Tống Minh Tuấn
(TuanCominglate)
Điều hành viên
Ở đây tôi xin đề cập tới tác hại của nền kinh tế một nước nếu giữ nguyên quá lâu đồng tiền nước mình vào đồng tiền của một quốc gia khác mà không thỉnh thoảng điều chỉnh phá giá một chút
Tác hại thứ nhất là xuất khẩu: Như ta đã biết Net Export = X – eM (X: export, e: real exchange rate, M: Import). Tăng e dẫn đến tăng Net Export vì X tăng và M giảm đủ lớn để compensate sự tăng lên của e. Nói chung là tăng e sẽ tốt đến balance account. Do đó việc giữ đồng tiền cao so với $ (e nhỏ) sẽ làm net export giảm. Bằng chứng là chính phủ Việt nam lại thỉnh thoảng phá giá đồng mình một tí (11000, 14000, now 15000/$). Giảm export dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán. Những công ty mượn tiền nước ngoài không thể trả nợ do không xuất khẩu được. Nợ dollar tích tụ đến đáo hạn, dẫn đến bùng nổ về cầu $, dẫn đến tăng giá $ so với nội tệ và thời điểm khủng hoảng bắt đầu.
Tác động thứ 2: Hàng nhập khẩu rẻ sẽ hạn chế sản xuất trong nước, dẫn đến phát triển bất động sản và chứng khoán một cách quá đáng, tạo điều kiện cho tham nhũng và buôn lậu phát triển. Việc nhập khẩu rẻ ban đàu thì có vẻ có lợi, nhưng lợi bất cập hại. Nêú ta nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, những lợi ích từ việc nhập khẩu rẻ sẽ bị bù trừ khi ta xuất khẩu hàng hoá đắt. Cuối cùng chẳng lợi mà lại gây tâm lý không thích sản xuất xuất khẩu mà chỉ thich nhập khẩu hàng rẻ (Vd thích nhập hàng Trung Quốc), điều này cực kì có hại cho nên kinh tế. Nếu nhập khẩu công nghệ rẻ thì sẽ không tận dụng hết nguồn lực trong nước, gây lãng phí. Sản xuất xuất khẩu chẳng được, dịch vụ cũng chảng xong, dân chỉ có con đường là ném tiền vào tiết kiệm, trái phiếu lấy lãi xuất. Buôn bán bất động sản trở nên nhộn nhịp, cầu tăng giá cao kích thích người mua. Nhưng đến khi tiền trong nước trở nên mất giá mọi người mới đổ xô bán và đổi sang dollar, dẫn đến khủng hoảng. Hàng nhập khẩu rẻ gây lo lắng cho chính phủ, các nhà sản xuất trong nước lên tiến đòi bảo hộ, đa phần việc này dẫn đến buôn lậu và tham nhũng cao.
Tác hại thứ ba là: khi giá trị tiền nội tệ tăng thì lãi xuất trong nước cũng tăng dẫn đến large disparity giữa lãi suất trong nước và nước ngoài. Các ngân hàng vay tiền nước ngoài, đổi ra nội tệ rồi cho vay với lãi suất cao, gây ra kiếm tiền một cách dễ dãi. Khi đồng nội tệ đột nhiên giảm, lãi suất trong nước cũng giảm (exchange rate tỉ lệ nghich với domestic interest rate), do đó kinh doang vất động sản sẽ mất lớn và đặt ngân hàng vào tình trạng không trả nợ nổi.
Như vậy sơ sơ những tác hại trên cho thấy phải thỉnh thoảng devaluate currency khi gặp lạm phát cao.
Tác hại thứ nhất là xuất khẩu: Như ta đã biết Net Export = X – eM (X: export, e: real exchange rate, M: Import). Tăng e dẫn đến tăng Net Export vì X tăng và M giảm đủ lớn để compensate sự tăng lên của e. Nói chung là tăng e sẽ tốt đến balance account. Do đó việc giữ đồng tiền cao so với $ (e nhỏ) sẽ làm net export giảm. Bằng chứng là chính phủ Việt nam lại thỉnh thoảng phá giá đồng mình một tí (11000, 14000, now 15000/$). Giảm export dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán. Những công ty mượn tiền nước ngoài không thể trả nợ do không xuất khẩu được. Nợ dollar tích tụ đến đáo hạn, dẫn đến bùng nổ về cầu $, dẫn đến tăng giá $ so với nội tệ và thời điểm khủng hoảng bắt đầu.
Tác động thứ 2: Hàng nhập khẩu rẻ sẽ hạn chế sản xuất trong nước, dẫn đến phát triển bất động sản và chứng khoán một cách quá đáng, tạo điều kiện cho tham nhũng và buôn lậu phát triển. Việc nhập khẩu rẻ ban đàu thì có vẻ có lợi, nhưng lợi bất cập hại. Nêú ta nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, những lợi ích từ việc nhập khẩu rẻ sẽ bị bù trừ khi ta xuất khẩu hàng hoá đắt. Cuối cùng chẳng lợi mà lại gây tâm lý không thích sản xuất xuất khẩu mà chỉ thich nhập khẩu hàng rẻ (Vd thích nhập hàng Trung Quốc), điều này cực kì có hại cho nên kinh tế. Nếu nhập khẩu công nghệ rẻ thì sẽ không tận dụng hết nguồn lực trong nước, gây lãng phí. Sản xuất xuất khẩu chẳng được, dịch vụ cũng chảng xong, dân chỉ có con đường là ném tiền vào tiết kiệm, trái phiếu lấy lãi xuất. Buôn bán bất động sản trở nên nhộn nhịp, cầu tăng giá cao kích thích người mua. Nhưng đến khi tiền trong nước trở nên mất giá mọi người mới đổ xô bán và đổi sang dollar, dẫn đến khủng hoảng. Hàng nhập khẩu rẻ gây lo lắng cho chính phủ, các nhà sản xuất trong nước lên tiến đòi bảo hộ, đa phần việc này dẫn đến buôn lậu và tham nhũng cao.
Tác hại thứ ba là: khi giá trị tiền nội tệ tăng thì lãi xuất trong nước cũng tăng dẫn đến large disparity giữa lãi suất trong nước và nước ngoài. Các ngân hàng vay tiền nước ngoài, đổi ra nội tệ rồi cho vay với lãi suất cao, gây ra kiếm tiền một cách dễ dãi. Khi đồng nội tệ đột nhiên giảm, lãi suất trong nước cũng giảm (exchange rate tỉ lệ nghich với domestic interest rate), do đó kinh doang vất động sản sẽ mất lớn và đặt ngân hàng vào tình trạng không trả nợ nổi.
Như vậy sơ sơ những tác hại trên cho thấy phải thỉnh thoảng devaluate currency khi gặp lạm phát cao.