Ngô Tố Giao
(togiao)
Administrator
Cùng với điện tử và truyền thông, ngôn ngữ cũng là một trong những phương tiện lĩnh hội và xử lý thông tin. Xã hội nào cũng có một xu hướng chung: ngôn ngữ đọc và viết bị ngôn ngữ nghe nhìn chiếm một phần ưu thế. Tuy vậy, trải qua ba thập kỉ phát triển công nghệ nghe nhìn như vũ bão, các nước vập phải một khó khăn lớn về ngôn ngữ trong nền cao học vì ở đây trí tuệ vẫn là nô lệ trung thành của ngôn ngữ. Thiếu ngôn ngữ chuẩn, không có trí tuệ đúng.
Nghe nhìn đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phổ cập thông tin cũng như xã hội hóa những kiến thức và thành tựu của con người. Tuy vậy, nó vẫn phải chào thua ngôn ngữ viết, nói trong những lĩnh vực cao hơn. Không một nhà sư phạm nào có thể vẽ được đám máy điện tử. Không một nhà tư tưởng nào có trong tay bức ảnh về những khái niệm triết lý.
Mặc dù đã có một loạt cải cách, nhưng học sinh Việt Nam vẫn sử dụng sai ngôn ngữ viết và nói, không đủ khả năng biểu ý và biểu cảm, khiến cho tư duy của các em ngày càng trở nên máy móc, thậm chí rất khô khan trong nền cao học hiện đại.
Do nền hội nhập kinh tế xã hội nhanh, Việt Nam chấp nhận tiếng Anh là chủ đạo. Một số ngôn ngữ khác như một ngoại ngữ hội nhập cùng với những phương pháp học ngoại ngữ, hắt hủi tiếng Việt đã tác động mạnh đến tâm lý học tiếng Việt trước nhất và hậu quả tiếng Việt sau đó. Ngay cả những nước phát triển, nơi dùng tiếng Anh, Pháp hay ngôn ngữ khác, chưa có nới nào dân chúng lại hừng hực ý chí đi học ngoại ngữ như dân tộc ta. Nhưng cũng buồn thay, Việt Nam, Trung Quốc luôn là cộng đồng sử dụng ngoại ngữ kém nhất.
Không có cấu trúc hoàn thiện sẽ không có triết học tiến bộ. Puskin, Tolstoi... chỉ là con cháu của cuộc cải tổ tiếng Nga trước đó. Tiếng Đức đã dũng cảm phổ hóa cấu trúc của mình và đã sảnh sinh ra một kỉ nguyên triết học rạng ngời sau đó. Tiếng Pháp bước vào thời phục hưng sau khi đã gạt bỏ những quê mùa trước đây. Tri thức thời đó sung mãn tới mức họ điểm chỉ giữa tiếng latin và tiếng Pháp. Hay như triết học La Mã cổ đại đã được đăng quang qua ba thế kỉ tạo dựng.
Qua ba cuộc cách mạng, Tiếng Việt được chuyển đổi từ Hán sang Nôm, sang Quốc ngữ - tiền thân của tiếng Việt hiện đại. Tiếng Việt hiện đại tạm yên tâm với thế thôi. Tuy nhiên Tiếng Việt có một ưu thế là ngôn ngữ âm dịch. Nó đã được sử dụng tài tình trong công cuộc xóa nạn mù chữ của cha ông ta thưở trước bởi họ hiểu được lợi thế của nó trong việc day trẻ đọc, phát âm, viết đúng. Trong khi tỉ lệ mù chữ của các nước tây Âu hiện lên tới trên 10% dân số đến tuổi trưởng thành thì Việt Nam ta lại có thể tự hào là đã xóa được nạn mù chữ. Hai thập kỉ vật lộn với cách viết mới, thiếu thẩm mỹ, sai chính tả nhiều, bây giờ lại quay lại kiểu chữ viết cũ - kiểu baroc của các ngôn ngữ châu Âu. Cách viết này vẫn tỏ ra hoàn thiện nhất - nhanh về tốc độ, cân đối và đẹp.
Có những ưu thế như vậy, nhưng phải làm gì thì tiếng Việt mới được "sánh vai" cùng các ngôn ngữ khác trong sự phát triển của xã hội hiện nay?
(Tóm tắt theo bài viết của Nguyễn Việt Hà - Hóa 2 86-89)
Nghe nhìn đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phổ cập thông tin cũng như xã hội hóa những kiến thức và thành tựu của con người. Tuy vậy, nó vẫn phải chào thua ngôn ngữ viết, nói trong những lĩnh vực cao hơn. Không một nhà sư phạm nào có thể vẽ được đám máy điện tử. Không một nhà tư tưởng nào có trong tay bức ảnh về những khái niệm triết lý.
Mặc dù đã có một loạt cải cách, nhưng học sinh Việt Nam vẫn sử dụng sai ngôn ngữ viết và nói, không đủ khả năng biểu ý và biểu cảm, khiến cho tư duy của các em ngày càng trở nên máy móc, thậm chí rất khô khan trong nền cao học hiện đại.
Do nền hội nhập kinh tế xã hội nhanh, Việt Nam chấp nhận tiếng Anh là chủ đạo. Một số ngôn ngữ khác như một ngoại ngữ hội nhập cùng với những phương pháp học ngoại ngữ, hắt hủi tiếng Việt đã tác động mạnh đến tâm lý học tiếng Việt trước nhất và hậu quả tiếng Việt sau đó. Ngay cả những nước phát triển, nơi dùng tiếng Anh, Pháp hay ngôn ngữ khác, chưa có nới nào dân chúng lại hừng hực ý chí đi học ngoại ngữ như dân tộc ta. Nhưng cũng buồn thay, Việt Nam, Trung Quốc luôn là cộng đồng sử dụng ngoại ngữ kém nhất.
Không có cấu trúc hoàn thiện sẽ không có triết học tiến bộ. Puskin, Tolstoi... chỉ là con cháu của cuộc cải tổ tiếng Nga trước đó. Tiếng Đức đã dũng cảm phổ hóa cấu trúc của mình và đã sảnh sinh ra một kỉ nguyên triết học rạng ngời sau đó. Tiếng Pháp bước vào thời phục hưng sau khi đã gạt bỏ những quê mùa trước đây. Tri thức thời đó sung mãn tới mức họ điểm chỉ giữa tiếng latin và tiếng Pháp. Hay như triết học La Mã cổ đại đã được đăng quang qua ba thế kỉ tạo dựng.
Qua ba cuộc cách mạng, Tiếng Việt được chuyển đổi từ Hán sang Nôm, sang Quốc ngữ - tiền thân của tiếng Việt hiện đại. Tiếng Việt hiện đại tạm yên tâm với thế thôi. Tuy nhiên Tiếng Việt có một ưu thế là ngôn ngữ âm dịch. Nó đã được sử dụng tài tình trong công cuộc xóa nạn mù chữ của cha ông ta thưở trước bởi họ hiểu được lợi thế của nó trong việc day trẻ đọc, phát âm, viết đúng. Trong khi tỉ lệ mù chữ của các nước tây Âu hiện lên tới trên 10% dân số đến tuổi trưởng thành thì Việt Nam ta lại có thể tự hào là đã xóa được nạn mù chữ. Hai thập kỉ vật lộn với cách viết mới, thiếu thẩm mỹ, sai chính tả nhiều, bây giờ lại quay lại kiểu chữ viết cũ - kiểu baroc của các ngôn ngữ châu Âu. Cách viết này vẫn tỏ ra hoàn thiện nhất - nhanh về tốc độ, cân đối và đẹp.
Có những ưu thế như vậy, nhưng phải làm gì thì tiếng Việt mới được "sánh vai" cùng các ngôn ngữ khác trong sự phát triển của xã hội hiện nay?
(Tóm tắt theo bài viết của Nguyễn Việt Hà - Hóa 2 86-89)