danh sách ), ông này va mi vhưu cách đây có vài tháng.

V
y là trước mt tôi đã có con đường tiếp cn đến ba cơ quan. Tôi đành tbmơ ước về Vin A, cơ quan mà tôi xếp smt trong danh sách, vì không tìm được người quen nào ở đó. Bù li, tôi có thtcoi mình là người tt s, nếu xin được vào làm vic mt trong ba cơ quan B, C và E.

Sau khi
được ông chú, bà cô và bà bác dn đi thăm hi, trình din (và quà cáp) ba nơi cần thiết, tôi đã có trong tay hai lá thư gii thiu, li lrt nhit tình, làm vũ khí phòng thân để đến Vin B và cơ quan E. Riêng cô Châu, mca anh bn cu em htôi thì li còn nhit tình hơn mt bc : cô hn ngày đích thân dt tôi đến trường để yết kiến ông trưởng khoa C. Vin B là nơi mà tôi chn để mmàn chiến dch đi xin vic ca mình.

Ch
ng cn hc tâm lý cũng phi biết rng n tượng đầu tiên là hết sc quan trng. Vì vy, bui sáng hôm y, tôi mt hơn na tiếng đồng hồ để la áo chn qun. Tiêu chun là trang nhã mà không già, tươi trmà không lòe lot, din nhưng không được phô trương quá làm cho người ta ghét, gin dnhưng không được nhếch nhác để người ta có thcoi thường...

Toàn b
kho qun áo ca tôi đem Nga vbbi tung ra nhưng tôi không thtìm được cái gì khdĩ đáp ng được nhng yêu cu trên. Cui cùng tôi đành phi cn răng khoác vào người mình mt b, nhthm rng nếu mình biết cách thì la sẽ đẹp vì người.

Ti
ếp đó, mc trang đim mà mi khi tôi chmt có mười phút là xong, ln này cũng ngốn ca tôi mt đứt hơn na tiếng. Sau ba ln bôi vmt xanh mỏ đỏ ri xóa đi làm li từ đầu (lúc thì đậm quá, lúc thì nht quá), tôi đành phi dng li ln thtư, không phi do đã chn được gam màu thích hp, mà vì snếu còn tiếp tc thì chc là đến chính ngmi có thxut hành .

H
t hi nhét cái thư quý vào túi ri dt xe ra ngoài ca, chun blên xe mi tôi sc nhra rng mình để quên tp hsơ ở nhà, li phi quay vào ly. Lúc đi ra vi vã, tí na thì tôi đâm sm phi cô bé hàng xóm đang lmxách hai tay hai xô nước. Cô hàng xóm cười hi thay câu chào : “ChL.C. đi đâu mà din thế ?” Tôi cười đáp li ri lao vt đi, vn tính vô thn nên chng nghĩ ngi gì, nhưng đến ti vngán ngm nhli mi thy rng cái câu “ra ngõ gặp gái” ca ông bà mình có khi li đúng. Rõ ràng ngày lành, tháng tt, thi tiết đẹp, thế đi chng được vic gì.

Đế
n vin B, cm lăm lăm lá thư ca ông cu vin phó trong tay, tôi vào xin gp ông viện trưởng.

- Cô tìm bác vi
n trưởng có vic gì ? , - mt bà quãng ngoài năm chc tui, mt khó đăm đăm, ngi mt cái phòng mà tôi đoán là phòng thường trc, hi.

- D
, cháu có mt cái thư ca bác Bình gi cho bác vin trưởng , - tôi va nói va đưa cái thư quý cho bà này xem.

Bà ta l
ơ đãng liếc qua phong bì ri li hi :

- Bình nào nh
?

- D
, bác Bình trước là vin phó ở đây, - tôi trli.

- À à..., - ng
ười đối thoi ca tôi gt gù đáp li mt cách khó hiu như vy ri cúi xung tờ báo đang đọc d.

Tôi
đứng đần ra mt lúc, hy vng bà ta sngng lên nói tiếp, nhưng đợi mãi không thấy động tĩnh gì, tôi đành phi đánh bo hi tiếp :

- Th
ưa bác, cháu có thvào gp bác vin trưởng bây gikhông ?

- Cô c
ứ để thư li đây ri tôi chuyn cho, - người đối thoi ca tôi nói, không bun ngẩng đầu lên.

- Nh
ưng cháu có vic cn phi nói trc tiếp vi bác vin trưởng cơ ạ.

- Bác vi
n trưởng đang bn hp, chng biết sáng nay có xong không. Không xong buổi sáng thì chiu còn hp tiếp. Cô mun đợi thì ra ngi trước cái ca phòng cui hành lang kia mà đợi.

- Th
ế cháu có thgp bác vin trưởng mt hôm khác được không , mt hôm nào đó không có hp ? - nghĩ đến chuyn chờ đợi vô vng, tôi hơi nn, định ly hn trước cho một ngày khác.

- Tôi không bi
ết, cô tìm bác y mà hi. Nói chung thì ngày nào bác y cũng bn, không hp chnày thì hp chkia.

Không còn cách nào khác, ph
i đợi thôi. Tôi ra trước ca căn phòng cui hành lang, nhớ li dn “ngi đợi” nên bèn nhìn quanh qut tìm mt cái ghế để ngi. Hành lang trng trơn, không có bt cmt vt gì có thlàm chc năng ca ghế. Chc bà kia có ý nói ngi bt, ngồi xm hay ngi lên thành ca schăng ? Tôi không dám chn kiu nào trong ba kiu ngi nói trên, cho nên đành da lưng vào tường đứng đợi.

M
t tiếng đồng htrôi qua, chân tôi bt đầu tê cng. Tôi bèn đi đi li li trong hành lang, không dám xa cái ca phòng kia quá năm mét, mt vn dán cht vào đó. Thnh thong li có người đi qua hành lang, nhìn tôi tò mò, nhưng không hi gì, tôi cũng thy chcó vic gì phải hi, cho nên chtp trung toàn bsc lc vào vic bám sát mc tiêu.

Hai ti
ếng đồng htrôi qua, đã gn mười hai gitrưa, tôi bt đầu thoái chí thì cánh cửa phòng đột nhiên bt m. Mt tp chng bn năm người đi ra. Tôi lao đến, hi ngay ông đi đầu : “Chú làm ơn cho cháu hi bác vin trưởng có ở đây không ?” Ông này nhìn tôi tm tm cười, lúc đó tôi mi nhn ra rng “chú” chquãng ngoài ba mươi, hơn tôi dăm tui là căng.

“Bác vi
n trưởng đang trong phòng đấy”, “chú” chtay vào phòng nói rt nhã nhn.

Qua cánh c
a hé m, tôi nhìn thy ông vin trưởng ngi trm ngâm trước mt chng tài liu, có vẻ đang suy nghĩ rt mông lung. Tôi ý tgõ nhvào cánh ca hai tiếng. Đợi mt lát, chng thy động tĩnh gì, tôi bèn gõ tiếp hai cái na, mnh hơn ln trước. Ông vin trưởng vẫn ngi trm tư, mt tiếp tc nhìn vào cõi hư vô. Để kéo ông trli vi thc tế, tôi đánh liu gõ ba tiếng “cc cc cc” tht to. Qulà hiu nghim, vin trưởng git ny mình, quay nhìn ra ca ri nghiêm khc hi :

- Có chuy
n gì thế ?

H
t hong trước snghiêm khc ca vin trưởng, tôi lung cung nói líu clưỡi :

- D
, thưa bác, cháu... cháu có vic...

- Vi
c gì ? - vin trưởng ct ngang.

- D
, cháu có vic xin được gp bác .

- Cô
phòng ông Liêm phi không ? Đã xin ý kiến trưởng phòng chưa ?

- D
, không , cháu không phòng nào c, - tôi hoang mang nói.

- Không
phòng nào thì đến đây có vic gì ? – ông vin trưởng bt đầu có vkhó chu.

- D, cháu có mt cái thư ca bác Bình gi bác, nói rõ chuyn này, - va nói, tôi va đưa bc thư ra.

- Bình nào ? - ông vi
n trưởng hi, không bun nhìn vào phong bì.

- D
, bác Bình trước là vin phó ở đây.

- À à..., - l
i mt chui “à à” bí him ht như cái bà phòng thường trc, ri ông viện trưởng cm phong bì, ly thư ra đọc.

Tôi nín th
, hi hp theo rõi tng nét mt, cchca ông.

Đọ
c được mt chút, vin trưởng có vst rut, ông gp thư li ri ngng lên bo tôi :

- Tóm l
i là cô mun vlàm vic ở đây phi không ?

- D
, vâng , - tôi đáp.

- Thôi, th
ế này nhé, để tôi dn cô ra gp cu Công, phtrách vtchc cán bộ ở đây, chuyn này phi làm vic trc tiếp vi cu y mi được. Cm ccái thư này đưa cho cu ấy xem, - ông vin trưởng va nói va đứng lên, đưa cái thư li cho tôi và đi ra ca, ra hiu cho tôi đi theo.

Tôi c
m ly cái thư bo bi ca mình và lo đẽo theo đuôi ông vin trưởng. Đi được một đon trong hành lang thì thy mt người đàn ông bước tmt căn phòng ra, khép ca li rồi bước đi. Ông ta không nhìn thy chúng tôi. Ông vin trưởng gi :

- Này, Công !

- D
, anh gi em ? - người đàn ông quay li, cười rt nhũn nhn.

- Có cô này mu
n xin vlàm vic ở đây. Cu xem tình hình thế nào thì nói cho cô y biết.

Có th
tc gì cn làm thì hướng dn người ta, - ông vin trưởng nói, ri va định quay đi thì ông sc nh, bèn nói tiếp :

- Cô
y có cái thư gii thiu, cu đọc kxem trong thư nói gì.

- D
, vâng, em sgii quyết ngay chuyn này, - ông Công nói, vn vi ncười nhũn nhặn trên môi. Ri ông ta quay sang tôi, bo :

- Bây gi
hết gilàm vic bui sáng ri. Cô vnhà nghngơi ri đầu gibui chiu quay li đây, ta nói chuyn.

(Còn Tiếp)

 
Kiểu như chị Giao mà viết tự truyện có khi còn ly lì hơn thế này ấy chứ :D, dù gì thì cũng lênh đênh một kiếp thuyền không bến, ta thả hồn trôi ở nước Nga ngần ấy năm còn gì
 
Đúng là ko sắc sảo nhưng mang lại cảm giác thật ko uốn nắn sửa chữa gì nhỉ. mấy bác pốt truyện này ác như tê giác! Đêm qua em đang ngồi đọc thì mất điện, đi ngủ. Sáng đi làm quyết tập trung chuyên môn cho hết truyện, ăn cắp tị $ và thời gian của tư bản :mrgreen: (việc dồn đến chiều -> về muộn nhà lắc :(( )

Chả biết thế nào nhưng chia truyện này thành 2 mảng: số phận lênh đênh của du học sinh (1) và chuyện tình cảm của chúng (2)

(1): sợ nhỉ, chắc ai cũng thấy 1 chút mình trong đó, chẳng biết đâu mà lần :) ... :( ... :)

(2): nhớ đâu đó có câu 'ngồi ngẫm lại cái quá khứ buồn vui, tan hợp, tôi chỉ muốn nói với những người mê đắm trong cuộc sống phù hoa rằng: "Hãy quý trọng tất cả những cái đã có, nhưng hạnh phúc của hiện tại lại chứa ẩn trong những cái bình thường, tình yêu chân thật như vàng ròng giấu kín trong lớp cuội cát...'. Với những ngày xưa đã có thì sẽ mãi ở 1 góc nào đó trong tim, hãy biết trân trọng nó nhưng phải có điểm dừng cho nó đúng nghĩa là những kì niệm ngọt ngào...

Các cụ giỏi văn ở đây mà thể hiện thì cũng ối tác phẩm ngang ngửa ấy chứ anh Tuấn :D.


Cẩm Hà,
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Cứ tưởng là không ai theo dõi nữa. Thôi post nốt cho nó đầy đủ vậy.

Đúng hai giờ chiều, tôi có mặt ở trước cửa phòng ông Công. Cửa đóng im ỉm. Tôi thử gõ nhẹ hai tiếng, rồi lại ba tiếng tiếp theo mạnh hơn. Không có ai trả lời. Tôi bèn kiên tâm đứng đợi.
Lần đợi này may mắn hơn buổi sáng. Quãng hai giờ rưỡi, khi chân tôi mới bắt đầu mỏi chứ chưa kịp tê cứng, thì ông Công xuất hiện.
- À, cô đến rồi đấy à, vào đây, - ông Công vừa nói, vừa mở cửa phòng bước vào.
Tôi vào theo, đang lựa lời để nói thì cán bộ tổ chức đã nhanh nhẹn bảo :

- Thư giới thiệu của cô đâu, đưa tôi xem nào. Tôi vội vã đưa ngay bảo bối. Ông Công vừa cầm phong bì vừa hỏi :
- Ai viết cho cô thư này ?
- Dạ, bác Bình, trước là viện phó ở đây ạ, - rút kinh nghiệm hai lần trước, tôi khai tuồn tuột ra ngay để tránh câu hỏi “Bình nào ?”
- À, à..., - cán bộ tổ chức gật gù. Rồi ông gập luôn cái thư vừa mới lấy ra chưa kịp xem, nhét lại vào phong bì và lắc đầu bảo :
- Ông Bình về hưu lâu rồi, thành ra quên hết cả nguyên tắc làm việc. Lẽ ra ông ấy phải giới thiệu cô lên Bộ, Bộ có giới thiệu xuống thì chúng tôi mới nghiên cứu xem có phù hợp với Viện không, có thể nhận được không. Nói thật với cô, hiện giờ chúng tôi cũng không có biên chế đâu. Biên chế là ở trên Bộ dội xuống, mà muốn làm hợp đồng để đợi biên chế thì cũng phải do Bộ quyết định mới được. Tóm lại là cô phải lên Bộ cái đã. Lấy được cái giấy giới thiệu của Bộ xuống đây, thì chúng tôi sẽ nhận hồ sơ của cô và xem xét.
Rồi ông Công đưa trả lại tôi lá thư. Tôi chẳng còn biết nói gì nữa, đành chào một câu và lủi thủi đi ra.
Mấy ngày sau, tôi đi lên Bộ, đương nhiên là phải được trang bị bằng một lá thư giới thiệu, cũng của bác Bình. Chú tôi đã lóc cóc đến nhà bác nói khó thêm lần nữa. Nể đồng nghiệp của vợ lắm, bác Bình mới viết thêm cho một lá thư, dài chỉ bằng nửa thư trước, độ nhiệt tình cũng giảm đi một nửa. Nhưng tôi đã có kinh nghiệm là nội dung dài ngắn ra sao không quan trọng, người ta đâu có thời giờ đọc hết lá thư. Cái chính là có tên người nhận ở ngoài phong bì, để tôi còn có chỗ mà bấu víu.
Người mà bác Bình có nhã ý gửi gắm tôi trên Bộ là một bà trông tuổi chắc cũng sắp về hưu đến nơi. Tôi phải mất thời gian giải thích khá dài dòng bà mới hiểu bác Bình của tôi là ai. Có điều đáng mừng là sau khi hiểu ra, bà bèn mở thư ra đọc rất chăm chú. Đáng mừng hơn nữa là đọc xong bà còn đăm chiêu suy nghĩ một lúc (chứng tỏ có sự quan tâm !). Rồi bà hỏi tôi :
- Hồ sơ của cô chuyển lên Bộ lâu chưa ?
Tôi vội rút ngay tập hồ sơ của mình ra và nói :
- Cháu chưa nộp hồ sơ. Cháu nộp ngay bây giờ có được không ạ ?
Bà bạn bác Bình xua tay, có vẻ ngán ngẩm vì sự thiếu hiểu biết của tôi :
- Không, là tôi nói hồ sơ do Viện chuyển lên ấy chứ, cái quan trọng là phải có ý kiến của Viện.
- Ở Viện người ta bảo cháu là phải có Bộ giới thiệu xuống thì người ta mới nhận hồ sơ.
- Ai bảo cô mà linh tinh thế ? Viện có chuyển hồ sơ lên thì Bộ mới căn cứ vào đó mà xem xét được chứ.
- Vậy bác có thế cấp cho cháu một cái giấy giới thiệu xuống Viện, để cháu được nộp hồ sơ ở Viện không ạ ?- tôi năn nỉ.
- Không có nguyên tắc làm việc nào như thế cả, - bạn bác Bình trả lời. – Làm thế rồi người ta lại bảo là trên áp đặt dưới. Cô cứ về nộp hồ sơ ở Viện đi. Khi nào Viện chuyển lên Bộ thì tôi sẽ cố giúp cô ở trên này. Nhưng đầu tiên phải ở cấp Viện cái đã. - Rồi bà đổi giọng rất thân mật : - Bảo bác Bình viết cho cái thư đến Viện. Bác ấy vốn là người của Viện, dễ quá còn gì.
- Bác Bình đã viết thư cho cháu đến Viện rồi, nhưng người ta bảo phải có Bộ giới thiệu mới được, - nhớ đến ông Công, tôi cố lèo nhèo.
Nhưng bà bạn bác Bình tỏ ra không muốn tiếp tục câu chuyện nữa. “Bao giờ hồ sơ của cô chuyển từ Viện lên đây thì báo cho tôi biết”, bà nói rồi đứng dậy đích thân đưa tôi ra khỏi phòng.
Hôm sau, tôi nhẫn nhục vác mặt đến viện B lần nữa để trình bày với ông Công ý kiến của “Bộ”. “ Bộ nào bảo cô mà linh tinh thế, - ông Công nói. – Nguyên tắc làm việc xưa nay vẫn thể, Viện cứ thế mà làm. Bộ muốn thay đổi thì gửi công văn xuống đây. Trong khi chưa có gì thay đổi, thì cứ phải có giấy giới thiệu của Bộ chúng tôi mới nhận hồ sơ của cô được.” Vẻ mặt và giọng điệu của ông Công đanh thép đến nỗi tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu cái Bộ của ông và Bộ của bà bạn bác Bình có phải là một không nữa.
Biết là có lên Bộ lần nữa cũng chẳng ích gì, tôi bèn ngậm ngùi gạch viện B ra khỏi danh sách của mình. Cũng không buồn lắm, vì tôi vẫn còn hai niềm hy vọng nữa. Ở khoa C và cơ quan E, tình hình có vẻ tươi sáng hơn hẳn.



Ông trưởng khoa C là một người vui tính và gần gũi quần chúng. Khi cô Châu dẫn tôi đến yết kiến ông, đang đi lên cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng cười sảng khoái từ tầng trên vọng xuống. “Ông ấy đã ở trên khoa rồi đấy”, cô Châu vui vẻ bảo. Đi gần đến cánh cửa phòng có biển đề “Ban Chủ nhiệm khoa C” thì lại được nghe thêm một tràng cười nữa, rộn rã hơn, hào hùng hơn, không đơn lẻ như lần trước mà được nhiều chất giọng khác nhau cùng hòa nhịp. Trong phòng chủ nhiệm khoa như vậy là đang có nhiều người. Tôi ngần ngại bước chậm lại. Cô Châu bảo : “Vào đi, đừng sợ”. Rồi chẳng gõ cửa gì hết, cô đẩy cửa bước vào luôn. Tôi líu ríu đi theo cô. Trong phòng có bốn người (vậy mà lúc nghe tiếng cười tôi lại cứ tưởng phải có ít ra là chục giọng), một bà và ba ông. Tôi và cô Châu vào, mọi người quay ra nhìn, vẻ mặt ai cũng như đang cười dở chuyện gì hay lắm. “Xin lỗi, các vị họp ban chủ nhiệm khoa đấy à ?”, cô Châu hỏi. “Xong từ nãy rồi, ngồi nói chuyện thôi”, ông to béo đeo kính vừa cười vừa trả lời. Cô Châu quay lại chỉ tôi (đang đứng rúm ró trong một góc ), bảo : “Đây là L.C. mà hôm trước tôi đã nói qua với anh rồi đấy”. “À, L.C. đấy hả ?”, ông to béo (chính là trưởng khoa) thân mật nói rồi vồn vã đứng lên bắt tay tôi và mời tôi ngồi xuống. Ba người kia ý tứ cáo lui. Cô Châu bảo : “L.C. ngồi nói chuyện với chú Thành nhé, cô có việc đi chỗ này một chút.” Tôi vừa đáp “vâng ạ” thì trưởng khoa đã cười ròn rã và bảo : “Gọi “anh” thôi. Sắp thành đồng nghiệp ở đây rồi, gọi là “chú” nó bất bình đẳng, khó làm việc ra.” Câu đầu của trưởng khoa làm tôi hơi hoảng (vì tôi chưa từng gọi ai quãng ngoài năm chục như ông là anh), nhưng câu sau của ông làm cho tôi sướng râm ran, vì vậy tôi quyết định liều mình gọi ông là “anh” cho đúng lệ làng.
Trưởng khoa và tôi ngồi trò chuyện đến hơn một tiếng đồng hồ. Đúng hơn, người nói chủ yếu là trưởng khoa. Tôi chỉ nghe, trả lời, và đưa đẩy vài câu phụ họa. Hóa ra trước đây ông đã từng làm nghiên cứu sinh ở Matxcơva, ở chính trường mà tôi học. Thành thử, bao nhiêu kỷ niệm tuổi trẻ được dịp tuôn ra. Bao nhiêu người quen chung, từ các giáo sư đến bà giữ thư viện, được dịp nhắc đến. Ôn chuyện cũ chán chê rồi thì trưởng khoa cũng sực nhớ đến mục đích cuộc yết kiến này, ông bèn hỏi tôi về đề tài luận án tốt nghiệp và hướng nghiên cứu của tôi, tóm lại là về các vấn đề chuyên môn. Rồi ông hỏi tôi có mang theo hồ sơ và luận án của tôi không ? Tôi sướng rơn, đưa ngay cho trưởng khoa đủ mọi thứ mà ông yêu cầu. Trưởng khoa bảo sẽ nghiên cứu kỹ những thứ này và hẹn tôi mười ngày nữa thì quay lại để biết trả lời của khoa.
Câu trả lời của trưởng khoa C sau đó mười hôm làm cho tôi mất ngủ ít nhất là một đêm vì sung sướng. Ngành chuyên môn và trình độ của tôi hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của khoa C, khoa sẽ ủng hộ tôi nếu có biên chế, anh trưởng khoa tuyên bố rõ ràng như vậy (đến lần gặp thứ hai này, tôi đã gọi được trưởng khoa bằng “anh” một cách rất trơn tru). Thêm nữa, anh trưởng khoa còn cho biết rằng theo một nguồn tin khá chắc chắn thì Bộ sắp cho trường một vài chỉ tiêu biên chế năm nay, trong đó khoa C nhất định sẽ được một suất. Bây giờ, tôi chỉ còn việc mang hồ sơ lên nộp ở phòng tổ chức của trường, đợi xét duyệt, khi trường hỏi ý kiến thì khoa sẽ trả lời ủng hộ ngay lập tức. Vốn đã có kinh nghiệm về cán bộ tổ chức, tôi bèn xin ngay anh trưởng khoa một cái giấy giới thiệu để lên phòng tổ chức của trường. “Cần gì giấy giới thiệu, - trưởng khoa gạt đi. - Em cứ bảo là anh Thành đồng ý nhận rồi, anh Thành nói em lên nộp hồ sơ ở đây, thế là được.” “Thì anh cứ cho em một cái giấy giới thiệu để đề phòng gặp người khó tính, có mất gì đâu”, tôi nói bằng một giọng thân mật không kém gì trưởng khoa. “Cô này kỹ tính nhỉ, - trưởng khoa cười hề hề bảo. – Thôi được, ngồi đây đợi tí rồi anh viết giấy giới thiệu cho.” Nói rồi, trưởng khoa lục tung các ngăn kéo, lôi ra một quyển vở, xé một mảnh giấy và ngồi hý hoáy viết. Xong, anh đưa cho tôi và hỏi : “Thế này được chưa ?”
Nhìn mảnh giấy xé nham nhở với vài dòng chữ viết tay loằng ngoằng, tôi hơi ngạc nhiên. “Khoa mình không có mẫu giấy giới thiệu in sẵn, không có dấu má gì hả anh ?”, tôi hỏi. “Cô này tây du lâu nên quan liêu quá, - trưởng khoa cười rộ lên. - Lại còn đòi khoa phải có mẫu giấy in sẵn với lại dấu má nữa cơ chứ ! Này, em về năm nay là khoa mình đã hiện đại hóa lên nhiều rồi đấy, chứ năm ngoái thì đến cái điện thoại cũng chẳng có đâu, khoa mới đặt điện thoại được hơn nửa năm nay thôi em ạ.”
Kể ra một cái khoa lớn của một trường đại học lớn nằm ở ngay thủ đô mà lại giản dị thế thì cũng lạ. Nhưng tôi chẳng lấy đó làm điều. Thậm chí tôi còn mong rằng phòng tổ chức của trường cũng xuề xòa, giản dị, dễ gần như thế để mọi việc của tôi trót lọt.
Trái lại với mong đợi của tôi, ở phòng tổ chức của trường không có ai cười cả. Khi tôi bước vào, có ba người ngồi ở trong phòng. Ngồi trong cùng là một ông già mặt mũi nghiêm trang, tiếp đó là một bàn để trống, hai bàn gần cửa ra vào thì có một cô còn khá trẻ và một bà cỡ trung niên. Mặt cô trẻ có vẻ bất cần, mặt bà trung niên thì đầy mệt mỏi. Tôi hắng giọng đánh tiếng, bà trung niên ngẩng đầu lên hỏi tôi đến có việc gì.
- Em đến nộp hồ sơ để xin làm việc ở đây ạ. Em xin về khoa C, anh Thành trưởng khoa đã nhận rồi, anh ấy bảo em mang hồ sơ lên đây để trường xét duyệt. Giấy giới thiệu của anh Thành đây ạ, - đã dày kinh nghiệm nên tôi nói luôn một lèo rồi đưa tờ giấy của anh trưởng khoa ra (mép giấy đã được tôi cắt lại tối hôm trước nên không còn lem nhem nữa).
Bà trung niên uể oải cầm lấy tác phẩm của thủ trưởng tương lai của tôi, nhìn qua, rồi đứng dậy lấy một tờ giấy khác đưa cho tôi và bảo :
- Cô điền tờ giấy này đi
Đó là một mẫu giấy in sẵn, chỉ có vài mục đơn giản : tên tuổi, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, ngành nghề, nguyện vọng ... Tôi viết ngoáy một cái là xong rồi đưa lại cho bà trung niên. Bà lơ đãng nhét vào một ngăn kéo rồi không nói gì thêm nữa.
- Còn hồ sơ thì em phải nộp ở đâu hả chị ? - tôi vội hỏi.
- Hồ sơ đầy đủ thì bây giờ chưa cần, vì hiện trường chưa có chỉ tiêu. Bao giờ Bộ cho chỉ tiêu, trường chuẩn bị họp xét duyệt, thì cô nộp hồ sơ là vừa.
- Vậy bao giờ thì Bộ cho chỉ tiêu ạ ? - tôi lại hỏi.
- Nghe nói sắp có, nhưng chính xác thì tôi không biết. Khi nào có thì chúng tôi sẽ thông báo.
Tôi năn nỉ xin được để hồ sơ lại vì sợ lỡ, nhưng bà trung niên kiên quyết từ chối. “Ở đây không còn chỗ nào để chứa hồ sơ mới cả”, bà bảo. Thế là tập hồ sơ của tôi lại bị cán bộ tổ chức hắt hủi thêm lần nữa. Nhưng tôi vẫn thấy mừng vì không bị bắt lên Bộ xin thêm giấy giới thiệu. Như vậy là có tiến bộ nhiều so với viện B.
Để nắm sát tin tức về chỉ tiêu của Bộ, cứ một tuần tôi lại lên phòng tổ chức trường một lần. Sau hai lần thì bà trung niên nhẵn mặt tôi, cứ nhìn thấy tôi là bà nói luôn : “Chưa có gì đâu”. Đến lần thứ năm thì bà bảo, vẻ khó chịu hiện rõ trên nét mặt : “Sao ngày nào cô cũng đến thế. Thôi từ nay cô đừng đến nữa, ảnh hưởng đến chúng tôi làm việc. Địa chỉ của cô có ở đây rôi, cần gì thì chúng tôi sẽ gửi giấy báo cho cô”. Tôi định thanh minh là không phải ngày nào tôi cũng đến, nhưng vẻ mặt nghiêm khắc của bà làm tôi sợ rụt cả lưỡi lại, chả dám nói gì.
Ngồi nhà đợi hai tuần không thấy giấy báo đâu, tôi sốt ruột liều mạng ôm tập hồ sơ rủi ro lên phòng Tổ Chức trường lần nữa. Vừa thò mặt vào cửa thì bà trung niên nhìn ra, quắc mắt lên. Tôi hoảng quá, lí nhí nói một câu xin lỗi, làm như vào nhầm phòng, rồi chuồn thẳng.
Cái quắc mắt ấy yểm tôi ngồi nhà được thêm một tháng nữa thì nỗi sợ nhường chỗ cho nỗi lo. Mãi chả thấy giấy báo gì cả, tôi quyết định lại lên phòng tổ chức hỏi tình hình.
May quá, khi tôi đến thì bà trung niên không ngồi ở đó. Tôi bèn tiến lại gần cô gái trẻ có vẻ mặt bất cần để hỏi. Phải giải thích rất dài dòng cô ấy mới hiểu tôi nói chuyện gì. “Bộ cho chỉ tiêu lâu rồi, trường họp xét cả tháng nay rồi, còn nộp hồ sơ gì nữa”, cô gái thản nhiên bảo. “Ơ ..., chị xem lại hộ xem có nhầm không. Mới hôm nọ bà gì ngồi đây còn bảo tôi là chưa có gì hết cả”, tôi ú ớ nói. Cô gái nhìn tôi thương hại rồi bới ra một đống giấy tờ, đọc vanh vách công văn của Bộ, rồi quyết định của trường về việc tuyển người, đọc cả tên người được nhận về khoa C năm nay (không phải tôi). Theo như ngày tháng cô gái đọc, thì mọi việc mới được giải quyết khoảng ba tuần nay. Tôi bực quá hóa liều, nói một cách cáu kỉnh :”Sao tôi không nhận được giấy báo gì cả ?” “Cái gì ?”, cô gái kinh ngạc hỏi. “Bà gì ngồi đây hôm nọ bảo rằng khi nào Bộ cho chỉ tiêu thì sẽ gửi giấy báo để tôi đến nộp hồ sơ. Tôi đợi mãi không thấy giấy báo đâu”, tôi nói. “Ối giời ơi ! – cô gái cười rú lên. – Chị đi xin việc mà lại ngồi nhà đợi giấy báo à ? Thế thì có đến mùng thất mới xin được việc. Chị tưởng chị là con ai ? Con Tổng bí thư chắc ? Hi hi hi...”, cô gái ôm bụng cười ngặt nghẽo mãi không dừng lại được. Ông già trang nghiêm ngồi ở góc phòng cũng ngẩng đầu lên cười khùng khục rung cả kính. Bất giác, tôi cũng cười theo một cách ngớ ngẩn. Vui thật, thế mà lúc trước tôi lại cứ tưởng các cán bộ phòng này không biết cười.


Thế là cuối cùng, tôi chỉ còn có mỗi cơ quan E để mà hy vọng. Một niềm hy vọng rất đáng để bám chặt lấy, vì ngay từ đầu, cơ quan này đã hơn hẳn hai nơi kia ở chỗ họ sẵn sàng nhận hồ sơ của tôi. Nhận luôn, ngay tại chỗ, không đòi giấy giới thiệu nào, cũng không bắt đợi chỉ tiêu của Bộ. Người trực tiếp nhận hồ sơ của tôi là một ông già có vẻ mặt khá hiền lành, đôi mắt hơi dài dại sau cặp kính dày cộp. Không ai giới thiệu nên tôi không biết ông giữ chức vụ gì, nhưng chắc không phải là nhân viên quèn, vì ngồi bàn cạnh ông là một bà (cũng già nhưng ít nhăn nheo hơn ông một chút), thường xuyên bị ông sai vặt. Ông nhận hồ sơ từ tay tôi, xem qua một tí rồi đưa cho bà kia bảo cất đi. Có lúc cần tìm giấy tờ gì ông cũng sai bà kia đi lấy.
Thực ra, trước khi tiếp cận được ông này tôi cũng đã phải đi một vòng qua ba bốn cửa. Đầu tiên, cầm thư giới thiệu của ông em rể bà bác ruột, tôi đến gặp cái ông có tên ghi trên phong bì. Ông này đọc thư xong bèn sốt sắng dẫn tôi đến trình diện một ông khác. Ông khác hỏi tôi khá kỹ về quá trình học tâp, bằng cấp, chuyên môn rồi bảo là có thể nhận tôi về được nhưng phải tham khảo ý kiến cấp trên. Cấp trên không đọc hồ sơ của tôi, cũng không hỏi han gì, chỉ đọc ý kiến của cấp dưới ghi ngoài hồ sơ của tôi, rồi bảo tôi đến nộp hồ sơ ở phòng tổ chức đợi xét duyệt. Nghe nói đến phòng tổ chức tôi đã hãi hùng, không ngờ gặp được một ông già mặt mũi thật là phúc hậu, đã thế lại còn nhận ngay hồ sơ của tôi, không đòi hỏi hạch sách thêm gì nữa. Ông bảo hồ sơ của tôi như vậy là đầy đủ rồi, ít nữa lãnh đạo cơ quan sẽ họp xét duyệt, có kết quả sẽ thông báo công khai. Tôi chỉ còn mỗi việc chờ đợi.
Lãnh đạo cơ quan E chắc cũng nhiều việc bận, nên tôi đợi đến mấy tháng mà cuộc họp vẫn chưa diễn ra. Được cái may là cán bộ tổ chức ở đây rất hiền, tuần nào tôi cũng vác mặt đến hỏi tình hình, nhưng luôn luôn được ông tiếp đón rất nhã nhặn. Phải cái trí nhớ ông không được tốt như cái bà trung niên ở trường đại học nọ, cho nên sau bốn năm lần mà ông vẫn nhìn tôi như mới gặp lần đầu, và tôi luôn luôn phải trình bày lại hết sức dài dòng điều mình muốn hỏi.
Sau trận cười vĩnh biệt khoa C tại phòng tổ chức trường ấy độ một tháng, một buổi sáng tôi đến cơ quan E thì được ông già ở đó cho biết rằng lãnh đạo cơ quan đã họp để xét chuyện tuyển người. Ông giải thích khá kỹ về việc cơ quan hiện chưa có biên chế, cho nên chỉ tuyển để làm hợp đồng, nhưng đến khi nào có biên chế thì những người đã được nhận làm hợp đồng sẽ được chuyển sang diện biên chế, tất nhiên là phải xét duyệt thêm lần nữa, nhưng... Tim tôi đập thình thịch, tôi sốt ruột cắt ngang lời ông, hỏi xem kết quả thông báo công khai ở đâu. “Tên cô là gì ?”, ông già hỏi. “Dạ, cháu là Hoàng L.C. ạ”, tôi trả lời. Ông già liền ra lệnh cho bà ngồi cạnh tìm xem Hoàng L.C. có trong danh sách được tuyển không. Bà nọ lục tìm một lúc rồi rút ra một hồ sơ, nhìn tôi mỉm cười rất trìu mến và bảo : “Hoàng L.C. phải không ? Cháu được nhận rồi đấy.” Tim tôi như nhảy vọt ra ngoài lồng ngực. Bà nọ vừa đưa hồ sơ cho cấp trên của mình, vừa thì thầm nói với ông điều gì đó. Ông già cầm lấy hồ sơ, giở ra đọc, rồi hỏi tôi một cách thận trọng :
- Cô là Hoàng L.C. phải không ?
- Dạ, vâng ạ.
- Sinh ngày... tháng...năm... có đúng không ?
- Đúng ạ.
- Cô học ở trường M. tại Liên Xô về có đúng không ?
- Vâng ạ.
- Chuyên ngành của cô là tâm lý xã hội có phải không ?
- Vâng ạ, - tôi vừa đáp vừa liếc mắt vào tập hồ sơ trên tay ông già, nhận ra ngay đó chính là hồ sơ của mình, có cái ảnh của tôi dán ở trang đầu đập vào mắt. Tôi bèn bảo :
- Đây đúng là hồ sơ của cháu đấy bác ạ, bác xem cái ảnh đây này.
Ông già nhìn ảnh, rồi lại ngẩng lên nhìn tôi, rồi một nụ cười rất tươi nở trên gương mặt ông. Ông gập hồ sơ lại, gật gù bảo :
- Hồ sơ của cháu tốt lắm. Điểm học tất cả các năm đều tốt. Ngành nghề chuyên môn, đề tài luận án thế là phù hợp với cơ quan này. Cháu về làm hợp đồng tạm một thời gian, rồi thế nào cũng được vào biên chế sớm.
Tôi không dám tin ngay vào tai mình, phải hỏi lại thêm lần nữa : “Cháu được nhận vào làm hợp đồng rồi thật hả bác ?” “Thật chứ còn gì nữa”, ông già vui vẻ đáp. Bà ngồi bên cạnh cũng âu yếm nói thêm một câu : “Con bé này lớn lên trông xinh quá nhỉ. Ăn bơ sữa tây nhiều có khác, trắng nõn trắng nà. Hồi bé thì đen nhẻm, không nói thì bây giờ đố ai nhận ra được.” Tôi giật thót cả người. Quái lạ, sao bà này lại biết tôi hồi bé ? Mà tôi có đen nhẻm bao giờ đâu ? Tôi giống mẹ, từ khi sinh ra đã có nước da rất trắng.
Nghĩ vậy, nhưng tôi thấy tốt nhất là lờ chuyện này đi. Cái quan trọng là mình đã được nhận, hồ sơ đúng là của mình. Tôi liền hỏi ông già về những thủ tục giấy tờ phải làm. “Cháu sang gặp chị Nhung ở phòng bên cạnh, chị ấy sẽ hướng dẫn. Hôm nay thì chị ấy nghỉ con ốm, vài ngày nữa cháu quay lại là vừa”, ông già ân cần dặn dò. Tôi vừa định chào và đi ra thì bà ngồi bên cạnh chợt hỏi : “Mẹ cháu dạo này vẫn khỏe chứ ?” Tôi lạnh cả người, lúng búng hỏi : “Dạ, bác bảo gì ạ ?” “Mẹ cháu vẫn khỏe chứ ?”, bà nọ hờ hững nhắc lại. “Mẹ cháu mất rồi”, tôi nói ngắc ngứ trong họng vì không đủ khả năng để nói dối. “Sao ?”, cả ông già lẫn bà phụ tá đều kêu lên ngạc nhiên cùng một lúc. “Sao không nghe ai nói gì hết cả. Mà mới vài tháng trước tôi còn gặp bà ấy ở đám cưới con ông Bảo kia mà”, bà nọ nói một cách sửng sốt. “Chắc bác nhầm cháu với ai. Mẹ cháu mất lâu rồi. Từ năm bảy hai cơ ạ”, tôi nhìn xuống đất, lí nhí thú nhận. Im lặng một lúc. Rồi ông già hỏi : “Thế cô không phải là con ông Hùng à ?” “Bố cháu tên là Hưng, không phải Hùng ạ”, tôi dũng cảm trả lời. Lại một lát im lặng nữa, lần này dài hơn lần trước. Ông già mở hồ sơ của tôi ra, xem lại một chỗ nào đó, lắc đầu, rồi lôi ra một tờ giấy, giơ lên trước mắt tôi và hỏi : “Cái thư này có phải của cô không ?” “Không ạ”, tôi nói một cách đau đớn. Ông già thở dài, đặt cái thư sang một phía, rồi đưa tập hồ sơ cho tôi và bảo : “Cô cầm hồ sơ về đi. Có sự nhầm lẫn. Chúng tôi chỉ có ít chỗ nên không nhận cô được.” “Nhưng bác vừa bảo là hồ sơ của cháu tốt, ngành chuyên môn của cháu phù hợp cơ mà”, tôi hốt hoảng nói, cố kìm để khỏi khóc. “Cô không phải là con ông Hùng thì không được”, ông già trả lời, vẻ vừa bực bội vừa ái ngại.
 
Back
Bên trên