http://www.nhandan.org.vn/vietnamese/diendan/vh113.html
Diễn đàn
Tiếp nhận thuật ngữ khoa học nớc ngoài
Trong thời đại thông tin hiện nay, cùng với xu hớng toàn cầu hóa đang ảnh hởng ngày một sâu sắc đến xã hội nớc ta, tầng lớp trí thức, đông đảo nhất là sinh viên, học sinh ngày một cần tiếp xúc với các thông tin mới, các kiến thức mới của thế giới. Chỉ đi đạo một vòng chung quanh các cửa hàng sách ngoại văn, ta có thể tìm thấy hàng loạt các loại sách báo, ngoài các tác phẩm văn học là các sách về kinh tế, tin học, các môn khoa học kỹ thuật, luật, triết học, v.v.
Tuy nhiên, số lợng không phải là tiêu chuẩn cho chất lợng. Hiện tại, có rất nhiều trờng hợp đọc sách báo tiếng nớc ngoài ta thấy rất hay nhng hầu nh không dịch nổi ra tiếng Việt, nếu cố dịch thì thấy văn rất gò ép, dài dòng mà vẫn không hết ý. Ngợc lại, khi đọc một tác phẩm dịch ra tiếng Việt và so sánh nó với nguyên bản tiếng nớc ngoài, ta thấy một độ vênh rất đáng kể về chất lợng thông tin đợc chuyển dịch sang tiếng Việt. Có thể có nhiều nguyên nhân: do khác biệt về phơng pháp luận, hay rất có thể, do trình độ chuyên môn ngời dịch còn hạn chế. Nhng lý do dễ thấy nhất có lẽ xuất phát từ sự thiếu thốn vốn thuật ngữ tiếng Việt.
Hiện tại, phơng Tây, đặc biệt là Mỹ và Tây Âu, đã và vẫn đang là nơi "cầm chịch" cho sự phát triển khoa học, nhất là về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Cấu trúc xã hội công nghiệp phức tạp và chuyên môn hóa cao đã tạo một môi trờng thuận lợi để khoa học phát triển. Liên tục các mô hình (models), lý thuyết (theories) và các khái niệm mới, các ngành mới đợc phát hiện và giới thiệu trong vài chục năm gần đây, mà nổi bật nhất, ảnh hởng sâu rộng nhất có lẽ là ngành tin học - công nghệ thông tin. Đi cùng với mô hình, lý thuyết, khái niệm đó là các thuật ngữ mới, phần nhiều là tiếng Anh.
Tiếng Việt ta, ngợc lại với phơng Tây nói chung và tiếng Anh nói riêng, sản sinh từ một nền văn hóa nông nghiệp và do đó, đa số từ ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, tình cảm, trong khi ít có những từ có tính trừu tợng cao (abstractterms) nh tiếng Anh. Vì lẽ đó, thuật ngữ khoa học khi dịch sang tiếng Việt thờng không chuyển tải đợc hết nội dung của từ gốc, thậm chí không chính xác. Dới đây là một vài thí dụ điển hình.
Computer vision, là một lĩnh vực mới và có rất nhiều ứng dụng thực tế của ngành công nghệ thông tin, và thuật ngữ tơng đơng với nó trong tiếng Việt là Thị giác máy. Ta có thể thấy ngay thuật ngữ tiếng Việt này không bao gồm đợc hết ý nghĩa của từ gốc, bởi "vision" của tiếng Anh không chỉ có một nghĩa nhìn mà rộng hơn rất nhiều. Giải thích ra tiếng Việt, Computer vision là ngành áp dụng, mô phỏng không chỉ khả năng tiếp nhận, tái tạo hình ảnh mà còn nhận dạng, phán đoán và xử lý thông tin nhận vào qua thị giác của con ngời vào máy tính.
Trong ngành ngôn ngữ học, Hà Văn Tấn dịch acculturation là tiếp biến văn hóa có chuẩn hơn cách dịch cũ là giao thoa văn hóa, nhng cũng chỉ phản ánh đợc thuật ngữ này trong lĩnh vực văn hóa chứ vẫn cha đầy đủ hết nghĩa của thuật ngữ này trong các lĩnh vực liên quan. Acculturation còn bao gồm cả nghĩa thái độ của ngời học ngoại ngữ đối với nền văn hóa của cộng đồng nói ngôn ngữ đích, thái độ này sẽ có ảnh hởng tới quá trình đắc thụ ngôn ngữ của ngời học. Còn trong lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng, interlanguage, thuật ngữ nói về giai đoạn phát triển ngôn ngữ của ngời học ngoại ngữ khi cha đạt tới trình độ của ngời bản ngữ, đợc dịch thành ngôn ngữ quốc tế thì đúng là râu ông nọ cắm cằm bà kia mất rồi.
Tất nhiên, trong quá trình tiếp thu các thuật ngữ mới thì con đờng tạo thuật ngữ tơng đơng bằng tiếng Việt không phải là duy nhất. Trớc một thuật ngữ nớc ngoài, tiếng Việt có 3 con đờng:
Chấp nhận thuật ngữ nớc ngoài mà không chuyển đổi. Các từ ở dạng này thờng hoặc rất trừu tợng nh marketing, hoặc có thể mang quá nhiều nghĩa trong những trờng hợp khác nhau nh log, hoặc mới xuất hiện nh nano, file, CD-ROM, card (máy tính), hoặc mới đợc chuyển từ dạng phiên âm sang la-tinh nh enzyme, polymer. Đây là con đờng nhập khẩu thuật ngữ nhanh nhất và đơn giản nhất. Nhng với sự khác biệt về tính chất ngôn ngữ, các thuật ngữ dài khi cho vào văn tiếng Việt thờng làm mất sự mạch lạc của bài viết.
Phiên âm ra tiếng Việt thuật ngữ nớc ngoài. Các từ này thờng xuất hiện đã lâu và cách viết thờng không thống nhất nh phô-tôn, hy-đrô các-bon. Trớc đây từ ma-ket-tinh cũng đợc sử dụng nhng hiện tại đã mất hẳn.
Con đờng thứ ba: tạo thuật ngữ tiếng Việt tơng đơng có lẽ là con đờng có tính tự hào dân tộc cao nhất và đợc quan tâm đeo đuổi nhiều nhất. Thế nhng, đây cũng là con đờng chông gai nhất. Ngoài việc dịch cho đúng, nó còn cần thời gian để quảng bá để có thể trở thành tiêu chuẩn chung cho cả nớc. Mà không phải cứ tạo ra thuật ngữ tiếng Việt đã là tốt. Nó chỉ có ý nghĩa tích cực khi ngành đó, lĩnh vực đó Việt Nam mình cũng mạnh. Nếu không thuật ngữ chỉ làm ta lúng túng đến khổ sở khi đọc và so sánh với các t liệu mới bằng tiếng nớc ngoài. Điều này cũng giải thích vì sao các ngành khoa học cơ bản, đặc biệt là toán và vật lý, hiện tại có một hệ thống thuật ngữ khá hoàn chỉnh. Hầu nh ai cũng biết các khái niệm chuỗi (series), ma trận (matrix), vành (ring). Trong khi đó, có những ngành nh dầu khí chẳng hạn, vừa hoàn thành bộ từ điển thuật ngữ đầu tiên cho ngành gồm hơn 20.000 mục từ nhng thực tế, nhiều thuật ngữ tiếng Việt không đợc sử dụng. Cha kể tới việc còn thiếu rất nhiều thuật ngữ quan trọng khác và nhiều thuật ngữ cha đợc dịch chính xác. Nói thêm về phơng pháp tạo thuật ngữ mới ở Việt Nam hiện nay, ta thấy đại bộ phận các thuật ngữ là từ Hán Việt mà rất ít từ thuần Việt. Có thể thấy ba lý do cơ bản. Thứ nhất, là số lợng. Lợng từ Hán Việt có thể nói là "thừa thãi" so với lợng từ thuần Việt. Chúng chiếm khoảng 75% tổng số từ của tiếng Việt. Thứ hai là bản thân tính chất của từ Hán Việt. Trong khi từ thuần Việt là những từ có tính biểu cảm, thờng chỉ mang một nghĩa thì từ Hán Việt cô đọng và súc tích và mang nghĩa khái quát cao hơn. Với tính khoa học nh thế, nó rất thích hợp cho việc tạo dựng các thuật ngữ. Tuy nhiên, không phải bao giờ thuật ngữ Hán Việt cũng phù hợp. "Hình vị" không thể đơn giản bằng "tiếng", cũng nh thuật ngữ "cụm từ" dễ hiểu hơn nhiều so với từ "tổ từ". Lý do thứ ba là vấn đề lịch sử. Tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học còn rất trẻ, mới chỉ bắt đầu từ sau năm 1945. Trớc đó, nó bị coi là thứ tiếng "nôm na mách qué" không có chỗ đứng trong giáo dục và khoa cử. Vốn từ Hán Việt, hấp thu từ chữ Hán có nền móng hơn và vì thế mang những đặc tính còn duy trì cho đến ngày nay nh có tính trang trọng, cô đọng và súc tích nh đã nói ở trên. Khi Giáo s Hoàng Xuân Hãn làm cuốn từ điển thuật ngữ khoa học đầu tiên cho tiếng Việt, ông và ban biên tập đã tạo ra rất nhiều thuật ngữ gốc Hán Việt hoặc "giả" Hán Việt (nh "tá tràng"), và vô hình trung, tạo ra một hớng đi chung cho các hệ thống thuật ngữ chuyên ngành sau này.
Nh vậy, việc dịch hay không dịch các thuật ngữ khoa học từ tiếng nớc ngoài, dịch sao cho bảo đảm về tính chính xác của thuật ngữ mà vẫn giữ đợc sự trong sáng của tiếng Việt. Để bảo đảm cho tính mạch lạc dễ hiểu của thuật ngữ đợc dịch là một vấn đề nhức nhối của ngành dịch thuật nói riêng và các ngành khoa học nói chung. Và trong thời điểm ta đang tụt hậu về quá nhiều mặt so với trung bình thế giới và hơn bao giờ hết phải tăng cờng giáo dục và học hỏi tri thức mới, việc thống nhất cách giải quyết sự thiếu thốn thuật ngữ càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nguyễn thủy minh, Jo trần
(Tạp chí Khoa học và Tổ quốc)
Diễn đàn
Tiếp nhận thuật ngữ khoa học nớc ngoài
Trong thời đại thông tin hiện nay, cùng với xu hớng toàn cầu hóa đang ảnh hởng ngày một sâu sắc đến xã hội nớc ta, tầng lớp trí thức, đông đảo nhất là sinh viên, học sinh ngày một cần tiếp xúc với các thông tin mới, các kiến thức mới của thế giới. Chỉ đi đạo một vòng chung quanh các cửa hàng sách ngoại văn, ta có thể tìm thấy hàng loạt các loại sách báo, ngoài các tác phẩm văn học là các sách về kinh tế, tin học, các môn khoa học kỹ thuật, luật, triết học, v.v.
Tuy nhiên, số lợng không phải là tiêu chuẩn cho chất lợng. Hiện tại, có rất nhiều trờng hợp đọc sách báo tiếng nớc ngoài ta thấy rất hay nhng hầu nh không dịch nổi ra tiếng Việt, nếu cố dịch thì thấy văn rất gò ép, dài dòng mà vẫn không hết ý. Ngợc lại, khi đọc một tác phẩm dịch ra tiếng Việt và so sánh nó với nguyên bản tiếng nớc ngoài, ta thấy một độ vênh rất đáng kể về chất lợng thông tin đợc chuyển dịch sang tiếng Việt. Có thể có nhiều nguyên nhân: do khác biệt về phơng pháp luận, hay rất có thể, do trình độ chuyên môn ngời dịch còn hạn chế. Nhng lý do dễ thấy nhất có lẽ xuất phát từ sự thiếu thốn vốn thuật ngữ tiếng Việt.
Hiện tại, phơng Tây, đặc biệt là Mỹ và Tây Âu, đã và vẫn đang là nơi "cầm chịch" cho sự phát triển khoa học, nhất là về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Cấu trúc xã hội công nghiệp phức tạp và chuyên môn hóa cao đã tạo một môi trờng thuận lợi để khoa học phát triển. Liên tục các mô hình (models), lý thuyết (theories) và các khái niệm mới, các ngành mới đợc phát hiện và giới thiệu trong vài chục năm gần đây, mà nổi bật nhất, ảnh hởng sâu rộng nhất có lẽ là ngành tin học - công nghệ thông tin. Đi cùng với mô hình, lý thuyết, khái niệm đó là các thuật ngữ mới, phần nhiều là tiếng Anh.
Tiếng Việt ta, ngợc lại với phơng Tây nói chung và tiếng Anh nói riêng, sản sinh từ một nền văn hóa nông nghiệp và do đó, đa số từ ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, tình cảm, trong khi ít có những từ có tính trừu tợng cao (abstractterms) nh tiếng Anh. Vì lẽ đó, thuật ngữ khoa học khi dịch sang tiếng Việt thờng không chuyển tải đợc hết nội dung của từ gốc, thậm chí không chính xác. Dới đây là một vài thí dụ điển hình.
Computer vision, là một lĩnh vực mới và có rất nhiều ứng dụng thực tế của ngành công nghệ thông tin, và thuật ngữ tơng đơng với nó trong tiếng Việt là Thị giác máy. Ta có thể thấy ngay thuật ngữ tiếng Việt này không bao gồm đợc hết ý nghĩa của từ gốc, bởi "vision" của tiếng Anh không chỉ có một nghĩa nhìn mà rộng hơn rất nhiều. Giải thích ra tiếng Việt, Computer vision là ngành áp dụng, mô phỏng không chỉ khả năng tiếp nhận, tái tạo hình ảnh mà còn nhận dạng, phán đoán và xử lý thông tin nhận vào qua thị giác của con ngời vào máy tính.
Trong ngành ngôn ngữ học, Hà Văn Tấn dịch acculturation là tiếp biến văn hóa có chuẩn hơn cách dịch cũ là giao thoa văn hóa, nhng cũng chỉ phản ánh đợc thuật ngữ này trong lĩnh vực văn hóa chứ vẫn cha đầy đủ hết nghĩa của thuật ngữ này trong các lĩnh vực liên quan. Acculturation còn bao gồm cả nghĩa thái độ của ngời học ngoại ngữ đối với nền văn hóa của cộng đồng nói ngôn ngữ đích, thái độ này sẽ có ảnh hởng tới quá trình đắc thụ ngôn ngữ của ngời học. Còn trong lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng, interlanguage, thuật ngữ nói về giai đoạn phát triển ngôn ngữ của ngời học ngoại ngữ khi cha đạt tới trình độ của ngời bản ngữ, đợc dịch thành ngôn ngữ quốc tế thì đúng là râu ông nọ cắm cằm bà kia mất rồi.
Tất nhiên, trong quá trình tiếp thu các thuật ngữ mới thì con đờng tạo thuật ngữ tơng đơng bằng tiếng Việt không phải là duy nhất. Trớc một thuật ngữ nớc ngoài, tiếng Việt có 3 con đờng:
Chấp nhận thuật ngữ nớc ngoài mà không chuyển đổi. Các từ ở dạng này thờng hoặc rất trừu tợng nh marketing, hoặc có thể mang quá nhiều nghĩa trong những trờng hợp khác nhau nh log, hoặc mới xuất hiện nh nano, file, CD-ROM, card (máy tính), hoặc mới đợc chuyển từ dạng phiên âm sang la-tinh nh enzyme, polymer. Đây là con đờng nhập khẩu thuật ngữ nhanh nhất và đơn giản nhất. Nhng với sự khác biệt về tính chất ngôn ngữ, các thuật ngữ dài khi cho vào văn tiếng Việt thờng làm mất sự mạch lạc của bài viết.
Phiên âm ra tiếng Việt thuật ngữ nớc ngoài. Các từ này thờng xuất hiện đã lâu và cách viết thờng không thống nhất nh phô-tôn, hy-đrô các-bon. Trớc đây từ ma-ket-tinh cũng đợc sử dụng nhng hiện tại đã mất hẳn.
Con đờng thứ ba: tạo thuật ngữ tiếng Việt tơng đơng có lẽ là con đờng có tính tự hào dân tộc cao nhất và đợc quan tâm đeo đuổi nhiều nhất. Thế nhng, đây cũng là con đờng chông gai nhất. Ngoài việc dịch cho đúng, nó còn cần thời gian để quảng bá để có thể trở thành tiêu chuẩn chung cho cả nớc. Mà không phải cứ tạo ra thuật ngữ tiếng Việt đã là tốt. Nó chỉ có ý nghĩa tích cực khi ngành đó, lĩnh vực đó Việt Nam mình cũng mạnh. Nếu không thuật ngữ chỉ làm ta lúng túng đến khổ sở khi đọc và so sánh với các t liệu mới bằng tiếng nớc ngoài. Điều này cũng giải thích vì sao các ngành khoa học cơ bản, đặc biệt là toán và vật lý, hiện tại có một hệ thống thuật ngữ khá hoàn chỉnh. Hầu nh ai cũng biết các khái niệm chuỗi (series), ma trận (matrix), vành (ring). Trong khi đó, có những ngành nh dầu khí chẳng hạn, vừa hoàn thành bộ từ điển thuật ngữ đầu tiên cho ngành gồm hơn 20.000 mục từ nhng thực tế, nhiều thuật ngữ tiếng Việt không đợc sử dụng. Cha kể tới việc còn thiếu rất nhiều thuật ngữ quan trọng khác và nhiều thuật ngữ cha đợc dịch chính xác. Nói thêm về phơng pháp tạo thuật ngữ mới ở Việt Nam hiện nay, ta thấy đại bộ phận các thuật ngữ là từ Hán Việt mà rất ít từ thuần Việt. Có thể thấy ba lý do cơ bản. Thứ nhất, là số lợng. Lợng từ Hán Việt có thể nói là "thừa thãi" so với lợng từ thuần Việt. Chúng chiếm khoảng 75% tổng số từ của tiếng Việt. Thứ hai là bản thân tính chất của từ Hán Việt. Trong khi từ thuần Việt là những từ có tính biểu cảm, thờng chỉ mang một nghĩa thì từ Hán Việt cô đọng và súc tích và mang nghĩa khái quát cao hơn. Với tính khoa học nh thế, nó rất thích hợp cho việc tạo dựng các thuật ngữ. Tuy nhiên, không phải bao giờ thuật ngữ Hán Việt cũng phù hợp. "Hình vị" không thể đơn giản bằng "tiếng", cũng nh thuật ngữ "cụm từ" dễ hiểu hơn nhiều so với từ "tổ từ". Lý do thứ ba là vấn đề lịch sử. Tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học còn rất trẻ, mới chỉ bắt đầu từ sau năm 1945. Trớc đó, nó bị coi là thứ tiếng "nôm na mách qué" không có chỗ đứng trong giáo dục và khoa cử. Vốn từ Hán Việt, hấp thu từ chữ Hán có nền móng hơn và vì thế mang những đặc tính còn duy trì cho đến ngày nay nh có tính trang trọng, cô đọng và súc tích nh đã nói ở trên. Khi Giáo s Hoàng Xuân Hãn làm cuốn từ điển thuật ngữ khoa học đầu tiên cho tiếng Việt, ông và ban biên tập đã tạo ra rất nhiều thuật ngữ gốc Hán Việt hoặc "giả" Hán Việt (nh "tá tràng"), và vô hình trung, tạo ra một hớng đi chung cho các hệ thống thuật ngữ chuyên ngành sau này.
Nh vậy, việc dịch hay không dịch các thuật ngữ khoa học từ tiếng nớc ngoài, dịch sao cho bảo đảm về tính chính xác của thuật ngữ mà vẫn giữ đợc sự trong sáng của tiếng Việt. Để bảo đảm cho tính mạch lạc dễ hiểu của thuật ngữ đợc dịch là một vấn đề nhức nhối của ngành dịch thuật nói riêng và các ngành khoa học nói chung. Và trong thời điểm ta đang tụt hậu về quá nhiều mặt so với trung bình thế giới và hơn bao giờ hết phải tăng cờng giáo dục và học hỏi tri thức mới, việc thống nhất cách giải quyết sự thiếu thốn thuật ngữ càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nguyễn thủy minh, Jo trần
(Tạp chí Khoa học và Tổ quốc)