Re: lược khao võ thuật trung hoa
CHƯƠNG NĂM
NHỮNG ÐIỀU TỒN NGHI
Chương này ghi lại những truyền thuyết từ ngày xưa để lưu truyền. Sau mỗi phần nếu có những lời nhận xét của chúng tôi là để luận đoán và phát minh hầu soi sáng vấn đề.
I. CÁC MÔN LIÊN QUAN ÐẾN QUYỀN THUẬT NỘI GIA
1. THÁI CỰC MÔN
a. Hứa Tuyên Bình (1) đời Ðường có truyền lại môn Thái cực quyền còn gọi là Tam Thế thất, chỉ có 37 thế mà nổi tiếng. Phương pháp dạy môn này là dạy từng thế riêng, khi học thế này đã thành thuộc thì mới dạy thế khác, không xác định quyền lộ. Sau khi công phu đã thành, các thế hỗ tương với nhau, liên miên không dứt, vì vậy nên gọi là Trường quyền. Yếu quyết gồm có "Bát tự ca", "Tâm hội luận", "Chu thân đại dụng luận", "Thập lục quan yếu luận". Về sau truyền cho Tống Viễn Kiều.
Chúng tôi nhận xét :
Tiểu sử của Hứa Tuyên Bình có thể xem sách Ðường thi kỷ sự bản mạt của Kỷ Hữu Công đời Tống. Có điều : Hứa Tuyên bình dạy Thái cực quyền thì không có sách vở để khảo cứu, có lẽ là do khẩu thuyết lưu truyền mà thôi.
(1) Hứa Tuyên Bình người ở huyện Hấp, phủ Vi châu, thuộc Giang Nam, ở ẩn tại núi Thành dương, rồi làm lều ở Nam Dương. Theo phép Tịch cốc, nhịn ăn. Lý Bạch có đến thăm họ Hứa, nhưng không gặp, có đề thơ tại Vọng Tiên Kiều.
b. Họ Du (2) truyền lại môn Thái cực quyền gọi là Tiên thiên quyền, còn có tên là Trường quyền, học được của Lý Ðạo Tử (3) đời Ðường. Họ Lý ở Nam Nhan cung, núi Võ Ðương, không ăn đồ nấu chín, người ta gọi là Phu Tử Lý. Môn phái họ Du còn lại là Du Thanh Tuệ, Du Nhất Thành, Du Liên Châu và Du Ðại Nham.
(2) Người huyện Dĩnh, phủ Ninh quốc thuộc Giang nam
(3) Người ở An Khánh thuộc Giang nam.
c. Thái cực quyền của họ Trình bắt đầu từ Trình Linh Tiển (4), môn này do Trình Củng Nguyệt truyền đến Trình Tất (5) rồi đổi tên là Tiểu Cửu Thiên, có tất cả 14 thế, có hai bài ca quyết là "Dụng công ngũ chí" và " Tứ tính qui nguyên".
(4) Tự là Nguyên Ðiều, người phủ Vi châu, Giang nam. Loạn Hầu Cảnh, phủ Vi châu được yên là do công của họ Trình. Vua Nguyên đế nhà Lương phong làm Vi châu thái thú.
(5) Ðậu Tiến sĩ niên hiệu Thiệu Hưng, làm chủ bộ ở Hưng hóa, quan đến Lễ bộ Thượng thư.
d. Thái cực quyền của Ân Lợi Hanh truyền lại gọi là Hậu Thiên Pháp, truyền cho Hồ Cảnh Tử (6), họ Hồ dạy cho Tống Trọng Thù (7) gồm có 17 pháp thức, phần nhiều thuộc lối đánh bằng cùi chỏ, tuy tên gọi các thế khác nhau, nhưng công dụng cũng giống như các môn Thái cực quyền kể trên.
(6) Người ở Dương châu.
(7) Người ở An châu, thường đi chơi đài Cô tô và đề thơ trên đài nầy.
e. Trương Tam Phong tên là Thông, tự là Quân Thực, người ở Liêu dương, theo học đạo Nho cuối đời Nguyên, giỏi vẽ và viết, lại giỏi cả thi, từ. Năm Trung Thống nguyên niên, đỗ Mậu tài (tú tài) làm quan Lịnh ở Trung sơn và Bắc lăng. Vì rất hâm mộ Cát Trĩ Xuyên, nên Trương Tam Phong dứt bỏ đường công danh, đi chơi trong núi Bảo kê, thấy 3 ngọn núi cao đẹp xanh tốt, bèn lấy hiệu là Tam Phong Tử. Ðời sau nói về Trương Tam Phong có đến 10 thuyết khác nhau nhưng đều không nói đến chuyện ông giỏi quyền thuật. Ðầu niên niên hiệu Hồng Võ (1368) ông được triệu vào triều, đi ngang qua núi Võ đương, ban đêm nằm mơ thấy Huyền Võ Thiên Ðế dạy cho quyền pháp, đến sáng phá được giặc, vì vậy gọi môn quyền này là Võ đương phái, còn gọi là Nội gia quyền.
Lại có thuyết cho rằng Tam Phong sinh vào đời vua Huy Tông nhà Tống (1100-1125) khi quân Kim vào chiếm Trung quốc, một mình ông giết hơn 500 giặc Kim. Người vùng Sơn thiểm ái mộ ông theo học đến mấy ngàn người.
Những thuyết trên đây theo sách Thái cực quyền đồ thuyết giải của Hứa Võ Sinh.
II. CÁC MÔN LIÊN QUAN ÐẾN QUYỀN THUẬT NGOẠI GIA
1. MÔN PHÁI THIẾU LÂM
Kỹ thuật của phái Thiếu lâm, cao nhất là Ngũ quyền. Ngũ quyền là Long quyền luyện thần, Hổ quyền luyện cốt, Báo quyền luyện lực, Xà quyền luyện khí, Hạc quyền luyện tinh. Nhiều người cho rằng Ngũ quyền là do Ðạt Ma thiền sư truyền lại từ đời Lương (907-923). Thiền sư ở chùa Thiếu lâm thấy học trò tinh thần ủy mỵ, mỗi khi ngài thuyết pháp, học trò thường bì quyện, không thư thái về tinh thần, vì vậy mới dạy học trò phương pháp luyện tập quyền thuật gồm có trước, sau, tả, hữu, tất cả 18 thế là : Triều thiên trực cử (2 thế), Bài sơn vận chuyển (4 thế), Hắc hổ thân yêu (4 thế), Hạc dực thư triển (1 thế), Tốn trản câu hung (1 thế), Vãn cung khai cách (1 thế), Kim báo lộ trảo (1 thế), Thoái lực trật đảng (các thế trên đều dùng tay, chỉ riêng có thế này mới dùng chân). Ðó là thủ pháp của Thập bát La hán quyền.
Mấy trăm năm sau có Giác Viễn Thượng Nhân, vốn là một vị công tử ở Nghiêm châu, cắt tóc xuất gia, vào chùa Thiếu lâm, học được môn Ngũ quyền của Ðạt Ma sáng chế thêm thành ra 72 thế.
Về sau, có nhiều người theo học. Giác Viễn thấy môn này chưa đến chỗ tuyệt diệu, mới thay đổi thành người thường cầu thầy học thêm. Ðến Lan châu đất Thiểm, mới gặp Lý Tẩu. Họ Lý giỏi về thuật cầm nã, lại thích tập luyện môn "Ðại điểu hồng quyền", vì vậy thân pháp rất mau lẹ, lại có tuyệt nghệ về chưởng pháp và chỉ pháp. Giác Viễn đã quen biết với Lý Tẩu, lại được họ Lý giới thiệu, theo học với Bạch Bgọc Phong ở Thái nguyên. Lúc ấy họ Bạch đang dạy võ ở chùa Ðồng Phúc tại Lạc dương. Về sau, Lý Tẩu và Bạch Ngọc Phong đều về chùa Thiếu lâm. Võ thuật của Thiếu lâm, từ khi có thêm họ Lý và họ Bạch mới thay đổi, dung hợp tông pháp cũ, sáng tạo và tăng thêm hơn 100 thế. Sự kiện trên xảy ra vào đời Kim (1115-1234) và đời Nguyên (1279-1368).
Từ niên hiệu Ðạo Quang (1837-1867), Hàm Phong (1867-1878) trở về sau, võ thuật lổi tiếng khắp hai vùng Ðại giang (tức sông Hoàng hà) Nam Bắc Trung Hoa gồm có 3 người :
a. Một là Lý Cảnh Nguyên, còn có hiệu là Trường Tu Lý, người ở Hạ khẩu thuộc tỉnh Hồ bắc, theo học với một nhà buôn họ Cao.
Hơn một năm, võ nghệ đại tiến, về sau được họ Cao giới thiệu theo học với một nhà sư ở chùa Tam Nguyên, có soạn sách Trần kỹ thiền cơ phát huy môn phái Thiếu lâm. Về sau, con của họ Lý bất tiếu (không giống, bất tiếu tử : con không giống cha) sách ấy bị thất lạc.
b. Người thứ hai là Tất Hắc Tử, quê ở Ma dương thuộc đất Tương châu. Bẩm sinh Hắc Tử có sức mạnh hơn người, da đen, vì vậy còn có hiệu là Tất da đen. Theo học võ với Tào Ngọc Ðình người ở Hán Thăng. Thầy của học Tào là Trí Viên thiền sư, vốn là bậc võ nghệ cao cường của phái Thiếu lâm, luyện được môn Hô hấp thần chưởng hơn 40 năm, có thể đánh người cách xa 100 bước, lại có thể nhảy qua tường cao một trượng không nge tiếng động. vì vậy võ nghệ của thiền sư khai sáng một lối mới cho võ phái Thiếu lâm. Tất Hắc Tử được tào Ngọc Ðình dạy dỗ bèn chuyên công tập võ Thiếu lâm có thể đi trên vách, chưởng lực thần công cũng đại tiến. Họ Tào thương, bèn dạy môn Lưu tâm hoàn pháp. Võ nghệ của họ Tất gồm được tinh hoa của hai miền Nam Bắc.
c. Thứ ba là một người họ Hồ quê ở Lê bình thuộc đất Kiềm, múc nhỏ rất chuộng võ nghệ, lại giỏi về môn Ðoản đả và Thoái kích pháp cùng với môn Thôi ấn của Liễu diệp chưởng. Về sau họ Hồ còn theo học với Nhất Quán (sau khi học võ của Giác Viễn, Nhất Quán lại theo học với người ở Quế lâm là Mã Sĩ Long. Sĩ Long dạy cho Nhất Quán môn Thần nã thuật, Nội gia khí công, Ngọc xuyên kiếm. Vì vậy Nhất Quán vốn học võ Thiếu lâm lại học luôn cả võ của phái Nội gia). Họ Hồ từ khi theo học với Nhất Quán, được bí truyền, lại cố tập môn Song thôi thủ. Về sau lại biến đổi lối dạy của thầy, chuyên dồn sức vào 1 ngón tay. Học trò của Hồ giỏi nhất là Dương Ðộc Nhãn, Mã Bắc Tùng. Sau Dương Ðộc Nhãn hay dạy võ ở vùng đất Tương, đất Kiềm. Mã Bắc Tùng dạy võ ở vùng Xuyên, Thục. Ðến nay, vùng này vẫn còn học trò của họ Mã.
Chúng tôi nhận xét :
Nếu như thuyết trên đây đúng thì các vùng Xuyên, Kiềm, Tương còn những học trò kế thừa môn phái của họ Hồ, tiếc rằng chúng tôi không quen biết nhiều với các vị quyền sư ở các vùng này, nên không thể dò hỏi mà đối chứng được. Vì vậy các thuyết trên để vào chương Tồn Nghi.
d. Quyền thuật Thiếu lâm ở đất Việt (Quảng đông) được truyền từ Thái Cửu Nghi. Thái là học trò giỏi của Nhất Quán, vốn là người ở Cao yếu, đất Việt. Trong thời Sùng Trinh, thi đổ khoa võ cử làm Quân lịnh Thừa tuyên quan dưới quyền quan Kinh lược Hồng Thừa Trù. Họ Hồng đầu hàng Mãn Thanh, Thái Cửu Nghi bỏ trốn vào chùa Thiếu lâm, học võ với Nhất Quán thiền sư, rất giỏi về Siêu cử thuật, lại tinh cả thoái pháp (phép sử dụng chân), có thể nhảy hơn một trượng, mau như chim ưng, người ta không thể phòng bị được. Học trò giỏi của họ Thái có một người họ Mạch, một người họ Mạc. Cả hai đều ở Thuận đức, không biết tên là gì. Sau khi Thái Cửu Nghi mất hơn 10 năm, hai người học trò mới chuyên tâm, trí ý về sư pháp, đều trở thành bậc võ sư tài giỏi nhất ở Việt đông. Ðến nay hơn 100 năm, những người bàn đến quyền thuật vẫn thường tán thưởng.
Chúng tôi nhận xét :
Theo những điều ghi trên, nên tìm những võ sư rành về môn phái trên ở Việt đông để dò hỏi, nay không thể chứng minh hư thực thế nào.
e. Quy ước về Thập giới (10 điều răn) của phái Thiếu lâm bắt đầu có từ Viên Tính thiền sư (ngài sinh vào cuối đời Minh 1660). Sau đến Thống Thiền thượng nhân mới tăng thêm và sửa đổi. Thống Thiền là hoàng tộc nhà tộc nhà Minh, tên thật là Chu Ðức Trù, có người nói rằng Thượng Nhân là chú họ của Phú vương nhà Minh. Cuối cùng đến Việt tây cử binh lo việc khôi phục, chuyện không thành mới vào tu ở chùa Thiếu lâm. Sau bị người ta dò xét sắp bị bắt, mới bỏ trốn ra Ðài loan, nương nhờ Trịnh Kinh (con Trịnh Thành Công). Bày mưu cho họ Trịnh, nhưng mưu không được dùng, buồn sầu trở về, đến Ðạm thủy thì mất.
Những điều trên trích ở sách Thiếu lâm quyền thuật bí quyết.
g. Thiếu lâm phái còn được gọi là Ngoại gia. Triệu Khuôn Dẫn là thủy tổ. Khuôn Dẫn nhờ võ giỏi nên thắng người, nhưng hết sức dấu kín, không dạy cho ai hết. Một hôm say rượu, mới nói những chỗ tinh diệu cho các quan nghe. Khi tỉnh hối hận, nhưng không muốn nuốt lời, cuối cùng mới đem sách đặt ở Thần đàn chùa Thiếu lâm : phép này chuyên về ngạnh công.
Những điều trên trích ở sách Bắc quyền vưng biên của Lục Sư Thông.
2. THÁI TỔ MÔN
Những nhà quyền thuật xưa nay đều cho rằng Tống Thái Tổ có 32 thế Trường quyền, lại có Lục bộ quyền, Hầu quyền, Hóa quyền, tên của các thế tuy có khác nhau, nhưng thực ra cũng đại đồng tiểu dị.
Trích ở mục "Quyền kinh" trong sách Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang.
Chúng tôi nhận xét :
Truyền thuyết thường cho rằng Tống Thái Tổ giỏi về quyền thuật và môn Trường quyền được truyền từ Tống Thái Tổ. Ai cũng nói như vậy. Nhưng từ đời Tống (960-1279) đến đời nhà Minh (1368-1623) trải qua một thời gian khá dài, không rõ hệ phái và sự truyền thụ do những ai, nên chỉ có thể liệt vào mục Tồn Nghi mà thôi. Quyền sư Lương Vỹ Thần thuộc phái Thái tổ có nói :
Chủ yếu của Thái tổ môn là quyền pháp gồm các loại Trường quyền, Ðường lang triển xí, Lạc tục phản xa, Ðể công.
Lời nói ấy khác với lời của Thích Kế Quang trong Kỷ hiệu tân thư. Vì vậy, ghi chép phụ vào đây.
3. HỒNG QUYỀN MÔN
Quách Hy Phần có nói :
Nay có nhiều người cho rằng môn Hồng quyền là do Tống Thái Tổ truyền lại.
Cũng Quách Hy Phần nói :
Nay có kẻ cho rằng môn Hồng quyền do Tôn Võ Tử sáng chế truyền đến họ Thích thêm vào phần khí công để tăng thêm thực lực, thu túng mà luyện thủ pháp, nên gồm cả tinh hoa của nội gia và ngoại gia.
Trích sách Trung quốc thể dục sử.
Chúng tôi nhận xét :
Những người cho rằng môn Hồng quyền do Tôn Võ Tử truyền lại thì ít, còn thuyết cho rằng môn này do Tống Thái Tổ sáng chế thì có nhiều người nghe theo. Nhưng cho rằng Thích Kế Quang tập môn Hồng quyền cộng thêm vào phép vận khí và các phép thu túng, thì trong mục "Quyền kinh" ở sách Kỷ hiệu tân thư không có ghi. Có lẽ chỉ căn cứ vào khẩu thuyết mà thôi.
4. ÐÀN THOÁI MÔN
Những người giỏi quyền thuật trong Hồi giáo thường nói : môn Ðàn thoái truyền từ Nam Kinh đến Bắc kinh được xuất phát từ Hồi giáo. Vì vậy hai câu đầu trong bài ca quyết của Thập lộ Ðàn thoái là :
Côn luân đại tiên thế giới truyền,
Danh viết Ðàn thoái áo vô biên.
(nghĩa là bậc đại tiên ở Côn luân truyền dạy cho thế giới môn Ðàn thoái, áo diệu vô cùng).
Ý của 2 câu thơ này muốn nói Hồi giáo ở Trung hoa truyền từ Tây vực. Trong tiểu thuyết đời Ðường có chuyện Côn luân nô là người Tây vực. Phải chăng Côn luân nô, nhân vật giỏi võ trong tiểu thuyết ấy có liên quan đến môn Ðàn thoái ?
Nhận xét của chúng tôi :
Trong tiểu thuyết đời Ðường có ghi lại là Côn luân nô giỏi kiếm thuật, vì vậy những người trong Hồi giáo mới y thác để tăng thêm giáo trị của môn Ðàn thoái. Những người trong Hồi giáo thường nói hai môn Tra quyền và Ðàn thoái từ Tây vực truyền vào Trung quốc.
5. ÐOẢN ÐẢ MÔN CỦA PHƯƠNG NAM
Chu Hồng Thọ khi luận về nghệ thuật quyền cước vào thời Trung cổ có nói :
Nghệ thuật quyền cước thời thượng cổ đến đời Tần (221-206 trước Tây lịch), đời Hán (202-8 trước Tây lịch) tự nhiên bị thất truyền, đến đời Hậu Hán mới thấy ghi chép rõ ràng. Quyền thuật của Trung quốc coi Quách Di là thủy tổ. Từ Quách Di về sau mới có những nhân tài còn được ghi chép trong võ sử.
Họ Chu lại bàn về quyện thuật thời cận cổ có nói :
Như phép hậu dịch của Hứa Doanh, phép tiền dịch của Trương Cử Sơn không thể để cho thất truyền.
Lại có thế "Võ Tòng mở khóa" cho rằng Võ Tòng bị trói 2 tay, chỉ dùng 2 chân để ứng địch rồi về sau thành ra một thế võ tuyệt diệu. Ðời Minh, người ở Hồ nam là Vương Tín Thần dùng ý nghĩa bốn chữ "Võ Tòng mở khoá" biến thành ca quyết để cho người học võ dễ nhớ (theo sách Diễn võ tinh pháp).
(Những điều trên đây trích trong sách Quyền nghệ học sơ bộ).
6. CÁC MÔN LIÊN QUAN VỀ ÐÔ VẬT
Môn Ðô vật dùng tay không và sức mạnh mà phát sinh ra những mánh lới, nghệ thuật, tạo thành một lối riêng trong võ học Trung quốc. Thuật này theo bản tính của động vật. Trong thời đại tiến bộ này, không có một quyển sách chuyên môn nào để khảo cứu về Ðô vật. Các võ sĩ truyền từ đời nọ sang đời kia rằng môn Ðô vật được sáng tạo từ lúc Nhạc Vũ Mục cầm quân đánh giặc. Bởi vì Nhạc Vũ Mục rất giỏi về quyền, bỗng, nhiều người theo học. Nhưng quyền bỗng phải có thân thể mẫn tiệp mới có thể tập đến chỗ ảo diệu. Ðến như bôn Ngưu Cao rất chậm chạp, tối tăm nên học rất khổ sở. Nhạc Vũ Mục mới rút các động tác trong các môn câu, nã, tiêu, khấu vv... sáng lập ra môn Ðô vật. Bởi môn này rất dễ chỉ dạy không cần người học thông minh hay tối tăm, thể chất không cần khỏe mạnh hay yếu đuối, nếu cố gắng hết năng lực của mình, vẫn có thể thắng được địch thủ. Ðời Càn Long nhà Thanh gọi môn này là Tạp kỷ, cũng được thịnh hành một thời.
(Trích bài tựa sách Suất dốc giáo khoa thư của Mã Lương)
7. CÁC MÔN LIÊN QUAN ÐẾN KHÍ GIỚI
a. Kiếm môn (môn đánh kiếm)
Trong sách Trận kỷ, Hà Lương Thần có viết :
Phép "Phân giáo" của Biện Trang Tử, pháp "Khởi lạc" của Vương Tụ, phép "Cố ứng" của Lưu Tiên Chủ, phép "Thiển điện" của Mã Minh Vương, phép "Xuất thủ" của Mã Khởi, đó là kiếm pháp của năm nhà, đều có truyền lại đời sau.
b. Thương môn (phép đánh thương)
Sách Kỷ hiệu tân thư có chép :
Phép đánh thương truyền lại bắt đầu từ họ Dương, trong thiên hạ ai cũng yêu chuộng môn này. Cái linh diệu ở chỗ quen tay, đã thành thuộc thì chỉ nghĩ là lập tức thế phát ra, cây thương trong tay biến hoá thần diệu, không còn vướng mắc. Lại không có gì quí bằng tĩnh nhưng tâm không quên sự động mà biến hóa vô cùng không thể lường trước được. Ðời sau ít kẻ học được đến chỗ thần diệu. Cũng có kẻ học được bí truyền, nhưng dấu kín không dạy, mà dù có dạy cũng dạy khác với chân truyền.
Sách Trận Kỷ của Hà Lương Thần lại chép :
Thương pháp dùng cả trường lẫn đoản, hư thực đều thích nghi, lúc tiến lên tinh nhuệ không thể chống đỡ, lúc lui mau lẹ không nghĩ kịp. Thiên hạ gọi là vô địch chỉ có Lê hoa thương pháp của họ Dương mà thôi.
Chúng tôi nhận xét :
Vợ của Lý Toàn là Dương Thị rất giỏi phép đánh thương. Chuyện này có chép trong Tống sử. Ðiều đó không thể nghi ngờ được. Có điều Lê hoa thương pháp có thần diệu như đời sau truyền tụng hay không, đó là một điều đáng ngờ. Và đời sau cho rằng Lê hoa thương pháp do họ Dương truyền lại, có đúng sự thật hay không. Ðó cũng là điểm đáng xét lại.
c. Ðao môn (môn đánh đao)
Trong bài đề tựa sách Hình ý quyền học của Tôn Lộc Ðường, Triệu Hành có viết :
Năm ngoái, tôi có thấy một quyển sách "Ðao pháp quyền thuật" của Dương Dư Hựu, trong lòng rất lấy làm mừng, nhưng chưa có lúc rãnh để sao chép lại. Ðến nay thấy quyển "Thập tam đao pháp" rất hay, không còn nhớ đến sách cũ nữa.
Chúng tôi nhận xét :
Chưa hề thấy sách Thập tam đao pháp, nên chúng tôi không thể biết được hư, thực thế nào. Nay chép vào đây để tồn nghi.
d. Côn môn (phép đánh côn)
Hà Lương Thần viết trong sách Trận kỷ :
Ngạn ngữ thường truyền : Nhất là Tử vi côn, nhì là Trương gia côn, thứ ba là Thanh điền côn.
Rồi lại có thuyết cho rằng :
Thứ nhất là Ðằng xà côn của Triệu thái tổ, thứ hai là Ngưu gia bỗng ở Tây sơn, Hạ đồ câu (móc). Còn như loại Tôn gia côn là của bọn Tống Giang ở Lương Sơn Bạt.
Chúng tôi nhận xét :
Gần đây đều cho rằng Tống Thái Tổ có truyền lại Bàn long côn, không nghe nói về Ðằng xà côn. Những việc tục truyền thường không đúng sự thực. Như Tôn gia côn do bọn anh hùng Lương Sơn Bạt truyền lại là căn cứ trong tiểu thuyết. Những điều ghi chép trong tiểu thuyết là giả thác không lấy gì làm chắc.